1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

(LUẬN VĂN THẠC SĨ) Xã hội hoá sản xuất chương trình truyền hình qua sản phẩm của các công ty truyền thông Cát Tiên Sa, LASTA, Hoa Hồng Vàng

120 12 1

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Xã Hội Hóa Sản Xuất Chương Trình Truyền Hình Qua Sản Phẩm Của Các Công Ty Truyền Thông: Cát Tiên Sa, LASTA, Hoa Hồng Vàng Từ Năm 2008 Đến Năm 2010 Trên Sóng Đài Truyền Hình Thành Phố Hồ Chí Minh
Tác giả Trần Thị Hồng Vân
Người hướng dẫn PGS.TS Dương Xuân Sơn
Trường học Đại học Quốc gia Hà Nội
Chuyên ngành Báo chí học
Thể loại luận văn thạc sĩ
Năm xuất bản 2011
Thành phố TP.HCM
Định dạng
Số trang 120
Dung lượng 1,09 MB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ XÃ HỘI HÓA VÀ XÃ HỘI HÓA SẢN XUẤT CHƯƠNG TRÌNH TRUYỀN HÌNH THỜI KÌ HỘI NHẬP 12 (17)
    • 1.1 Vấn đề xã hội hóa và xã hội hóa truyền hình (0)
      • 1.1.1 Xã hội hóa là gì (17)
      • 1.1.2 Sự phát triển của xu hướng xã hội hóa ở TP.HCM (18)
    • 1.2 Báo chí TP.HCM trong thời kỳ hội nhập (0)
      • 1.2.1 Sự tác động của kinh tế thị trường đối với hoạt động báo chí (20)
      • 1.2.2 TP.HCM có những điều kiện thuận lợi để phát triển hoạt động báo chí (24)
      • 1.2.3 Truyền hình trong đời sống văn hóa tinh thần của người dân (25)
    • 1.3 Xã hội hóa sản xuất các chương trình truyền hình là một xu hướng tất yếu (27)
      • 1.3.1 Xã hội hóa sản xuất chương trình truyền hình đáp ứng yêu cầu phát triển của truyền hình (0)
      • 1.3.2 Các yếu tố tác động đến xã hội hóa sản xuất chương trình truyền hình (30)
      • 1.3.3 Đối tượng tham gia vào xã hội hóa sản xuất chương trình truyền hình (35)
    • 2.1 Xã hội hóa sản xuất chương trình truyền hình trên sóng của (41)
      • 2.1.1 Vài nét về sự hình thành và phát triển của HTV (41)
      • 2.1.2 Sự tham gia của các công ty truyền thông (43)
      • 2.1.3 Phương thức phối hợp giữa HTV và công ty truyền thông (47)
    • 2.2 Ưu thế của các chương trình truyền hình của Cát Tiên Sa, Lasta, Hoa Hồng Vàng từ năm 2008 đến năm 2010 (0)
      • 2.2.1 Cát Tiên Sa-công ty truyền thông hàng đầu của các chương trình truyền hình giài trí (52)
      • 2.2.2 Lasta-nhà sản xuất truyền hình chuyên nghiệp (59)
      • 2.2.3 Hoa Hồng Vàng-công ty truyền thông mới trong lĩnh vực sản xuất chương trình truyền hình (67)
    • 2.3 Hạn chế trong xã hội hóa sản xuất chương trình truyền hình . 65 (0)
      • 2.3.1 Chất lượng không đồng đều (70)
      • 2.3.2 Nhân lực làm truyền hình còn nhiều hạn chế (73)
      • 2.3.3 Lợi nhuận kinh doanh chi phối chất lượng chương trình (75)
    • 3.1 Một số kinh nghiệm rút ra trong xã hội hóa sản xuất chương trình truyền hình (79)
      • 3.1.1 Về nội dung (79)
      • 3.1.2 Về tổ chức sản xuất (83)
      • 3.1.3 Về quản lý (84)
    • 3.2 Các giải pháp và khuyến nghị để nâng cao chất lượng xã hội hóa sản xuất chương trình truyền hình (86)
      • 3.2.1 HTV phải giữ vai trò quyết định trong hoạt động liên kết sản xuất chương trình (86)
      • 3.2.2 Nâng cao năng lực sản xuất chương trình của các công ty truyền thông (91)
    • 3.3 Mô hình xã hội hóa sản xuất chương trình truyền hình (95)
      • 3.3.1 Mô hình về phương thức phối hợp giữa đài truyền hình và công ty truyền thông (96)
      • 3.3.2 Mô hình tổ chức sản xuất chương trình truyền hìn ở công ty truyền thông (0)
  • PHỤ LỤC (110)

Nội dung

LÝ LUẬN CHUNG VỀ XÃ HỘI HÓA VÀ XÃ HỘI HÓA SẢN XUẤT CHƯƠNG TRÌNH TRUYỀN HÌNH THỜI KÌ HỘI NHẬP 12

Báo chí TP.HCM trong thời kỳ hội nhập

Sân khấu XHH đã tạo ra một không gian kịch nghệ mới mẻ và hấp dẫn tại Việt Nam, đặc biệt ở phía Nam với những cái tên nổi bật như Sân khấu 5B Võ Văn Tần, sân khấu Phú Nhuận, sân khấu IDECAP và sân khấu Hoàng Thái Thanh Những sân khấu này thường xuyên xuất hiện trên các phương tiện truyền thông với nhiều vở diễn mới, góp phần làm phong phú đời sống tinh thần của người dân Sự đa dạng và sắc màu của sân khấu XHH không chỉ nâng cao văn hóa nghệ thuật tại TP Hồ Chí Minh mà còn tạo nên diện mạo đa dạng cho sân khấu Việt Nam.

1.2 Báo chí TP.HCM trong thời kì hội nhập

1.2.1 Sự tác động của kinh tế thị trường đối với hoạt động báo chí

Nền kinh tế thị trường đại diện cho giai đoạn phát triển cao của nền kinh tế hàng hóa, trong đó hàng hóa đóng vai trò trung tâm Giai cấp tư sản nhận thức rõ ràng tầm quan trọng của việc xây dựng, khai thác và sử dụng báo chí như một loại hàng hóa có khả năng mang lại lợi nhuận cao.

Lợi nhuận từ kinh doanh báo chí chủ yếu đến từ doanh thu bán báo và quảng cáo Số lượng phát hành càng lớn, lợi nhuận càng cao, vì các doanh nghiệp thường tìm kiếm các tờ báo có lượng độc giả đông đảo để quảng bá sản phẩm của họ Quảng cáo trở thành một hình thức đầu tư hiệu quả cho các doanh nghiệp Các chủ báo nhận thức rõ nhu cầu này và nỗ lực tăng cường số lượng phát hành, trong khi các thành viên trong tòa soạn cũng hiểu tầm quan trọng của việc nâng cao lượng độc giả.

Thị trường báo chí là không gian diễn ra các hoạt động mua bán sản phẩm báo chí, thực hiện hợp đồng quảng cáo và cam kết tài trợ nhằm quảng bá thương hiệu Sự hình thành của thị trường báo chí có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của nền báo chí, đánh dấu những bước tiến mới trong ngành.

Báo chí, như một sản phẩm hàng hóa, chịu ảnh hưởng bởi quy luật cạnh tranh và cung cấp thông tin cho các công chúng với nhu cầu khác nhau Khi mua báo, người tiêu dùng thực chất đang mua giá trị thông tin được in ấn hoặc phát sóng Công chúng, với vai trò là khách hàng của báo chí, có quyền lựa chọn những sản phẩm báo chí mà họ cảm thấy cần thiết và hữu ích cho mình.

Thông tin thị trường đóng vai trò quan trọng trong việc ảnh hưởng đến hiệu quả của nền kinh tế, đặc biệt trong bối cảnh hội nhập kinh tế hiện nay Đây được xem là yếu tố hàng đầu mà các doanh nghiệp cần chú trọng trước khi bắt đầu hoạt động sản xuất kinh doanh Sự phong phú hay nghèo nàn của thông tin thị trường phụ thuộc vào mức độ sôi động của nền kinh tế.

Công cuộc đổi mới đã mang lại nhiều thành tựu cho đất nước, tạo điều kiện cho báo chí phát triển mạnh mẽ Sự gia tăng về số lượng và chất lượng sản phẩm báo chí, cùng với đội ngũ cán bộ chuyên nghiệp, đã làm phong phú và đa dạng hóa diện mạo báo chí Việt Nam.

Nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần hoạt động theo cơ chế thị trường với sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, bao gồm cả ngành báo chí.

Báo chí đã có những bước phát triển vượt bậc, tự đổi mới để phù hợp với cơ chế mới và đáp ứng nhu cầu thông tin ngày càng cao của người dân, từ đó thu hút được nhiều độc giả và người xem hơn.

Cuộc cách mạng công nghệ thông tin và sự phát triển sôi động của nền kinh tế thị trường đã tác động mạnh mẽ đến hoạt động báo chí Sự giải phóng sức sản xuất và khuyến khích khát vọng làm giàu đã tạo ra nhu cầu thông tin phong phú, hình thành thị trường thông tin và biến báo chí thành một phần của nền kinh tế thị trường Điều này đã dẫn đến yêu cầu cạnh tranh trong lĩnh vực báo chí, trở thành động lực quan trọng cho sự phát triển của ngành.

Chủ trương xóa bỏ bao cấp tài chính trong báo chí yêu cầu các cơ quan báo chí vừa thực hiện vai trò tư tưởng-văn hóa của Đảng, vừa hoạt động kinh tế theo luật Điều này thúc đẩy các tờ báo phải đổi mới liên tục để tồn tại Nhờ chủ động về tài chính, nhiều tờ báo đã cải thiện đời sống của phóng viên và biên tập viên, mở rộng giao lưu trong và ngoài nước, hiện đại hóa thiết bị và đổi mới phương thức hành nghề, từ đó hòa nhập với báo chí khu vực và thế giới.

Nền kinh tế thị trường tại Việt Nam đã tạo ra một môi trường báo chí phong phú và đa dạng, thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ và đầy hứa hẹn của ngành báo chí Cơ chế thị trường mở rộng kho tàng thông tin, giúp báo chí tiếp cận nguồn dữ liệu phong phú từ khắp nơi Sự cạnh tranh trong thị trường đã nâng cao chất lượng báo chí, đồng thời gia tăng số lượng và đa dạng hóa chủng loại, đáp ứng tốt hơn nhu cầu của người tiêu dùng.

Cơ chế thị trường đã giúp lựa chọn những nhà quản lý và nhà báo tài năng, đồng thời tạo điều kiện cho báo chí phát triển và khuyến khích tính sáng tạo Trong môi trường cạnh tranh, báo chí phải đáp ứng nhu cầu thông tin đa dạng của công chúng, với nội dung hấp dẫn trở thành tài nguyên quý giá Các tờ báo không ngừng cải tiến nội dung, hình thức, và quy trình phát hành để thu hút độc giả, đồng thời chú trọng đến hiệu quả kinh tế, quản lý chi phí sản xuất và mở rộng tiêu thụ sản phẩm.

Trong thời đại thông tin bùng nổ, báo chí đóng vai trò như một lực lượng sản xuất trực tiếp Trong cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, báo chí trở thành hàng hóa đặc biệt, cần thiết cho đời sống tinh thần của quần chúng trong công cuộc đổi mới và hiện đại hóa đất nước Nếu để mặt tiêu cực của cơ chế thị trường chi phối, báo chí sẽ đánh mất sức mạnh và vai trò của mình.

1.2.2 TP.HCM có những điều kiện thuận lợi để phát triển hoạt động báo chí

TP.HCM, đô thị lớn nhất Việt Nam với khoảng 8 triệu dân, chiếm hơn 9% tổng dân số cả nước, là nơi giao thoa giữa các nền văn hóa Đông và Tây Qua quá trình hình thành và phát triển, thành phố này đã tiếp nhận nhiều ảnh hưởng văn hóa từ các cộng đồng như người Việt, Hoa, Chăm và Khơ Me Sài Gòn đã trở thành một trong những trung tâm văn hóa của cả nước, đón nhận các ảnh hưởng từ văn hóa Pháp và Mỹ trong suốt các giai đoạn lịch sử thăng trầm.

Xã hội hóa sản xuất các chương trình truyền hình là một xu hướng tất yếu

1.3.1 Xã hội hóa sản xuất các chương trình truyền hình đáp ứng yêu cầu phát triển của truyền hình

Một tờ báo hiệu quả cần có đội ngũ cộng tác viên chất lượng, từ đó huy động sự đóng góp từ xã hội để làm phong phú và đa dạng hóa thông tin.

Kể từ những năm 90 của thế kỷ XX, các đài truyền hình đã có những bước tiến đáng kể trong kỹ thuật, công nghệ và nội dung chương trình, bao gồm việc mở rộng thời gian phát sóng và cải cách cơ cấu tổ chức So với báo viết, truyền hình hiện nay nổi bật với khả năng cung cấp thông tin nhanh chóng và hình ảnh sống động, tác động mạnh mẽ đến nhận thức của khán giả Ngoài ra, các chương trình giải trí và khoa học giáo dục cũng thu hút sự quan tâm của người xem Sự tham gia của khán giả ngày càng trở nên phổ biến, khi họ có thể gửi bài viết, phản ánh qua điện thoại và cung cấp video về các vấn đề xã hội Cộng tác viên đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển sản xuất chương trình truyền hình, góp phần vào sự phát triển của lĩnh vực này.

Truyền hình đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao dân trí và cung cấp thông tin hữu ích cho xã hội Tuy nhiên, do thiếu thốn tài lực và nhân lực, truyền hình chưa phát huy hết tiềm năng Sự xuất hiện đông đảo của các đài truyền hình tạo ra thách thức trong việc xây dựng chương trình phong phú và hấp dẫn Nội dung chương trình thường nghèo nàn do trang thiết bị kỹ thuật không đầy đủ và đội ngũ nhân sự thiếu chuyên môn Việc tự sản xuất chương trình để lấp đầy thời gian phát sóng dẫn đến chi phí cao Do đó, các đài truyền hình có thể hợp tác với các nhà sản xuất bên ngoài để giảm chi phí đầu tư và có được chương trình chất lượng, đây là xu hướng mà các đài đã áp dụng trong thời gian qua.

Xã hội hóa (XHH) sản xuất chương trình truyền hình tại Việt Nam đã bắt đầu từ những năm 90 và ngày càng phát triển mạnh mẽ sau khi Việt Nam gia nhập WTO Đài Truyền hình Việt Nam (VTV) và HTV là những đơn vị tiên phong trong lĩnh vực này Tại các kỳ Liên hoan Truyền hình toàn quốc lần thứ 25 và 26, khái niệm XHH sản xuất chương trình đã được thảo luận và thống nhất, với mục tiêu xây dựng một nền truyền hình hiện đại thông qua việc khai thác tối đa nguồn lực xã hội Xu hướng này không chỉ đáp ứng yêu cầu thực tiễn mà còn phù hợp với quy luật của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Nhà nước đã khuyến khích mạnh mẽ chủ trương XHH truyền hình, giao nhiệm vụ cho Đài Truyền hình Việt Nam làm đơn vị chủ chốt trong việc thúc đẩy quá trình này.

XHH truyền hình là quá trình xã hội hóa sản xuất chương trình, trong đó huy động nguồn lực sáng tạo và vật chất từ các tổ chức, cá nhân bên ngoài đài truyền hình Điều này giúp tăng cường chất lượng và tính đa dạng của các sản phẩm truyền hình, đồng thời tạo ra sự hợp tác giữa các bên liên quan trong ngành công nghiệp truyền thông.

(chương trình) truyền hình đã diễn ra từ lâu, với các hình thức rất khác nhau

XHH sản xuất các chương trình truyền hình nhằm tạo điều kiện hợp tác bình đẳng giữa tổ chức, cá nhân và các đài truyền hình Bằng cách tận dụng năng lực tư duy xã hội và nguồn lực kinh tế từ các thành phần khác nhau, XHH đóng góp vào việc nâng cao chất lượng chương trình Sự cạnh tranh giữa các chương trình truyền hình và đối tác ngoài hệ thống hiện tại sẽ thúc đẩy hiệu quả sản xuất Đây được xem là tư duy và cách làm mới trong ngành truyền hình Việt Nam hiện nay.

Xã hội hóa sản xuất chương trình truyền hình đã tạo ra nguồn lực trí tuệ và tài chính từ cộng đồng Điều này không chỉ giúp đài có kinh phí hoạt động và tái đầu tư, mà còn nâng cao chất lượng chương trình phát sóng, mang đến nhiều nội dung hay và thiết thực phục vụ khán giả tốt hơn.

1.3.2 Các yếu tố tác động đến xã hội hóa sản xuất chương trình truyền hình Đối với truyền hình yếu tố kinh tế được coi như một điều kiện tiên quyết để truyền hình có thể xuất hiện và được phổ biến Truyền hình để có thể trở thành một loại hình báo chí phố biến, hoạt động với đầy đủ các chức năng thì kinh tế đóng vai trò hết sức quan trọng Hoạt động sản xuất chương trình là một quá trình sản xuất đòi hỏi đầu tư lớn Kinh phí của các đài truyền hình thường được chi cho việc sản xuất hoặc mua các chương trình do các đơn vị khác thực hiện Chính vì thế, vấn đề kinh tế và chi phí sản xuất là yếu tố chi phối chủ yếu quá trình XHH sản xuất chương trình truyền hình ở nước ta Do đó, việc liên kết sản xuất giữa nhà đài và các công ty truyền thông vừa đảm bảo tối ưu hóa hiệu quả thông tin tuyên truyền vừa tiết kiệm được nguồn lực đầu tư từ ngân sách Nhà nước Tuy nhiên, cốt lõi của vấn đề XHH sản xuất các chương trình truyền hình không phải là vì tiền mà là sự huy động nguồn lực của các đơn vị, tổ chức, cá nhân không thuộc đài truyền hình tham gia vào quá trình sản xuất chương trình, nhằm giảm bớt áp lực cho các đài cũng như tạo hiệu quả tốt cho các chương trình truyền hình Và tất cả những yếu tố này phải hướng đến một mục tiêu là nâng cao chất lượng các chương trình, thu hút sự quan tâm và ủng hộ của công chúng

Tác động đến XHH sản xuất các chương trình truyền hình còn có các yếu tố:

 Bản quyền chương trình truyền hình

Mua bản quyền chương trình truyền hình từ nước ngoài đang trở thành xu hướng phổ biến tại Việt Nam, đặc biệt trong bối cảnh các đài truyền hình và công ty truyền thông còn thiếu kinh nghiệm sản xuất Nguyên nhân chủ yếu bao gồm đội ngũ sản xuất hạn chế, kinh phí thấp và thiết bị kỹ thuật lạc hậu, dẫn đến việc các chương trình nội địa chưa thu hút được khán giả Tuy nhiên, nhờ vào việc mua bản quyền và điều chỉnh nội dung cho phù hợp với văn hóa Việt Nam, truyền hình giải trí đã có những chuyển biến rõ rệt Các chương trình như Chiếc nón kì diệu, Đi tìm triệu phú, Vietnam Idol và Bước nhảy hoàn vũ, đều được thực hiện theo công thức nước ngoài, đã thu hút sự quan tâm lớn từ công chúng nhờ vào hình thức và thiết kế sân khấu hấp dẫn.

Trong quá trình xã hội hóa sản xuất chương trình truyền hình, có hai mối quan hệ chủ yếu liên quan đến vấn đề bản quyền: thứ nhất, là mối quan hệ giữa các đài truyền hình và các đơn vị bên ngoài trong nước; thứ hai, là mối quan hệ bản quyền giữa truyền hình trong nước và truyền hình quốc tế.

Trong bối cảnh sự phát triển đa dạng của các kênh truyền hình và sự bùng nổ của các chương trình giải trí, việc bảo vệ bản quyền chương trình truyền hình trở thành vấn đề sống còn đối với các nhà đài, kênh truyền hình và công ty truyền thông Mỗi đài truyền hình cần tuân thủ nguyên tắc bảo vệ sản phẩm trí tuệ của mình, và các đơn vị sản xuất chương trình phải đăng ký bản quyền để khẳng định quyền sở hữu trí tuệ đối với các sản phẩm mà họ đã sáng tạo và sản xuất.

Các chương trình truyền hình giải trí, đặc biệt là trò chơi truyền hình, đã trở thành một lĩnh vực hấp dẫn cho các công ty truyền thông khai thác Thời kỳ từ năm 2004 đến 2005 được xem là thời điểm bùng nổ của các chương trình trò chơi truyền hình với sự tham gia đông đảo của các công ty truyền thông trên HTV.

Nhịp sống sôi động, Trúc Xanh, Nốt nhạc vui, Chung sức, Rồng Vàng, Vượt lên chính mình đều được mua bản quyền của các nước: Thái Lan, Mexico,

Các chương trình truyền hình tại Việt Nam cần được điều chỉnh để phù hợp với văn hóa và con người Việt Nam, mặc dù vẫn giữ nguyên hình thức và bản quyền quốc tế Chẳng hạn, chương trình "Ai là triệu phú" trên VTV3 tuân thủ nghiêm ngặt về hình ảnh, âm nhạc và thiết kế sân khấu, trong khi nội dung câu hỏi được điều chỉnh cho phù hợp với khán giả Chi phí bản quyền trung bình cho các chương trình này khoảng 150.000 USD/năm, có thể tăng lên đến 1,5 triệu USD cho những chương trình đặc biệt Đầu tư cho các chương trình trò chơi truyền hình thường rất cao, do đó, HTV đã hợp tác với các công ty bên ngoài để nâng cao tính chuyên nghiệp và hiệu quả kinh tế trong việc thương thảo và thực hiện chương trình Việc này giúp đài truyền hình có được nội dung chất lượng mà chi phí thấp hơn so với việc tự sản xuất.

 Sự phát triển của quảng cáo trên truyền hình

Quảng cáo hiện diện trên toàn cầu dưới nhiều hình thức và phương tiện, từ báo in, phát thanh đến quảng cáo ngoài trời, với quảng cáo truyền hình nổi bật nhờ sức hút mạnh mẽ đối với các doanh nghiệp Tại Việt Nam, vào giữa những năm 80 của thế kỷ XX, cùng với chính sách đổi mới của Đảng và sự phát triển của nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, quảng cáo thương mại bắt đầu xuất hiện trên các trang báo, tạp chí và trong các chương trình phát thanh truyền hình Ngân sách cho quảng cáo ngày càng gia tăng, đóng vai trò quan trọng trong hoạt động của các cơ quan báo chí.

Quảng cáo đóng vai trò quan trọng trong hoạt động kinh doanh của truyền hình, dẫn đến việc thời gian phát sóng quảng cáo ngày càng tăng Các chương trình truyền hình được sản xuất với mục tiêu thu hút quảng cáo ngày càng trở nên phổ biến Sự phát triển của quảng cáo còn được thúc đẩy bởi sự năng động của các đơn vị sản xuất truyền hình Nhà quảng cáo sẵn sàng đầu tư vào các chương trình chất lượng cao để thu hút nhiều khán giả hơn Qua truyền hình, hình ảnh của các đơn vị quảng cáo được truyền tải một cách thân thiện và đáng tin cậy đến với người xem.

Xã hội hóa sản xuất chương trình truyền hình trên sóng của

2.1.1 Vài nét về sự hình thành và phát triển của HTV

HTV, với lần phát sóng đầu tiên vào ngày 1-5-1975, ngay sau ngày giải phóng miền Nam và thống nhất đất nước, đã trải qua 35 năm hình thành và phát triển, trở thành người bạn thân thiết của mọi gia đình.

Đài Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh (HTV) là một đơn vị trực thuộc Ủy ban Phát thanh-Truyền hình Việt Nam, được Thành ủy và Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh lãnh đạo và quản lý từ năm 1981 Nhờ sự quan tâm của Trung ương và sự hỗ trợ từ các ban ngành địa phương, HTV đã phát triển mạnh mẽ, đặc biệt từ thời kỳ đổi mới năm 1987, với những cải tiến vượt bậc về nội dung chương trình, công nghệ kỹ thuật và đội ngũ chuyên môn.

Hiện nay, HTV quản lý 24 đơn vị trực thuộc, bao gồm Trung tâm Dịch vụ truyền hình, Hãng phim truyền hình (TFS) và Trung tâm truyền hình cáp HTVC Đài đã thực hiện đổi mới hệ thống thiết bị và áp dụng công nghệ tiên tiến, cải tiến quy trình sản xuất chương trình và quy chế phát sóng để tiến tới chuyển đổi hoàn toàn sang kỹ thuật số HTV là đơn vị tiên phong trong ngành truyền hình Việt Nam, từ việc chuyển đổi từ phát hình đen trắng sang màu, loại bỏ kỹ thuật Umatic để sử dụng S-VHS, và hiện nay áp dụng kỹ thuật Betacam trong sản xuất chương trình, đồng thời triển khai kỹ thuật phát hình tự động đầu tiên trong ngành.

Cơ sở hạ tầng và hệ thống máy móc thiết bị của HTV ngày càng hiện đại, giúp tăng thời lượng phát sóng nhanh chóng Hiện tại, HTV phát sóng trung bình 48 giờ mỗi ngày trên 2 kênh analog HTV7 và HTV9, cùng với 60 giờ trên 4 kênh kỹ thuật số bao gồm HTV1 (kênh thông tin công cộng), HTV2 (kênh thể thao), HTV3 (kênh thanh thiếu niên) và HTV4 (kênh khoa học giáo dục) Hệ thống truyền hình cáp HTVC hiện có 118 kênh, trong đó 16 kênh do HTV thực hiện và liên kết sản xuất.

Tính đến năm 2010, HTV có tổng số cán bộ viên chức, công nhân viên là 961 người (gồm 559 người trong biên chế và 407 lao động hợp đồng), có

HTV đã xây dựng một đội ngũ 71 cán bộ quản lý có chuyên môn đa dạng ngay từ những ngày đầu thành lập Đội ngũ này được đào tạo từ nhiều nguồn khác nhau, bao gồm các nước như Liên Xô, Cuba, Đông Âu, Tây Âu và Đông Nam Á Ngoài ra, một số cán bộ thông tin đã được rèn luyện qua hai thời kỳ kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ Trong hơn một thập kỷ qua, nhiều cán bộ, công nhân viên trẻ được đào tạo tại chỗ, với 2/3 phóng viên, biên tập viên, đạo diễn và cán bộ quản lý có trình độ đại học trở lên HTV cũng tổ chức các lớp ngắn hạn do chuyên gia nước ngoài giảng dạy và cử đoàn cán bộ kỹ thuật, phóng viên đi học tập kinh nghiệm tại các đài khu vực ở Trung Quốc, Úc, Hongkong, Nhật Bản và Pháp.

HTV đã phát triển hơn 40 trạm phát lại từ Mường Tè đến Cà Mau, tạo nên sóng phủ sóng gần như toàn quốc Từ năm 1987, đài sản xuất trung bình 180 tác phẩm nghệ thuật sân khấu và 504 chương trình ca nhạc mỗi năm Đặc biệt, lĩnh vực phim truyện truyền hình của đài đã có những bước tiến vượt bậc Bên cạnh đó, từ tháng 5, HTV còn tổ chức biên soạn và phát hành bản tin để cập nhật thông tin cho khán giả.

1997 với số lượng phát hành 5.000 cuốn/ tháng Từ tháng 1-2004 đổi tên thành Tạp chí HTV với số lượng phát hành 50.000 cuốn/ tháng

Để phát triển sự nghiệp và đóng góp vào ngân sách, đài chủ động tìm kiếm nguồn thu từ dịch vụ quảng cáo cùng với các dịch vụ khác.

Từ năm 1990 đến 1995, tổng thu của đài chỉ đạt 131 tỷ đồng Tuy nhiên, từ tháng 4 năm 1996 đến tháng 6 năm 2001, tổng doanh thu của đài đã tăng đáng kể, đạt hơn 781 tỷ đồng, trong đó điều tiết ngân sách Trung Ương hơn 282 tỷ và kinh phí đầu tư cho đài hơn 488 tỷ Kinh phí đầu tư cho các dự án gần 300 tỷ đồng Từ năm 2005, đài đã vượt chỉ tiêu mà Ủy ban nhân dân thành phố giao.

Từ năm 2002 đến nay, đài đã hoàn toàn tự đảm bảo chi phí hoạt động thường xuyên, với doanh thu tăng trưởng mạnh mẽ từ 700 tỷ đồng năm 2006 lên 1.000 tỷ đồng năm 2007, 1.300 tỷ đồng năm 2008, 1.800 tỷ đồng năm 2009 và 2.111 tỷ đồng năm 2010.

HTV sở hữu một đội ngũ lãnh đạo vững mạnh bao gồm ban Tổng giám đốc và Đảng ủy đài, có trình độ chính trị và nghiệp vụ cao, cùng với sự đoàn kết chặt chẽ để hoàn thành nhiệm vụ Nhờ vào những nỗ lực thi đua bền bỉ, HTV đã vinh dự nhận nhiều Huân chương từ Nhà nước, trong đó có danh hiệu Anh hùng lao động thời kỳ đổi mới.

(2005), cờ thi đua các năm liền 2001, 2002, 2003, Huân chương độc lập hạng

Đài đã vinh dự nhận Huân chương lao động hạng Hai, cờ luân lưu, cờ truyền thống cùng nhiều bằng khen từ các bộ, ngành và đoàn thể, ghi nhận những thành tích xuất sắc trong hoạt động của mình.

2.1.2 Sự tham gia của các công ty truyền thông

HTV, trực thuộc Ủy ban nhân dân TP.HCM, là tiếng nói của Đảng bộ và nhân dân thành phố, với mục tiêu chính trị và tuyên truyền đường lối của Đảng và Nhà nước là hàng đầu Nhiều chương trình chính trị của HTV, như chương trình truyền hình trực tiếp "Nói và Làm" phối hợp với Thường trực Hội đồng Nhân dân thành phố, đã tạo ra ảnh hưởng sâu rộng trong cộng đồng Các chương trình kỷ niệm các ngày lễ lớn của đất nước, như Quốc khánh 2-9, ngày miền Nam giải phóng 30-4, và các sự kiện lớn khác, đều được HTV đầu tư công phu, phát sóng liên tục trong tháng kỷ niệm, từ đó lan tỏa những giá trị văn hóa và tinh thần đến người dân.

Truyền hình không chỉ cung cấp thông tin thời sự về kinh tế, chính trị và xã hội mà còn là nguồn kiến thức khoa học và giải trí cho công chúng HTV nổi bật với nhiều chương trình giải trí và văn hóa nghệ thuật, thu hút sự quan tâm của đông đảo người xem Theo thống kê từ TNS Media Việt Nam, các chương trình như trò chơi truyền hình, thời sự, phim truyện và ca nhạc luôn duy trì tỷ lệ người xem cao tại các thành phố lớn như Hà Nội, TP.HCM và Cần Thơ Sự năng động của các công ty truyền thông đã tạo ra nhiều chương trình mới mẻ, trong đó các sự kiện văn hóa lớn như Duyên dáng truyền hình và HTV Award được tổ chức định kỳ, thu hút sự chú ý của báo chí Hợp tác với HTV đã mang lại hiệu quả rõ rệt cho các đơn vị truyền thông, đáp ứng nhu cầu thông tin của công chúng và phát triển ngành quảng cáo Kể từ chương trình đầu tiên vào năm 1989, hàng trăm công ty truyền thông đã tham gia sản xuất chương trình cho HTV, đặc biệt trong lĩnh vực giải trí và văn hóa nghệ thuật.

Phim truyện Việt Nam đã thu hút nhiều công ty truyền thông hợp tác với HTV sản xuất, theo Nghị định số 54/2010/NĐ-CP, quy định tỷ lệ phát sóng phim truyện Việt Nam phải đạt ít nhất 30% tổng thời gian phát sóng Thời gian chiếu phim "giờ vàng" từ 20-22h, ngoài ra có thể phát sóng vào các khung giờ khác HTV sở hữu Hãng phim TFS, nhưng không đủ để đáp ứng nhu cầu, vì vậy HTV hợp tác với 29 đối tác sản xuất phim, với tỷ lệ phát sóng phim Việt chiếm 50% tổng thời lượng Mỗi năm, TFS sản xuất khoảng 200 tập phim, trong khi phim XHH có 1.600 tập, đảm bảo không có tình trạng "lủng" sóng nhờ vào 3-4 phim dự phòng luôn sẵn sàng.

HTV yêu cầu các công ty ngoài đài tham gia sản xuất phim không chỉ có vốn mà còn phải có khả năng quảng cáo, cam kết số lượng quảng cáo cho chương trình HTV là đơn vị tiên phong trong việc phát sóng phim Việt vào khung giờ vàng, thu hút đông đảo khán giả và quảng cáo Giải pháp này đã kích cầu sản xuất phim nội địa, bắt đầu từ 21h ngày 20-5-2005 với bộ phim đầu tiên "Vòng xoáy tình yêu" do Lasta sản xuất Sau đó, giờ vàng phim Việt được mở rộng thêm vào khung giờ buổi chiều (18h từ thứ Hai đến thứ Sáu) với các phim do TFS và M & T Picture sản xuất.

Ưu thế của các chương trình truyền hình của Cát Tiên Sa, Lasta, Hoa Hồng Vàng từ năm 2008 đến năm 2010

Chương trình "Vì ngày mai tươi sáng" do Công ty Cổ phần Truyền thông Tây Việt phối hợp với Ban Chuyên đề HTV thực hiện yêu cầu đơn vị truyền thông liên hệ với Ban Chuyên đề để trình bày format, phương thức thể hiện và MC Sau khi nội dung được phê duyệt, ngày giờ phát sóng sẽ được ấn định và chương trình sẽ được phép sản xuất Mỗi chương trình đều phải được Ban Chuyên đề duyệt trước 4 ngày phát sóng Trong quá trình sản xuất, HTV thường xuyên tư vấn về nội dung và kỹ thuật cho đối tác, nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất và đảm bảo chất lượng theo yêu cầu.

2.2 Ưu thế của các chương trình truyền hình của các công ty Cát Tiên

Sa, Lasta, Hoa hồng vàng từ 2008 đến 2010

XHH sản xuất chương trình truyền hình đã phát triển mạnh mẽ từ khi Việt Nam gia nhập WTO, đặc biệt từ năm 2008 đến 2010 Trong thời gian này, nhiều công ty truyền thông như Cát Tiên Sa, Lasta và Hoa hồng vàng đã nổi bật với những chương trình hiệu quả, tạo dấu ấn riêng trong ngành truyền hình.

2.2.1 Cát Tiên Sa- công ty truyền thông hàng đầu của các chương trình truyền hình giải trí

Công ty TNHH Đầu tư và Quảng cáo Cát Tiên Sa là doanh nghiệp 100% vốn Việt Nam, do Tiến sĩ Nghệ thuật học Nguyễn Quang Minh lãnh đạo với vai trò Tổng Giám đốc Với quy mô từ 50-100 nhân viên, công ty chuyên hoạt động trong nhiều lĩnh vực đa dạng.

+Tư vấn, tổ chức và điều phối các hoạt động đối ngoại, quan hệ truyền thông như:

 Hỗ trợ hoạt động, thu hút nhân tài

 Giới thiệu và củng cố hình ảnh nhãn hiệu, tăng cường sự trung thành của khách hàng

 Tổ chức các sự kiện, hội nghị khách hàng, giới thiệu sản phẩm, hội chợ

Chúng tôi tổ chức các chương trình truyền hình hấp dẫn bằng cách phối hợp với đài truyền hình, nhằm thu hút nhiều đối tượng khán giả khác nhau.

 Chương trình giao lưu với các nghệ sĩ, diễn viên, người nổi tiếng

Các cuộc thi thời trang và nghệ thuật đang ngày càng phát triển, góp phần thúc đẩy sự sáng tạo trong lĩnh vực nghệ thuật Để nâng cao chất lượng đào tạo, chúng tôi hợp tác với Trường Cao Đẳng Sân Khấu và Điện ảnh TP.HCM để mở các lớp đào tạo chuyên sâu, giúp học viên trang bị kiến thức và kỹ năng cần thiết cho sự nghiệp trong ngành nghệ thuật.

 Tổ chức, giới thiệu cho học viên tham gia các hoạt động quảng cáo, biểu diễn và các cuộc thi trong nước và Quốc tế

Trong những năm qua, Cát Tiên Sa đã khẳng định vị thế là công ty truyền thông hàng đầu thông qua nhiều chương trình hợp tác hiệu quả với HTV, đặc biệt trong lĩnh vực giải trí và văn hóa nghệ thuật Các chương trình nổi bật như Siêu thị may mắn, Hòa nhịp bạn trẻ, Giai điệu bạn bè, và Bước nhảy hoàn vũ (phiên bản quốc tế "Dancing with Stars") đã thu hút sự quan tâm lớn từ khán giả, với tỷ lệ người xem cao kỷ lục Cát Tiên Sa cũng hợp tác với VTV để mang đến những chương trình hấp dẫn, góp phần tạo nên cơn sốt truyền hình và thu hút sự chú ý của báo chí Ngoài ra, công ty còn sản xuất phim truyền hình như Luật Giang hồ và Người mẫu, mở rộng thêm lĩnh vực hoạt động của mình.

+ Khảo sát hiệu quả chương trình Album Vàng

Chương trình Album Vàng, ra mắt lần đầu vào ngày 11 tháng 12 năm 2006, được tổ chức hàng tháng và phát sóng trực tiếp trên kênh HTV7 Chương trình cũng được tiếp sóng trên nhiều đài phát thanh - truyền hình khác như Quảng Ninh, Hòa Bình và Bắc Ninh.

Phát thanh-Truyền hình Hậu Giang phối hợp với Tổng đài 19001763 để khán giả có thể gửi tin nhắn bình chọn cho album và ca sĩ yêu thích Khán giả có thể truy cập trang web http://www.albumvang.nhacso.net để tìm hiểu thông tin về chương trình, các ca sĩ, album dự thi và nhà tài trợ Hằng năm, chương trình sẽ tổng kết để bình chọn album và ca sĩ xuất sắc nhất Hội đồng nghệ thuật, gồm các nhạc sĩ và chuyên gia âm nhạc uy tín, sẽ đảm nhiệm vai trò giám khảo nhằm đảm bảo chất lượng chuyên môn cho chương trình.

Trong bối cảnh âm nhạc Việt Nam hiện nay, việc xuất hiện các giải thưởng cho ca khúc, ca sĩ và nhạc sĩ đã trở nên phổ biến Tuy nhiên, sự ra đời của một giải thưởng dành riêng cho album là điều cần thiết, vì album nhạc cũng đóng vai trò quan trọng trong ngành công nghiệp âm nhạc.

Qua 4 năm phát sóng, chương trình đã liên tục làm mới mình, cho khán giả thấy được sự trưởng thành, hấp dẫn qua từng số phát sóng Các tiết mục của Album Vàng được thể hiện sinh động, liên kết chặt chẽ Các khâu sản xuất từ lên ý tưởng, mời khách mời, tổ chức giám khảo, công tác khán giả, kịch bản chương trình, kịch bản MC, thiết kế sân khấu đều do Cát Tiên Sa thực hiện Chương trình được ghi hình trực tiếp từ nhà hát Truyền hình HTV, HTV hỗ trợ về trưởng quay, thiết bị kĩ thuật phục vụ cho chương trình truyển hình trực tiếp Đây là chương trình được thực hiện theo hình thức XHH một phần khâu sản xuất chương trình Ngoài chương trình trực tiếp trao giải cho các album của tháng, Album Vàng còn có các chương trình đồng hành được phát trước ngày chương trình diễn ra nhằm thu hút nhiều hơn sự quan tâm của khán giả cũng như giúp khán giả làm quen với các album sẽ được trình diễn trong đêm trao giải để khán giả bình chọn qua tổng đài tin nhắn Trải qua 4 năm phát sóng, chương trình đã nhận được nhiều phản hồi tốt từ báo chí và khán giả Khảo sát hiệu quả chương trình Abum Vàng cho thấy có 11,5 % phiếu đánh giá chương trình hay, 34% phiếu đánh giá chương trình Khá, trong đó điểm nổi bật của chương trình là cách thể hiện, có 59 phiếu đánh giá, chiếm 29,5%

+Khảo sát hiệu quả chương trình Duyên dáng truyền hình

Cuộc thi Duyên dáng truyền hình, do HTV và Công ty Cát Tiên Sa phối hợp tổ chức, dành cho biên tập viên và phát thanh viên trên toàn quốc Chương trình hàng năm này tạo cơ hội giao lưu, học hỏi và chia sẻ kinh nghiệm giữa các nữ phát thanh viên, phóng viên và biên tập viên từ các đài truyền hình Các đêm thi được tường thuật trực tiếp với các nội dung như thi năng khiếu, trình diễn áo dài và dạ hội, tự giới thiệu, thi kể chuyện và ứng xử Duyên dáng truyền hình trao giải Nhất, Nhì, Ba cùng các giải phụ như Gương mặt khả ái, Ứng xử hay nhất, và Trang phục đẹp nhất Thí sinh đạt giải nhất sẽ đại diện tham dự Duyên dáng truyền hình Asean, cũng do Cát Tiên Sa tổ chức, với sự hỗ trợ từ HTV về quay phim và kỹ thuật.

Trải qua 5 năm tổ chức Duyên dáng truyền hình, 2 năm tổ chức Duyên dáng truyền hình Asean thành công đã khẳng định tên tuổi của nhà tổ chức-

Cát Tiên Sa đã tạo ra một chương trình mang đậm bản sắc của HTV, được nhiều khán giả đánh giá cao và khuyến khích tiếp tục phát huy Theo khảo sát 200 khán giả tại TP.HCM, có 79 phiếu (39,5%) đánh giá chương trình ở mức khá, 20 phiếu (10%) cho rằng chương trình hay và hấp dẫn, trong khi 44 phiếu (22%) nhận định chương trình có chất lượng bình thường.

+ Những yếu tố làm nên thành công cho các chương trình của Cát Tiên

Cát Tiên Sa là công ty có nhiều năm hợp tác thành công với HTV, chuyên về chương trình văn hóa nghệ thuật Các chương trình do Cát Tiên Sa thực hiện luôn thu hút sự quan tâm của báo giới, người làm truyền hình, nghệ sĩ và công chúng Trong số hàng trăm chương trình truyền hình trên HTV, các sản phẩm mang thương hiệu Cát Tiên Sa vẫn nhận được sự yêu mến đặc biệt Để xây dựng thương hiệu uy tín, Cát Tiên Sa đã kết hợp hiệu quả các yếu tố nhân lực, quản lý và cơ sở vật chất.

Cát Tiên Sa hiện có khoảng 100 nhân viên, trong đó hơn 40 người tham gia tổ chức chương trình Mỗi năm, công ty thực hiện trung bình trên 20 chương trình truyền hình trực tiếp, bao gồm các chương trình ghi hình kéo dài từ 5-6 đêm như Duyên dáng truyền hình, Duyên dáng Asean và Ngôi sao tiếng hát truyền hình, cùng gần 10 đêm thi trực tiếp như Người dẫn chương trình truyền hình Việc tổ chức chương trình thu hình trực tiếp đòi hỏi năng lực mạnh mẽ về nhân lực, kỹ thuật và tài trợ, cho thấy Cát Tiên Sa là một trong những công ty truyền thông hàng đầu có khả năng thực hiện các chương trình phức tạp này.

Cát Tiên Sa đã thành công trong việc tuyển dụng, sử dụng và quản lý nhân sự chất lượng cao Đội ngũ nhân viên chủ yếu là những người có trình độ Đại học và nhiều năm kinh nghiệm trong lĩnh vực truyền hình Công ty quy tụ một nhóm làm truyền hình trẻ, nhiệt huyết và năng động, mang đến chuyên môn vượt trội Nhân sự tại Cát Tiên Sa chính là niềm mơ ước của bất kỳ công ty truyền thông nào.

Hạn chế trong xã hội hóa sản xuất chương trình truyền hình 65

Theo đánh giá ban đầu của khán giả, các chương trình như 12G, Góc Luật sư, Album Vàng, Duyên dáng truyền hình, Vượt lên chính mình và phim Cổng mặt trời đã tạo được dấu ấn mạnh mẽ từ các công ty Cát Tiên Sa, Lasta và Hoa Hồng Vàng trong số hàng trăm chương trình phát sóng trên HTV trong những năm qua Tuy nhiên, sự chênh lệch về mức độ đầu tư và chuyên nghiệp giữa các công ty này là rõ rệt, với Lasta và Cát Tiên Sa nổi bật hơn hẳn so với Hoa Hồng Vàng Mặc dù Hoa Hồng Vàng là công ty truyền thông mới thành lập, nhưng chương trình của họ vẫn thiếu những đổi mới đột phá và thường chỉ thực hiện theo cách an toàn, dẫn đến ấn tượng chưa thật sự sâu sắc trong lòng khán giả.

2.3 Hạn chế trong xã hội hóa sản xuất các chương trình truyền hình

2.3.1 Chất lượng không đồng đều

Các chương trình truyền hình như Duyên dáng truyền hình, Album vàng, Vượt lên chính mình, phim Cổng mặt trời, 12G và Góc luật sư đã nhận được nhiều phản hồi tích cực từ khán giả Sự xuất hiện của các nhà sản xuất tư nhân chứng tỏ rằng họ có khả năng sản xuất chương trình chất lượng cao với trang thiết bị hiện đại và đội ngũ chuyên nghiệp Tuy nhiên, các chương trình này vẫn gặp phải một số hạn chế đặc trưng của phương thức xã hội hóa trong sản xuất truyền hình.

Trong những năm gần đây, các chương trình truyền hình do công ty truyền thông sản xuất đã phát triển mạnh mẽ, với nhiều chương trình có thời lượng từ 5 đến 30 phút Sự phân chia này đã tạo cơ hội cho các công ty truyền thông tham gia sản xuất, dẫn đến sự xuất hiện của nhiều chương trình có nội dung và cách thể hiện tương tự nhau Điều này khiến khán giả dễ nhầm lẫn giữa các chương trình, đặc biệt là trong thể loại chương trình xã hội từ thiện như "Vì ngày mai tươi sáng," "Kết nối tương lai," và "Ước mơ đến trường."

Mặc dù các chương trình từ thiện đã mang lại cơ hội đổi đời cho người nghèo và giúp học sinh, sinh viên tiếp tục đến trường, nhưng cách thể hiện của chúng vẫn còn rập khuôn và thiếu sinh động Các chương trình này thường duy trì một phong cách "an toàn", ít đổi mới và nâng cao chất lượng Sự bùng nổ của nhiều chương trình xã hội đã khiến khán giả bớt quan tâm, họ chỉ chú ý đến những chương trình đã trở thành thương hiệu và hấp dẫn như Vượt lên chính mình hay Ngôi nhà mơ ước Theo khảo sát 200 phiếu, 138 phiếu cho rằng nội dung của Vượt lên chính mình là điểm mạnh nhất, chiếm 69% Do đó, mặc dù ra đời sau, những chương trình mới vẫn chưa để lại dấu ấn trong lòng khán giả.

Chương trình Duyên dáng truyền hình, Album vàng do công ty Cát

Cát Tiên Sa nổi bật với các chương trình trực tiếp trong khung giờ vàng, được HTV đầu tư phát triển, tạo nên món ăn tinh thần cho khán giả Tuy nhiên, chương trình Album Vàng nhận 24% ý kiến không hài lòng về nội dung và 16% về cách thể hiện Duyên dáng truyền hình, tổ chức hàng năm qua 5 mùa, cũng gặp phải 20% ý kiến phê bình về nội dung, với cấu trúc chương trình không thay đổi Mặc dù việc duy trì ổn định giúp khán giả nhớ đến chương trình, nhưng điều này có thể gây nhàm chán nếu lặp lại nhiều năm Để tạo sự mới mẻ và hấp dẫn cho người xem, các chương trình như Duyên dáng truyền hình và Album Vàng cần được cải tiến và đổi mới.

Chương trình 12G gặp phải nhược điểm lớn là quá tải thông tin, khiến khán giả cảm thấy bội thực với lượng dữ liệu đa dạng từ giá cả nông sản đến văn phòng phẩm Mặc dù cách thể hiện "nhiều cửa" giúp tận dụng không gian màn hình và tạo sự sinh động, nhưng sự phân chia thông tin không đồng đều và thiếu khoa học Nội dung do MC đề cập thường không liên quan đến các tin tức chạy chữ, thậm chí còn mâu thuẫn nhau, cho thấy những vấn đề này xuất phát từ khâu biên tập và kỹ thuật chưa được đầu tư đúng mức.

HTV đã thu hút nhiều nhà sản xuất tham gia hợp tác trong lĩnh vực phim truyện, với 29 nhà sản xuất vào năm 2010, vượt qua VTV chỉ với 20 đơn vị Sự cạnh tranh giữa các đơn vị sản xuất ngoài đài trong việc sản xuất phim truyền hình ngày càng gay gắt Tuy nhiên, phim Việt gần đây đang gặp phải những khó khăn.

Thời gian qua, phim truyền hình Việt Nam xuất hiện ồ ạt nhưng chất lượng lại không tương xứng, chủ yếu do các nhà sản xuất cần nội dung để phát sóng mà không kiểm chứng kỹ lưỡng Các kịch bản thường xoay quanh những đề tài quen thuộc như sinh viên, gia đình và tình yêu, gây ra sự thiếu đa dạng trong nội dung Một ví dụ điển hình là bộ phim "Cổng mặt trời" của Nhất Tâm Lasta Film, được bình chọn là phim truyền hình đáng xem nhất năm 2010 Tuy nhiên, phim này cũng mắc phải nhược điểm chung của nhiều tác phẩm khác khi có cốt truyện đơn giản nhưng kéo dài lê thê gần 30 tập, với nhiều tình tiết không thực tế và diễn xuất cường điệu hóa quá mức, khiến khán giả cảm thấy nhàm chán.

“cười gượng” Bỏ qua những lỗi này, phim Cổng mặt trời vẫn là bộ phim truyền hình đạt được thành công nhất năm 2010

2.3.2 Nhân lực làm truyền hình còn nhiều hạn chế

HTV và các công ty truyền thông tư nhân tại TP.HCM đang hoạt động như những đài truyền hình thu nhỏ, nhưng nhân lực ngành truyền hình vẫn không đủ đáp ứng nhu cầu Mỗi năm, khoảng 350 cử nhân báo chí-truyền thông ra trường, nhưng nhiều người lại không làm việc tại thành phố, và số còn lại chưa đáp ứng được yêu cầu tuyển dụng Mặc dù đa số nhân viên có trình độ Đại học, nhưng rất ít người tốt nghiệp chuyên ngành báo chí-truyền thông; nhiều người đến từ các lĩnh vực không liên quan như sư phạm, ngữ văn hay kế toán Nhân viên thường được đào tạo qua 3 tháng thử việc, và một số công ty như Cát Tiên Sa và Lasta đã tổ chức các lớp học nghiệp vụ để nâng cao kỹ năng cho nhân viên Tuy nhiên, tình trạng nhảy việc diễn ra phổ biến do môi trường làm việc không như mong đợi, dẫn đến sự không ổn định trong nhân sự Các công ty truyền thông thường phải đối mặt với việc bị mất người tài vào tay đối thủ, tạo ra một cuộc cạnh tranh khốc liệt trong ngành.

Chất lượng các chương trình truyền hình hiện nay bị ảnh hưởng bởi tính ổn định nhân sự thấp và trình độ chuyên môn hạn chế Vấn đề lớn nhất mà các nhà đài gặp phải trong việc xã hội hóa sản xuất chương trình là quản lý chất lượng Nhân sự trong các công ty truyền thông thường thiếu đào tạo bài bản và chuyên nghiệp, tạo ra thách thức cho cả nhà đài lẫn công ty Để nâng cao chất lượng chương trình, các công ty truyền thông cần chú trọng đến quản lý và đào tạo nhân lực, nhưng hiện tại, rất ít công ty đầu tư vào vấn đề này Sự dễ dãi trong tuyển dụng dẫn đến việc các chương trình không được đầu tư đúng mức, phản ánh qua chất lượng không đồng đều của các chương trình đang phát sóng.

2.3.3 Lợi nhuận kinh doanh chi phối chất lượng chương trình

Lợi nhuận từ sản xuất chương trình truyền hình là mục tiêu chính của các công ty truyền thông khi hợp tác với nhà đài Phương thức kinh doanh hiệu quả nhất là tìm kiếm nhà tài trợ cho mỗi chương trình, giúp nhà sản xuất nhanh chóng thu hồi vốn và tạo ra lợi nhuận Nếu không có nhà tài trợ, nhà sản xuất có thể tự đầu tư và sau đó tìm kiếm quảng cáo để phát trong chương trình Mặc dù phương pháp này đòi hỏi nhiều công sức và cần có mối quan hệ tốt với doanh nghiệp cũng như đội ngũ kinh doanh xuất sắc, nhưng nhiều công ty vẫn áp dụng để đạt được thành công.

Hiện nay, khán giả truyền hình đang cảm thấy mệt mỏi trước sự can thiệp của các nhà tài trợ vào nội dung chương trình Theo khảo sát 200 phiếu, nhiều ý kiến cho rằng cách thức tham gia của nhà tài trợ cần được xem xét lại, vì "của cho không bằng cách cho" Các đơn vị sản xuất cũng cần tìm cách thể hiện khéo léo hơn để chương trình mang tính nhân văn và tạo được tình cảm đẹp trong lòng khán giả Việc trả chi phí sản xuất bằng quảng cáo đôi khi trở thành áp lực cho cả đơn vị liên kết và đài truyền hình, đặc biệt là với mạng truyền hình trả tiền Công ty truyền thông phải đảm bảo số lượng quảng cáo để được chi trả chi phí sản xuất, nhưng quảng cáo quá nhiều khiến khán giả ngán ngẩm và dễ dàng chuyển kênh khi bị cắt ngang bởi quảng cáo.

Trong bối cảnh các công ty truyền thông phát triển mạnh mẽ, việc sản xuất chương trình truyền hình đang trở nên cạnh tranh hơn, khiến doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc tài trợ và quảng cáo Để tăng lợi nhuận, nhiều công ty đã áp dụng giải pháp giảm chi phí sản xuất, như giảm số lượng nhân viên và thời gian quay phim, trong khi mức lương không tăng Điều này dẫn đến việc các chương trình truyền hình ban đầu được đầu tư kỹ lưỡng nhưng nhanh chóng trở nên nhàm chán và thiếu cải tiến sau một thời gian phát sóng Hệ quả là, mặc dù có nhiều chương trình được phát sóng, nhưng ít chương trình để lại ấn tượng sâu sắc với khán giả.

Chương 2 giới thiệu hoạt động của HTV, những thành công của HTV trong giai đoạn từ 1987 đến nay Chính những thành công này là cơ sở để tạo điều kiện cho XHH sản xuất chương trình truyền hình được diễn ra, các chương trình được phép XHH sản xuất chủ yếu ở các lĩnh vực: thông tin kinh tế, giải trí, văn hóa, nghệ thuật, phim truyện Đây cũng chính là mảng thu hút nhiều khán giả truyền hình theo dõi nhất Đối với công ty truyền thông, đối tượng tham gia vào XHH sản xuất chương trình truyền hình, phương thức hợp tác được HTV áp dụng trong nhiều năm qua là phương thức trao đổi quyền lợi bằng quảng cáo Công ty truyền thông sản xuất chương trình cho HTV, ngược lại HTV trả chi phí sản xuất cho công ty bằng quảng cáo Để đảm bảo quyền lợi mỗi bên, công ty phải ký hợp đồng cam kết nâng cao chất lượng chương trình với HTV, trong đó tiêu chí để đánh giá hiệu quả chương trình được tính bằng số lượng quảng cáo trong chương trình Phương thức trao đổi quyền lợi này đã buộc các công ty truyền thông tư nhân vừa phải là nhà sản xuất tốt, vừa phải là nhà kinh doanh giỏi thì mới tồn tại được

Chương 2 với các dẫn chứng thực tế, trong đó phân tích một số chương trình cụ thể: 12G, Góc luật sư, Duyên dáng truyền hình, Album vàng, Vượt lên chính mình, phim Cổng mặt trời, người viết đã chỉ ra những thành công của từng chương trình, phân tích các yếu tố làm nên thành công cũng như những hạn chế của từng chương trình này Trong hàng trăm chương trình do công ty truyền thông thực hiện đang phát sóng trên HTV, những chương trình người viết khảo sát đều thu được phản hồi tốt của khán giả, là những chương trình tạo bản sắc riêng của nhà đài và của công ty truyền thông Sự phát sóng liên tục của các chương trình này trong những năm qua đã khẳng định các chương trình truyền hình do công ty truyền thông thực hiện có thể tồn tại được, thu hút được sự theo dõi của khán giả, được nhà đài đánh giá tốt nếu đảm bảo: nội dung phong phú, nhân lực làm truyền hình chuyên nghiệp, có vốn dồi dào và khả năng kinh doanh hiệu quả Tuy nhiên, các chương trình trên cũng có nhiều điểm hạn chế Từ những hạn chế đó, người viết đã khái quát, đánh giá hạn chế chung của các chương trình XHH ở khâu sản xuất như: chất lượng không đồng đều, nội dung ít thay đổi, nhân lực làm truyền hình còn thiếu và yếu, mức độ đầu tư cho chương trình không cao, nhà sản xuất bị chi phối bởi yếu tố lợi nhuận dẫn đến chất lượng chương trình chưa được đầu tư hiệu quả Từ thực tế hoạt động của các công ty Cát Tiên Sa, Lasta, Hoa Hồng Vàng, người viết đã có những phân tích, đánh giá những yếu tố dẫn đến thành công cũng như hạn chế trong sản xuất chương trình truyền hình Chính vì những lý do đó, trong hàng trăm công ty truyền thông hợp tác với HTV và hàng ngàn công ty truyền thông hoạt động trong lĩnh vực sản xuất chương trình ở TP.HCM chỉ có vài công ty được khán giả nhớ mặt, đặt tên bằng chính chất lượng chương trình XHH sản xuất chương trình truyền hình là một một cuộc đua đường dài, chỉ những công ty có thực lực mới có khả năng trở thành nhà sản xuất chương trình truyền hình chuyên nghiệp

Một số kinh nghiệm rút ra trong xã hội hóa sản xuất chương trình truyền hình

3.1.1 Về nội dung Đòi hỏi của công chúng về chất lượng chương trình ngày càng cao, nó trở thành nguyên nhân quan trọng trong việc công chúng đến với truyền hình ngày càng đông đảo hơn mà yếu tố quyết định nằm ở sự cải tiến nội dung đi kèm với hình thức thông tin phù hợp Cũng như tất cả các phương tiện truyền thông khác, truyền hình sẽ được công chúng xem nhiều hơn nếu các chương trình hấp dẫn hơn, sát với cuộc sống hơn

Sự tham gia của các công ty truyền thông trong sản xuất chương trình truyền hình đã trở nên phổ biến, với khả năng thu hút khán giả là yếu tố sống còn Khán giả, chính là người quyết định thành công hay thất bại của mỗi chương trình, có quyền lựa chọn những nội dung phù hợp và hấp dẫn Trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng gay gắt giữa các đài và kênh truyền hình, các công ty truyền thông cần chú trọng đến nhu cầu và thị hiếu của khán giả Chương trình truyền hình phải mang tính xã hội rộng lớn và tăng cường sự tương tác với công chúng Bình luận của khán giả vừa là thành công vừa là áp lực cho các chương trình, khi mà nội dung được đánh giá bởi cả xã hội, bao gồm chuyên gia và khán giả Những chương trình không đáp ứng được kỳ vọng sẽ nhanh chóng bị thay thế, do thói quen và thái độ ngày càng khắt khe của người xem Sự thành công ban đầu của chương trình Bước nhảy hoàn vũ đã giảm sút trong năm thứ hai do những thay đổi từ nhà sản xuất, cho thấy rằng sự cạnh tranh giữa các công ty truyền thông là rất lớn và khán giả luôn là yếu tố quyết định cho sự thành công của chương trình.

Để các chương trình tồn tại và phát triển, việc lắng nghe và đáp ứng nhu cầu của công chúng là điều cần thiết Các nhà sản xuất cần dự đoán phản ứng của khán giả để cải thiện chất lượng chương trình, từ đó phục vụ công chúng một cách tốt nhất.

Hầu hết các chương trình trò chơi truyền hình hiện nay tại Việt Nam đều được mua bản quyền từ nước ngoài, tuy nhiên không phải chương trình nào cũng thành công khi đưa về Chi phí mua bản quyền và sản xuất cao, vì vậy việc sản xuất chương trình "nhập khẩu" cần phải điều chỉnh để phù hợp với văn hóa và thói quen của khán giả Việt Nam Để đạt được thành công, chương trình cần đảm bảo tính nhất quán trong cách thể hiện và giữ vững tiêu chí thực hiện, tránh thay đổi theo ý kiến chủ quan Sự tổ chức chặt chẽ là yếu tố quan trọng giúp chương trình "Vượt lên chính mình" thành công liên tiếp trong những năm qua, đồng thời cũng là bài học cho các chương trình trò chơi truyền hình trên toàn thế giới.

XHH sản xuất chương trình truyền hình Điểm yếu này cần phải được khắc phục để xây dựng chương trình chặt chẽ, khoa học hơn

Xã hội hóa sản xuất chương trình đã được ghi nhận đầu tiên qua các chương trình trò chơi truyền hình, văn hóa và giải trí, thu hút lượng khán giả đông đảo HTV7 và HTV9 là hai kênh truyền hình nổi bật với việc phát sóng 24/24h, yêu cầu nguồn chương trình phong phú từ các công ty truyền thông Đặc biệt, trong lĩnh vực thông tin kinh tế, người dân luôn cần cập nhật tin tức tài chính, và HTV đã hợp tác với các công ty như FPT Media để sản xuất các chương trình thông tin chất lượng Các chuyên đề kinh tế được thực hiện hàng ngày với sự phân tích từ chuyên gia, đáp ứng nhu cầu thông tin của công chúng Bên cạnh đó, HTV cũng đã hợp tác với nhiều công ty truyền thông trong các chương trình văn hóa xã hội như "Vượt lên chính mình" và "Ngôi nhà mơ ước", tạo ra hiệu ứng tích cực từ khán giả Sự hợp tác giữa nhà sản xuất, nhà đài và nhà tài trợ đã phát triển các chương trình này thành thế mạnh của HTV, nhờ vào đội ngũ nhân lực chuyên môn cao và sự đầu tư chất lượng từ các công ty truyền thông.

HTV là đơn vị tiên phong trong việc khởi chiếu “giờ vàng phim Việt”, tạo thói quen xem phim Việt cho khán giả truyền hình trong suốt 5 năm qua Hiện nay, cả nước có hơn 600 đơn vị, bao gồm cả Nhà nước và tư nhân, được cấp phép sản xuất phim, dẫn đến sự cạnh tranh giữa các đơn vị Nhu cầu lớn về phim truyền hình từ các đài truyền hình sẽ tiếp tục thu hút nhiều đơn vị ngoài đài tham gia sản xuất phim truyện Việt Nam trong những năm tới.

Việc tiếp tục xã hội hóa sản xuất chương trình truyền hình trong các lĩnh vực như phim truyền hình, chương trình văn hóa-xã hội, trò chơi truyền hình, giải trí và thể thao để phát sóng trên HTV là một bước đi hợp lý và cần thiết trong bối cảnh hiện nay.

3.1.2 Về tổ chức sản xuất

Hiện nay, các công ty truyền thông hoạt động như những đài truyền hình thu nhỏ, với đội ngũ và thiết bị đầy đủ để sản xuất chương trình phát sóng Tuy nhiên, do bị chi phối bởi yếu tố lợi nhuận, hoạt động này chưa đạt được tính chuyên nghiệp cao Cách tổ chức chương trình thiếu khoa học, người phụ trách chưa có đủ kiến thức chuyên môn, và nhân sự sản xuất thường xuyên thay đổi Khi nhà đài duyệt chương trình, họ có thể nhận thấy mức độ đầu tư và cách thức tổ chức sản xuất Các chương trình thường không có kế hoạch dài hạn và thường chạy theo số lượng phát sóng, dẫn đến chất lượng không đồng đều, với một số tập thu hút phản hồi tích cực, trong khi những tập khác gây thất vọng cho khán giả Tổ chức sản xuất là khâu quan trọng nhất trong việc hình thành tác phẩm truyền hình, nhưng việc thắt chặt chi phí và thời gian thực hiện khiến nhân viên không thể chủ động sáng tạo, chỉ thực hiện theo nhiệm vụ được giao Điều này tạo ra sự trì trệ trong công việc, khiến nhiều công ty truyền thông tham gia sản xuất nhưng rất ít được đánh giá cao về chuyên môn.

Vượt lên chính mình, Duyên dáng truyền hình và Album Vàng đã thành công nhờ vào việc điều tiết hợp lý chi phí sản xuất và tổ chức sản xuất khoa học Họ xem sản xuất chương trình như một hoạt động xây dựng thương hiệu cho công ty, với đội ngũ nhân viên chuyên nghiệp, có kinh nghiệm và tính ổn định lâu dài Cách tổ chức sản xuất của các chương trình này là bài học quý giá cho những nhà sản xuất muốn khẳng định thương hiệu thông qua sản phẩm của mình.

Truyền hình trong những năm qua đã thu hút sự quan tâm lớn từ xã hội, với sự tham gia đông đảo của những người làm nghề Các công ty truyền thông đóng vai trò quan trọng trong việc sản xuất chương trình, cần có đội ngũ chuyên gia và êkip thực hiện gồm đạo diễn, biên tập viên, quay phim và nhiều vị trí khác Hơn nữa, những công ty này thường hợp tác với các đài truyền hình, như Cát Tiên, để phát triển các chương trình đa dạng và hấp dẫn.

Công ty truyền thông như Sa và Lasta sở hữu lực lượng nhân sự lớn, tuy nhiên, việc quản lý hiệu quả để đảm bảo chất lượng chương trình và lợi ích kinh doanh là thách thức lớn Quản lý thiếu khoa học và không đảm bảo quyền lợi cho người lao động dẫn đến tình trạng nhân sự ra đi, làm giảm tính ổn định Nhiều công ty truyền thông hiện nay xuất phát từ mối quan hệ gia đình, bạn bè, do đó không chú trọng đến tính chuyên nghiệp trong quản lý Điều này đặc biệt phổ biến ở các công ty nhỏ và vừa chuyên sản xuất chương trình đơn lẻ Hơn nữa, việc thiếu chuyên môn trong quản lý cũng gây ra nhiều hạn chế Kinh nghiệm từ Cát Tiên Sa và Lasta cho thấy, việc phân công lao động rõ ràng từ Ban Tổng Giám đốc cùng với môi trường làm việc chuyên nghiệp và công bằng trong đãi ngộ giúp ghi nhận đóng góp của nhân viên, từ đó nâng cao hiệu quả hoạt động của công ty.

Hiện nay, các công ty truyền thông đang phát triển mạnh mẽ, nhưng tình trạng khan hiếm nhân lực chất lượng cao là một thách thức lớn Đội ngũ làm truyền hình chủ yếu là những người trẻ, năng động và nhiệt huyết, nhưng thiếu kinh nghiệm và đào tạo bài bản Nhiều công ty áp dụng hình thức vừa làm vừa đào tạo, dẫn đến chuyên môn không cao Quản lý kém có thể khiến nhân viên giỏi rời bỏ để gia nhập các đối thủ cạnh tranh Do đó, quản lý hiệu quả là yếu tố then chốt để công ty tồn tại và phát triển Các nhà quản lý cần có chiến lược kinh doanh rõ ràng, biết phát huy điểm mạnh và cải thiện điểm yếu, từ đó xây dựng đội ngũ chất lượng và khẳng định uy tín công ty, qua đó tạo ra lợi nhuận bền vững.

Các giải pháp và khuyến nghị để nâng cao chất lượng xã hội hóa sản xuất chương trình truyền hình

3.2.1 HTV phải giữ vai trò quyết định trong hoạt động liên kết sản xuất chương trình

Báo chí đóng vai trò quan trọng trong việc tuyên truyền của Đảng và là diễn đàn cho nhân dân, trong đó truyền hình là ngành chính trị-tư tưởng trong xã hội HTV, đại diện cho tiếng nói của Đảng bộ và nhân dân TP.HCM, quản lý sóng truyền hình như một tài sản chung của xã hội Để sản xuất các chương trình truyền hình đa dạng, phong phú và chất lượng, việc quản lý các chương trình liên kết cần được thực hiện một cách nghiêm túc và có chiến lược lâu dài.

Ủy ban nhân dân TP.HCM đã kết luận về công tác xã hội hóa (XHH) của HTV, chỉ ra rằng chất lượng nhiều chương trình còn kém và lệch lạc Vào tháng 10/2009, Thanh tra thành phố tiếp tục tiến hành thanh tra toàn diện hoạt động của HTV và phát hiện thêm nhiều sai phạm HTV đã nghiêm túc chấn chỉnh những sai phạm này Do đó, trong hợp tác với công ty truyền thông, HTV cần tăng cường quản lý và giám sát để đảm bảo XHH được thực hiện đúng hướng.

+HTV tăng cường sự quản lý, kiểm tra năng lực sản xuất của các công ty truyền thông

Trong những năm gần đây, sản xuất chương trình truyền hình đã trở thành lĩnh vực hấp dẫn cho các công ty truyền thông, dẫn đến sự gia tăng số lượng công ty nhưng không tương xứng với cầu Để xây dựng thương hiệu truyền hình, các công ty cần có chuyên môn, nhân lực và quản lý khoa học Một bước quan trọng trong quy trình đăng ký sản xuất chương trình với HTV là kiểm tra năng lực sản xuất của công ty, nhằm đánh giá hiệu quả hoạt động và khả năng thực hiện chương trình HTV cần tăng cường khâu kiểm tra, thẩm định để xác định tính xác thực của thông tin từ công ty, cũng như yêu cầu công ty đáp ứng các tiêu chuẩn về chất lượng chuyên môn, kỹ thuật và đội ngũ thực hiện Công ty cũng cần trình bày kế hoạch sản xuất chi tiết, giúp HTV đánh giá mức độ đầu tư và năng lực sản xuất Qua đó, HTV có thể lựa chọn được những nhà sản xuất có thực lực về tài chính và khả năng sản xuất chương trình chất lượng.

+HTV cần có định hướng phát triển các chương trình XHH ở khâu sản xuất

Hiện nay, hàng trăm công ty truyền thông hợp tác với HTV để sản xuất chương trình trong các lĩnh vực như thông tin kinh tế, văn hóa giải trí và phim truyện Để chào chương trình với nhà đài, các công ty thường tiến hành thăm dò dư luận và tham khảo các chương trình đang phát sóng để đưa ra ý tưởng Họ sản xuất demo chương trình và khai thác các đề tài như vệ sinh an toàn thực phẩm, kiến thức tiêu dùng và từ thiện xã hội Tuy nhiên, điều này dẫn đến tình trạng các chương trình có cách thể hiện tương tự Để khắc phục, nhà đài cần có kế hoạch dài hạn và quy định rõ ràng về danh mục chương trình được xã hội hóa (XHH) để thuận tiện cho các công ty truyền thông Việc này không chỉ tăng hiệu quả cho chương trình truyền hình mà còn tránh tình trạng thiếu chương trình chất lượng Trong lĩnh vực phim truyện, mặc dù từng trải qua "khủng hoảng thừa" vào năm 2007, nhưng hiện nay vẫn thu hút nhiều công ty tham gia HTV cần có định hướng rõ ràng về đề tài và kế hoạch sản xuất để cân bằng cung-cầu, đảm bảo các bộ phim truyền hình được đầu tư đúng mức và mang thông điệp chân-thiện-mỹ của văn hóa nghệ thuật.

+HTV cần có sự lựa chọn kỹ lưỡng các chương trình của các công ty truyền thông

HTV luôn hướng tới việc tăng thời lượng và bổ sung nhiều chương trình mới để đáp ứng nhu cầu khán giả, đặc biệt qua sự hợp tác với các công ty truyền thông, mang lại nhiều chương trình phong phú và đa dạng Các chương trình mới phát triển theo hướng xã hội hóa (XHH) sẽ đem lại sức sống mới cho truyền hình và tạo thêm lựa chọn cho công chúng HTV cần lựa chọn các chương trình hợp tác phù hợp, đảm bảo quá trình đặt hàng và giám sát có tính khoa học và thực tiễn, với nội dung có ý nghĩa thiết thực Để nâng cao chất lượng chương trình, thời lượng tối thiểu nên là 15 phút, giúp nội dung được truyền tải trọn vẹn HTV cũng cần thẩm định lại các chương trình về sức khỏe và từ thiện, loại bỏ những chương trình chưa đạt chất lượng Đối với phim truyện Việt Nam, HTV cần chú trọng đến khả năng sản xuất của đối tác, đặc biệt là kịch bản và đạo diễn, nhằm cải thiện chất lượng phim Hợp tác với các công ty truyền thông tư nhân đã mang lại nhiều chương trình hấp dẫn, và việc lựa chọn con đường XHH phù hợp là yêu cầu cấp thiết để tạo hiệu quả lâu dài cho HTV.

Để nâng cao năng lực kiểm duyệt chương trình phát sóng, đài cần tổ chức lại quy trình kiểm duyệt nội dung và quản lý chặt chẽ các chương trình do công ty truyền thông thực hiện Cần xây dựng đội ngũ quản lý và đánh giá chương trình để đảm bảo chất lượng sản phẩm Mỗi chương trình phải được kiểm duyệt kỹ lưỡng trước khi phát sóng, nhằm tránh tình trạng chất lượng không đồng đều và sự chi phối của lợi nhuận Ban chương trình cần kiên quyết loại bỏ các kịch bản kém và yêu cầu đối tác đăng ký đề tài trước, tạo điều kiện cho việc đầu tư và phát triển nội dung Đối với các chương trình không chịu áp lực thời sự, cần yêu cầu đối tác cung cấp đề tài và kịch bản chi tiết để đảm bảo chất lượng Trong quá trình phát sóng, cần theo dõi sát sao và yêu cầu chỉnh sửa ngay khi có sơ sót Để đảm bảo chất lượng cho các chương trình XHH, HTV sẽ tăng cường các khâu kiểm duyệt, lựa chọn những chương trình phù hợp với nội dung của đài.

3.2.2 Nâng cao năng lực sản xuất chương trình của các công ty truyền thông

Hàng năm, HTV sản xuất hàng trăm chương trình truyền hình thông qua sự hợp tác với nhiều công ty truyền thông Để đạt được chất lượng chương trình tốt nhất, các công ty truyền thông cần có sự phối hợp chặt chẽ với nhà đài, cùng với sự hỗ trợ và quản lý từ HTV Điều này đòi hỏi các yêu cầu về nhân lực, kỹ thuật và quyền lợi của mỗi bên phải được đảm bảo và theo dõi một cách nghiêm ngặt.

+Nhân lực làm truyền hình

Con người đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của truyền hình, đặc biệt là trong việc xã hội hóa (XHH) sản xuất các chương trình truyền hình Việc huy động các tổ chức và cá nhân ngoài đài tham gia vào quá trình này giúp tạo ra những sản phẩm truyền hình chất lượng, phục vụ công chúng Các công ty sản xuất thường thu hút nguồn nhân lực có chuyên môn cao, như đạo diễn, quay phim và kỹ thuật viên, để đảm bảo chất lượng chương trình Nhờ vậy, sản phẩm truyền hình được tạo ra không chỉ đáng tin cậy mà còn mang lại những chương trình hay và bổ ích cho khán giả.

Quản lý chất lượng chương trình truyền hình do các công ty truyền thông sản xuất gặp nhiều khó khăn do nhà đài không kiểm soát được nguồn nhân lực Đội ngũ sản xuất hiện nay thiếu kinh nghiệm và thường chỉ được đào tạo trong quá trình làm việc Mặc dù nhà đài đã thúc đẩy hợp tác với các công ty tư nhân, chất lượng chương trình vẫn chưa được đầu tư đúng mức, dẫn đến sự chênh lệch với các chương trình do nhà đài sản xuất Để cải thiện tình hình, nhà đài cần đưa ra yêu cầu cụ thể về nội dung và kỹ thuật cho từng chương trình, đồng thời các công ty phải có nguồn nhân lực chuyên nghiệp và có trách nhiệm trong tuyển dụng Mô hình quản lý hiệu quả của Cát Tiên Sa và Lasta đã chứng minh rằng việc nâng cao chất lượng nhân lực là cần thiết Các công ty cần khắt khe trong tuyển dụng, đãi ngộ tốt cho nhân viên và thường xuyên bồi dưỡng kỹ năng để đảm bảo sự ổn định và chuyên nghiệp Nhân sự chất lượng sẽ giúp mở rộng sản xuất chương trình và nâng cao uy tín cũng như khả năng kinh doanh của công ty.

+ Kỹ thuật làm truyền hình phải luôn được chú trọng

Truyền hình hấp dẫn khán giả không chỉ nhờ vào nội dung mà còn bởi hình ảnh, màu sắc và âm thanh Sự phát triển mạnh mẽ của các kênh truyền hình hiện nay tạo ra nhiều lựa chọn cho khán giả, buộc các nhà đài phải cải tiến kỹ thuật và nâng cao chất lượng chương trình Các công ty truyền thông cần đáp ứng yêu cầu kỹ thuật của nhà đài để tránh sự chênh lệch trong cách thể hiện chương trình Quy trình sản xuất chương trình truyền hình cần đảm bảo hiệu quả từ khâu tiền kỳ đến hậu kỳ, sử dụng công nghệ hiện đại và thực hiện nghiệm thu kỹ thuật trước khi phát sóng Việc chuyển giao sản phẩm từ băng betacam sang file trực tiếp từ năm 2010 đã giúp tiết kiệm thời gian và chi phí cho các công ty truyền thông Để đảm bảo sự thống nhất về kỹ thuật, HTV cần cung cấp hướng dẫn cụ thể và tổ chức các lớp tập huấn cho nhân viên kỹ thuật của các công ty truyền thông Hơn nữa, việc hợp tác với các đơn vị cung cấp thiết bị và trường quay sẽ giúp nâng cao chất lượng chương trình, đảm bảo đồng đều và phù hợp với yêu cầu của nhà đài.

Các công ty truyền thông cần nâng cao chất lượng sản phẩm bằng cách đổi mới phương pháp dựng chương trình và ứng dụng công nghệ kỹ thuật số trong sản xuất Trách nhiệm với sản phẩm là điều thiết yếu, vì những sai sót nhỏ có thể làm giảm thiện cảm của khán giả Ngoài việc đảm bảo yêu cầu kỹ thuật, các công ty nên chú trọng đổi mới cách thể hiện nội dung để tránh lối mòn Khi chương trình thu hút sự quan tâm của khán giả, nhà sản xuất không chỉ xây dựng được uy tín mà còn nhận được sự công nhận từ xã hội, từ đó hưởng lợi từ khả năng của mình.

+Tăng cường hợp tác, hai bên cùng có lợi

Ngày nay, với sự mở rộng và tăng cường kênh truyền hình, các đài không thể tự sản xuất đủ chương trình do thiếu ý tưởng, nguồn lực và tài chính Hợp tác với các công ty truyền thông trở thành giải pháp hiệu quả cho sự phát triển của nhà đài, khai thác tiềm năng và chất xám từ xã hội Việc này không chỉ giúp tiết kiệm chi phí mà còn tạo điều kiện cho nhà đài đầu tư vào cơ sở vật chất và các chương trình lớn phục vụ tuyên truyền Hiện tại, HTV áp dụng phương thức trao đổi quyền lợi thông qua quảng cáo, trong đó nhà đài chi trả toàn bộ chi phí sản xuất cho đối tác bằng quảng cáo Tuy nhiên, các công ty truyền thông tư nhân gặp khó khăn khi phải đảm bảo 125% quảng cáo để nhận đủ chi phí, trong khi nếu vượt định mức, họ không được hưởng thêm lợi nhuận Do đó, việc điều chỉnh phương thức chi trả này sẽ khuyến khích các công ty truyền thông đầu tư sản xuất những chương trình chất lượng hơn.

Việc phát quảng cáo trong chương trình cần được điều tiết hợp lý, nhằm hạn chế số lượng quảng cáo và tránh tình trạng quá tải như hiện tại Nhà đài cũng nên lựa chọn kỹ lưỡng các quảng cáo, đảm bảo chúng phù hợp với nội dung chương trình.

Mô hình xã hội hóa sản xuất chương trình truyền hình

Sau khi nghiên cứu quy trình sản xuất chương trình tại các công ty truyền thông, tác giả đề xuất hai mô hình nhằm nâng cao chất lượng chương trình Mặc dù kinh nghiệm và kiến thức còn hạn chế, các mô hình này chỉ mang tính chất tham khảo.

3.3.1 Mô hình về phương thức phối hợp giữa đài truyền hình và công ty truyền thông

Hiện nay, sản xuất chương trình truyền hình đang đối mặt với một số hạn chế như chất lượng nội dung không đồng đều, nhiều chương trình mắc lỗi và phương thức chi trả quảng cáo giữa các đài và công ty truyền thông chưa hợp lý Hơn nữa, độ nhận biết của các chương trình cũng chưa cao, điều này cần được phân tích để tìm ra giải pháp cải thiện.

Liên kết sản xuất chương trình truyền hình Đài Truyền hình Công ty truyền thông

Chịu trách nhiệm nội dung, kỹ thuật

Trung tâm Dịch vụ Quảng cáo

Bộ phận sản xuất chương trình

Các Ban chức năng và các Ban phụ trách đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng mô hình lý tưởng cho sự phối hợp sản xuất chương trình truyền hình Để triển khai mô hình này, cần thực hiện theo các bước cụ thể.

1 Chương trình truyền hình thực hiện theo phương thức XHH khâu sản xuất được liên kết sản xuất giữa hai đơn vị là Đài truyền hình và công ty truyền thông

Đài truyền hình sẽ thành lập các ban phụ trách gồm: Ban chịu trách nhiệm nội dung, nơi mà công ty truyền thông hợp tác sẽ đảm nhận nội dung phát sóng; Ban Tài chính; và Trung tâm Dịch vụ và Quảng cáo, có nhiệm vụ theo dõi số lượng quảng cáo và quyền lợi tài trợ.

-Về phía công ty truyền thông: sẽ lập ra 2 bộ phận chính: Bộ phận sản xuất chương trình và Bộ phận kinh doanh

+Bộ phận sản xuất chương trình sẽ làm việc trực tiếp với Ban chịu trách nhiệm nội dung, kỹ thuật

Bộ phận kinh doanh của công ty chịu trách nhiệm khai thác quảng cáo và tìm kiếm nguồn tài trợ, đảm bảo nguồn thu ổn định cho công ty Bộ phận này sẽ phối hợp chặt chẽ với Ban Tài chính và Trung tâm Dịch vụ và Quảng cáo để đạt được mục tiêu doanh thu.

2/ Về phương thức sản xuất

Ban chương trình của HTV sẽ đảm nhận phần kỹ thuật, trong khi đó, đài truyền hình sẽ chỉ định người phụ trách nội dung cho các chương trình do công ty truyền thông sản xuất Phương thức phối hợp được đề xuất là chia sẻ 50-50.

+Ưu điểm của phương thức này: chương trình sẽ có chất lượng đồng đều hơn, phía công ty có trách nhiệm nâng cao chất lượng chương trình hơn

Mô hình liên kết giữa Đài và Công ty truyền thông được phác thảo trong bài viết này, thể hiện phương thức hợp tác được áp dụng trong quá trình thực hiện luận văn.

3.3.2 Mô hình tổ chức sản xuất chương trình truyền hình ở công ty truyền thông

-Thăm dò nhu cầu khán giả

-Tìm hiểu định hướng thông tin và các chương trình của đài

-Lên ý tưởng, xây dựng format, demo cho chương trình

-Hình thành đội ngũ chuyên gia, cộng tác viên

-Xây dựng êkip thực hiện chương trình

-Củng cố êkip thực hiện chương trình

-Tổ chức bồi dưỡng, đào tạo nâng cao tay nghề -Sản xuất trước 10 số dự trữ phát sóng

-Cử người sang đài học tập kĩ thuật -Đổi mới, cải tiến chương trình

-Tiếp thu ý kiến đánh giá của lãnh đạo đài và khán giả, áp dụng vào chương trình

-Tổng kết ưu điểm, những hạn chế, tồn tại cần khắc phục của chương trình -Lên kế hoạch sản xuất chương trình năm kế tiếp

-Đề ra những đổi mới cho chương trình

-Xác định thời điểm thông tin

-Báo in -Báo mạng -Tạp chí truyền hình

Thu nhận phản ty hồi

-Điều tra, thống kê xã hội học

Mục tiêu chính của mô hình này là thiết lập một quy trình sản xuất chương trình được tổ chức và liên kết chặt chẽ, nhằm đảm bảo chất lượng nội dung cao, mang lại hiệu quả kinh doanh cho công ty và tạo dấu ấn trong lòng khán giả Để đạt được điều này, chúng tôi đề xuất thực hiện các bước cụ thể.

Trước khi sản xuất một chương trình truyền hình, các công ty truyền thông cần nghiên cứu thị trường và phân tích các chương trình đang phát sóng để hiểu rõ nhu cầu của khán giả Việc xác định đúng hướng đi mới và phát triển nó sẽ tăng cơ hội thành công cho chương trình Điều này trở nên càng cần thiết trong bối cảnh hiện nay, khi mà ngày càng nhiều người và công ty tham gia vào lĩnh vực truyền hình.

Chương trình sẽ được thiết kế nhằm hướng đến các nhóm đối tượng cụ thể, xác định khu vực cư trú và đặc điểm riêng của họ Việc này giúp đảm bảo nội dung chương trình được thể hiện một cách phù hợp và hiệu quả nhất.

2 Lựa chọn nội dung thông tin Để chương trình “định vị” được trong lòng khán giả cũng như tạo ra những hiệu ứng xã hội tốt, công ty truyền thông cần có một chiến lược truyền thông chặt chẽ, hợp lý thể hiện ở các mặt nội dung và lựa chọn phương tiện thông tin phù hợp Tính liên tục của chương trình sẽ được duy trì qua các kì phát sóng và cả ở các phương tiện truyền thông khác Ở mỗi thời điểm, chương trình có những điểm nhấn về nội dung thông tin phù hợp với đặc trưng của chương trình và thị hiếu của khán giả

3 Lựa chọn phương thức thông tin

Công ty lựa chọn phương tiện truyền thông phù hợp tùy theo từng chương trình, với báo điện tử mạnh về tin tức, trong khi báo in thích hợp cho các bài phân tích và phỏng vấn sâu Phần Media được cập nhật đồng thời với các bài viết trên báo, bao gồm video clip, thăm dò ý kiến công chúng, và bình chọn chương trình hay nhất, nhằm tạo sự hứng thú cho khán giả theo dõi.

4 Lựa chọn phương tiện thông tin Để chương trình đạt được hiệu quả thông tin cao, mỗi chương trình cần chọn cho mình một hoặc vài đơn vị bảo trợ thông tin riêng Ở mỗi thời điểm cũng nên chọn phương tiện thông tin phù hợp Những tin tức về chương trình sẽ được cập nhật liên tục, để khán giả mọi lúc mọi nơi khi mở trang báo ra đều nhìn thấy thông tin về chương trình

Nghiên cứu nhu cầu thông tin và đánh giá mức độ quan tâm của công chúng là rất quan trọng Việc này có thể được thực hiện thông qua các công ty nghiên cứu thị trường và đo lường mức độ theo dõi chương trình Bên cạnh đó, việc theo dõi đánh giá và bình luận của khán giả dưới các bài viết thông tin trên báo cũng giúp thu thập những ý kiến khách quan Qua đó, các nhà sản xuất có thể đánh giá hiệu quả của chương trình và thực hiện những thay đổi phù hợp, kịp thời trong cách thức thực hiện và phương thức truyền thông.

Ngày đăng: 01/07/2022, 17:40

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Nhật An (2006), Đường vào nghề phát thanh truyền hình, NXB Trẻ, TP.HCM Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đường vào nghề phát thanh truyền hình
Tác giả: Nhật An
Nhà XB: NXB Trẻ
Năm: 2006
2. Hoàng Anh (2008), Kỹ năng về sử dụng ngôn ngữ trong truyền thông đại chúng, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Kỹ năng về sử dụng ngôn ngữ trong truyền thông đại chúng
Tác giả: Hoàng Anh
Nhà XB: Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội
Năm: 2008
3. Ban Tuyên giáo Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh (2010), Báo chí Việt Nam những dấu ấn đấu tranh cách mạng, NXB Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, TP.HCM Sách, tạp chí
Tiêu đề: Báo chí Việt Nam những dấu ấn đấu tranh cách mạng
Tác giả: Ban Tuyên giáo Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh
Nhà XB: NXB Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh
Năm: 2010
4. Báo cáo hội thảo xã hội hóa sản xuất các chương trình truyền hình ngày 02/01/2008 tại Hà Nội, Liên hoan truyền hình toàn quốc lần thứ 25 (ngày 05/01/2006 tại Nha Trang-Khánh Hòa) và lần thứ 26 (ngày 11/01/2007 tại TP.HCM), TP.HCM Sách, tạp chí
Tiêu đề: Báo cáo hội thảo xã hội hóa sản xuất các chương trình truyền hình
6. Bộ Thông tin và Truyền thông (2009), Thông tư 19/2009/TT-BTTTT Quy định về việc liên kết trong hoạt động sản xuất chương trình phát thanh, truyền hình, 28/05/2008, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thông tư 19/2009/TT-BTTTT Quy định về việc liên kết trong hoạt động sản xuất chương trình phát thanh, truyền hình
Tác giả: Bộ Thông tin và Truyền thông
Năm: 2009
7. Lê Thanh Bình (2004), Quản lý và phát triển báo chí-xuất bản, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Quản lý và phát triển báo chí-xuất bản
Tác giả: Lê Thanh Bình
Nhà XB: NXB Chính trị Quốc gia
Năm: 2004
8. Lê Thanh Bình, Phí Thị Thanh Tâm (2009), Quản lý nhà nước và pháp luật về báo chí và xuất bản, NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Quản lý nhà nước và pháp luật về báo chí và xuất bản
Tác giả: Lê Thanh Bình, Phí Thị Thanh Tâm
Nhà XB: NXB Văn hóa thông tin
Năm: 2009
9. Hoàng Đình Cúc, Đức Dũng (2007), Những vấn đề của báo chí hiện đại, NXB Lý luận chính trị, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Những vấn đề của báo chí hiện đại
Tác giả: Hoàng Đình Cúc, Đức Dũng
Nhà XB: NXB Lý luận chính trị
Năm: 2007
11. Nguyễn Văn Dững (chủ biên) (2006), Tác phẩm báo chí (tập 2), NXB Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tác phẩm báo chí
Tác giả: Nguyễn Văn Dững (chủ biên)
Năm: 2006
12. Hà Minh Đức (chủ biên) (1997), Báo chí những vấn đề lý luận và thực tiễn, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Báo chí những vấn đề lý luận và thực tiễn
Tác giả: Hà Minh Đức (chủ biên)
Nhà XB: NXB Đại học Quốc gia Hà Nội
Năm: 1997
13. Vũ Quang Hào (2004), Báo chí và đào tạo báo chí Thụy Điển, NXB Lý luận chính trị, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Báo chí và đào tạo báo chí Thụy Điển
Tác giả: Vũ Quang Hào
Nhà XB: NXB Lý luận chính trị
Năm: 2004
14. Vũ Quang Hào (2004), Ngôn ngữ báo chí, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Ngôn ngữ báo chí
Tác giả: Vũ Quang Hào
Nhà XB: NXB Đại học Quốc gia Hà Nội
Năm: 2004
15. Lê Thị Như Hoa (Chủ biên) (1997), Xã hội hóa và sự nghiệp phát triển văn hóa, NXB Văn hóa Thông tin Sách, tạp chí
Tiêu đề: Xã hội hóa và sự nghiệp phát triển văn hóa
Tác giả: Lê Thị Như Hoa (Chủ biên)
Nhà XB: NXB Văn hóa Thông tin
Năm: 1997
16. Đặng Vũ Cảnh Linh (2009), Toàn cầu hóa – cơ hội và thách thức đối với sự phát triển của truyền thông Việt Nam, NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Toàn cầu hóa – cơ hội và thách thức đối với sự phát triển của truyền thông Việt Nam
Tác giả: Đặng Vũ Cảnh Linh
Nhà XB: NXB. Chính trị quốc gia
Năm: 2009
17. Đỗ Nam Liên (chủ biên) (2005), Văn hóa nghe nhìn và giới trẻ, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn hóa nghe nhìn và giới trẻ
Tác giả: Đỗ Nam Liên (chủ biên)
Nhà XB: NXB Khoa học xã hội
Năm: 2005
18. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của luật báo chí (1999), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của luật báo chí
Tác giả: Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của luật báo chí
Nhà XB: NXB Chính trị Quốc gia
Năm: 1999
19. Nhiều tác giả (1994, 1996, 1997, 2001, 2005, 2006, 2007, 2008, 2010), Báo chí: Những vấn đề lí luận và thực tiễn (7 tập), NXB Giáo dục, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Báo chí: Những vấn đề lí luận và thực tiễn
Nhà XB: NXB Giáo dục
20. Nhiều tác giả (1999), Báo chí-Những vấn đề lý luận và thực tiễn, NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Báo chí-Những vấn đề lý luận và thực tiễn
Tác giả: Nhiều tác giả
Nhà XB: NXB Văn hóa thông tin
Năm: 1999
21. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luật Điện ảnh số 62/2006/QH-11 ban hành ngày 29/6/2006, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luật Điện ảnh số 62/2006/QH-11
41. Vân Oanh, Khuyến khích liên kết sản xuất chương trình truyền hình http://www.thesaigontimes.vn/Home/thoisu/sukien/14067/ , ngày 8/1/2010 Link

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

TRÊN SÓNG ĐÀI TRUYỀN HÌNH THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - (LUẬN VĂN THẠC SĨ) Xã hội hoá sản xuất chương trình truyền hình qua sản phẩm của các công ty truyền thông Cát Tiên Sa, LASTA, Hoa Hồng Vàng
TRÊN SÓNG ĐÀI TRUYỀN HÌNH THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH (Trang 1)
TRÊN SÓNG ĐÀI TRUYỀN HÌNH THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - (LUẬN VĂN THẠC SĨ) Xã hội hoá sản xuất chương trình truyền hình qua sản phẩm của các công ty truyền thông Cát Tiên Sa, LASTA, Hoa Hồng Vàng
TRÊN SÓNG ĐÀI TRUYỀN HÌNH THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH (Trang 2)
Trung tâm Dịch vụ Truyền hình HTV- HTVS được thành lập 11-1- 11-1-1989  có  các  đơn  vị  trực  thuộc:  Phòng  Quảng  cáo,  Phòng  Kĩ  thuật-sản  xuất  chương  trình,  Phòng  hậu  kì  phim  truyện,  Phòng  Rao  vặt-thông  tin  kinh  tế,  Phòng  Phát  hành - (LUẬN VĂN THẠC SĨ) Xã hội hoá sản xuất chương trình truyền hình qua sản phẩm của các công ty truyền thông Cát Tiên Sa, LASTA, Hoa Hồng Vàng
rung tâm Dịch vụ Truyền hình HTV- HTVS được thành lập 11-1- 11-1-1989 có các đơn vị trực thuộc: Phòng Quảng cáo, Phòng Kĩ thuật-sản xuất chương trình, Phòng hậu kì phim truyện, Phòng Rao vặt-thông tin kinh tế, Phòng Phát hành (Trang 49)
Bảng kết quả khảo sát 200 phiếu đánh giá chất lượng chương trình: - (LUẬN VĂN THẠC SĨ) Xã hội hoá sản xuất chương trình truyền hình qua sản phẩm của các công ty truyền thông Cát Tiên Sa, LASTA, Hoa Hồng Vàng
Bảng k ết quả khảo sát 200 phiếu đánh giá chất lượng chương trình: (Trang 69)
2.3 Hạn chế trong xã hội hóa sản xuất các chương trình truyền hình - (LUẬN VĂN THẠC SĨ) Xã hội hoá sản xuất chương trình truyền hình qua sản phẩm của các công ty truyền thông Cát Tiên Sa, LASTA, Hoa Hồng Vàng
2.3 Hạn chế trong xã hội hóa sản xuất các chương trình truyền hình (Trang 70)
trình này. Với kinh nghiệm, vốn kiến thức không nhiều, mô hình chỉ mang tính chất tham khảo - (LUẬN VĂN THẠC SĨ) Xã hội hoá sản xuất chương trình truyền hình qua sản phẩm của các công ty truyền thông Cát Tiên Sa, LASTA, Hoa Hồng Vàng
tr ình này. Với kinh nghiệm, vốn kiến thức không nhiều, mô hình chỉ mang tính chất tham khảo (Trang 96)
3.3.2 Mô hình tổ chức sản xuất chương trình truyền hìn hở công ty truyền thông - (LUẬN VĂN THẠC SĨ) Xã hội hoá sản xuất chương trình truyền hình qua sản phẩm của các công ty truyền thông Cát Tiên Sa, LASTA, Hoa Hồng Vàng
3.3.2 Mô hình tổ chức sản xuất chương trình truyền hìn hở công ty truyền thông (Trang 98)

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w