QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ DÂN CHỦ
Quan niệm về dân chủ trong tư tưởng Hồ Chí Minh
Hồ Chí Minh có khả năng diễn đạt những khái niệm phức tạp bằng ngôn từ giản dị, dễ hiểu và súc tích Ông đã nhiều lần trình bày quan điểm của mình về khái niệm dân chủ một cách ngắn gọn và rõ ràng.
Hồ Chí Minh thường nêu câu hỏi: “Dân chủ là như thế nào?” và Người lại tự trả lời : “Là dân làm chủ” (1 )
Hồ Chí Minh khẳng định rằng nước ta là một nước dân chủ, nơi nhân dân là người làm chủ Ông nhấn mạnh rằng chế độ của chúng ta là chế độ dân chủ, với vị trí cao nhất thuộc về nhân dân, bởi vì chính dân là chủ.
Quan niệm về dân chủ của Hồ Chí Minh được coi là chính thức và phản ánh đúng bản chất của tư tưởng này Đây là một trong những quan điểm ngắn gọn nhất thể hiện nội dung sâu sắc về dân chủ theo cách nhìn của Hồ Chí Minh.
Cũng có thể thấy rõ hơn quan niệm của Hồ Chí Minh về dân chủ với một sự lý giải cô đọng sau đây khi Ngừơi viết:
“Nước ta là nước dân chủ
Bao nhiêu lợi ích đếu vì dân
Bao nhiêu quyền hạn đều của dân
Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân
Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân
Chính quyền từ xã đến chính phủ do dân cử ra Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên
(1) Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H,1996, t.8, tr 375
(2) Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H,2000, t.7, tr 452
(3) Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H,2000, t.10, tr 251
Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân” (1)
Quan niệm của Hồ Chí Minh về dân chủ thể hiện rõ bản chất của quyền lực thuộc về nhân dân, hay còn gọi là Demoskratos C.Mác cũng nhấn mạnh rằng trong chế độ dân chủ, nhà nước chính là sự tự quy định của nhân dân, cho thấy vai trò quan trọng của người dân trong việc xác định và thực hiện quyền lực của mình.
Ngày càng chú trọng đến cơ sở thực tiễn, con người thực tế và nhân dân cụ thể, sự nghiệp này được xác định là của chính nhân dân.
V.I.Lênin cũng có lúc nhấn mạnh nội dung chính trị của khái niệm dân chủ khi ông cho “dân chủ là một phạm trù thuộc riêng lĩnh vực chính trị” (4) Tuy nhiên, trong khi coi “chế độ dân chủ là một hình thức nhà nước, một trong những hình thái của nhà nước…”, Lênin cũng giải thích rằng: “Nhưng mặt khác, chế độ dân chủ có nghĩa là chính thức thừa nhận cho mọi người được thừa nhận quyền bình đẳng giữa những người những người công dân, thừa nhận cho mọi người được quyền ngang nhau trong việc xác định cơ cấu nhà nước và quản lý nhà nước” (5)
Quan niệm của Hồ Chí Minh về dân chủ thể hiện rõ sự cụ thể trong nội dung chính trị, khi ông xem dân chủ là một hình thái nhà nước và thiết chế xã hội, khẳng định rằng “nước ta là nước dân chủ” Theo quan điểm của ông, dân chủ là “sự tự quy định của nhân dân” và “là sự nghiệp của bản thân nhân dân”, đồng thời nhấn mạnh “sự bình đẳng giữa những người công dân”, với mọi người có quyền ngang nhau trong việc xác định cơ cấu và quản lý nhà nước, như V.I Lênin đã chỉ ra Điều này cho thấy chế độ dân chủ biến nhà nước thành cơ quan quyền lực cao nhất của đất nước, thể hiện rõ vai trò và quyền lợi của nhân dân trong quá trình quản lý nhà nước.
(1) Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.2000, t.5, tr.698
(2) C.Mác: Góp phần phê phán triết học pháp quyền Hêghen, Nxb, Sự thật, H.1977, tr.106
(3) C.Mác: Góp phần phê phán triết học pháp quyền Hêghen, Nxb,Chính trị quốc gia, H,1977, tr.107
(4) V.I.Lênin: toàn tập, Nxb.Tiên bộ, M.1979, t.42, tr.258
Chế độ dân chủ xuất phát từ con người, khẳng định rằng nhà nước không tạo ra nhân dân mà chính nhân dân tạo ra chế độ nhà nước Nhà nước do dân có nhiệm vụ phục vụ và hướng tới lợi ích của nhân dân, thể hiện nguyện vọng và ý chí của họ Với sự hình thành và hoạt động như vậy, nhà nước này là của dân và vì dân.
Trong các cuộc bầu cử, mọi công dân Việt Nam từ 18 tuổi trở lên, không phân biệt giới tính, tôn giáo, tài sản hay trình độ văn hóa, đều có quyền tham gia Điều này thể hiện sự hợp lý trong việc để nhân dân lao động thực hiện quyền thống trị của mình.
Nhân dân là ông chủ nắm chính quyền Nhân dân bầu ra đại biểu thay mặt cho mình thi hành chính quyền ấy Thế là dân chủ” (2)
Quan niệm của Hồ Chí Minh về dân chủ nhấn mạnh rằng chế độ nhà nước chỉ là một yếu tố trong đời sống xã hội, không bao trùm mọi lĩnh vực Ông cho rằng việc hoàn thiện chế độ nhà nước cần đi đôi với việc mở rộng và nâng cao quan hệ dân chủ trong cộng đồng, thúc đẩy sự tự quản của nhân dân Điều này yêu cầu dân chủ phải thấm nhuần trong tất cả các mối quan hệ xã hội, giữa cá nhân, cộng đồng và các tổ chức chính trị, nhằm đảm bảo sự phát triển tự do cho mỗi thành viên và cho toàn xã hội Theo quan niệm này, quyền lực của nhân dân trong việc "bầu ra", "cử ra" các hình thức tồn tại của họ là điều kiện thiết yếu để thực hiện dân chủ.
(1) C.Mác và Ph Ăngghen: toàn tập, Nxb Sự thật, H.1978, t.1, tr333
(2) Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2000, t.7, tr.218-219
(3) C.Mác và Ph.Ăngghen toàn tập, Nxb.Sự thật, H.1978, t.1, tr.332
Theo quan niệm của Hồ Chí Minh, dân chủ không chỉ tồn tại trong lĩnh vực chính trị mà còn phản ánh các giá trị đạo đức trong các mối quan hệ xã hội, như trong gia đình và trường học Điều này cho thấy dân chủ thể hiện đạo lý và bản chất con người trong mọi khía cạnh của cuộc sống.
Quan niệm của Hồ Chí Minh về dân chủ nhấn mạnh rằng dân chủ là giá trị nhân loại, là sản phẩm của nền văn minh và quá trình tự giải phóng của con người Dân chủ không ngừng biến đổi theo sự phát triển của điều kiện kinh tế và cơ cấu xã hội Những nấc thang phát triển của dân chủ phản ánh khát vọng giải phóng của loài người, trở thành tiêu chí phấn đấu không ngừng của nhân loại.
Với cách nhìn lịch sử như vậy, trong các bài nói, viết và các văn kiện,
Hồ Chí Minh đã khẳng định lý tưởng dân chủ là tiêu chí phấn đấu chung của tất cả quốc gia, dân tộc và toàn nhân loại Ông phân biệt giữa dân chủ cũ và dân chủ mới, nhấn mạnh sự vượt trội của dân chủ mới so với dân chủ tư sản Theo Người, việc thực hiện thành công dân chủ mới là điều kiện cần thiết để tiến tới chủ nghĩa xã hội.
Hồ Chí Minh đã nêu rõ sự phát triển của các hình thức xã hội từ cộng sản nguyên thuỷ, qua chế độ nô lệ, phong kiến, tư bản, đến chủ nghĩa xã hội (cộng sản).
(1) Khái niệm Dân chủ cũ lần đầu tiên xuất hiện trong sách Thường thức chính trị của Hồ Chí Minh viết năm
Năm 1953, tác phẩm được xuất bản vào năm 1954, nhấn mạnh rằng "Thời đại mới yêu cầu cách mạng Việt Nam phải là cách mạng dân chủ mới, tức là cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân hiện nay… cách mạng Việt Nam cần phải là cách mạng dân chủ mới, không phải là dân chủ cũ." (Hồ Chí Minh: toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H 2000, t 7, tr 210).
Dân chủ trong lĩnh vực kinh tế
Hồ Chí Minh là một trong những tác giả Việt Nam đầu tiên nghiên cứu tình hình kinh tế - xã hội ở các nước thuộc địa, lên án sự bóc lột tàn bạo của chế độ thực dân đối với nhân dân Tác phẩm "Bản án chế độ thực dân Pháp" thể hiện rõ sự chỉ trích đối với những thủ đoạn của thực dân, đồng thời vạch trần bản chất giả dối của các khái niệm như “bình đẳng” và “khai hóa”, mà thực chất chỉ là “thù ghét chủng tộc” và “chế độ nô lệ hiện đại hóa” đối với người lao động.
Hồ Chí Minh đã phân tích sâu sắc sự bóc lột kinh tế mà thực dân Pháp áp đặt lên nhân dân Việt Nam trong bản Tuyên ngôn độc lập, đánh dấu sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Kinh tế của đất nước bị bóc lột nghiêm trọng, dẫn đến tình trạng nghèo nàn và thiếu thốn cho nhân dân Tài nguyên như ruộng đất và khoáng sản bị cướp đoạt, trong khi độc quyền về tiền tệ và thương mại khiến dân chúng càng thêm khốn khó Hàng trăm loại thuế phi lý được áp đặt, đẩy người nông dân và thương nhân vào cảnh bần cùng Các nhà tư bản trong nước không có cơ hội phát triển, và công nhân thì bị bóc lột một cách tàn nhẫn.
Ngay sau khi giành độc lập, Hồ Chí Minh đã khẩn trương giải quyết các vấn đề chính trị, ngoại giao và an ninh, đồng thời thực hiện quyền làm chủ của nhân dân trong lĩnh vực chính trị Tại cuộc họp đầu tiên của Chính phủ mới, ông đã xác định 3 nhiệm vụ cấp bách, trong đó nhiệm vụ chống giặc đói được xem là ưu tiên hàng đầu.
Tháng 1 – 1946, Người chỉ thị cho Uỷ ban Nghiên cứu kế hoạch kiến quốc:
“Chúng ta phải thực hiện ngay:
1 - Làm cho dân có ăn.
2 – Làm cho dân có mặc.
3 – Làm cho dân có chỗ ở.
4 – Làm cho dân có học hành” (1),
Ngày 4 – 5 – 1946, Hồ Chí Minh đã chỉ ra “Chương trình của Chính phủ ta là làm thế nào cho toàn quốc đồng bào ai cũng có ăn, có mặc, có học” (2)
Tinh thần phát triển kinh tế và văn hóa để nâng cao đời sống nhân dân được Hồ Chí Minh nhấn mạnh trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp Ông luôn nhắc nhở rằng Đảng cần có kế hoạch tốt để thực hiện mục tiêu này, cho thấy tầm quan trọng của việc cải thiện đời sống nhân dân trong bối cảnh kháng chiến.
Mục tiêu về ăn, mặc, ở và học hành cho toàn thể nhân dân thể hiện tư tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh trong lĩnh vực kinh tế Theo quan niệm của Người, giá trị của độc lập tự do chỉ có ý nghĩa khi nhân dân có đầy đủ điều kiện sinh hoạt và được học hành Đến nay, trong bối cảnh đất nước vẫn tiếp tục thực hiện các chương trình xoá đói, giảm nghèo, các mục tiêu này vẫn giữ vai trò quan trọng trong chiến lược phát triển toàn diện của Việt Nam.
Trong suốt cuộc đời mình, mặc dù đất nước phải tập trung vào chiến tranh và chưa có nhiều thời gian để tổng kết các vấn đề kinh tế, Hồ Chí Minh vẫn để lại những di sản quý báu về dân chủ trong lĩnh vực này.
Chính trị phản ánh tập trung của nền kinh tế, vì vậy dân chủ trong chính trị cần dựa trên nền tảng dân chủ kinh tế Sự tham gia thực sự của nhân dân trong chính trị chỉ có thể diễn ra khi họ trở thành chủ thể trong quá trình này.
(1),(2) Hồ Chí Minh: toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.2000, t.4, tr.152, 220
Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng quyền sở hữu và quản lý các tư liệu sản xuất cơ bản của xã hội thuộc về nhân dân Điều này đồng nghĩa với việc quyền tổ chức sản xuất và phân phối sản phẩm lao động cũng phải nằm trong tay nhân dân, đảm bảo sự công bằng và phát triển kinh tế bền vững.
Tư tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh trong lĩnh vực kinh tế tập trung vào quyền làm chủ kinh tế của người lao động, coi đây là yếu tố quyết định cho sự giải phóng con người Ông nhấn mạnh rằng chỉ khi người lao động nắm quyền lực kinh tế, họ mới có thể trở thành lực lượng quyết định trong quá trình phát triển xã hội Nghiên cứu tư tưởng này đồng nghĩa với việc tìm hiểu quyền làm chủ trực tiếp của nhân dân đối với sản xuất, kinh doanh và phân phối sản phẩm Theo Hồ Chí Minh, dân chủ kinh tế thể hiện rõ nét trong các lĩnh vực chủ yếu của đời sống xã hội.
2.1 Sở hữu tư liệu sản xuất
Hồ Chí Minh khẳng định rằng sự phát triển của xã hội diễn ra theo quy luật nhất định, từ cộng sản nguyên thủy đến chế độ nô lệ, phong kiến, tư bản và cuối cùng là chủ nghĩa xã hội Ông nhấn mạnh rằng mỗi dân tộc có con đường phát triển riêng, đặc biệt đối với các nước chậm phát triển như Việt Nam, cần phải trải qua chế độ dân chủ mới trước khi tiến lên chủ nghĩa xã hội Quan điểm này được Hồ Chí Minh nhắc lại nhiều lần, thể hiện sự nhất quán trong tư tưởng của Người về tiến trình phát triển xã hội Việt Nam sau khi giành độc lập, bao gồm việc thực hiện dân chủ mới, tiến đến chủ nghĩa xã hội và cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản.
(1) Hồ Chí Minh: toàn tập, Nxb Chính trị quố gia, H.2000, t.7, tr 247
(1) Hồ Chí Minh: toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2000, t.7, tr.247
Theo Hồ Chí Minh, thực hiện dân chủ là nội dung cốt lõi của thời kỳ quá độ ở Việt Nam trên con đường phát triển lên chủ nghĩa xã hội Thời kỳ này xuất phát từ đặc điểm của một nước chậm phát triển, chưa trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa Đặc điểm này quyết định tính chất của chế độ chính trị và kinh tế tại Việt Nam Về chính trị, Hồ Chí Minh nhấn mạnh chế độ “nhân dân dân chủ chuyên chính,” tức là dân chủ cho nhân dân và chuyên chính để trừng trị các lực lượng phản động Về kinh tế, thời kỳ dân chủ mới ở Việt Nam đặc trưng bởi sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế khác nhau.
“Trong chế độ dân chủ mới, có 5 loại kinh tế khác nhau:
A – Kinh tế quốc doanh (thuộc chủ nghĩa xã hội, vì nó là của chung nhân dân).
B – Các hợp tác xã (nó là nửa chủ nghĩa xã hội, và sẽ tiến đến chủ nghĩa xã hội).
C – Kinh tế của cá nhân, nông dân và thủ công nghệ (có thể tiến dần vào hợp tác xã, tức là nửa chủ nghĩa xã hội).
E - Tư bản nhà nước (như Nhà nước hùn vốn với tư bản tư nhân để kinh doanh) (3)
Tính chất và trình độ của nền dân chủ phụ thuộc vào đặc điểm và tình hình của nền kinh tế Do đó, dân chủ bị ảnh hưởng bởi các mối quan hệ sản xuất, và tương ứng với sự khác biệt của từng nền kinh tế, dân chủ cũng sẽ có những trạng thái khác nhau.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, tính chất và trình độ dân chủ trong lĩnh vực kinh tế ở Việt Nam được khẳng định rõ ràng trong Hiến pháp, nhấn mạnh rằng "Tất cả" Điều này thể hiện sự cam kết của Nhà nước trong việc bảo đảm quyền lợi và nghĩa vụ của mọi công dân trong nền kinh tế, tạo ra một môi trường dân chủ và công bằng cho sự phát triển bền vững.
NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA HIỆN NAY VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP TRONG DÂN CHỦ VỀ KINH TẾ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
Thực trạng về việc thực hiện dân chủ vấn đề trong kinh tê
Dân chủ là cốt lõi của chế độ XHCN ở Việt Nam, với quyền làm chủ của nhân dân được ghi nhận trong Hiến pháp và các văn bản pháp luật Đảng và Nhà nước luôn tôn trọng và phát huy quyền này, tạo ra sức mạnh to lớn góp phần quyết định vào sự thành công của cách mạng trong thế kỷ XX.
Quá trình dân chủ hoá kinh tế trong những năm đổi mới đã tạo ra những chuyển biến tích cực cho nền kinh tế Việt Nam Việc công nhận và tôn trọng sự đa dạng quyền sở hữu tư liệu sản xuất đã thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế nhiều thành phần, đảm bảo sự phát triển đồng đều giữa các ngành và vùng Chế độ phân phối tư liệu sản xuất công bằng đã tạo cơ hội cho sự phát triển nhanh và bền vững của nền kinh tế Đồng thời, chế độ phân phối sản phẩm lao động theo đóng góp đã nâng cao vai trò làm chủ sản xuất của nhân dân trong tất cả các thành phần kinh tế Mức tăng trưởng GDP hàng năm đạt 7% là minh chứng rõ nét cho tác động tích cực của quá trình dân chủ hoá nền kinh tế.
Nền kinh tế Việt Nam hiện nay chủ yếu vẫn là sản xuất nhỏ, với sự phát triển chưa vững chắc và hiệu quả thấp Dân chủ trong kinh tế gặp nhiều vấn đề cần giải quyết, trong khi cơ cấu kinh tế và đầu tư chuyển biến chậm, còn phân tán và lãng phí Sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế chưa được chú trọng, và quản lý nhà nước còn tồn tại nhiều khuyết điểm, dẫn đến các tiêu cực Mức sống của người dân, đặc biệt ở các vùng miền núi và sâu, vẫn rất thấp, cùng với chính sách tiền lương và phân phối xã hội còn bất hợp lý Sự phân hóa giàu nghèo giữa các vùng, thành phố và nông thôn ngày càng gia tăng, trong khi tình trạng mất dân chủ trong quản lý kinh tế đã góp phần vào sự gia tăng khiếu kiện phức tạp của người dân ở nhiều nơi.
Cơ chế và chính sách hiện tại thiếu tính đồng bộ và chưa tạo ra động lực mạnh mẽ cho sự phát triển Nhiều quy định quản lý nhà nước không còn phù hợp và chưa được thay thế hoặc sửa đổi, dẫn đến việc thiếu tính khả thi trong việc khai thác nguồn lực dồi dào từ các thành phần kinh tế, doanh nghiệp và xã hội Một số chính sách đúng đắn bị biến dạng qua các cấp quản lý, trong khi việc ban hành các văn bản pháp quy hướng dẫn vẫn diễn ra chậm chạp.
Nền tảng kinh tế và cơ cấu xã hội ở nước ta đã làm cho tư tưởng tiểu tư sản lan tỏa, thâm nhập vào giai cấp công nhân và chính quyền, dẫn đến sự phát triển của khuynh hướng tự phát, vô chính phủ và cục bộ địa phương Tình hình này đã tạo ra nhiều biểu hiện sai trái với dân chủ xã hội chủ nghĩa, cùng với những yếu kém trong quản lý và tác động của nền kinh tế thị trường, đã gia tăng tệ tham nhũng và quan liêu Sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức và lối sống ở một bộ phận cán bộ đảng viên đang ở mức độ nghiêm trọng Đảng ta đã nhận định rằng “nạn tham nhũng kéo dài trong bộ máy của hệ thống chính trị và trong nhiều tổ chức kinh tế là một nguy cơ đe dọa sự sống còn của chế độ ta”.
Những giải pháp cho việc thực hiện dân chủ trong lĩnh vực kinh tế
Từ Đại hội III của Đảng vào tháng 9 năm 1960, mỗi lần chuẩn bị đại hội Đảng, trong Đảng và xã hội luôn diễn ra các cuộc tranh luận về thời kỳ quá độ Điều này xuất phát từ những khác biệt trong nhận thức về thời kỳ quá độ và đặc điểm của giai đoạn lịch sử mà chúng ta đang trải qua.
Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa VIII, trình Đại hội Đại biểu toàn quốc lần IX, nhấn mạnh sự liên quan đến những biến động xã hội tất yếu trong bối cảnh lịch sử đặc biệt Điều này phản ánh thái độ, chính sách và phương thức tổ chức hoạt động của Đảng và nhân dân trong thời kỳ này.
Cuộc tranh luận hiện nay có nhiều khác biệt so với trước đây, đặc biệt là so với những thập kỷ 60, 70, 80 của thế kỷ XX, khi mà nền tảng tranh luận chủ yếu xoay quanh việc khẳng định nước ta đang trong giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội, với sự khác biệt chủ yếu trong cách tiếp cận các vấn đề chính sách, đặc biệt là chính sách kinh tế Hiện tại, bối cảnh đã thay đổi sâu sắc và phức tạp hơn, khi Liên Xô và Đảng Cộng sản Liên Xô đã tan rã, hệ thống xã hội chủ nghĩa toàn cầu không còn tồn tại, và phong trào cộng sản cùng phong trào xã hội chủ nghĩa mặc dù đang hồi phục nhưng vẫn đối mặt với nhiều thách thức nghiêm trọng Đồng thời, các thế lực thù địch đang tích cực thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” thông qua các hình thức “cách mạng nhung”.
Trong bối cảnh nước ta đạt được những bước tiến lớn trong phát triển kinh tế và cải thiện đời sống nhân dân mà không trải qua công cuộc "cải tạo xã hội chủ nghĩa", đã xuất hiện sự khác biệt trong nhận thức về thời kỳ quá độ Một thiểu số đã có quan điểm siêu hình, phủ nhận thời kỳ quá độ và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta Ngược lại, tuyệt đại đa số trong Đảng và xã hội, dựa trên lập trường chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đã khẳng định tính đúng đắn của Cương lĩnh 1991 và áp dụng phương pháp nhận thức biện chứng, lịch sử để dẫn dắt hành động.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, được bổ sung và phát triển vào năm 2011, sẽ giữ nguyên tên gọi và nội dung cơ bản như Cương lĩnh năm 1991 đã được Đại hội VII của Đảng quyết định Điều này khẳng định rằng đất nước và nhân dân ta vẫn đang trong giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội, tiếp tục xây dựng xã hội chủ nghĩa trên mọi lĩnh vực và kiên định theo con đường xã hội chủ nghĩa.
V.I Lênin, dựa trên phương pháp luận mácxít và thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội (CNXH) ở Nga và Liên Xô, đã nhận thức về thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản (CNTB) lên CNXH Tại Việt Nam, Hồ Chí Minh cũng đã đề cập đến thời kỳ này, nhấn mạnh rằng đất nước không cần trải qua giai đoạn phát triển CNTB để tiến tới CNXH Dù C Mác không trực tiếp nói về thời kỳ quá độ, nhưng học thuyết của ông vẫn là nền tảng cho quan điểm này Mác đã chỉ ra rằng lịch sử nhân loại phát triển từ thấp đến cao qua các phương thức sản xuất, trong đó CNTB, mặc dù là bước tiến lớn, đã tự tạo ra mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất xã hội hóa cao và chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất Để giải quyết mâu thuẫn này, cần thiết phải hình thành phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa, với CNXH là giai đoạn đầu và CNCS là giai đoạn cao hơn Lênin đã bổ sung rằng thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNXH là một giai đoạn dài, trong đó có sự kế thừa và phủ định biện chứng của CNTB, đồng thời xây dựng dần các yếu tố của CNXH cho đến khi xã hội mới hoàn toàn phát triển theo cơ sở riêng của nó.
Thời kỳ chuyển tiếp từ chủ nghĩa tư bản (CNTB) sang chủ nghĩa xã hội (CNXH) là một quá trình tất yếu và phổ biến cho tất cả các quốc gia theo chế độ xã hội chủ nghĩa Quá trình này không phải là sự áp đặt chủ quan mà gắn liền với những yếu tố kinh tế và chính trị cụ thể.
Trong bối cảnh kinh tế - xã hội hiện nay, Việt Nam đang tồn tại một nền kinh tế nhiều thành phần, nơi có sự tương tác giữa các cấu trúc kinh tế TBCN và XHCN dưới sự quản lý của nhà nước, đại diện cho quyền lực của nhân dân và sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Nền kinh tế này phát triển trong khuôn khổ thị trường định hướng XHCN, cần thời gian để hoàn thiện và xây dựng lực lượng sản xuất hiện đại Điều này đòi hỏi sự kết hợp giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, với mục tiêu nâng cao năng suất lao động vượt trội hơn so với CNTB Thời kỳ quá độ lên CNXH sẽ kéo dài và phức tạp, nhưng với lợi thế của nước đi sau trong khoa học - công nghệ, Việt Nam có khả năng tiến nhanh hơn Chỉ khi nào năng suất lao động được cải thiện đáng kể, con đường tiến lên CNXH mới có thể thành công bền vững và tạo cơ sở vững chắc cho sự tồn tại của CNXH trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu với CNTB.
Tổ chức một nhà nước kiểu mới gắn liền với nền dân chủ XHCN, nơi đa số là nhân dân lao động quyết định, và thiểu số phục tùng theo quy tắc kỷ cương Việc xây dựng nền dân chủ này cần thời gian và trải nghiệm để chọn lọc các yếu tố hợp lý, mở rộng trình độ dân chủ dựa trên phát triển kinh tế và văn hóa Trong bối cảnh Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng duy nhất lãnh đạo, quá trình tổ chức nền dân chủ mới đòi hỏi sự sáng tạo và hiệu quả trong cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, và nhân dân làm chủ.
Trong thời kỳ quá độ, có nhiều nội dung kinh tế chủ yếu đặc trưng, bên cạnh đó còn tồn tại những nội dung không chỉ riêng cho giai đoạn này mà có mặt trong mọi thời kỳ lịch sử của đất nước, như quốc phòng, an ninh và bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ Kinh nghiệm từ nhiều năm qua cho thấy, ngay cả trong việc bảo vệ Tổ quốc, cũng có sự ảnh hưởng của thời kỳ quá độ, thể hiện qua việc bảo vệ Đảng, bảo vệ con đường xã hội chủ nghĩa và chống lại "diễn biến hòa bình".
Trong thời kỳ quá độ, nội dung kinh tế và chính trị không tồn tại biệt lập mà có sự tác động qua lại mạnh mẽ Trình độ xây dựng và quản lý nhà nước, cùng với việc phát huy nền dân chủ XHCN, ảnh hưởng trực tiếp đến các diễn biến và động lực phát triển kinh tế Ngược lại, sự phát triển kinh tế tạo nền tảng vững chắc cho chính trị mới Để thúc đẩy thời kỳ quá độ lên CNXH, cần nhận thức rõ ràng về mối liên hệ này và áp dụng những giải pháp phù hợp, trong đó yếu tố chủ quan và tính năng động của con người đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng chính sách, luật pháp và tổ chức thực tiễn hiệu quả.
CNXH là một sự nghiệp kinh tế, và việc lựa chọn hình thức kinh tế quá độ là rất quan trọng trong giai đoạn chuyển tiếp từ CNTB sang CNXH Hình thức kinh tế quá độ là sự kết hợp giữa lợi ích kinh tế của hai hệ thống, tạo ra động lực phát triển kinh tế hợp lý Thị trường định hướng XHCN hiện nay ở Việt Nam là hình thức kinh tế quá độ tổng quát, không hoàn toàn là thị trường TBCN hay XHCN đầy đủ, mà phản ánh các yếu tố đặc thù phù hợp với quá trình quá độ lên CNXH Nhà nước cần quản lý và điều chỉnh các hoạt động kinh tế, chẳng hạn như giá cả, để ổn định đời sống nhân dân mà không làm mất đi quy luật cung cầu Doanh nghiệp cổ phần là hình thức kinh tế quá độ phổ biến, kết hợp giữa sở hữu nhà nước và tư nhân, dưới sự quản lý của Nhà nước, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế trong giai đoạn quá độ.
Kinh nghiệm từ 1975-1986 cho thấy sự chủ quan và nóng vội đã dẫn đến thất bại trong quá trình đổi mới Bài học quý giá rút ra là lựa chọn hình thức quá độ trung gian mang lại hiệu quả cao Thời gian quá độ phụ thuộc vào tính năng động của chúng ta, và việc vận dụng lý luận từ thực tiễn, tổng kết kinh nghiệm, cùng với sự linh hoạt trong cách tiếp cận, là chìa khóa để xây dựng thành công cho sự nghiệp CNXH của Đảng và nhân dân.