Nhiễm khuẩn bệnh viện còn được gọi là nhiễm trùng bệnh viện là bệnh nhiễm trùng mà bệnh nhân có được sau khi sử dụng dịch vụ chăm sóc sức khỏe tại bệnh viện. NKBV thường xảy ra trong các kỹ thuật mà bệnh nhân nhận được trong bệnh viện, nhưng chúng cũng có thể xảy ra sau khi điều trị tại các phòng khám ngoại trú, nhà điều dưỡng và cơ sở y tế khác. Một tổng quan hệ thống từ Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã chứng minh rằng sự phổ biến của NKBV ở các nước phát triển trong khoảng từ 3,7% đến 11,6%, và tỷ lệ này tại các cơ sở y tế dao động từ 5,7% đến 19,1%. Năm 2004, nhiễm khuẩn bệnh viện đã ảnh hưởng đến 1.7 triệu bệnh nhân và gây ra gần 99.000 trường hợp tử vong, với tổng chi phí $ 6500000000 tại hệ thống chăm sóc sức khỏe ở Mỹ(Hoa Kỳ) (1). Bên cạnh bệnh nhân, các thành viên gia đình của bệnh nhân, khách đến thăm và nhân viên y tế (NVYT) trong bệnh viện cũng có thể bị nhiễm các bệnh lây nhiễm qua tiếp xúc trực tiếp hoặc gián tiếp, các giọt nhỏ, không khí, và tay bị ô nhiễm của nhân viên y tế. Điều này cũng được chứng minh rằng nhiễm khuẩn liên quan chăm sóc sức khỏe là một trong những biến chứng nghiêm trọng phổ biến nhất trong suốt quá trình nằm viện. Đối với bệnh nhân, NKBV có thể kéo dài thời gian nằm viện, tăng gánh nặng kinh tế, mang lại đau đớn không cần thiết và thậm chí dẫn đến trường hợp tử vong. Nhiễm khuẩn bệnh viện cũng sẽ làm tăng khối lượng công việc của nhân viên y tế và nguy cơ nhiễm trùng cho bệnh viện,. NKBV có thể làm tăng chi phí chăm sóc sức khỏe, giảm tỷ lệ doanh thu về giường của bệnh viện và nguyên nhân tranh chấp y tế. Để ngặn chặn và phòng ngừa tỷ lệ nhiễm khuẩn bệnh viện, Năm 2005, WHO đã phát động một chiến dịch vệ sinh tay trên toàn thế giới ''Chăm sóc sạch là chăm sóc an toàn hơn ''nhiều nước cũng đã thực hiện giáo dục sức khỏe và chiến lược nâng cao sức khỏe liên quan đến vệ sinh bàn tay trong đó bao gồm hầu hết các cơ sở y tế, trường tiểu học và trung học, và những nơi công cộng (1). Vệ sinh bàn tay, còn gọi là rửa tay hoặc khử trùng tay, có thể loại bỏ đất, bụi bẩn, và vi sinh vật. Quá trình này liên quan đến việc rửa tay với xà phòng và nước, rửa tay với nước và làm khô triệt để bằng khăn dùng một lần hoặc máy sấy tay. Nếu tay không thấy bẩn, chà tay chứa cồn hoặc gel được khuyến khích để thay thế xà phòng và nước. Hiện bằng chứng của chương trình cho thấy rằng việc sử dụng tay có cồn dường như hiệu quả hơn rửa tay bằng xà phòng thường. Tại Việt Nam, Bộ Y Tế hướng dẫn về việc ngăn chặn NKBV bởi các vi sinh vật đa kháng thuốc (2).Các biện pháp phòng ngừa NKBV bao gồm giáo dục và đào tạo, tiêm chủng cho công nhân có nguy cơ cao, phương pháp làm việc an toàn, hay biện pháp phòng ngừa được gọi là phòng ngừa chuẩn bao gồm trong đó có hoạt động rửa tay (thực hành vệ sinh bàn tay tốt nghĩa là rửa tay đúng thời điểm, sử dụng đủ số lượng dung dịch sát khuẩn và dung dịch rửa tay và đủ thời gian về rửa tay, chăm sóc da nguyên vẹn, và bảo vệ da bị hư hại, vv), loại trừ hoặc giảm tiếp xúc với người lao động trong các tình huống có khả năng truyền nhiễm, sử dụng thích hợp thiết bị bảo vệ cá nhân và điều khiển kỹ thuật giống như các hệ thống thông gió hoặc tủ sinh học an toàn. Trong số các biện pháp phòng ngừa, vệ sinh bàn tay được coi là cách phổ biến và thông dụng nhất để bảo vệ bệnh nhân và các chuyên gia y tế không bị nhiễm khuẩn liên quan đến công tác chăm sóc sức khỏe. Thực tế, cũng như một số nước trong khu vực, hầu hết các bệnh viện tại Việt nam cũng đang gặp thách thức lớn trong vấn đề nhân lực cho dịch vụ chăm sóc và mô hình chăm sóc bao gồm người thân trong gia đình bệnh nhân và người được gia đình thuê để chăm sóc cũng tương tự như ở một số nước đặc biệt là những khoa như hồi sức tích cực và cấp cứu nơi mà người bệnh không thể tự chăm sóc vệ sinh cá nhân cho chính bản thân mình.Việc tăng cường giáo dục người chăm sóc bệnh nhân và người nhà chăm sóc bệnh nhân về vệ sính đôi tay nhằm hạn chế tỷ lệ nhiễm khuẩn bệnh viện là hết sức cần thiết. Phòng cấp cứu lây thuộc khoa Truyền Nhiễm đã tiến hành 01 nghiên cứu trong năm 2017 và nhận thấy việc xây dựng một chương trình giáo dục rửa tay cho người bệnh là hết sức cần thiết sau khi có kết quả về kiến thức, thái độ và thực hành của người nhà và người chăm sóc người bệnh (3). Tuy vậy để bước đầu đánh giá hiệu quả và duy trì chương trình này thì cần có bằng chứng thuyết phục về kiến thức vệ sính tay ở người nhà người bệnh và người chăm sóc người bệnh sau khi chương trình giáo dục vệ sinh tay được thực hiện. Do vậy nghiên cứu này tiến hành với hai mục tiêu sau: 1. So sánh kiến thức và kỹ năng rửa tay của người nhà người bệnh trước và sau khi tham dự chương trình giáo dục vệ sinh tay 2. Tìm hiểu một số yếu tố liên quan đến thay đổi kiến thức và kỹ năng về rửa tay của người nhà người bệnh trước và sau khi tham dự chương trình giáo dục về vệ sinh tay
Nhiễm khuẩn bệnh viện, hay nhiễm trùng bệnh viện, là tình trạng bệnh nhân mắc phải sau khi nhận dịch vụ chăm sóc sức khỏe tại bệnh viện NKBV thường xảy ra trong quá trình thực hiện các kỹ thuật y tế, nhưng cũng có thể phát sinh sau khi điều trị tại các phòng khám ngoại trú, nhà dưỡng lão và các cơ sở y tế khác.
Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), tỷ lệ nhiễm khuẩn bệnh viện (NKBV) ở các nước phát triển dao động từ 3,7% đến 11,6%, với tỷ lệ tại các cơ sở y tế từ 5,7% đến 19,1% Năm 2004, NKBV đã ảnh hưởng đến 1,7 triệu bệnh nhân tại Mỹ, gây ra gần 99.000 ca tử vong và tốn kém khoảng 6,5 tỷ USD cho hệ thống chăm sóc sức khỏe Không chỉ bệnh nhân, mà cả gia đình, khách thăm và nhân viên y tế cũng có nguy cơ nhiễm bệnh qua tiếp xúc NKBV không chỉ kéo dài thời gian nằm viện và gia tăng gánh nặng kinh tế cho bệnh nhân, mà còn làm tăng khối lượng công việc và nguy cơ lây nhiễm cho nhân viên y tế Để giảm thiểu tỷ lệ NKBV, WHO đã phát động chiến dịch vệ sinh tay toàn cầu "Chăm sóc sạch là chăm sóc an toàn hơn" vào năm 2005, khuyến khích giáo dục sức khỏe và nâng cao ý thức vệ sinh tay trong các cơ sở y tế, trường học và nơi công cộng.
Vệ sinh bàn tay, hay còn gọi là rửa tay hoặc khử trùng tay, là quá trình loại bỏ đất, bụi bẩn và vi sinh vật Để thực hiện, cần rửa tay với xà phòng và nước, sau đó làm khô tay bằng khăn dùng một lần hoặc máy sấy tay Trong trường hợp tay không bẩn, việc sử dụng dung dịch chà tay có chứa cồn hoặc gel là lựa chọn thay thế hiệu quả cho xà phòng và nước Chương trình hiện tại đã chỉ ra rằng việc sử dụng tay có cồn có thể mang lại hiệu quả cao hơn so với rửa tay bằng xà phòng thông thường.
Tại Việt Nam, Bộ Y Tế đã hướng dẫn các biện pháp ngăn chặn nhiễm khuẩn bệnh viện (NKBV) do vi sinh vật đa kháng thuốc, bao gồm giáo dục, tiêm chủng cho công nhân có nguy cơ cao, và thực hành vệ sinh tay đúng cách Vệ sinh tay được coi là biện pháp phổ biến nhất để bảo vệ bệnh nhân và nhân viên y tế khỏi nhiễm khuẩn Hầu hết các bệnh viện tại Việt Nam đang đối mặt với thách thức về nhân lực trong dịch vụ chăm sóc, đặc biệt ở các khoa như hồi sức tích cực và cấp cứu Việc giáo dục người chăm sóc bệnh nhân về vệ sinh tay là rất cần thiết để giảm tỷ lệ nhiễm khuẩn bệnh viện Một nghiên cứu năm 2017 tại phòng cấp cứu khoa Truyền Nhiễm đã chỉ ra rằng xây dựng chương trình giáo dục rửa tay cho người bệnh là cần thiết Nghiên cứu này được thực hiện với mục tiêu đánh giá hiệu quả và duy trì chương trình giáo dục vệ sinh tay cho người nhà và người chăm sóc bệnh nhân.
1 So sánh kiến thức và kỹ năng rửa tay của người nhà người bệnh trước và sau khi tham dự chương trình giáo dục vệ sinh tay
Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến sự thay đổi kiến thức và kỹ năng rửa tay của người nhà bệnh nhân trước và sau khi tham gia chương trình giáo dục về vệ sinh tay là rất quan trọng Việc tham gia chương trình này giúp nâng cao nhận thức và cải thiện thói quen rửa tay, từ đó góp phần nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe cho bệnh nhân Sự thay đổi này không chỉ phản ánh hiệu quả của chương trình giáo dục mà còn ảnh hưởng đến sự tuân thủ các biện pháp vệ sinh trong môi trường y tế.
Tình hình trong nước và quốc tế
Nhiễm trùng nội tại và nhiễm trùng bệnh viện (HAIs) đang trở thành một thách thức nghiêm trọng đối với các quốc gia có thu nhập thấp và trung bình (LMICs) do nguồn lực y tế hạn chế HAIs là những bệnh nhiễm trùng mà bệnh nhân không mắc phải trước khi nhập viện Nguy cơ nhiễm trùng liên quan đến chăm sóc sức khoẻ ở các nước đang phát triển cao gấp hai mươi lần so với các nước giàu tài nguyên, với tỷ lệ bệnh nhân mắc bệnh lên tới 25% Tần suất nhiễm khuẩn bệnh viện cao nhất được ghi nhận ở khu vực Đông Địa Trung Hải và Đông Nam Á, lần lượt là 11,8% và 10,0% Tuy nhiên, dữ liệu chính xác về HAIs thường không có sẵn do thiếu sót trong việc ghi chép và theo dõi bệnh nhân tại các bệnh viện ở các thành phố lớn Tại Bangladesh, tỷ lệ nhiễm khuẩn bệnh viện có thể vượt quá 30% ở một số bệnh viện.
Rửa tay là biện pháp quan trọng nhất để ngăn ngừa nhiễm trùng bệnh viện, theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) Năm 2006, Bộ Y tế và Phúc lợi Gia đình Bangladesh đã hợp tác với WHO để triển khai chiến dịch "Chăm sóc sạch sẽ là Chăm sóc an toàn hơn", nhằm nâng cao ý thức về vệ sinh tay Tuy nhiên, nhiều cơ sở chăm sóc sức khỏe tại Bangladesh vẫn thiếu các tiện nghi như chậu rửa và dung dịch rửa tay gần giường bệnh, cùng với điều kiện cách ly bệnh nhân không đảm bảo Quản lý chất thải bệnh viện cũng là một vấn đề bị bỏ quên, trong khi việc sử dụng kháng sinh không hợp lý làm gia tăng nguy cơ nhiễm trùng nghiêm trọng, đe dọa tính mạng bệnh nhân Thiếu nhận thức về kiểm soát nhiễm khuẩn là một yếu tố cản trở việc phòng ngừa nhiễm trùng bệnh viện.
Hành vi con người trong việc phòng ngừa và kiểm soát nhiễm trùng có mối liên hệ chặt chẽ, đặc biệt là trong bối cảnh vệ sinh bàn tay (HH) Tạp chí Phòng chống Nhiễm trùng (JIP) nhấn mạnh rằng vệ sinh bàn tay là hành vi quan trọng nhất mà các nhân viên y tế có thể thực hiện để bảo vệ bệnh nhân khỏi tổn hại Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), đây được xem là biện pháp hàng đầu trong việc ngăn ngừa nhiễm trùng liên quan đến chăm sóc sức khỏe (HCAIs) Do đó, phiên bản JIP này sẽ xem xét các khía cạnh của hành vi con người và sự 'thay đổi hành vi' liên quan đến việc rửa tay như một biện pháp phòng ngừa nhiễm khuẩn hiệu quả.
Nghiên cứu của Seal et al đã khảo sát thái độ của bệnh nhân nội trú phẫu thuật tại một bệnh viện Úc về việc tham gia vào giải pháp cho vấn đề nhiễm khuẩn bệnh viện (HCAI) Mười lăm bệnh nhân đã chia sẻ quan điểm của họ, đặc biệt là về sự sẵn lòng yêu cầu học viên làm sạch tay Phản hồi từ bệnh nhân không đồng nhất; một số cảm thấy thoải mái khi nhắc nhở, trong khi những người khác lại thiếu tự tin Một số bệnh nhân lo ngại rằng việc nhắc nhở có thể khiến họ cảm thấy xấu hổ hoặc làm phiền học viên và nhân viên y tế Điều này đặt ra câu hỏi về hiệu quả của việc bệnh nhân gợi ý trong việc cải thiện thực hành rửa tay của nhân viên y tế và liệu bệnh nhân có thực sự muốn tham gia vào việc đảm bảo chất lượng chăm sóc của họ hay không.
Cole đã thực hiện một phân tích diễn ngôn về 359 chính sách vệ sinh tay được cung cấp bởi NHS, nhân viên chăm sóc chính và các đơn vị sức khỏe tâm thần tại Anh.
Nghiên cứu này chỉ ra rằng các tài liệu chính sách thường bắt đầu bằng việc nêu rõ tỷ lệ mắc bệnh, tử vong và chi phí liên quan đến HCAI, đồng thời khuyến khích rửa tay như một giải pháp Các chính sách nhấn mạnh rằng việc rửa tay không chỉ ảnh hưởng đến sức khỏe mà còn đến hiệu quả hoạt động của cơ sở y tế Chiến lược này có thể tác động đến hành vi của nhân viên y tế thông qua việc cung cấp kiến thức và ảnh hưởng đến niềm tin của họ về hiệu quả của việc rửa tay, cũng như khơi gợi ý thức trách nhiệm nghề nghiệp Thú vị hơn, cần có nhiều nghiên cứu để chỉ ra rằng những người tham gia xây dựng chính sách có thể tìm cách tác động đến hành vi của nhân viên chăm sóc bệnh nhân bằng những phương pháp khác ngoài việc cung cấp thông tin.
Để cải thiện các chính sách về rửa tay tại cơ sở y tế, cần tích hợp các chiến lược thay đổi hành vi cụ thể, bao gồm việc lắng nghe ý kiến của bệnh nhân trong việc nhắc nhở nhân viên thực hiện rửa tay Hiện nay, các chính sách thường được soạn thảo bởi bác sĩ lâm sàng và quản lý cao cấp, trong khi những người chăm sóc bệnh nhân trực tiếp có thể hiểu rõ hơn về những rào cản trong việc rửa tay Họ cũng có thể giải quyết các vấn đề liên quan đến cưỡng chế và trừng phạt trong các chính sách hiện hành Nghiên cứu cho thấy rằng khuyến khích và hỗ trợ có tác động tích cực đến hành vi, vì vậy cần thay thế ngôn ngữ cưỡng chế bằng giọng điệu khích lệ và hỗ trợ trong các tài liệu chính sách.
HH và điều này có thể ảnh hưởng nặng nề hơn trong hành vi HH của học viên.
Kaur và cộng sự đã nghiên cứu các chiến lược giáo dục trong các trường y ở Úc và tác động của chúng đến việc thúc đẩy hành vi nghề nghiệp (HH) Họ xác định rằng các bài tập thực hành, phản xạ và tài liệu trực tuyến là những yếu tố có ảnh hưởng tích cực nhất đến HH Ngược lại, tiếp xúc với các mô hình tiêu cực trong thực tế có thể làm suy yếu hiệu quả của các can thiệp giáo dục này Điều này cho thấy rằng các chiến lược hiệu quả không chỉ nhằm truyền đạt kiến thức, mà còn cần tập trung vào việc phát triển kỹ năng HH và thói quen tích cực Các mô hình vai trò có thể ảnh hưởng đến hành vi của sinh viên, do đó cần xem xét liệu các can thiệp giáo dục có được thiết kế dựa trên lý thuyết thay đổi hành vi hay chỉ là kết quả của việc thử nghiệm thực tế.
Leblebicioglu và các cộng sự là những nhà nghiên cứu đầu tiên khảo sát tuân thủ vệ sinh tay trong các bệnh viện tại Thổ Nhĩ Kỳ, trong bối cảnh có nhiều nghiên cứu toàn cầu về vấn đề này Họ đã đánh giá hiệu quả của một can thiệp đa dạng nhằm cải thiện thói quen rửa tay trong môi trường chăm sóc sức khỏe.
Nghiên cứu về việc tuân thủ vệ sinh tay (HH) tại 12 Đơn vị Chăm sóc Chuyên sâu ở các bệnh viện khác nhau đã chỉ ra rằng, thông qua các biện pháp hỗ trợ hành chính, cung cấp nguồn lực, đào tạo, nhắc nhở, giám sát và phản hồi, tỷ lệ tuân thủ vệ sinh tay đã tăng từ 28,8% lên 43,4% trong 3 tháng đầu tiên và duy trì ở mức 48,7% sau 2 năm Mặc dù số lượng khoa ICU tham gia nghiên cứu còn hạn chế, nhưng kết quả cho thấy sự cải thiện đáng kể trong việc tuân thủ HH trong suốt thời gian nghiên cứu Các điều kiện tiên quyết cần thiết cũng đã được xác định để nâng cao hiệu quả của chương trình này.
HH được xem như một nguồn cung cấp kiến thức quan trọng, nhưng trong bối cảnh can thiệp đa dạng này, có nhiều chiến lược nhằm tác động đến hành vi con người Những chiến lược này không chỉ giúp nâng cao nhận thức về hành vi mà còn khuyến khích nỗ lực cải thiện kết quả tích cực trong việc rửa tay Tuy nhiên, một số chiến lược lại khác biệt so với những gì được Kaur et al xác định, chẳng hạn như ảnh hưởng của các mô hình vai trò mẫu, và cũng khác với các mô hình mà Seal et al đã xem xét, như việc nhắc nhở bệnh nhân Điều này đặt ra câu hỏi về cách mà các nhà cung cấp chương trình lựa chọn phạm vi can thiệp và liệu việc lựa chọn này có dựa vào trực giác, đánh giá nhu cầu hay yếu tố nào khác.
Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng can thiệp về vệ sinh tay tại bệnh viện ở Thổ Nhĩ Kỳ và giáo dục sinh viên y khoa ở Úc đã mang lại những kết quả tích cực Các chiến lược hiệu quả bao gồm sự tham gia của bệnh nhân, chính sách hướng đến kết quả mong đợi và ý thức trách nhiệm nghề nghiệp, cũng như các can thiệp giáo dục tập trung vào kỹ năng và phản ánh hiệu suất cá nhân Ngoài ra, việc áp dụng mô hình vai trò mẫu, sử dụng lời nhắc, giám sát và phản hồi cũng đã chứng minh được hiệu quả rõ rệt trong việc nâng cao ý thức vệ sinh tay.
Các nghiên cứu nhấn mạnh rằng mặc dù HH là một quy trình đơn giản, nhưng nó diễn ra trong môi trường chăm sóc phức tạp với nhiều quy trình khác nhau, dẫn đến nhiều rào cản cho việc tuân thủ Sự thành công phụ thuộc vào kiến thức về các chiến lược thay đổi hành vi Thực tiễn tốt nhất là kết hợp các biện pháp can thiệp phức tạp với lý thuyết thay đổi hành vi phù hợp, đồng thời điều chỉnh các biện pháp can thiệp theo các rào cản cá nhân Thách thức tiếp theo liên quan đến HH là cần có sự hệ thống và rõ ràng trong việc giải quyết vấn đề.
Theo Phó Cục trưởng Hoàng Văn Thành, hiện có 72,06% bệnh viện đã lập kế hoạch giám sát nhiễm khuẩn (GSNK) hàng năm, nhưng tỷ lệ thực hiện GSNK vẫn rất thấp, chỉ 35,29% bệnh viện có bộ phận GSNK chuyên trách Việc triển khai GSNK kém dẫn đến khó khăn trong việc kiểm soát tình trạng nhiễm khuẩn tại các cơ sở y tế Trong năm 2016, chỉ 37,39% bệnh viện thực hiện GSNKBV hiện mắc, 23,84% thực hiện GSNKBV mắc mới tại các khoa trọng điểm, và 28,63% thực hiện giám sát NKBV hiện mắc tại các khoa trọng điểm Tỷ lệ bệnh viện thực hiện GSNK cho các bệnh trọng điểm rất thấp, với chỉ 25,42% bệnh viện thực hiện GSNK vết mổ, và còn thấp hơn cho giám sát viêm phổi thở máy (14,46%), nhiễm khuẩn huyết (12,61%) và nhiễm khuẩn tiết niệu (14,29%) Trong tổng số 93 bệnh viện thực hiện GSNK hiện mắc năm 2016, tỷ lệ nhiễm khuẩn bệnh viện chung là 3,6%, cao nhất là tuyến tỉnh với 5,06% Mặc dù giám sát vi sinh và vi khuẩn kháng thuốc đã tăng lên 13,45% so với năm 2015, nhưng vẫn ở mức thấp, trong khi 40,97% bệnh viện thực hiện giám sát vi sinh trong môi trường tại các khu vực có nguy cơ lây nhiễm cao.
Theo nghiên cứu của Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung ương, tỷ lệ nhiễm khuẩn bệnh viện ở khoảng 4.000 bệnh nhân từ 15 khoa Hồi sức tích cực tại 15 bệnh viện trên toàn quốc đạt 27,3% Đặc biệt, các bệnh viện tuyến Trung ương ghi nhận tỷ lệ nhiễm khuẩn cao hơn so với các bệnh viện tuyến cơ sở Đáng lo ngại, tỷ lệ vi khuẩn kháng nhiều loại kháng sinh đặc trị hiện nay dao động từ 50% đến 75%.
Gánh nặng kinh tế, sức khỏe từ việc kiểm soát nhiễm khuẩn thấp
Ảnh hưởng của chương trình giáo dục đến kiến thức và thực hành rửa tay của người chăm sóc
rửa tay của người chăm sóc
Hilburn và cộng sự đã thực hiện một can thiệp đa dạng nhằm nâng cao ý thức vệ sinh tay cho bệnh nhân trong một nghiên cứu trước sau tại đơn vị phẫu thuật chỉnh hình Bệnh nhân được cung cấp tài liệu giáo dục nhấn mạnh tầm quan trọng của vệ sinh tay và được hướng dẫn sử dụng dung dịch sát khuẩn tay nhanh ngay tại giường bệnh Đối với nhân viên y tế, chương trình can thiệp bao gồm các buổi giáo dục, cung cấp lọ sát khuẩn tay nhanh di động, áp phích tuyên truyền và phản hồi hàng tháng về tỷ lệ lây nhiễm, nhằm cải thiện thói quen rửa tay trong quá trình chăm sóc bệnh nhân.
Trong sáu tháng trước khi can thiệp, tỷ lệ nhiễm trùng bệnh viện trung bình là 8.2%, nhưng đã giảm xuống còn 5.3% trong 10 tháng sau can thiệp Sự giảm này chủ yếu liên quan đến nhiễm khuẩn đường tiết niệu, với hơn 80% mức giảm, cùng với sự giảm đáng kể nhiễm C difficile trong phân, nhiễm trùng đường hô hấp và nhiễm khuẩn huyết Ước tính tiết kiệm chi phí trung bình đạt khoảng 91,258 USD.
Nghiên cứu của Thu et al được thực hiện tại hai đơn vị phẫu thuật thần kinh ở Việt Nam, nhằm đánh giá tỷ lệ nhiễm trùng tại vết mổ (SSI) trong một tháng sau phẫu thuật Trong suốt 12 tháng can thiệp, bệnh nhân được cung cấp tài liệu giáo dục về vệ sinh tay và dụng cụ khử trùng tay được lắp đặt tại giường bệnh Đồng thời, nhân viên y tế nhận được tờ rơi, tham gia các buổi giáo dục, được phát dụng cụ sát khuẩn tay nhanh và treo áp phích nhắc nhở Tỷ lệ nhiễm khuẩn vết mổ đã được đánh giá lại sau một tháng can thiệp để xác định hiệu quả của các biện pháp này.
Ban đầu, tỷ lệ nhiễm khuẩn vết mổ (SSI) là 8,3% ở đơn vị can thiệp và 7,2% ở đơn vị không can thiệp (p = 0,7) Sau can thiệp, tỷ lệ SSI giảm còn 3,8% ở đơn vị can thiệp, trong khi ở đơn vị không can thiệp tăng lên 9,2% (p = 0,04) Mặc dù tổng số nhiễm khuẩn vết mổ ở đơn vị can thiệp giảm 54% nhưng không đạt ý nghĩa thống kê (p = 0,09), tuy nhiên, nhiễm khuẩn bề mặt đã giảm 100% (p = 0,007) và không có sự thay đổi đáng kể trong nhiễm trùng bên trong các cơ quan.
Nghiên cứu của Hedin et al đã tiến hành trên 109 bệnh nhân tại một phòng khám phục hồi chức năng, sử dụng thiết kế trước-sau Bệnh nhân được giáo dục về vệ sinh tay và cung cấp dung dịch sát khuẩn tay nhanh trong phòng tắm; nhân viên y tế cũng được trang bị miếng lau tay có cồn và khuyến khích nhắc nhở bệnh nhân vệ sinh tay trong các bữa ăn Kết quả cho thấy tỷ lệ vệ sinh tay tự báo cáo của bệnh nhân đã tăng từ mức “ít khi” lên 85% trước bữa ăn và 49% sau khi đi vệ sinh, mặc dù ý nghĩa thống kê không được báo cáo.
Nghiên cứu của Pokrywka và cộng sự đã chỉ ra rằng việc can thiệp để giảm nhiễm khuẩn ruột tại 520 giường bệnh chăm sóc cấp 3 có hiệu quả rõ rệt Thông qua một gói can thiệp phòng nhiễm khuẩn dựa trên bằng chứng, bệnh nhân được cung cấp tài liệu giáo dục, biển hiệu nhắc nhở và khăn lau tay chứa cồn Nhân viên y tế và tình nguyện viên đã hỗ trợ bệnh nhân trong việc vệ sinh tay trước khi ăn Kết quả cho thấy tỷ lệ nhiễm trùng ruột giảm từ 10,45 bệnh nhân/10.000 ngày xuống còn 6,95 bệnh nhân/10.000 ngày trong năm can thiệp, với p = 0,0009.
Timothy Landers và các cộng sự đã thực hiện một can thiệp toàn bệnh viện với thiết kế nghiên cứu trước-sau, kéo dài 346 ngày, nhằm nâng cao nhận thức về vệ sinh tay cho bệnh nhân và khách thăm Họ đã cung cấp tài liệu về nhiễm khuẩn liên quan đến chăm sóc y tế và hướng dẫn rửa tay cho tất cả bệnh nhân hai lần mỗi ngày Kết quả cho thấy tỷ lệ tụ cầu kháng Methicillin (MRSA) giảm từ 10,6 xuống còn 5,2 trên 1000 bệnh nhân nhập viện trong thời gian can thiệp, mặc dù không có ý nghĩa thống kê rõ ràng Tỷ lệ nhiễm khuẩn cũng giảm ở nhiều loại nhiễm khuẩn khác nhau, bao gồm nhiễm khuẩn huyết, hô hấp, vết mổ, xương và mô mềm, cùng với nhiễm khuẩn đường tiết niệu Ngoài ra, tuân thủ vệ sinh tay của nhân viên y tế tăng khoảng 30% mà không cần thay đổi chương trình hiện tại Phân tích lợi ích chi phí cho thấy can thiệp này đã tiết kiệm được 688,843 đô la Canada.
Một số yếu tố ảnh hưởng đến chương trình giáo dục vệ sinh tay ở người chăm sóc
Nhiều rào cản ảnh hưởng đến tuân thủ vệ sinh tay ở người chăm sóc bao gồm thiếu nhận thức, thiếu phương tiện vệ sinh tay, nước sạch và sản phẩm vệ sinh, quá tải công việc, kích ứng hoặc khô da do sản phẩm rửa tay, cùng với thiếu hướng dẫn và mô hình hóa vai trò Nhận thức về tầm quan trọng của vệ sinh tay có tác động lớn đến thực hành vệ sinh tay của cộng đồng Nghiên cứu định tính của Dyson et al đã chỉ ra những vấn đề này.
Năm 2010 cho thấy rào cản lớn nhất đối với thực hành vệ sinh tay là các yếu tố môi trường, như điều kiện rửa tay kém và thiếu đầu tư từ chính phủ cho phòng chống nhiễm khuẩn, điều này đã ảnh hưởng đến việc nâng cao thói quen vệ sinh tay Nhân viên có trình độ học vấn thấp và bận rộn cũng là những rào cản quan trọng, bên cạnh các yếu tố xã hội và văn hóa như áp lực từ bạn bè và mong đợi của bệnh nhân Khó khăn trong việc đọc hiểu và trình độ học vấn thấp hạn chế khả năng tiếp thu kiến thức về vệ sinh tay Thái độ tiêu cực và cảm xúc cũng ảnh hưởng đến việc tuân thủ vệ sinh tay Theo các điều dưỡng, rửa tay là thiết yếu sau khi tiếp xúc với bệnh nhân, nhưng nhiều người cảm thấy không có thời gian để thực hiện Nghiên cứu của Islam et al chỉ ra rằng cơ sở hạ tầng bệnh viện kém, như thiếu nước và bồn rửa tay, là rào cản lớn đối với việc rửa tay Mặc dù có sẵn thuốc sát trùng tay, nhưng người chăm sóc gia đình vẫn chưa quen với việc sử dụng Các nghiên cứu tại các khu vực đang phát triển như Ai Cập và Jordan cho thấy bồn rửa không đầy đủ và thiếu vị trí để dung dịch rửa tay là những yếu tố cần cải thiện, với sản phẩm vệ sinh tay được coi là can thiệp chính để tăng cường tuân thủ.
Mô hình nâng cao sức khỏe của Pender, N J (1987) nhấn mạnh rằng can thiệp tác động có thể thay đổi hành vi con người thông qua việc xem xét các yếu tố nhân khẩu học, sinh học, hành vi và tình huống Những yếu tố này ảnh hưởng đến nhận thức về lợi ích và rào cản trong việc cải thiện sức khỏe, từ đó khuyến khích cá nhân thực hiện các hành động cụ thể nhằm nâng cao sức khỏe cho bản thân và gia đình Dựa trên mô hình này, nhiều nghiên cứu đã triển khai chương trình giáo dục để trang bị cho những người chăm sóc bệnh nhân những nhận thức và kỹ năng mới, giúp họ đảm bảo an toàn trong quá trình chăm sóc.
Mô hình nâng cao sức khỏe của Pender, N J (1987) làm nổi bật mối quan hệ giữa các yếu tố nhân khẩu học và nhận thức về tầm quan trọng của sức khỏe, cho thấy rằng sự thay đổi trong nhận thức có thể dẫn đến thay đổi hành vi và tham gia vào các hoạt động cải thiện sức khỏe Mô hình này là nền tảng cho can thiệp rửa tay được thực hiện trong nghiên cứu này.
CÁC YÉU TỐ NHẬN THỨC
CÁC YẾU TỐ ĐÃ THAY ĐỔI
THAM GIA HÀNH VI NÂNG CAO SỨC KHOẺ
Sức khỏe đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống, và các đặc điểm nhân khẩu học cùng sinh học ảnh hưởng đến mối quan hệ cá nhân Yếu tố ngoại cảnh và hành vi cũng tác động đến nhận thức về sức khỏe, bao gồm cả tình trạng sức khỏe và lợi ích của các hành vi nâng cao sức khỏe Nhận thức về rào cản trong việc thực hiện các hành vi này và những trải nghiệm khi tham gia sẽ định hình suy nghĩ về hành động, từ đó thúc đẩy sự cải thiện sức khỏe cá nhân.
Health Promotion Model (From ] Health promotion in nursing practice [2nd ed., p.
58] New York: Appleton & Lange Copyright Pearson Education, Upper Saddle River,NJ.)(22)
Đối tượng nghiên cứu
Trong nghiên cứu kéo dài 3 tháng từ tháng 10/2018 đến hết tháng 1/2019, sẽ có 157 người nhà và người chăm sóc bệnh nhân không phải là nhân viên y tế được mời tham gia.
* Thời gian và địa điểm nghiên cứu: phòng cấp cứu/HSTC khoa truyền nhiễm –BV Bạch Mai
- Giả thực nghiệm (nghiên cứu so sánh đánh giá trước sau)
+ Tỷ lệ đạt được về kiến thức ở người chăm sóc bệnh nhân trong nghiên cứu của khoa năm 2017 là 60% (3)
- Mẫu nghiên cứu: cỡ mẫu và cách chọn mẫu
Nghiên cứu được thực hiện bằng cách sử dụng phần mềm tính cỡ mẫu, với quần thể nghiên cứu là 1350 người chăm sóc Độ tin cậy được đặt ở mức 95% và khoảng tin cậy là 5, áp dụng công thức tính cỡ mẫu phù hợp.
Hệ số ảnh hưởng (ES) được tính bằng cách lấy sự chênh lệch kiến thức trước và sau chương trình giáo dục chia cho độ lệch chuẩn điểm kiến thức từ nghiên cứu trước đó Dự kiến, điểm trung bình kiến thức sau giáo dục sẽ cao hơn 4 so với nghiên cứu trước, với độ lệch chuẩn là 18 Kết quả cho thấy hệ số ảnh hưởng ES là 0.2 Ngoài ra, hệ số tương quan (r) trong nghiên cứu này được giả định từ 0.6 đến 0.8, và chọn giá trị 0.6 với khoảng tin cậy 95%, dẫn đến sai số loại 2 là 0.8 và loại 1 là 0.05, từ đó tính ra hằng số C là 7.85.
Kết quả từ công thức cho thấy có 157 người tham gia, và khi cộng thêm 20% trường hợp người nhà và người chăm sóc không đồng ý tham gia, tổng số mẫu được lấy là 188.
* Nội dung nghiên cứu/ Các biến số và chỉ số trong nghiên cứu:
Các biến số và chỉ số nghiên cứu
Biến số Chỉ số Ghi chú
Trình độ học vấn Biến thứ hạng
Nghề nghiệp Biến định danh
Tôn giáo Biến định danh
Kiến thức vệ sinh bàn tay Biến liên tục
Kỹ năng về vệ sinh bàn tay Biến liên tục
Bước 1: Xây dựng đề cương
Bước 3: Nghiên cứu thử nghiệm tính giá trị và độ tin cậy của bộ câu hỏi Bước 4: Thu thập số liệu
Bước 5: làm sạch số liệu
Bước 6: Phân tích số liệu
Bước 7: báo cáo kết quả nghiên cứu
* Bộ công cụ nghiên cứu và kĩ thuật thu thập số liệu
Bộ công cụ nghiên cứu được thiết kế dựa trên Hướng dẫn của WHO về vệ sinh tay, đã được áp dụng trong nhiều nghiên cứu tại Hoa Kỳ, Thổ Nhĩ Kỳ và Nigeria Gần đây, khoa đã tiến hành nghiên cứu về kiến thức, thái độ và thực hành để xây dựng bộ câu hỏi Để cải thiện sự hiểu biết của người trả lời, một số câu hỏi sẽ được điều chỉnh Ba chuyên gia, bao gồm Điều dưỡng trưởng khoa Lây, Bác sĩ điều trị và một điều dưỡng kiểm soát nhiễm khuẩn, sẽ được mời xem xét nội dung câu hỏi Sau khi nhận được sự đồng thuận từ các chuyên gia, bộ câu hỏi sẽ được chính thức điều chỉnh và sử dụng cho nghiên cứu này.
Cấu trúc của bảng câu hỏi sẽ được giữ nguyên, mặc dù một số câu hỏi đã được điều chỉnh để rõ ràng hơn và phù hợp với người chăm sóc bệnh nhân Bảng câu hỏi sẽ được cập nhật dựa trên bảng phân loại được xây dựng từ nghiên cứu tài liệu và thảo luận với các chuyên gia.
Bộ câu hỏi gồm có 3 phần với tổng số câu hỏi là 44 câu.
Phần 1: Thông tin chung của đối tượng tham gia nghiên cứu
Phần 2: Kiến thức về vệ sinh đôi tay
Gồm 26 câu hỏi kiến thức được thiết kế dựa trên bộ câu hỏi và kết quả nghiên cứu về kiến thức, thái độ và hành vi của người nhà bệnh nhân trong nghiên cứu trước đó của khoa Mỗi câu hỏi là 10 điểm, trả lời sai không có điểm như vậy sẽ là 260 điểm Nếu trả lời đúng từ 70% trở lên các câu trả lời được xem là đạt, dưới 70% xem là chưa đạt
Kỹ năng rửa tay tại lớp bao gồm 12 câu hỏi, mỗi câu trị giá 10 điểm, tổng cộng là 120 điểm Nếu học sinh đạt 120 điểm, họ sẽ được xem là hoàn thành tốt kỹ năng này Phương pháp đánh giá sẽ dựa trên việc quan sát quá trình rửa tay mô phỏng trong lớp học.
Người chăm sóc bệnh nhân sẽ tự trả lời các câu hỏi trong phần kiến thức, trong khi phần thực hành rửa tay sẽ được quan sát khi từng người tham gia thực hiện trong buổi đào tạo.
Từ tháng 10 năm 2018, 188 người nhà và người hỗ trợ chăm sóc bệnh nhân đã tham gia nghiên cứu và được mời tham dự các buổi đào tạo kết hợp trong các cuộc họp hàng tháng Trước buổi đào tạo kéo dài từ 30-60 phút với 30 người tham gia, mục đích nghiên cứu và quyền lợi của người tham gia được giải thích rõ ràng Những người đồng ý tham gia sẽ được hỏi bộ câu hỏi ngay lần đầu gặp nhà nghiên cứu Sau buổi đào tạo, nhóm nghiên cứu sẽ phát lại bộ câu hỏi và quan sát người nhà thực hiện rửa tay mô phỏng.
1 điều dưỡng quan sát 2 người cùng rửa tay)
Trước khi tiến hành phỏng vấn, một biên bản cam kết tham gia đã được ký kết Bộ câu hỏi được thiết kế để phỏng vấn trực tiếp người nhà hoặc người hỗ trợ chăm sóc của bệnh nhân đang điều trị tại phòng cấp cứu từ tháng 10 đến tháng 1 năm 2019 Các điều dưỡng thực hiện phỏng vấn đều đã được đào tạo về kiểm soát nhiễm khuẩn trong khoa.
* Phân tích và xử lý số liệu
Các câu hỏi tự điền và in được chỉnh sửa và mã hóa cho các mục nhập máy tính, sau đó sẽ được kiểm tra lại bởi các điều tra viên chính Dữ liệu được nhập vào máy tính, làm sạch và phân tích bằng Microsoft Office Excel (phiên bản 2013) và IBM SPSS (phiên bản 20.0) Phân tích số liệu sử dụng các phương pháp thống kê, bao gồm thống kê mô tả để tính toán khoảng tin cậy tần số, độ lệch chuẩn và 95% cho mỗi phân loại trong bộ câu hỏi Ngoài ra, test thống kê Chi-bình phương được áp dụng để kiểm tra sự khác biệt giữa các đặc điểm chung của đối tượng và biến phân loại trong phần trả lời về kiến thức và thực hành.
Do sự phân bố không chuẩn của các biến phụ thuộc, các kiểm định Wilcoxon đã được áp dụng để so sánh giá trị trung bình về kiến thức và thực hành mô phỏng trước và sau buổi đào tạo Mối tương quan giữa sự thay đổi của kiến thức và thực hành mô phỏng với các đặc điểm nhân khẩu học, như nhóm tuổi và mức độ học vấn, đã được phân tích thông qua các kiểm định Mann-Whitney U và Kruskal-Wallis, là những phương pháp kiểm định phi tham số.
* Kiểm soát các trường hợp thiếu số liệu
* Kiểm soát các trường hợp thiếu số liệu
Nghiên cứu của Cohen et al chỉ ra rằng việc mất từ 5% đến 10% dữ liệu không gây ảnh hưởng đáng kể đến kết quả nghiên cứu Mặc dù các điều dưỡng có trách nhiệm kiểm tra toàn bộ câu hỏi sau khi người tham gia trả lời, nhưng bệnh nhân và người nhà có thể xuất viện trước khi điều dưỡng thu thập thông tin cần thiết để hoàn thiện Trong quá trình phân tích dữ liệu, các giá trị bị mất sẽ được loại trừ.
* Khía cạnh đạo đức của nghiên cứu
Nghiên cứu đã được phê duyệt bởi hội đồng đạo đức của Hội đồng khoa học bệnh viện Bạch Mai và ban lãnh đạo khoa Truyền Nhiễm Trong khảo sát, người chăm sóc sức khỏe và người nhà bệnh nhân đã đồng ý tham gia được yêu cầu điền vào bảng câu hỏi về kiến thức vệ sinh tay Trước khi khảo sát, sự đồng ý bằng văn bản của người tham gia đã được thu thập Các điều dưỡng đã giải thích rõ nội dung giấy chấp thuận, thông báo mục tiêu nghiên cứu và khẳng định rằng sự tham gia hoàn toàn tự nguyện, với quyền rút lui bất cứ lúc nào Người tham gia cũng có thể từ chối trả lời các câu hỏi nếu cảm thấy không thoải mái.
Đặc điểm nhân khẩu học
Bảng 1: Đặc điểm chung các yếu tố nhân khẩu học Đặc điểm chung Số lượng
Mù chữ Tiểu học Trung học Trung cấp Cao đẳng Đại học
Công nhân Nhân viên y tế Nông dân Khác
Trong nghiên cứu với 188 đối tượng, nhóm tuổi từ 41 đến 50 chiếm tỷ lệ cao nhất (35.6%), tiếp theo là nhóm từ 31 đến 40 (30.9%) Tỷ lệ nữ giới cao hơn nam giới khoảng 7%, chủ yếu là những người có trình độ học vấn trung học (38%), tiếp theo là đại học (20%) và trung cấp (17%) Các trình độ khác như mù chữ, tiểu học, trung cấp chiếm tỷ lệ rất thấp Về tôn giáo, đa số đối tượng không theo tôn giáo, trong khi những người theo đạo chủ yếu là Phật giáo (45%), còn lại theo Thiên Chúa giáo Đối tượng nghiên cứu chủ yếu là nông dân (51.1%), tiếp theo là công nhân (25%) và các nghề nghiệp khác (21%).
Kiến thức của người chăm sóc trước và sau giáo dục vệ sinh tay
Trong nghiên cứu này, tổng số câu hỏi kiến thức là 26, với tổng điểm tối đa đạt được là 260 điểm Điểm trung bình của 188 đối tượng tham gia là 198,09 với độ lệch chuẩn 28,067 Đặc biệt, hơn 50% đối tượng có kiến thức về vệ sinh tay đạt điểm cao.
Biểu đồ 1: Phân bố điểm kiến thức về vệ sinh bàn tay của người hỗ trợ chăm sóc bệnh nhân
Kolmogorov-Smirnov a Shapiro-Wilk Statistic df Sig Statistic df Sig. ĐKTrc
Sauk hi kiểm định test về phân bố chuẩn Kolmogorov- Smirmov cho thấy điểm kiến thức trước khi giáo dục sức khỏe không phân bố chuẩn với giá trị p