1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

(LUẬN văn THẠC sĩ) phân tích đối chiếu kết trị danh từ chung (common nouns) trong tiếng anh và tiếng việt (trên cơ sở các danh từ chung chỉ bộ phận trên khuôn mặt người)

75 7 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Phân Tích Đối Chiếu Kết Trị Danh Từ Chung (Common Nouns) Trong Tiếng Anh Và Tiếng Việt (Trên Cơ Sở Các Danh Từ Chung Chỉ Bộ Phận Trên Khuôn Mặt Người)
Tác giả Hoàng Thu Huyền
Người hướng dẫn TS. Lâm Quang Đông
Trường học Đại Học Quốc Gia Hà Nội
Chuyên ngành Ngôn Ngữ Học
Thể loại luận văn thạc sĩ
Năm xuất bản 2013
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 75
Dung lượng 758,56 KB

Cấu trúc

  • MỤC LỤC

  • PHẦN A: MỞ ĐẦU

  • PHẦN B: NỘI DUNG

  • Chương I: CƠ SỞ LÝ LUẬN- MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN

  • 1.1 Danh từ chung tiếng Anh và tiếng Việt

  • 1.1.1 Khái niệm danh từ

  • 1.1.2 Danh từ chung tiếng Anh và tiếng Việt

  • Chương II: KẾT TRỊ DANH TỪ CHUNG TRONG TIẾNG ANH VÀ TIẾNG VIỆT- NHỮNG TƯƠNG ĐỒNG VÀ DỊ BIỆT

  • 2.1 Kết trị danh từ và danh ngữ tiếng Anh

  • 2.1.1 Danh ngữ cơ sở - kết trị đóng của danh từ tiếng Anh

  • 2.1.2. Danh ngữ phức – kết trị mở của danh từ tiếng Anh

  • 2.1.3 Kết trị danh từ tiếng Anh

  • 2.2 Kết trị của danh từ và danh ngữ tiếng Việt

  • 2.2.1 Danh ngữ tiếng Việt

  • 2.2.2 Sơ đồ biến thể cấu trúc biểu hiện kết trị của danh từ tiếng Việt

  • 2.3 Những tương đồng và dị biệt về kết trị của danh từ chung tiếng Anh và tiếng Việt

  • 2.3.1. Những tương đồng

  • 2.3.2. Những dị biệt

  • Chương III: KẾT TRỊ BIỂU HIỆN NGHĨA DANH TỪ CHỈ CÁC BỘ PHẬN TRÊN KHUÔN MẶT NGƯỜI TRONG TIẾNG ANH - VIỆT

  • 3.1 Việc lựa chọn các danh từ và tổ hợp từ có liên quan

  • 3.2 Danh từ Mắt

  • 3.3 Danh từ Mũi

  • 3.4 Danh từ Mồm

  • 3.5 Danh từ Tai

  • 3.6 Danh từ Tóc

  • PHẦN C KẾT LUẬN

  • TÀI LIỆU THAM KHẢO

Nội dung

Lịch sử vấn đề

Danh từ đóng vai trò quan trọng trong cấu trúc câu của hầu hết các ngôn ngữ trên thế giới Đây là loại từ được nghiên cứu không chỉ trong lĩnh vực ngôn ngữ học mà còn trong các lĩnh vực như văn học, dân tộc học và văn hóa dân gian Hiện nay, nhiều dự án nghiên cứu về danh từ đang được triển khai trên quy mô lớn trong cả ngôn ngữ học lý thuyết và ngôn ngữ học ứng dụng.

Sự quan tâm của các nhà nghiên cứu phương Tây đối với tiểu loại danh từ trong các tổ hợp từ cố định và thành ngữ đã thay đổi do quan điểm mới về vai trò của danh từ trong giảng dạy ngoại ngữ và dịch thuật Trái với quan niệm trước đây rằng ngôn ngữ chỉ là một hệ thống quy tắc phổ quát, ngày nay, nhiều nghiên cứu cho thấy việc thành thạo một ngoại ngữ phụ thuộc vào khả năng sử dụng thành thạo các tổ hợp từ cố định, hay còn gọi là “prefabricated units”.

“prefabs” (Bolinger 1976, tr 93) Về kết trị các tác giả trên thế giới không thể không nhắc đến Tesniere (1959, cha đẻ của lí thuyết kết trị), Fillmore, C.J

Năm 1977, Lyons và năm 1995, J đã đóng góp quan trọng cho nền tảng nghiên cứu ngôn ngữ học tri nhận Trong lĩnh vực này, không thể không nhắc đến Lakoff và Johnson (1999) cùng với Raymon Gibbs (1997), những người đã tái đánh giá quan điểm truyền thống về bản chất của ngữ nghĩa, vai trò của ẩn dụ và hoán dụ, cũng như vấn đề phạm trù hóa ngôn ngữ và mối quan hệ giữa cấu trúc và ngữ nghĩa.

Dựa trên lý thuyết của các nhà nghiên cứu nổi tiếng quốc tế và Việt Nam, đã có nhiều công trình nghiên cứu về kết trị và khả năng kết hợp của danh từ trong "Ngữ pháp tiếng Việt - Từ loại" (Đinh Văn Đức, 2001, tr 249, tr 263) và "Cơ sở ngữ nghĩa - phân tích cú pháp" (Nguyễn Văn Hiệp).

2008) “Kết trị của động từ tiếng Việt” (Nguyễn Văn Lộc, 1995), “Cấu trúc nghĩa biểu hiện của câu - với nhóm vị từ trao, tặng” (Lâm Quang Đông,

Nghiên cứu về trật tự từ trong tiếng Anh và tiếng Việt đã được thực hiện qua các luận án như của Vũ Ngọc Tú (1996) và các tác phẩm của Nguyễn Ngọc Vũ (2008) liên quan đến thành ngữ chỉ bộ phận cơ thể Những công trình này, cùng với các bài viết của Bilkova (2000) và Stracker (1993), đã làm nổi bật mối liên hệ ngữ nghĩa giữa các bộ phận trên khuôn mặt người trong ngữ cảnh thành ngữ, góp phần làm phong phú thêm hiểu biết về ngôn ngữ tri nhận.

Tại Việt Nam, có một số công trình nghiên cứu về thành ngữ theo hướng tri nhận, tập trung vào đặc điểm ngữ nghĩa, đáng chú ý là các tác giả như Lý Toàn Thắng (1994, 2001) và Trần Văn Cơ.

(2007), Hoàng Văn Hành (1976), Chu Bích Thu (1996) và Phan Văn Quế

Nghiên cứu về thành ngữ từ góc độ tri nhận đã có những đóng góp quan trọng từ các tác giả như Nguyễn Kim Thản (1963), Cù Đình Tú (1973), và Nguyễn Thiện Giáp (1975, 1985) Gần đây, nhiều bài báo trên tạp chí đã trình bày các nghiên cứu về ngữ nghĩa theo hướng ngôn ngữ học tri nhận Tuy nhiên, vẫn chưa có công trình nào thực hiện nghiên cứu đối chiếu toàn diện các thành ngữ và tổ hợp từ cố định có chứa danh từ chỉ bộ phận trên khuôn mặt người trong tiếng Anh và tiếng Việt, từ góc độ ngôn ngữ học tri nhận và kết trị danh từ.

Mục đích, nội dung nghiên cứu

Luận văn tập trung vào lớp danh từ chung và một số danh từ chỉ bộ phận trên khuôn mặt như mắt, mũi, mồm, tai, tóc, nhằm phân tích cách mà những danh từ này mang nghĩa khác nhau trong cấu trúc câu và khả năng kết hợp với các cụm từ tự do Nghiên cứu cũng xem xét khả năng suy nghĩa và các tổ hợp từ cố định từ những đơn vị cấu thành của chúng Để phục vụ cho việc nghiên cứu này, luận văn áp dụng lý thuyết ngôn ngữ học tri nhận, đặc biệt là lý thuyết về ẩn dụ và hoán dụ Do đó, vai trò của kết trị danh từ cùng với ẩn dụ ý niệm và hoán dụ ý niệm trong việc tạo nghĩa trong câu và các tổ hợp từ cố định là những căn cứ lý luận và mục tiêu nghiên cứu quan trọng của luận văn.

Sau khi phân tích ý nghĩa của danh từ, chúng ta sẽ xem xét cách mà lớp danh từ đó hoạt động Tiếp theo, tiến hành phân tích và so sánh các lớp danh từ tiếng Anh và tiếng Việt tương ứng, nhằm tìm ra những điểm tương đồng và khác biệt Cuối cùng, chúng ta sẽ giải thích nguyên nhân dẫn đến sự giống nhau và khác nhau của các danh từ thông qua các ngữ nghĩa khác nhau.

Phương pháp và tư liệu nghiên cứu

Để đạt được mục đích nghiên cứu, luận văn áp dụng các phương pháp khảo sát tài liệu về kết trị và ngôn ngữ học tri nhận, đồng thời sử dụng cấu trúc ngữ pháp tiếng Anh và tiếng Việt làm nền tảng Luận văn cũng dựa trên các công trình lý luận cơ bản liên quan đến kết trị, ngôn ngữ học tri nhận và ngữ pháp của hai ngôn ngữ này Qua việc kết hợp giữa thống kê, miêu tả định tính và định lượng, luận văn phân tích nghĩa và khả năng kết hợp của danh từ chung, đặc biệt tập trung vào các danh từ chỉ bộ phận trên khuôn mặt trong tiếng Anh và tiếng Việt.

Sử dụng mô hình hóa để làm rõ kết quả nghiên cứu, bài viết xác định vai trò của ẩn dụ ý niệm và hoán dụ ý niệm trong việc tạo nghĩa hàm ẩn trong các tổ hợp từ cố định và thành ngữ Tập trung phân tích một số nhóm thành ngữ và cụm từ có nguồn gốc từ cùng một ẩn dụ hay hoán dụ ý niệm, nhằm làm nổi bật vai trò của chúng trong việc suy nghĩa cho từng nhóm ví dụ được khảo sát.

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là danh từ chung trong các tổ hợp từ cố định có chứa danh từ chỉ bộ phận trên khuôn mặt người trong tiếng Anh và tiếng Việt hiện đại Các ví dụ minh họa được thu thập từ sách ngữ pháp, sách học, từ điển tiếng Anh và tiếng Việt, cùng với một số công trình và tác phẩm tiêu biểu trong ngôn ngữ học và văn học của hai ngôn ngữ, cũng như từ các văn bản chính thức.

Sau khi khảo sát các ví dụ, chúng tôi đã so sánh kết quả của danh từ chung trong tiếng Anh và tiếng Việt để tìm ra sự tương đồng và khác biệt trong tư duy, ý niệm hóa thế giới và cấu trúc ngôn ngữ Việc này không chỉ hỗ trợ cho việc giảng dạy và dịch thuật mà còn tạo tiền đề cho việc ứng dụng khả năng kết hợp của danh từ trong các danh ngữ trong quá trình giảng dạy tiếng Anh và tiếng Việt.

Đối tƣợng nghiên cứu

Luận văn nghiên cứu khả năng kết trị của danh từ với các từ xung quanh từ góc độ ngữ nghĩa, dựa trên quan điểm ngôn ngữ học tri nhận Chúng tôi chú trọng vào hai công cụ quan trọng là ẩn dụ ý niệm và hoán dụ ý niệm để khảo sát các cụm từ và tổ hợp từ cố định Đối tượng nghiên cứu chính là các cụm từ và tổ hợp từ cố định liên quan đến các bộ phận trên khuôn mặt người trong tiếng Anh và tiếng Việt Trong khuôn khổ của luận văn, chúng tôi tập trung phân tích vai trò của ẩn dụ ý niệm và hoán dụ ý niệm trong việc tạo nghĩa cho các lớp cụm từ này Các danh từ được chọn để nghiên cứu bao gồm: mắt, mũi, mồm, tai, và tóc, và chúng được thống kê đầy đủ trong phần phân tích và khảo sát.

Bố cục của luận văn

Danh từ chung tiếng Anh và tiếng Việt

Trong tiếng Anh, danh từ (Noun) được định nghĩa là từ chỉ người, sự vật, địa điểm, nghề nghiệp, phẩm chất, sự việc, trạng thái và cảm xúc Ví dụ, danh từ có thể là tên người như "John", nghề nghiệp như "doctor" (bác sĩ), đồ vật như "table" (cái bàn), địa điểm như "London", phẩm chất như "courage" (dũng cảm), hoặc biểu thị một trạng thái và cảm xúc.

(laughter- tiếng cười) Danh từ dùng để xác định tên của người, vật, sự vật v.v…” (L.G.Alexander 1992, tr.34)

Theo Đinh Văn Đức (2001, tr.57), danh từ tiếng Việt được định nghĩa là loại từ biểu thị “sự vật tính”, bao gồm các tên gọi về sự vật như đồ vật (bàn, ghế, sách), địa danh (núi, sông, đất nước), con người (học sinh, hoa hồng), động vật (gà, trâu, bò) và các khái niệm trừu tượng (khoa học, kinh tế, phương pháp).

Danh từ có nhiều định nghĩa tương tự nhau, và định nghĩa dưới đây có thể coi là khái quát nhất để giải đáp câu hỏi về danh từ.

“Về mặt ý nghĩa, danh từ là những từ có ý nghĩa khái quát chỉ sự vật và các khái niệm trừu tượng” (Hữu Quỳnh, 1980, tr.55)

Khi nghiên cứu về danh từ, điều quan trọng là xem xét nó trong bối cảnh của danh ngữ, nơi danh từ giữ vai trò trung tâm Danh ngữ là một cụm từ có danh từ làm chính tố, với các thành tố phụ bổ nghĩa xung quanh theo mối quan hệ chính-phụ Về mặt cú pháp, danh từ có khả năng kết hợp với nhiều loại từ khác nhau như tính từ, động từ và số từ Từ góc độ ngữ nghĩa, danh từ đảm nhận nhiều vai trò khác nhau, phụ thuộc vào mối liên hệ với các thành tố xung quanh trong cụm từ hoặc câu.

Cậu bé đáng yêu đang ngủ kia học ngoại ngữ qua mạng

Trong cụm từ "cậu bé đáng yêu", danh từ "cậu bé" được xác định bởi hai cụm từ "đáng yêu" và "đang ngủ" Cụm từ "đáng yêu" miêu tả cậu bé như một thực thể cụ thể, trong khi "đang ngủ" thể hiện cậu bé là tác thể thực hiện hành động.

Trong câu, "cậu bé" đóng vai trò là tác thể, trong khi "danh từ ngoại ngữ" là thụ thể của động từ "học" Đồng thời, "danh từ mạng" kết hợp với giới từ "qua lại" tạo thành yếu tố công cụ cho hành động học.

Tóm lại, khả năng kết hợp cú pháp rộng rãi trong câu, đóng nhiều vai nghĩa khác nhau là điểm nổi bật của danh từ

1.1.2 Danh từ chung tiếng Anh và tiếng Việt

Danh từ chung là danh từ dùng để chỉ các lớp sự vật thuộc cùng một loại, trong khi danh từ riêng dùng để chỉ tên riêng của người, vật hoặc địa điểm (Từ điển Ngôn Ngữ học, 1985)

Danh từ chung tiếng Anh và tiếng Việt có một sổ điểm nổi bật giống nhau và khác nhau

Những điểm giống nhau nằm ở việc phân loại trên cơ sở ngữ nghĩa Về ngữ nghĩa, danh từ đều được phân thành từng cặp theo kiểu nhị phân luận:

- Danh từ cụ thể và danh từ trừu tượng

- Danh từ đếm được và danh từ không đếm được

Danh từ tập hợp và danh từ đơn lẻ trong tiếng Anh có sự khác biệt rõ rệt so với tiếng Việt, chủ yếu ở hệ hình diễn đạt các phạm trù ngữ pháp và đặc điểm tạo từ mang tính chất hình vị học Để hiểu sâu hơn về vấn đề này, cần có các chuyên khảo riêng biệt Dưới đây là một số khía cạnh cơ bản thường gặp.

Danh từ tiếng Anh có sự thay đổi hình thái tùy thuộc vào các phạm trù ngữ pháp như số, cách và giống Trong đó, phạm trù số là yếu tố quan trọng nhất, ảnh hưởng đến cách sử dụng và hình thức của danh từ trong câu.

Trong phạm trù cách, sở hữu cách làm biến đổi dạng của danh từ phụ tố và thể hiện mối quan hệ sở hữu giữa danh từ phụ tố và danh từ chính tố Hình vị ngữ pháp „s được thêm vào sau danh từ phụ tố, thường là những danh từ chỉ người hoặc con vật.

Teacher’s book (sách của thầy giáo) hay sheep’s eyes (mắt của con cừu)

Phạm trù giống trong ngữ pháp tiếng Anh rất hiếm khi được sử dụng, chủ yếu thông qua các hình vị ngữ pháp để tạo ra nghĩa đực và cái Chỉ một số ít danh từ có hậu tố -ess để chuyển đổi từ giống đực sang giống cái, như actor thành actress (nam-nữ diễn viên) hay waiter thành waitress (nam-nữ bồi bàn) Để phân biệt giới tính, đặc biệt là nữ giới, trong tiếng Anh thường dùng từ ghép như woman teacher (cô giáo) Đối với danh từ chỉ loài vật, thường sử dụng hai từ khác nhau, ví dụ như cock (gà trống).

- hen (gà mái), ox (bò đực) – cow (bò cái), v.v…

Trong tiếng Việt, việc phân biệt giới tính của con người thường được thực hiện thông qua các từ thể loại như "ông - bà" hay "anh - chị," ví dụ như "ông quản gia" và "bà thợ may." Đối với động vật, chúng ta sử dụng tính từ để chỉ giới tính, chẳng hạn như "dê cái - dê đực" và "lợn cái - lợn đực."

Phạm trù số của danh từ trong Tiếng Anh và Tiếng Việt có sự khác biệt rõ rệt Trong Tiếng Việt, sự phân biệt giữa số ít và số nhiều của danh từ chủ yếu dựa vào ngữ nghĩa, không phụ thuộc vào hình thái của danh từ, ví dụ như "một tay" và "hai tay".

Trong Tiếng Anh, số là một phạm trù ngữ pháp quan trọng, với hậu tố -s thường được sử dụng để chỉ số nhiều, như trong ví dụ book – books Tuy nhiên, có nhiều ngoại lệ mà hậu tố này không được áp dụng, chẳng hạn như a child – children (đứa trẻ - những đứa trẻ) và this ox - these oxen (con bò này – những con bò này) Thậm chí, còn có những trường hợp không sử dụng bất kỳ hình vị phụ tố nào để thể hiện số nhiều.

Phạm trù số danh từ tiếng Anh được phân loại thành nhiều nhóm và tiểu nhóm phức tạp Một trong những đặc điểm quan trọng là danh từ có cả hình thái số ít và số nhiều, điều này giúp phân biệt rõ ràng giữa các đối tượng trong ngữ cảnh sử dụng.

1 Khả biến (variable) b) Không có hình thái số nhiều

Danh từ (zero plural) a) Chỉ có số ít (singular only)

Kết trị danh từ - Khái niệm chung

Theo cuốn "Ngữ pháp tiếng Việt – từ loại" của Đinh Văn Đức (2001), danh từ và động từ luôn đối lập và đóng vai trò trung tâm trong mọi ngôn ngữ Danh từ được coi là một từ loại bình đẳng với động từ Khái niệm ngữ trị (valency) từ trước chỉ thuộc về cú pháp của động từ, nay được mở rộng sang danh từ, được định nghĩa là toàn bộ giá trị ngữ pháp mà danh từ có được từ các kết trị hiện hữu và các diễn trị trong câu, phản ánh vai diễn mà danh từ thực hiện.

Kết trị của danh từ là một phần cấu thành quan trọng, kết hợp với diễn trị để tạo nên ngữ trị tổng thể Trong khi diễn trị được xác định bởi vai trò của danh từ trong ngữ cảnh câu, kết trị lại phản ánh giá trị ngữ pháp và ngữ nghĩa của danh từ thông qua mối liên hệ với các yếu tố xung quanh.

Kết trị của danh từ được thể hiện chi tiết trong phạm vi danh ngữ

Trong cấu trúc danh ngữ, các phụ tố xung quanh danh từ trung tâm tạo ra giá trị kết trị, không chỉ là ngữ trị toàn bộ của danh từ Theo Đinh Văn Đức (2001), kết trị là giá trị có được từ các kết hợp thường xuyên và lặp lại Mối quan hệ này xuất hiện trong cấu trúc danh ngữ qua các quan hệ phân bố ngữ pháp và nghĩa của các vị trí xung quanh danh từ Kết trị không chỉ là sự kết hợp hình thức mà còn chứa đựng giá trị ngữ nghĩa tiềm ẩn, bị chi phối bởi mối quan hệ giữa ngôn ngữ và tư duy con người.

Kết trị của danh từ đóng vai trò quan trọng trong việc xác định khả năng kết hợp của nó, đồng thời là chuẩn ngữ pháp cho mô hình danh ngữ Điều này cho phép người dùng dễ dàng đối chiếu và sử dụng các dạng khác nhau của danh ngữ trong các phát ngôn cụ thể.

Các dạng danh ngữ cụ thể có thể được phân loại theo một mẫu chung dựa trên kết trị của danh từ Có hai loại kết trị cho danh từ là kết trị đóng và kết trị mở.

Kết trị đóng được thể hiện qua một số lượng hạn chế các kết hợp thường trực giữa danh từ và các chỉ tố ngữ pháp hữu cơ Những yếu tố này, thường được gọi là từ phụ, dùng để biểu thị các ý nghĩa ngữ pháp liên quan đến danh từ, như số ít/số nhiều, bất định/xác định, và chỉ định Chúng thuộc hệ thống đóng, với số lượng giới hạn.

Kết trị mở của danh từ cho phép nó kết hợp tự do với nhiều thành tố phụ, bao gồm các từ thuộc lớp mở như tính từ và động từ Những thành tố này có thể là cụm từ hoặc mệnh đề, tạo ra sự đa dạng trong cấu trúc ngữ pháp Phần sau của bài viết sẽ cung cấp chi tiết về kết trị đóng và mở của danh từ dựa trên danh ngữ.

KẾT TRỊ DANH TỪ CHUNG TRONG TIẾNG ANH VÀ TIẾNG VIỆT- NHỮNG TƯƠNG ĐỒNG VÀ DỊ BIỆT

Kết trị danh từ và danh ngữ tiếng Anh

Kết trị của danh từ gắn liền với cấu trúc của danh ngữ, trong đó danh từ là trung tâm và các thành tố phụ xung quanh tạo ra mối quan hệ chính-phụ Sự kết hợp giữa các thành tố phụ trước và sau danh từ trung tâm quyết định kết trị của danh từ, thể hiện trong cấu trúc danh ngữ Theo “A Comprehensive Grammar of the English Language” của R Quirk & S Greenbaum (1985), danh ngữ được chia thành hai loại: danh ngữ cơ sở và danh ngữ phức, tương ứng với kết trị đóng và kết trị mở của danh từ tiếng Anh Danh ngữ cơ sở có kết trị đóng do các thành tố phụ thuộc lớp từ đóng, trong khi danh ngữ phức chứa các thành tố phụ thuộc lớp từ mở, dẫn đến kết trị mở Việc mô tả kết trị của danh từ sẽ rõ nét hơn khi phân tích các danh ngữ tương ứng: Danh ngữ cơ sở - Kết trị đóng và Danh ngữ phức - Kết trị mở Cần lưu ý rằng danh ngữ và kết trị danh từ là hai khái niệm khác nhau, với danh ngữ đề cập đến đơn vị cú pháp và kết trị danh từ liên quan đến hoạt động kết cấu ngữ pháp-ngữ nghĩa của từ loại Trong danh ngữ phức, không chỉ có kết trị mở mà còn có sự xuất hiện thường xuyên của kết trị đóng.

Cấu trúc của danh ngữ tiếng Anh bao gồm nhiều thành tố, trong đó có danh từ trung tâm gọi là Chính tố (Head noun) và các thành tố phụ đứng trước và sau Các thành tố phụ được chia thành hai loại: (1) Thành tố thuộc lớp từ đóng, có tính xác định cao và thể hiện quan hệ ngữ pháp ngữ nghĩa với chính tố; (2) Thành tố thuộc lớp mở, có thể là từ, cụm từ hoặc mệnh đề, với vai trò chủ yếu là xác định tính chất ngữ nghĩa cho chính tố.

2.1.1 Danh ngữ cơ sở - kết trị đóng của danh từ tiếng Anh

Trong "A University Grammar of English" của Randolph Quirk và Sidney Greenbaum (1987), danh ngữ cơ sở tiếng Anh có thể có danh từ trung tâm tồn tại đơn nhất mà không cần thành tố phụ, ví dụ như trong câu "Man matters most", được gọi là kết trị “0” Tuy nhiên, thông thường, danh từ trung tâm kết hợp với các thành tố phụ từ ba nhóm chính: (1) định tố (determiners), (2) tiền định tố (predeterminers) trước định tố, và (3) hậu định tố (postdeterminers) sau định tố Mỗi nhóm và tiểu nhóm có vai trò ngữ pháp và ngữ nghĩa riêng, xác định kết trị đóng của danh từ trung tâm.

Nhóm định tố (determiners) bao gồm 6 tiểu loại:

- Mạo từ (articles): mạo từ không xác định (a/ an) và mạo từ xác định

- Từ sở hữu (possessive) my cat (con mèo của tôi), his name (tên anh ta)…

Từ chỉ định (demonstrative) trong tiếng Anh bao gồm các từ như "this," "that," "these," và "those." Chúng được sử dụng để chỉ định một đối tượng cụ thể trong không gian hoặc thời gian Ví dụ, "this book" có nghĩa là "cuốn sách này," "that girl" là "cô gái kia," "these houses" là "những ngôi nhà này," và "those cars" là "những chiếc xe ô tô kia." Sử dụng đúng các từ chỉ định này giúp người nói truyền đạt ý nghĩa một cách rõ ràng và chính xác hơn.

- Từ nghi vấn (interrogative): who, which, what, how… : which colours ( cái mà có màu ), whose book (cuốn sách mà của )…

- Từ phiếm định (Indefinitive): some, any, every, each….: some book

(một quyển sách nào đó), any cars (bất cứ cái xe ô tô nào), every studetn (mỗi một sinh viên)…

- Từ chỉ lượng (quantifier): much: much water (nhiều nước)…

Nhóm các tiền định tố (predeterminers):

- Từ gộp (inclusives): both, half, all… : all the books (tất cả các cuốn sách)

- Từ bội số (multipliers): double, twice, three time…: double your saraly (hai lần lương của anh)…

- Từ phân số (fractions): one- third, two – fifths: one – third of this book (một phần ba cuốn sách)…

Nhóm hậu định tố (postdeterminers):

- Từ chỉ lượng (quantifiers): many, little, few…: many books (nhiều sách), little water (một chút nước)…

- Số từ (numerals): gồm số đếm (cardinal): one (một), two (hai) và số thứ tự (ordinal): first (thứ nhất), second (thứ hai) …

Các nhóm nói trên được tóm tắt theo mô hình dưới đây:

Mô hình danh ngữ cơ sở thể hiện kết trị đóng của danh từ tiếng Anh

Danh từ trung tâm (Head noun) All these ten books

Cấu trúc danh ngữ có thể biến đổi tùy thuộc vào các thành tố bổ nghĩa trước danh từ chính, dẫn đến sự thay đổi trong kết trị của danh từ trung tâm Những khả năng biến thể cấu trúc của danh ngữ cơ sở bao gồm nhiều hình thức khác nhau.

- Chỉ có duy nhất danh từ trung tâm, không có bổ ngữ: Books have been given (Sách đã được đem tới)

- Danh từ trung tâm đi với một trong ba thành tố: Ten/ these/ all books …

- Danh từ trung tâm với hai trong ba thành tố: All ten/ these ten/ all these books

Tất cả mười cuốn sách này có hai đặc điểm quy tắc trong kết cấu của danh từ trung tâm Đầu tiên, khi có nhiều thành tố phụ, trật tự “Tiền định tố - Định tố - Hậu định tố” luôn được giữ nguyên Nguyên tắc này được gọi là nguyên tắc tuyến tính, vì không có các tổ hợp như “These all…”, “Ten all…” hay “All ten these…”.

Các từ thuộc cùng nhóm thành tố phụ không thể được sử dụng đồng thời cho một danh từ trung tâm, theo nguyên tắc loại trừ lẫn nhau Ví dụ, khi "all" và "both" đều là tiền định tố, chúng không thể xuất hiện cùng nhau trong một tổ hợp.

All, both…, tương tự như vậy, không có tổ hợp These the… vì chúng đều là định tố (determminers)

Khả năng biến thể cấu trúc của danh ngữ cơ sở thể hiện kết trị đóng của danh từ sẽ được làm rõ trong phần tổng hợp kết trị của danh từ (mục 2.1.3).

Một khía cạnh quan trọng cần lưu ý là mối quan hệ ngữ pháp và ngữ nghĩa phức tạp giữa các thành tố phụ và danh từ trung tâm trong hệ thống đóng Các đặc tính ngữ nghĩa ngữ pháp của danh từ trung tâm, bao gồm danh từ số ít, danh từ số nhiều, danh từ đếm được và danh từ không đếm được, quyết định khả năng kết trị đóng của nó.

Danh từ đếm được như "student" có thể sử dụng quán từ "a" hoặc "the" khi ở số ít, ví dụ: "a student" hoặc "the student", trong khi ở số nhiều chỉ có thể dùng "the students" Ngược lại, danh từ không đếm được như "water" chỉ có thể đi với quán từ xác định "the", ví dụ: "the water" Các tổ hợp như "a students" hay "a water" là không hợp lệ Tuy nhiên, cả ba trường hợp này đều có thể xuất hiện dưới dạng danh ngữ đơn lập mà không cần phụ tố, chẳng hạn như trong câu: "I want to be student".

I love students (Tôi yêu các sinh viên); I need water (Tôi cần nước)

Mối liên quan giữa đặc tính của danh từ trung tâm và các nhóm thành tố phụ trong danh ngữ cơ sở là rất quan trọng, đồng thời cũng phản ánh khả năng kết trị đóng của danh từ trong tiếng Anh Việc hiểu rõ sự tương tác này giúp nâng cao khả năng sử dụng ngôn ngữ một cách chính xác và hiệu quả hơn.

- Đối với nhóm định tố (determiners):

Danh từ trung tâm, bao gồm cả danh từ đếm được (số ít và số nhiều) và danh từ không đếm được, có thể kết hợp với mạo từ xác định "the", các tính từ sở hữu như "my", "your", và các tính từ nghi vấn như "who", "which".

Một số loại định tố chỉ được sử dụng trong những trường hợp nhất định Mạo từ không xác định "a/an" chỉ đi với danh từ đếm được số ít, ví dụ như "a book" (một cuốn sách) và "an egg" (một quả trứng) Từ chỉ định "this" và "that" kết hợp với danh từ đếm được số ít và danh từ không đếm được, như "this pen" (cái bút này) và "that oil" (chỗ dầu kia) Từ chỉ lượng "some" có thể đi với danh từ đếm được số nhiều, ví dụ "some cars" (một vài cái xe), và danh từ không đếm được như "some sugar" (một ít đường) Các từ "any", "every" và "each" chỉ có thể đi với danh từ số ít đếm được, ví dụ "any student" (sinh viên nào đó) và "every/each student" (mỗi sinh viên) Cuối cùng, từ chỉ lượng "much" chỉ có thể đi với danh từ không đếm được, như "much wine" (nhiều rượu).

- Đối với nhóm tiền định tố (predeterminer):

Các từ gộp như "all" và "half" có thể kết hợp với cả danh từ đếm được số nhiều, số ít và danh từ không đếm được Ví dụ, "all the students" (toàn bộ sinh viên) hay "half the students" (nửa số sinh viên) Khi sử dụng với danh từ số ít hoặc danh từ không đếm được, chúng thường đi kèm với các danh từ chỉ khối lượng, chẳng hạn như "all this book" (toàn bộ cuốn sách này) hoặc "half this book" (nửa cuốn sách này).

Từ gộp both chỉ dùng với danh từ đếm được số nhiều: both my friends

(cả hai cậu bạn tôi)

Các từ bội như double, twice, và three times thường được sử dụng với danh từ số ít chỉ khối hoặc danh từ không đếm được Chẳng hạn, bạn có thể nói "double your salary" để diễn đạt việc tăng gấp đôi lương của bạn.

Từ phân số (fractions): one- third, two – fifths… chủ yếu được dùng với các danh từ chỉ khối: one – third of this book (một phần ba cuốn sách)

- Nhóm hậu định tố (postdeterminers):

Kết trị của danh từ và danh ngữ tiếng Việt

Danh ngữ tiếng Việt, tương tự như danh ngữ tiếng Anh, thể hiện khả năng kết hợp giữa danh từ trung tâm và các thành tố phụ xung quanh, tạo nền tảng cho việc phân tích kết trị của danh từ Theo cuốn "Nghiên cứu đối chiếu trật tự từ Anh Việt trên một số cấu trúc cú pháp cơ bản" (1996) của tác giả Vũ Ngọc Tú, mô hình danh ngữ tiếng Việt được trình bày một cách cụ thể.

Thành tố phụ trước Trung tâm

Mô hình này bao gồm ba vị trí chính cho các thành tố: trung tâm, phụ trước và phụ sau Mỗi vị trí chi tiết được đánh số mã (1a, 1b ) trong mô hình Trong đó, thành tố trung tâm nằm ở vị trí 0, được xác định là danh từ trung tâm (chính tố).

Vị trí 1a : Loại từ chỉ người : thằng, gã, đứa ; chỉ động, thực vật : con, cây, quả ; chỉ sự vật : cái,chiếc, ngôi

Vị trí 2a : Từ chỉ xuất CÁI

Vị trí 3a : Các từ chỉ số lượng : một, hai, ba, mỗi, những

Vị trí 4a : Các từ chỉ toàn bộ, toàn thể : tất, tất cả, toàn bộ

Vị trí 1b : Vị trí bổ nghĩa sau, kết trị mở, thường là các cụm tính từ, động từ, danh từ , hoặc là một mệnh đề

Vị trí 2b : Các từ chỉ chỏ : ấy, này, kia

Mô hình danh ngữ tiếng Việt này còn có thể được chi tiết hóa, liệt kê các biến thể có thể có thể có, qua sơ đồ dưới đây

2.2.2 Sơ đồ biến thể cấu trúc biểu hiện kết trị của danh từ tiếng Việt

Sơ đồ biến thể cấu trúc danh ngữ tiếng Việt

TT Thành tố phụ sau Ví dụ

1 Danh ngữ đơn lập – không có thành tố phụ

1 - - - - + - - Sách, bút, nhà, bác sĩ

2 Danh ngữ có 1 vị trí thành tố phụ

3 Danh ngữ có 2 vị trí thành tố phụ

7 + + - - + - - Tất cả mấy gia đình

9 + + - - + - - Tất cả những bác sĩ

10 + - + - + + - Tất cả cái gia đình ấy

4 Danh ngữ có 3 vị trí thành tố phụ

17 + + + - + - - Tất cả những cái bút

18 + + - + + - - Toàn bộ những bó hoa

20 + + - + + - - Tất cả những hòn đá

21 + - + - + - + Tất cả cái nhà kia

22 + - - + + - + Toàn bộ mái tóc ấy

24 - + + - + - + Những cái con gà kia

5 Danh ngữ có 4 vị trí thành tố phụ

27 + + + + + - - Tất cả những cái con gà

28 + + + - + - + Tất cả những cái cặp ấy

29 + + - + + - + Toàn bộ những ngôi nhà

30 + - + + + - + Toàn bộ cái ngôi làng đó

31 - + + + + - + Những cái con mắt đẹp ấy

6 Danh ngữ có đủ cả 5 vị trí thành tố phụ

32 + + + + + + + Tất cả những cái bộ tóc vàng ấy

Mô tả cấu trúc danh ngữ tiếng Việt theo mô hình và sơ đồ thể hiện góc nhìn ngôn ngữ học chung, được phản ánh trong nhiều tài liệu, đặc biệt là sách giáo khoa Tác phẩm "Ngữ pháp tiếng Việt – Từ loại" của Đinh Văn Đức (2001) đã chỉ ra điều này rõ ràng.

Nếu áp dụng cách phân loại danh ngữ tiếng Anh cho danh ngữ tiếng Việt, chúng ta có thể phân chia thành danh ngữ cơ sở và danh ngữ phức Danh ngữ cơ sở được hình thành từ danh từ trung tâm và các thành tố phụ thuộc vào hệ thống từ đóng, bao gồm các vị trí 1a, 1b, 2a, 3a, 4a Trong khi đó, danh ngữ phức có các thành tố phụ thuộc lớp từ mở, thể hiện qua sự có mặt của vị trí 1b trong mô hình phân loại.

DANH NGỮ CƠ SỞ TIẾNG VIỆT

Thành tố phụ trước Trung tâm

Tất cả những cái ngôi nhà ấy

DANH NGỮ TIẾNG VIỆT (PHỨC)

Thành tố phụ trước Trung tâm

Tất cả những cái ngôi nhà mới ấy

2.3 Những tương đồng và dị biệt về kết trị của danh từ chung tiếng Anh và tiếng Việt

Kết trị của danh từ được thể hiện qua cấu trúc danh ngữ Dựa trên sự so sánh giữa kết cấu danh ngữ trong tiếng Anh và tiếng Việt, có thể nhận thấy những điểm tương đồng và khác biệt cơ bản về kết trị của danh từ chung trong hai ngôn ngữ này.

Danh từ trung tâm (head noun) trong cụm danh từ có khả năng kết hợp linh hoạt với nhiều loại thành tố phụ khác nhau, bao gồm tính từ, số từ, động từ, và chỉ định từ Việc sử dụng các thành tố này giúp làm phong phú và cụ thể hóa nghĩa của cụm danh từ, tạo nên sự đa dạng trong cách diễn đạt.

- Các thành tố phụ đều được phân thành hai nhóm chính: thành tố bổ nghĩa trước (premodifier) và thành tố bổ nghĩa sau (postmodifier) của danh từ trung tâm

Trong tiếng Anh và tiếng Việt, vị trí của các thành tố phụ trong cụm từ có sự khác biệt rõ rệt Cụ thể, trong tiếng Anh, tiền định tố "all" thường đứng trước định tố "the", trong khi đó, trong tiếng Việt, từ gộp "tất cả" lại đứng trước từ chỉ số nhiều "những" Sự xác định vị trí này phụ thuộc vào trật tự cú pháp vốn có của từng ngôn ngữ và không thể thay đổi.

Các từ bổ nghĩa thuộc lớp từ mở như tính từ, danh từ và động từ thường đứng gần danh từ trung tâm Trong tiếng Anh, chúng thường đứng trước danh từ (ví dụ: the green eyes), trong khi trong tiếng Việt, chúng thường đứng sau danh từ (ví dụ: những cặp mắt xanh).

Các thành tố phụ bổ nghĩa rất đa dạng về thể loại, bao gồm các cụm từ như cụm tính từ, cụm động từ, trạng từ, hoặc thậm chí là một mệnh đề.

Trong chương I, phần 1.1.2, đã chỉ ra rằng sự khác biệt lớn nhất giữa tiếng Anh và tiếng Việt nằm ở trật tự từ Cụ thể, trong cụm danh ngữ tiếng Anh, vị trí kết trị mở thường đứng trước danh từ trung tâm, ví dụ như "a good table" Ngược lại, trong tiếng Việt, vị trí này lại đứng sau danh từ trung tâm, ví dụ là "cái bàn tốt".

Số lượng và sự phân bố các thành tố phụ trong danh ngữ Anh và Việt có sự khác biệt rõ rệt Danh ngữ tiếng Anh có 5 thành tố phụ, bao gồm 4 ở phía trước và 1 ở phía sau, trong khi danh ngữ tiếng Việt có 6 thành tố phụ với 4 ở phía trước và 2 ở phía sau Các tiểu nhóm bổ nghĩa phía trước trong danh ngữ tiếng Anh thuộc hệ thống đóng (closed system) và được phân nhánh đa dạng hơn so với danh ngữ tiếng Việt Chẳng hạn, nhóm 4a (predeterminer) trong danh ngữ tiếng Anh có 3 nhánh loại từ, mỗi nhánh lại chứa nhiều từ khác nhau.

The article discusses various types of collective terms in English, including aggregate words like "all," "both," and "half." It also covers multiplicative terms such as "double," "twice," and "three times." Additionally, it highlights fractional terms, including "one-third" and "two-fifths." Furthermore, it notes that the determiner group 3a in English noun phrases encompasses six different categories of words.

1) article (mạo từ), 2) possessives (từ sở hữu), 3) demonstratives (chỉ định từ),

4) interrogatives (từ nghi vấn), 5) indefinite (từ phiếm định) và 6) quantifier (lượng từ) Mỗi nhánh loại từ này lại bao gồm nhiều từ khác nhau Trong khi đó, các tiểu nhóm bổ nghĩa trước của danh ngữ tiếng Việt, đơn giản hơn về mặt này, như đã liệt kê từ 1a đến 4a ở mục Thành tố phụ trước dành cho mô hình danh ngữ tiếng Việt

Sự khác biệt về số lượng giữa các thành tố bổ nghĩa trong danh ngữ tiếng Anh và tiếng Việt dẫn đến vai trò bổ nghĩa phong phú hơn trong tiếng Anh Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là danh từ trung tâm trong danh ngữ tiếng Việt kém phong phú hơn so với tiếng Anh Trên thực tế, những khía cạnh ngữ nghĩa bổ nghĩa cho danh từ trung tâm trong tiếng Anh có thể được thay thế bởi các thành tố phụ sau trong danh ngữ tiếng Việt Ví dụ, định tố sở hữu trong tiếng Anh như "my family" tương ứng với "gia đình tôi" trong tiếng Việt, hay định tố chỉ định "this/that book" được dịch là "sách này/kia".

Trong tiếng Anh, từ nghi vấn như "whose book" (sách ai) và "which book" (sách nào) thể hiện sự khác nhau về lượng và chất Sự khác biệt này thực chất chỉ là sự so sánh thu hẹp giữa hai nhóm bổ nghĩa của các loại danh ngữ Điều này cho thấy sự chuyển đổi vị trí chức năng bổ nghĩa của các thành tố phụ từ nhóm này sang nhóm kia trong danh ngữ giữa tiếng Anh và tiếng Việt.

KẾT TRỊ BIỂU HIỆN NGHĨA DANH TỪ CHỈ CÁC BỘ PHẬN TRÊN KHUÔN MẶT NGƯỜI TRONG TIẾNG ANH - VIỆT 41

Việc lựa chọn các danh từ và tổ hợp từ có liên quan

Chương II đã đề cập đến các mối kết hợp của danh từ với các thành tố xung quanh trong danh ngữ, từ đó mô tả khả năng kết trị của danh từ trong tiếng Anh và tiếng Việt Khi danh ngữ được đặt trong câu, vai trò ngữ nghĩa của nó trở nên phức tạp, phụ thuộc vào cấu trúc toàn câu, đặc biệt là động từ Nghĩa của danh từ trung tâm trong danh ngữ cũng đa dạng, không chỉ dừng lại ở nghĩa cơ bản mà còn bao gồm nhiều nghĩa hàm ẩn, như nghĩa ẩn dụ và hoán dụ Điều này dẫn đến sự biến đổi sắc thái ngữ nghĩa của định ngữ, đồng thời khả năng kết trị của danh từ cũng thay đổi Một ví dụ điển hình sẽ minh họa cho sự phức tạp này trong cả tiếng Anh và tiếng Việt.

(Để mô tả đặc điểm cấu trúc danh ngữ, các ký hiệu mã số 4a, 3a, 2a, 1a, 0, 1b, 2b sẽ tiếp tục được sử dụng)

Cậu lọt vào mắt xanh của hắn rồi!

Danh ngữ “mắt xanh của hắn” bao gồm danh từ trung tâm “mắt” và định ngữ với hai thành tố: tính từ “xanh” và cụm giới từ “của hắn” Trong ngữ cảnh câu, “mắt” không chỉ đơn thuần là cơ quan thị giác, mà còn biểu thị thái độ và mối quan hệ giữa con người với nhau.

Tính từ "xanh" được sử dụng để mô tả danh từ "mắt", mặc dù rất hiếm gặp người Việt có mắt màu xanh theo nghĩa đen Trong ngữ cảnh này, "xanh" không chỉ đơn thuần mang nghĩa màu sắc mà còn ám chỉ trạng thái tích cực, tốt đẹp trong mối quan hệ Điều này cũng giải thích vì sao danh từ "mắt" không đi kèm với từ "con" hay từ chỉ số lượng đôi như thông thường Sắc thái ngữ nghĩa của danh từ trung tâm có sự liên kết chặt chẽ với các thành tố phụ, cho thấy khả năng mở rộng ý nghĩa của danh từ này, đặc biệt khi được đặt trong ngữ cảnh câu.

Danh từ là một thành tố quan trọng trong câu, ảnh hưởng đến cả cú pháp lẫn ngữ nghĩa trong giao tiếp ngôn ngữ Sự phong phú trong ý niệm hóa danh từ diễn ra qua ẩn dụ và hoán dụ, hai phương pháp tu từ phổ biến Nhờ đó, sắc thái ngữ nghĩa của danh từ có thể thay đổi linh hoạt, liên quan mật thiết đến khả năng kết hợp của nó với các thành tố khác trong câu.

Các danh từ chung chỉ các bộ phận trên khuôn mặt như mắt, mũi, mồm, tai và tóc thường mang ý nghĩa ẩn dụ và hoán dụ trong giao tiếp, dẫn đến sự đa dạng về sắc thái ngữ nghĩa Việc lựa chọn các danh từ này làm đối tượng phân tích nhằm cụ thể hóa khái niệm kết trị danh từ đã trình bày trong Chương II Đồng thời, bài viết cũng sẽ đưa ra nhận xét về những đặc điểm đáng chú ý của sắc thái ngữ nghĩa khi các danh từ này được sử dụng trong các tổ hợp từ trong câu, mệnh đề hay phát ngôn chung.

Ẩn dụ và hoán dụ thường được áp dụng cho các danh từ chỉ bộ phận trên khuôn mặt người, mang đến những ý nghĩa sâu sắc và phong phú Những hình ảnh này không chỉ thể hiện đặc điểm vật lý mà còn phản ánh tâm trạng, cảm xúc và tính cách của con người Việc sử dụng ẩn dụ và hoán dụ trong ngôn ngữ giúp tăng cường khả năng giao tiếp và tạo nên những liên tưởng thú vị trong văn hóa và nghệ thuật.

Phương thức ẩn dụ dựa vào sự liên tưởng tương đồng, tức là việc sử dụng sự giống nhau để tạo ra các nghĩa ám chỉ, có thể được phân thành nhiều loại khác nhau.

- Giống nhau về hình dạng: mắt cá chày, tóc tơ, mũi dọc dừa …

- Giống nhau về vị trí: tai cối, miệng hang, chân núi, đầu sông …

- Giống nhau về chức năng: trời có mắt, tai vách mạch rừng, đầu đàn

Màu sắc giống nhau như mắt hạt dẻ, tóc mây và nước da bánh mật là những ví dụ tiêu biểu Bên cạnh đó, còn nhiều kiểu tương đồng khác như trạng thái, kích cỡ và vận động, được áp dụng trong hình thái tu từ ẩn dụ Tuy nhiên, việc phân loại các ẩn dụ theo cơ chế này không phải lúc nào cũng rõ ràng và dứt khoát, vì trong nhiều trường hợp, nhiều nét nghĩa có thể cùng tác động lẫn nhau.

Hoán dụ là một hình thức tu từ quan trọng, tương tự như ẩn dụ, nhưng dựa trên sự liên tưởng cận kề về khái niệm thay vì tương đồng Nhờ vào sự liên tưởng gần gũi này, một từ có thể thay thế cho một từ khác mà không làm ảnh hưởng đến giao tiếp.

Dựa trên mối quan hệ giữa bộ phận và toàn thể, có thể thấy rằng ba mặt một nhời thể hiện sự đồng thuận, trong khi câu nói "nhà có nhiều miệng ăn" nhấn mạnh tầm quan trọng của từng cá nhân trong cộng đồng Hơn nữa, việc "chữa mắt" thực chất chỉ là điều trị một bộ phận cụ thể, cho thấy rằng việc giải quyết vấn đề thường chỉ tập trung vào một khía cạnh mà không xem xét toàn diện.

- Dựa trên quan hệ giữa hiện tượng và tâm trạng: nước mắt ngắn nước mắt dài (khóc lóc buồn thảm), há hốc miệng (ngạc nhiên)…

Ẩn dụ và hoán dụ trong ngôn ngữ không chỉ là sản phẩm sáng tạo của con người mà còn là nguồn cảm hứng kích thích tư duy Chúng làm phong phú thêm vốn từ vựng và tăng sức hấp dẫn cho văn phong Đặc biệt, đối với danh từ, hai hình thức tu từ này mở rộng ý nghĩa và chiều sâu, giúp danh từ trở thành một lớp từ loại phong phú hơn Bài viết sẽ phân tích chi tiết các loại ẩn dụ ý niệm và hoán dụ ý niệm thường gặp trong các cụm từ cố định, đặc biệt là các danh từ chỉ bộ phận trên khuôn mặt như mắt, mũi, mồm, tai và tóc.

Dưới đây là các ví dụ cụ thể liên quan đến danh từ được chọn, bao gồm mô tả cấu trúc danh ngữ và phân tích các sắc thái ngữ nghĩa của chúng.

Danh từ Mắt

Danh từ "mắt" trong tiếng Anh và tiếng Việt có nhiều ý nghĩa hàm ẩn khi kết hợp với các từ loại khác nhau Dù có thể đứng độc lập, "mắt" vẫn mang trong mình những nghĩa sâu sắc Ví dụ, trong câu "Mắt thương nhớ ai!", từ "mắt" không chỉ đơn thuần chỉ phần cơ thể mà còn biểu thị sự mong chờ một ai đó Điều này cho thấy danh từ "mắt" có thể mang nhiều ý nghĩa phong phú trong các ngữ cảnh khác nhau.

Đôi mắt là cửa sổ tâm hồn, cho phép chúng ta suy ra ý nghĩa ẩn chứa trong câu nói của người khác Qua ánh mắt, chúng ta có thể đoán được ý đồ và suy nghĩ của họ Việc sử dụng giới từ "in" trong tiếng Anh càng làm nổi bật điều này, tương ứng với giới từ "trong" trong tiếng Việt.

Look at me in the eyes (nhìn vào trong mắt tôi) and tell me the truth 3a 0

(Nhìn thẳng vào mắt tôi và nói thật đi)

It’s not easy being in the public eye (trong mắt công chúng)

(Là người của công chúng không phải lúc nào cũng dễ chịu)

In my mind’s eye (trong mắt của tâm trí tôi), she is still the little girl she

3a 1a 0 was the last time I saw her

(Trong mắt tôi cô ta vẫn chỉ là một cô bé tôi gặp trước đây)

Trong con mắt mọi người anh là…

Cậu đã lọt vào mắt xanh hắn rồi đấy

Trong cả tiếng Anh và tiếng Việt, đôi mắt thường được so sánh với mắt của các loài vật để mô tả tính cách và hình dạng Sự kết trị của danh từ trong ngữ cảnh này cho thấy tính linh hoạt về mặt cú pháp, khi nó có thể kết hợp với các thành tố phụ, đồng thời làm phong phú thêm ý nghĩa của ngôn ngữ.

Chẳng hạn: He has eyes like a hawk (mắt diều hâu)

Đôi mắt này được ví như sự tinh nhanh của mắt chim diều hâu, tượng trưng cho những người cẩn trọng, luôn chú ý đến từng chi tiết nhỏ nhặt trong cuộc sống.

The supervisor has eyes like a hawk, so be careful that she doesn’t catch

0 1b you eat at your desk

(Bà giám sát có cặp mắt diều hâu đó, cẩn thận đừng để bà ta bắt được cậu ăn ở bàn học)

(Charlotto Bronte, 1947) Hay: Rõ khéo, cả hai vợ chồng đều mắt dơi mày chuột

(Ba người khác, Tô Hoài)

Mắt dơi và mắt chuột, mặc dù thuộc về hai loài vật nhỏ bé, nhưng lại biểu trưng cho sự tinh anh và tính cách gian xảo của con người Cả hai loài này thường hoạt động lén lút vào ban đêm, do đó, khi nhắc đến "mắt dơi mày chuột", người ta thường ám chỉ đến những người không đáng tin cậy Trong giao tiếp với những người như vậy, chúng ta cần phải cẩn trọng và dè dặt Đôi mắt cú vọ của lão thỉnh thoảng lại nhìn Minh và chiếc va li, tạo nên một không khí căng thẳng và nghi ngờ.

(Chiếc va li, Nhiều tác giả)

Thằng cha ấy có con mắt to như ốc nhồi trông rất dữ tướng

Trong tiếng Việt, có những cụm từ như "mắt cú vọ," "mắt rắn ráo," và "mắt diều hâu" mang ý nghĩa tương tự, thường được dùng để mô tả những người có vẻ ngoài không đáng tin cậy, dễ phản bội Những cụm từ này không chỉ miêu tả đôi mắt của các loài vật mà còn ám chỉ đến tính cách của con người, thể hiện sự rình mò và ý định làm hại người khác để thu vén lợi ích cho bản thân.

Khi kết hợp danh từ "mắt" với các tính từ trong cụm từ cố định, nó không chỉ miêu tả hình dạng và tính cách của con người mà còn mang nhiều lớp nghĩa khác nhau Trong tiếng Anh, danh từ "mắt" có thể kết hợp với các tính từ chỉ màu sắc, mỗi màu sắc biểu thị một tâm trạng khác nhau Tương tự, trong tiếng Việt, cách miêu tả và so sánh cũng phản ánh những sắc thái tâm lý này.

Khi sử dụng tính từ "green" và "blue" kết hợp với danh từ "mắt," nghĩa của chúng có sự khác biệt giữa tiếng Anh và tiếng Việt Cụm từ "mắt xanh" thường gợi nhớ đến màu mắt đặc trưng của người phương Tây và được sử dụng phổ biến trong nhiều câu.

He was in his late thirties with craggy intelligent face and synpathetic blue eyes

1a 0 (vị trí 1a có 2 thành tố đẳng lập)

(Anh ta ở độ tuổi ba mươi, gương mặt thông minh nhưng dữ dội với cặp mắt xanh vẻ thông cảm)

She turned her green eyes on Mammy

(Cô ấy giương đôi mắt xanh biếc nhìn Mammy)

His blue pictorial – looking eyes full on me

(Ông nhìn tôi bằng cặp mắt xanh lơ, đẹp như tranh vẽ)

Her green eyes had a look of innocence and her face lookked guileless

(Cặp mắt xanh lục đầy vẻ ngây thơ, gương mặt toát lên vẻ vụng về, yếu đuối)

Trong văn hóa và dòng tộc người Việt, đôi mắt xanh không phải là đặc điểm phổ biến, mà thường chỉ xuất hiện trong các tác phẩm văn học và thơ ca với nhiều ý nghĩa khác nhau Mắt xanh thường được sử dụng để diễn tả sự yêu quý, lòng kính trọng đối với người khác, thể hiện cảm xúc sâu sắc trong các tình huống khác nhau.

Mắt xanh chẳng để ai vào có không?

Mắt xanh thường được hiểu là một biểu tượng ngụ ý về tình yêu và sự quyến rũ giữa các cặp đôi, cũng như là cách để làm hài lòng những người mà mình muốn chinh phục.

Em hãy nở nụ cười tươi xinh

Như đóa hoa xuân chào riêng anh

Nói nhau ngàn đời qua đôi mắt xanh

Cụm từ "Mắt xanh mỏ đỏ" không chỉ đơn thuần ám chỉ màu sắc mà còn biểu thị cho những người phụ nữ dữ tợn, chua ngoa và thích bắt nạt người khác Những người này luôn có khát vọng vượt trội hơn người khác và không chấp nhận sự thua kém Thêm vào đó, thuật ngữ này cũng được sử dụng để chỉ những cô gái giang hồ, thường xuyên trang điểm với mắt xanh và môi đỏ, không liên quan đến màu sắc tự nhiên của mắt.

Trong tiếng Anh, đôi mắt đen được sử dụng với hai tính từ black, dark là phổ biến để miểu tả đôi mắt của con người

Ed Toper, a slight man in his forties with crinkly salt- and peper hair and cold black eyes

(Ed Toper một người đàn ông dáng nhẹ nhõm ở độ tuổi ngoài bốn mươi với mái tóc muối tiêu và cặp mắt đen lạnh lùng)

She was 18, a lovely girl, with beautiful skin, long curly black hair fine black eyes

(Cô ấy 18 tuổi, một cô gái đáng yêu với làn da đẹp, đôi mắt huyền và lọn tóc quăn đen)

The eyes shone dark and wild, the hair streamed shadowny

(Đôi mắt nàng thăm thẳm và hoang dã, mái tóc thì lòa xòa)

Trong tiếng Việt, nhiều tính từ khi kết hợp với danh từ "mắt" như "mắt đen" và "mắt đẹp" không chỉ thể hiện vẻ đẹp mà còn gợi lên hình ảnh ấn tượng về một con người.

Cô bé có đôi mắt đen như hột nhãn

Muốn được bên em để đắm chìm trong đôi mắt huyền”

“ Tìm đâu cô bé mắt nhung

Ngây thơ xoả tóc mênh mông gió chiều”

Khi mô tả đôi mắt nâu, người Anh thường sử dụng các tính từ kết hợp với danh từ "mắt" để làm nổi bật đặc điểm và tính cách của đôi mắt đó.

He had small grey, intelligent eyes

(Hắn có đôi mắt nhỏ, mầu xám và thông minh)

She had her mother’s thinness and deep - set, intelligent hazel eyes 1a 0

(Cô bé giống mẹ ở vẻ thanh tao, và cặp mắt sâu màu nâu nhạt đầy thông minh.)

Trong tác phẩm của Charlotto Bronte (1947), việc kết hợp ba thành tố phụ trước và một thành tố phụ sau đã làm nổi bật khả năng kết trị của danh từ "mắt" trong việc miêu tả hình dạng của đôi mắt.

Having examined me with the two inquisitive – looking grey eyes which 3a 2a 1a 0 1b twinkled under a pair of brush brows

(Dò xét tôi bằng hai con mắttò mò, xám xịt ẩn dưới hai hàng lông mày sâu róm)

Her usually cold composed grey eyes became trouble with a look like fear 3a 1a 0

(Đôi mắt xám ngắt lạnh lùng và khắc nghiệt hàng ngày của bà trở nên bối rối, đượm vẻ sợ hãi)

It was an intelligent, brave smile, lighting up her thin face and her tired 3a grey eyes

(Một nụ cười thông minh và tuyệt đẹp, làm rạng rỡ khuôn mặt gầy và đôi mắt nâu mệt mỏi của cô)

Cụm từ "the bloodshot/red eyes" trong tiếng Anh và "đôi mắt đỏ" trong tiếng Việt cho thấy sự khác biệt trong cách định ngữ chỉ màu sắc được sử dụng Mặc dù ý nghĩa hàm ẩn có thể khác nhau giữa hai ngôn ngữ, danh từ trung tâm "mắt" vẫn kết hợp với hai thành tố phụ: trong tiếng Anh là "the" và "bloodshot/red", còn trong tiếng Việt là "đôi" và "đỏ" Sự khác biệt về vị trí của các thành tố này cũng được thể hiện: tính từ trong tiếng Anh đứng trước danh từ, trong khi đó, định ngữ trong tiếng Việt lại đứng sau.

…….the black eyes brows widely raised over the bloodshot eyes

(lông mày thì rậm, nhướng lên trên đôi mắt đỏ ngầu)

I only want to forget the red eyes……

(Em chỉ mong sao quên được đôi mắt đỏ ngàu)

(Sidney sheldon, 1985) Tiếng Việt: Đôi mắt rực lửa nhìn em trừng trừng

Hay: Hắn ta bị đau mắt đỏ đấy

0 1b Đôi mắt của anh ta nhìn như muốn ăn tươi nuốt sống tôi

Danh từ Mũi

Danh từ "mũi" trong tiếng Anh và tiếng Việt không chỉ đơn thuần mô tả hình dáng mà còn mang nhiều ý nghĩa khác nhau, phản ánh quan niệm và văn hóa của từng dân tộc Khi kết hợp với tính từ, "mũi" được dùng để miêu tả đặc điểm nổi bật trên khuôn mặt, như chiếc mũi lõ đặc trưng của người phương Tây, giúp nhận diện văn hóa và đặc điểm của họ.

Một thằng Tây mắt xanh, mũi lõ

The nose was much flatter

(Anh ta có cái mũi tẹt)

(Charlotto Bronte, 1947) Hình dạng của cái mũi được miêu tả trong tiếng Anh: straight nose (mũi cao, mũi thẳng), turned- up nose, snub nose (mũi khoằm)…

His pretty little mouth and nice nose

(Cái miệng nhỏ nhắn và cái mũi duyên dáng)

No firmness in that aquiline nose and small cherry mouth …

(… chẳng có nét cương nghị nào trên cái mũi diều hâu và cái miệng nhỏ hẹp ấy)

(Sidney sheldon, 1985) Còn trong tiếng Việt cũng thường có các tổ hợp: mũi thấp mũi tẹt mũi hếch

Chiếc mũi nhỏ và ngắn thường được miêu tả là đặc điểm của một số người, và những người sở hữu chiếc mũi này thường cảm thấy thiếu tự tin khi giao tiếp với người khác.

Khi mô tả vẻ đẹp của chiếc mũi trên khuôn mặt, không nhất thiết phải sử dụng các tính từ thông thường; danh từ "mũi" có thể kết hợp với các từ loại khác để diễn đạt ý nghĩa tương tự.

Cô ấy có chiếc mũi dọc dừa và khuôn mặt thanh tú

(Truyện ngắn, Nguyễn Thị Thu Huệ)

Mũi cao, thường được ví von là "mũi dọc dừa", gợi nhớ hình ảnh cây dừa thẳng tắp, gắn bó với cuộc sống người Việt Những người sở hữu chiếc mũi này thường có tính cách trung hậu, khoan hòa và thiên về văn chương nghệ thuật, thường được biết đến nhiều hơn vì danh tiếng thay vì lợi lộc Chiếc mũi thanh tú này cũng là niềm ao ước của nhiều phụ nữ.

Dáng mũi đặc trưng của người Do Thái có hình dạng dài và đầu mũi thõng xuống, giống như mỏ của chim diều hâu Những người sở hữu chiếc mũi này thường được cho là có trực giác tốt và giác quan nhạy bén.

Trong tiếng Anh, danh từ "mũi" (nose) đóng vai trò trung tâm trong nhiều cụm từ cố định, không chỉ phù hợp với cấu trúc cú pháp mà còn mang nhiều ý nghĩa khác nhau tùy thuộc vào ngữ cảnh và khả năng tri nhận.

Trong cụm từ to put something right under someone’s nose

Cụm từ "để cái gì ngay trước mũi ai" ám chỉ việc đặt một vật gì đó trước mặt người khác, thường liên quan đến người Khi nói đến việc "never to poke one’s nose out of door," nó thể hiện sự ngại ngùng hoặc không muốn ra ngoài, đồng thời nhấn mạnh sự gần gũi với môi trường xung quanh.

Cụm từ "không bao giờ chịu thò mũi ra ngoài" ám chỉ một người rất ít khi rời khỏi nhà Danh từ "mũi" còn được sử dụng trong phép ẩn dụ và hoán dụ để tạo ra những ý nghĩa khác nhau trong nhiều ngữ cảnh khác nhau.

They slip past under the guard’s nose (dưới mũi tên bảo vệ)

(Bọn họ thoát ra ngay trước mũi tên bảo vệ)

She gets up my nose (dựng mũi tôi lên)

(Cô ta làm tôi khó chịu)

Danh từ "mũi" thường xuất hiện trong các câu và cụm từ cố định với số lượng hạn chế, chủ yếu để mô tả tính cách con người thông qua hình dạng chiếc mũi Ngoài ra, nó cũng có thể kết hợp với những từ liên quan đến danh dự và sự tự hào, cũng như những ám chỉ tiêu cực Ví dụ, các cụm từ như "to go/walk around with one’s nose in the air" và "turn your nose up" thể hiện sự kiêu hãnh Tương tự, trong tiếng Việt, các cụm từ như "phổng mũi," "vểnh mũi," hay "hỉnh mũi" cũng diễn tả sự tự hào Trong khi đó, hình ảnh mũi giương lên trong tiếng Anh biểu thị sự kiêu hãnh, thì cái nhìn qua mũi lại thể hiện sự khinh biệt, như trong cụm "to look down her nose at us."

Sự khinh thị đối với người khác thể hiện qua hành động coi thường, cho rằng họ không xứng đáng bằng mình Trong tiếng Việt, cụm từ "vuốt mặt không nể mũi" diễn tả hành động này, nghĩa là không tôn trọng người khác và không biết kiêng nể Hành vi này không chỉ là sự thiếu tôn trọng mà còn thể hiện cách hành xử không hợp lý và không phải đạo.

Mũi là một đặc điểm nổi bật trên khuôn mặt con người, đặc biệt trong văn hóa Việt Nam và Anh, thường được dùng để biểu thị sự tò mò Trong tiếng Việt, các cụm từ như "nhúng mũi," "dí mũi," hay "chõ mũi" thường chỉ những người hay can thiệp vào việc của người khác Tuy nhiên, trong tiếng Anh, không có những cụm từ tương tự để diễn tả hiện tượng này.

Quá trình hình thành câu và các tổ hợp từ cố định, cùng với cấu trúc cú pháp và khả năng kết hợp của danh từ, đặc biệt là từ "mũi," với các từ loại khác nhau, tạo ra sự khác biệt trong việc tạo nghĩa Điều này dẫn đến những cách tri nhận văn hóa khác nhau trong các tình huống khác nhau.

Danh từ Mồm

Miệng, trong tiếng Anh và tiếng Việt, đồng nghĩa với từ "mồm", là bộ phận trên khuôn mặt người, có chức năng chính là tiếp nhận và tiêu hóa thức ăn Ngoài vai trò này, miệng còn là công cụ quan trọng cho giao tiếp trong xã hội.

Danh từ "mồm" không chỉ đóng vai trò quan trọng trong cấu trúc ngữ pháp mà còn thể hiện nhiều ý nghĩa khác nhau, làm phong phú thêm ngôn ngữ Trong tiếng Anh, "mồm" được minh họa qua các ví dụ, nhấn mạnh rằng đây là một bộ phận thiết yếu trên khuôn mặt con người, với nhiều hình dạng khác nhau, thông qua việc kết hợp với các tính từ đứng trước nó.

He was short……,a long, pinched – in nose and small, bitter mouth

(Ông ta khổ người thấp… cái miệng nhỏ cay nghiệt) (Stories, Shakerpeare, 1629) …… An oversized mouth and black bulbous eyes 3a 1a 0

(… cái miệng rộng ngoác, cặp mắt đen hơi lồi.) (Sidney sheldon, 1985)

Aquiline nose and small cherry mouth 1a 0

( là cương nghị trên cái mũi diều hâu và cái miệng nhỏ hẹp) (Charlotto Bronte, 1947)

She was … with a lovely intelligent face, a full sensous mouth 3a 1a 0

(Cô … với gương mặt thông minh lanh lợi, cái miệng chúm chím gợi cảm) (Stories, Shakerpeare, 1629)

His pretty little mouth and nice nose

(Cái miệng nhỏ nhắn và cái mũi duyên dáng)

Trong tiếng Việt, "mồm" và "miệng" là hai danh từ đồng nghĩa, nhưng không phải lúc nào cũng có thể thay thế cho nhau Sự khác biệt giữa chúng chủ yếu nằm ở văn phong, ví dụ như "cái miệng đáng yêu" hay "miệng cười tươi như hoa".

Miệng không chỉ được mô tả qua hình dáng và kích thước mà còn mang nhiều ý nghĩa phong phú trong tiếng Việt Các cụm từ như "ăn ngon miệng" hay "há miệng chờ ho" thể hiện sự phong phú trong cách hiểu về miệng Đặc biệt, miệng còn phản ánh tính cách con người; qua miệng, người ta có thể đánh giá tính cách và phẩm chất của một người Cách nói "nhanh mồm nhanh miệng" chỉ những người khéo léo trong giao tiếp Hơn nữa, khi kết hợp với số từ, danh từ "miệng" không chỉ đơn thuần chỉ số lượng mà còn mang ý nghĩa hoán dụ, ví dụ như miệng có thể ám chỉ đến số người trong một gia đình thường xuyên ăn uống.

Một người cha phải nuôi sáu miệng ăn

Danh từ "mồm" trong tiếng Anh có nhiều ý nghĩa khác nhau, thường xuất hiện trong các cụm từ kết hợp với động từ và giới từ, trong đó nó vẫn giữ vai trò là danh từ trung tâm Một ví dụ điển hình là cụm từ "down in the mouth," mang nghĩa buồn rầu hoặc khổ sở.

3a 0 to keep his mouth shut (giữ kín miệng)

3a 0 making my mouth water (làm tôi thèm nhỏ dãi)

Trong tiếng Việt tương ứng với ý nghĩa này: ngậm miệng, há miệng, giữ kín miệng …

Cách kết hợp các yếu tố về mồm, miệng trong văn nói hàng ngày và văn chương cho thấy sự khác biệt và tương đồng trong cách suy nghĩ của người bản ngữ Những yếu tố này không chỉ mang lại ý nghĩa đa dạng mà còn góp phần làm phong phú thêm cho ngôn ngữ.

Danh từ Tai

Tai, bên cạnh các bộ phận như mắt, mũi và mồm, cũng được người Anh và người Việt coi trọng trong việc chú ý Khi kết hợp với các từ loại khác nhau, tai trở thành danh từ trung tâm và mang lại nhiều ý nghĩa phong phú Khi kết hợp với tính từ, tai không chỉ có nghĩa thực mà còn có thể biểu đạt những ý nghĩa hàm ẩn khác.

Bill has big ears (đôi tai to) you know

(Thằng Bill tai nó thính lắm)

Cụm từ "tai to mặt lớn" trong tiếng Việt không chỉ đơn thuần mô tả hình dáng khuôn mặt với đôi tai to và bộ mặt lớn, mà còn mang ý nghĩa hoán dụ chỉ những người có quyền lực và địa vị cao trong xã hội.

Dạng kết hợp từ phụ all kết hợp với danh từ đếm được là tai/ ears có ý nói đang tập trung chú ý lắng nghe điều đang nói:

Oh Yes, I am all ears (Tôi tập trung tất cả các tai đây),

Hoặc khi thì danh từ có thể kết hợp với mạo từ không xác định a thì nó lại được coi là danh từ số ít

I”ll keep an ear to the ground (ghé tai xuống đất)

(ý nói Tôi sẽ theo dõi sát sao)

Khi kết hợp thành tố phụ "half" với "ear," danh từ "tai" trong câu mang ý nghĩa khác, biểu thị khả năng tiếp nhận thông tin bị hạn chế Cụ thể, khi chúng ta nói đến "half an ear" hay "cloth ears," điều này cho thấy không chỉ là việc nghe kém mà còn là sự thiếu chú ý và quan tâm đến thông tin.

I had half an ear (có một nửa tai) on the radio as he was talking to me

(Tôi vừa nghe radio, vừa nghe anh ta nói)

Trong giao tiếp, cụm từ "ghé sát tai xuống đất" hay "nghe bằng cả hai tai" thể hiện sự chú ý cao độ của người nghe Tai được coi là biểu tượng cho kỹ năng và khả năng, như trong cụm từ "to have an ear for languages", cho thấy tầm quan trọng của việc thực hành giao tiếp khi học ngoại ngữ Kỹ năng nghe hiểu là một trong những thách thức lớn nhất trong việc học ngôn ngữ Do đó, người có "tai" trong việc học ngoại ngữ không chỉ có khả năng nghe hiểu mà còn giao tiếp hiệu quả, cho thấy rằng cụm từ này biểu thị năng khiếu trong việc học ngoại ngữ.

She never had much of an ear for (có tai với) languages

(Cô ta chưa bao giờ có khiếu học ngoại ngữ cả)

Tương ứng trong tiếng Việt ta có cụm từ: tai thính, tinh tai, tai nhạc

Cậu tai thính thật, nói khẽ thế mà cũng nghe được! (thể hiện kỹ năng nhận biết) 0 1b

Phải tinh tai lắm bạn ấy mới nhận ra ai là người vừa gọi tới! (kỹ năng phân biệt) 0

Cậu có tai nhạc đấy! (thể hiện kỹ năng chọn lựa)

Trong văn hóa của người Việt và người Anh, đôi tai không chỉ được mô tả qua hình dạng mà còn đóng vai trò quan trọng trong việc tiếp nhận tín hiệu từ môi trường Danh từ "tai" trong tiếng Việt được sử dụng đa dạng hơn so với tiếng Anh, thể hiện qua các cụm từ như "tai nghe mắt thấy," "tai vách mạch rừng," "nghe tận tai," và "nhìn tận mắt," cho thấy sự phong phú trong cách diễn đạt và ý nghĩa của đôi tai trong cuộc sống hàng ngày.

Danh từ "tai" khi kết hợp với các thành tố phụ và từ loại khác nhau không chỉ mang một ý nghĩa cố định mà còn có thể tạo ra nhiều lớp nghĩa phong phú Điều này chứng tỏ khả năng kết trị của danh từ rất đa dạng, góp phần quan trọng trong việc hình thành câu.

Danh từ Tóc

Trong tiếng Anh và tiếng Việt, danh từ "tóc" không chỉ là một phần của khuôn mặt mà còn thể hiện đặc trưng của con người, có thể đứng độc lập với vai trò trung tâm Khi miêu tả tóc, thường kết hợp với các yếu tố phụ để thể hiện độ dài, hình dáng như thẳng, xoăn, lọn và đặc biệt là màu sắc, điều này nổi bật hơn ở người phương Tây Việc mô tả tóc trong tiếng Anh thường phải kết hợp với các tính từ chỉ màu sắc, điều này khác biệt với tiếng Việt, nơi mà sự kết hợp này có thể mang nhiều ý nghĩa khác.

Mái tóc đen là đặc điểm chung giữa người Anh và người Việt, với các tính từ thường được sử dụng để miêu tả bao gồm: tóc đen, tóc tối màu và tóc xoăn đen.

The lady with the diamonds has dark hair

(Người phụ nữ mang kim cương có mái tóc đen)

Dennis Trevor, who had had thick black hair, was now totally bold

(Dennis Trevor giờ hói đầu chứ không phải mớ tóc dày và đen nữa)

Theo quan niệm văn hóa và tri thức của các nước phương Tây, tóc bạc và tóc bạch kim không nhất thiết gắn liền với tuổi tác Thực tế, đây là đặc điểm di truyền mà nhiều người có ngay từ khi sinh ra và kéo dài đến khi trưởng thành.

He was thirty – five with a white hair

(Hắn ta ba lăm tuổi với mái tóc trắng)

(Sidney sheldon, 1985) Với người Việt khi nhắc đến mái tóc bạch kim lại ý muốn nói tới người có gien di truyền hoặc do bị bệnh

Mái tóc vàng rất phổ biến trong văn hóa phương Tây, thường được miêu tả bằng các từ như yellow và blond Màu tóc vàng cũng được gọi là golden, thể hiện sự duyên dáng và xinh đẹp của phụ nữ, với những cụm từ như "golden haired beauty" hay "blond hair" để nhấn mạnh vẻ đẹp của họ.

Mái tóc muối tiêu, hay còn gọi là tóc màu nâu xám, được tạo thành từ sự kết hợp giữa màu trắng của muối và màu đen của hạt tiêu Trong tiếng Việt, việc mô tả mái tóc cũng thường sử dụng những hình ảnh tương tự để thể hiện màu sắc đặc trưng này.

Mái tóc muối tiêu, với sự pha trộn giữa tóc đen và tóc trắng, biểu thị cho sự lão hóa, thường thấy ở người Việt khi họ bước vào tuổi già Tuy nhiên, cũng có những trường hợp tóc bạc xuất hiện sớm do yếu tố di truyền hoặc sức khỏe.

Màu nâu là màu tóc đặc trưng của người Phương Tây, với các sắc thái như nâu sậm và nâu nhạt thường được so sánh với màu hạt dẻ Sự kết hợp giữa các tiền tố và danh từ trung tâm đã làm nổi bật ý nghĩa của màu sắc này.

A stocky, stony – faced matron with sable-brown dyed hair was addressing the new arrival 1a 0

(Một nữ giám thị to khỏe, vẻ mặt sắt đá, với bộ tóc nhuộm màu nâu đen đang nói với những tù nhân mới đến)

Mái tóc màu đỏ không phải là đặc trưng của người phương Tây, mà thường xuất phát từ tác động bên ngoài như hóa chất nhuộm hoặc phản chiếu ánh sáng Điều này cũng tương tự như ở Việt Nam, nơi mà màu tóc tự nhiên chủ yếu là đen hoặc nâu.

Red hair curled- curled all over?

(Tóc đã đỏ quạch thì chớ, lại còn quăn tít hết cả lên thế kia à?)

Khi kết hợp với từ "xanh", cụm từ "tóc xanh" có sự khác biệt trong cách hiểu giữa tiếng Anh và tiếng Việt Trong tiếng Việt, "tóc xanh" mang ý nghĩa liên quan đến màu xanh tươi mát của cây cỏ, phản ánh trạng thái sức khỏe và sự sống động.

Tôi thì tóc bạc răng long đã đành, còn các anh tóc còn xanh nanh còn sắc thì cố mà làm một việc gì đó có ý nghĩa 0 1b

(Truyện ngắn, Nguyễn Thị Thu Huệ)

Tóc còn xanh ý muốn nói tới những người còn trẻ tuổi, khỏe mạnh, mái tóc chỉ có một màu đen, chưa có sự pha trộn của màu tóc khác

Danh từ "tóc" có thể kết hợp với nhiều từ loại khác trong tiếng Anh, tạo thành các tổ hợp từ với ý nghĩa đa dạng Dưới đây là một số ví dụ để minh họa cho sự phong phú này.

I want to have my hair done

Khi kết hợp với giới từ "by", sợi tóc được hình dung qua tri nhận ẩn dụ liên quan đến miền lượng và chất, trong đó lượng thể hiện sự ít ỏi và chất thể hiện sự yếu kém.

(Suýt/ tí nữa thì cô ấy thắng)

Trong tiếng Việt cũng có các tổ hợp từ dùng danh từ tóc để ám chỉ tính chất chi li ít ỏi, yếu ớt của sợi tóc:

Sự việc đã được kiểm tra đến từng chân tơ kẽ tóc

Có ai đã dám động đến một sợi tóc của nó đâu

Tính mạng hắn đang ở tình trạng ngàn cân treo trên đầu sợi tóc

Tóc thường được miêu tả qua các phép so sánh ẩn dụ với nhiều chất liệu khác nhau trong tiếng Việt, như tóc tơ, tóc mây, và tóc rễ tre, để thể hiện đặc tính và vẻ đẹp của nó.

Các nền văn hóa khác nhau ảnh hưởng đến cách nhận thức và quy ước ngôn ngữ giữa tiếng Anh và tiếng Việt Trong khi tiếng Anh có thể không có sự liên kết cụ thể, thì trong tiếng Việt, "tóc bạc" thường được hiểu là biểu tượng của tuổi già.

Mẹ cha tóc bạc da mồi

0 1b Ơn thâm em đền bù không phỉ

Nên em giã thân hèn, kim chỉ nuôi thân

(Dân ca miền Nam Trung Bộ)

Tóc bạc da mồi thường chỉ về người già với mái tóc chuyển sang màu trắng do tuổi tác và sức khỏe suy yếu Khi con người lão hóa, các sắc tố trong tóc dần mất đi, dẫn đến màu tóc chuyển thành muối tiêu hoặc trắng.

Tao thì tao sợ cái cuốc cái xẻng, làng nhàng như chúng mình thì già đời, tóc bạc răng long cũng chưa lấy nổi vợ

(Những ngày không quên, Nguyễn Chí Tình)

Danh từ "tóc" trong tiếng Anh và tiếng Việt không chỉ dùng để miêu tả màu sắc hay ngoại hình, mà còn mang nhiều ý nghĩa phong phú khác Điều này đặc biệt rõ ràng khi "tóc" được kết hợp với các từ loại khác trong các tổ hợp từ cố định.

Ngày đăng: 30/06/2022, 15:18

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Diệp Quang Ban, Hoàng Văn Thung (1986), Ngữ Pháp Tiếng Việt, tập 1, tập 2: NXB ĐHTHCN, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Ngữ Pháp Tiếng Việt, tập 1, tập "2
Tác giả: Diệp Quang Ban, Hoàng Văn Thung
Nhà XB: NXB ĐHTHCN
Năm: 1986
2. Quang Diệp (2004), Ngữ pháp Việt Nam - Phần câu, Hà Nội: NXB Đại học Sư phạm Sách, tạp chí
Tiêu đề: Ngữ pháp Việt Nam - Phần câu
Tác giả: Quang Diệp
Nhà XB: NXB Đại học Sư phạm
Năm: 2004
3. Lê Biên, (1999), Từ loại Tiếng Việt Hiện Đại: NXBGD, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Từ loại Tiếng Việt Hiện Đại
Tác giả: Lê Biên
Nhà XB: NXBGD
Năm: 1999
4. Nguyễn Tài Cẩn (1975), Từ loại trong tiếng Việt hiện đại; NXB Khoa học xã hội , Hà nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Từ loại trong tiếng Việt hiện đại
Tác giả: Nguyễn Tài Cẩn
Nhà XB: NXB Khoa học xã hội
Năm: 1975
5. Đỗ Hữu Châu (1981), Từ Vựng ngữ nghĩa tiếng Việt: Hà Nội, NXB Giáo dục Sách, tạp chí
Tiêu đề: Từ Vựng ngữ nghĩa tiếng Việt
Tác giả: Đỗ Hữu Châu
Nhà XB: NXB Giáo dục
Năm: 1981
6. Đỗ Hữu Châu (1987), Cơ sở ngữ nghĩa học từ vựng: NXBGD, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Cơ sở ngữ nghĩa học từ vựng
Tác giả: Đỗ Hữu Châu
Nhà XB: NXBGD
Năm: 1987
7. Trần Văn Cơ (2007), Ngôn ngữ học tri nhận, Hà Nội: NXB Khoa học Xã hội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Ngôn ngữ học tri nhận
Tác giả: Trần Văn Cơ
Nhà XB: NXB Khoa học Xã hội
Năm: 2007
8. Nguyễn Đức Dân, (1996), Ngữ nghĩa thành ngữ, tục ngữ - sự vận dụng, Ngôn ngữ (3) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Ngữ nghĩa thành ngữ, tục ngữ - sự vận dụng
Tác giả: Nguyễn Đức Dân
Năm: 1996
9. Lâm Quang Đông (2008), Cấu trúc nghĩa biểu hiện của câu - với nhóm vị từ trao, tặng: NXB Khoa Học Xã Hội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Cấu trúc nghĩa biểu hiện của câu - với nhóm vị từ "trao, tặng
Tác giả: Lâm Quang Đông
Nhà XB: NXB Khoa Học Xã Hội
Năm: 2008
10. Đinh Văn Đức (2001), Ngữ pháp tiếng Việt - Từ loại, Hà Nội: NXB Đại học Quốc gia Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Ngữ pháp tiếng Việt - Từ loại
Tác giả: Đinh Văn Đức
Nhà XB: NXB Đại học Quốc gia Hà Nội
Năm: 2001
11. Nguyễn Thiện Giáp (1975, 1985), Từ vựng học Tiếng Việt:, NXB ĐHTHCN, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Từ vựng học Tiếng Việt
Nhà XB: NXB ĐHTHCN
12. Hoàng Văn Hành (1987), Thành ngữ trong tiếng Việt, Văn hóa dân gian 1, tr 25- 32) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thành ngữ trong tiếng Việt, Văn hóa dân gian
Tác giả: Hoàng Văn Hành
Năm: 1987
13. Cao Xuân Hạo (1991), Tiếng Việt – Sơ thảo Ngữ pháp Chức năng, Quyển I, Hà Nội: NXB Khoa học xã hội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tiếng Việt – Sơ thảo Ngữ pháp Chức năng
Tác giả: Cao Xuân Hạo
Nhà XB: NXB Khoa học xã hội
Năm: 1991
14. Cao Xuân Hạo, Hoàng Dũng (2005), Từ điển thuật ngữ Ngôn ngữ học đối chiếu Anh - Việt, Việt - Anh, Hà Nội: NXB Khoa học xã hội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Từ điển thuật ngữ Ngôn ngữ học đối "chiếu Anh - Việt, Việt - Anh
Tác giả: Cao Xuân Hạo, Hoàng Dũng
Nhà XB: NXB Khoa học xã hội
Năm: 2005
15. Nguyễn Văn Hiệp (2008), Cơ sở ngữ nghĩa phân tích cú pháp, Hà Nội: NXB Giáo dục Sách, tạp chí
Tiêu đề: Cơ sở ngữ nghĩa phân tích cú pháp
Tác giả: Nguyễn Văn Hiệp
Nhà XB: NXB Giáo dục
Năm: 2008
16. Nguyễn Văn Lộc (1995), Kết trị của động từ tiếng Việt, Hà Nội: NXB Giáo dục Sách, tạp chí
Tiêu đề: Kết trị của động từ tiếng Việt
Tác giả: Nguyễn Văn Lộc
Nhà XB: NXB Giáo dục
Năm: 1995
17. Trần Hữu Mạnh (2007), Ngôn ngữ học đối chiếu - Cú pháp Tiếng Anh-Tiếng Việt, Hà Nội: NXB Đại học Quốc gia Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Ngôn ngữ học đối chiếu - Cú pháp Tiếng Anh-Tiếng "Việt
Tác giả: Trần Hữu Mạnh
Nhà XB: NXB Đại học Quốc gia Hà Nội
Năm: 2007
18. Hoàng Phê (chủ biên) (1997), Từ điển tiếng Việt, Hà Nội, Đà Nẵng: NXB Đà Nẵng, Trung tâm Từ điển học Sách, tạp chí
Tiêu đề: Từ điển tiếng Việt
Tác giả: Hoàng Phê (chủ biên)
Nhà XB: NXB Đà Nẵng
Năm: 1997
19. Hoàng Trọng Phiến (1980), Ngữ pháp tiếng Việt - Câu, Hà Nội: NXB Đại học và Trung học chuyên nghiệp Sách, tạp chí
Tiêu đề: Ngữ pháp tiếng Việt - Câu
Tác giả: Hoàng Trọng Phiến
Nhà XB: NXB Đại học và Trung học chuyên nghiệp
Năm: 1980
20. Phan Văn Quế (1995), Một số vấn đề từ vựng – ngữ nghĩa Tiếng Anh, Ngôn ngữ học: NXB Nghệ An Sách, tạp chí
Tiêu đề: Một số vấn đề từ vựng – ngữ nghĩa Tiếng Anh, Ngôn "ngữ học
Tác giả: Phan Văn Quế
Nhà XB: NXB Nghệ An
Năm: 1995

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Trong Tiếng Anh, số là một phạm trù ngữ pháp. Hậu tố -s, một hình vị ngữ pháp (gramatical morpheme), thường được sử dụng để chỉ số nhiều, ví dụ - (LUẬN văn THẠC sĩ) phân tích đối chiếu kết trị danh từ chung (common nouns) trong tiếng anh và tiếng việt (trên cơ sở các danh từ chung chỉ bộ phận trên khuôn mặt người)
rong Tiếng Anh, số là một phạm trù ngữ pháp. Hậu tố -s, một hình vị ngữ pháp (gramatical morpheme), thường được sử dụng để chỉ số nhiều, ví dụ (Trang 16)
Mô hình danh ngữ cơ sở thể hiện kết trị đóng của danh từ tiếng Anh - (LUẬN văn THẠC sĩ) phân tích đối chiếu kết trị danh từ chung (common nouns) trong tiếng anh và tiếng việt (trên cơ sở các danh từ chung chỉ bộ phận trên khuôn mặt người)
h ình danh ngữ cơ sở thể hiện kết trị đóng của danh từ tiếng Anh (Trang 23)
Như mô hình đã chỉ ra, ở vi trí định ngữ trước (premodifier) của danh từ trung tâm trong danh ngữ phức là các từ loại thuộc lớp từ mở, đó là tính từ,  động từ (thường là dạng V-ing hoặc dạng V-ed cuả động từ) và danh từ - (LUẬN văn THẠC sĩ) phân tích đối chiếu kết trị danh từ chung (common nouns) trong tiếng anh và tiếng việt (trên cơ sở các danh từ chung chỉ bộ phận trên khuôn mặt người)
h ư mô hình đã chỉ ra, ở vi trí định ngữ trước (premodifier) của danh từ trung tâm trong danh ngữ phức là các từ loại thuộc lớp từ mở, đó là tính từ, động từ (thường là dạng V-ing hoặc dạng V-ed cuả động từ) và danh từ (Trang 27)
Tiếp sau mô hình khái quát là sơ đồ minh họa chi tiết các biến tố của danh ngữ, đồng thời cũng là các kết trị có thể có của danh từ tiếng Anh - (LUẬN văn THẠC sĩ) phân tích đối chiếu kết trị danh từ chung (common nouns) trong tiếng anh và tiếng việt (trên cơ sở các danh từ chung chỉ bộ phận trên khuôn mặt người)
i ếp sau mô hình khái quát là sơ đồ minh họa chi tiết các biến tố của danh ngữ, đồng thời cũng là các kết trị có thể có của danh từ tiếng Anh (Trang 30)
Mô hình có ba vị trí lớn cho các thành tố: trung tâm, phụ trước, phụ sau.  Các vị trí chi tiết được kèm theo mã số (1a, 1b...) trong mô hình - (LUẬN văn THẠC sĩ) phân tích đối chiếu kết trị danh từ chung (common nouns) trong tiếng anh và tiếng việt (trên cơ sở các danh từ chung chỉ bộ phận trên khuôn mặt người)
h ình có ba vị trí lớn cho các thành tố: trung tâm, phụ trước, phụ sau. Các vị trí chi tiết được kèm theo mã số (1a, 1b...) trong mô hình (Trang 33)
Mô hình danh ngữ tiếng Việt này còn có thể được chi tiết hóa, liệt kê các biến thể có thể có thể có, qua sơ đồ dưới đây - (LUẬN văn THẠC sĩ) phân tích đối chiếu kết trị danh từ chung (common nouns) trong tiếng anh và tiếng việt (trên cơ sở các danh từ chung chỉ bộ phận trên khuôn mặt người)
h ình danh ngữ tiếng Việt này còn có thể được chi tiết hóa, liệt kê các biến thể có thể có thể có, qua sơ đồ dưới đây (Trang 34)
Việc mô tả cấu trúc danh ngữ tiếng Việt theo mô hình và sơ đồ trên cũng là theo góc nhìn ngôn ngữ học tiếng Việt nói chung, thể hiện trong nhiều  tài liệu có liên quan, đặc biệt là trong các sách giáo khoa - (LUẬN văn THẠC sĩ) phân tích đối chiếu kết trị danh từ chung (common nouns) trong tiếng anh và tiếng việt (trên cơ sở các danh từ chung chỉ bộ phận trên khuôn mặt người)
i ệc mô tả cấu trúc danh ngữ tiếng Việt theo mô hình và sơ đồ trên cũng là theo góc nhìn ngôn ngữ học tiếng Việt nói chung, thể hiện trong nhiều tài liệu có liên quan, đặc biệt là trong các sách giáo khoa (Trang 36)

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w