1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

(LUẬN VĂN THẠC SĨ) Chuỗi giá trị dệt may toàn cầu và khả năng tham gia của ngành dệt may dệt may Việt Nam

109 10 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Chuỗi Giá Trị Dệt May Toàn Cầu Và Khả Năng Tham Gia Của Ngành Dệt May Việt Nam
Tác giả Lương Thị Linh
Người hướng dẫn PGS.TS. Hà Văn Hội
Trường học Đại Học Quốc Gia Hà Nội
Chuyên ngành Kinh Tế Đối Ngoại
Thể loại luận văn thạc sĩ
Năm xuất bản 2012
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 109
Dung lượng 1,48 MB

Cấu trúc

  • Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC THAM GIA CHUỖI GIÁ TRỊ DỆT MAY TOÀN CẦU (20)
    • 1.1. Các khái niệm cơ bản về chuỗi giá trị dệt may toàn cầu (20)
      • 1.1.2. Lý thuyết chuỗi giá trị của Michael E. Porter (23)
      • 1.1.3. Khái niệm chuỗi giá trị dệt may toàn cầu (28)
      • 1.1.4. Bản chất và nội dung cơ bản của chuỗi giá trị dệt may toàn cầu (32)
        • 1.1.4.1. Bản chất của chuỗi giá trị dệt may toàn cầu (32)
        • 1.1.4.2. Các “mắt xích” trong chuỗi giá trị dệt may toàn cầu (32)
    • 1.2. Sự cần thiết của việc tham gia chuỗi giá trị dệt may toàn cầu đối với các nước đang phát triển trong bối cảnh toàn cầu hóa (35)
      • 1.2.1. Toàn cầu hóa và tự do hóa thương mại: cơ hội và thách thức đối với các nước đang phát triển (35)
      • 1.2.2. Tham gia chuỗi giá trị toàn cầu và nâng cao năng lực cạnh tranh (36)
    • 1.3. Kinh nghiệm tham gia chuỗi giá trị dệt may toàn cầu của Trung Quốc….- (41)
      • 1.3.2. Sự gia nhập của Trung Quốc trong chuỗi giá trị dệt may Châu Á (44)
      • 1.3.3. Bài học kinh nghiệm (47)
  • Chương 2. THỰC TRẠNG THAM GIA CHUỖI GIÁ TRỊ DỆT MAY TOÀN CẦU CỦA VIỆT NAM (0)
    • 2.1. Tổng quan về ngành dệt may của Việt Nam (48)
      • 2.1.2. Tình hình xuất khẩu sản phẩm dệt may của Việt Nam (49)
    • 2.2. Thực trạng tham gia chuỗi giá trị toàn cầu của ngành dệt may Việt Nam (58)
      • 2.2.2. Công đoạn nghiên cứu, thiết kế sản phẩm (63)
      • 2.2.3. Công đoạn sản xuất/gia công sản phẩm cuối cùng (65)
      • 2.2.4. Công đoạn xuất khẩu sản phẩm (70)
      • 2.2.5. Công đoạn marketing và phân phối (73)
    • 2.3. Đánh giá sự tham gia chuỗi giá trị toàn cầu của ngành dệt may Việt Nam (75)
      • 2.3.2. Nguyên nhân của việc ngành dệt may Việt Nam tham gia chưa có hiệu quả trong chuỗi giá trị dệt may toàn cầu (76)
        • 2.3.2.1. Thiết bị công nghệ lạc hậu (76)
        • 2.3.2.2. Nguyên vật liệu kém chất lượng, phải nhập khẩu nhiều (77)
        • 2.3.2.3. Nguồn nhân lực dồi dào, giá rẻ nhưng trình độ chưa cao đặc biệt là thiếu các nhà thiết kế chuyên nghiệp (79)
        • 2.3.2.4. Mạng lưới phân phối còn hạn chế, marketing chưa chuyên nghiệp (80)
  • Chương 3. ĐỊNH HƯỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỂ VIỆT NAM (0)
    • 3.1.1.1. Điểm mạnh (82)
    • 3.1.1.2. Điểm yếu (83)
    • 3.1.1.3. Cơ hội (86)
    • 3.1.1.4. Thách thức (87)
    • 3.1.2. Phân tích các khả năng tham gia chuỗi giá trị toàn cầu của ngành dệt (88)
    • 3.2. Một số giải pháp đối với ngành dệt may nhằm tham gia có hiệu quả chuỗi giá trị toàn cầu (89)
      • 3.2.1. Mạnh dạn đầu tư cho khâu thiết kế sản phẩm (89)
      • 3.2.2. Đầu tư quy hoạch phát triển nguồn nguyên liệu và sản xuất nguyên liệu- 80 - 3.2.3. Tăng cường đầu tư cho khâu sản xuất và xúc tiến xuất khẩu (90)
      • 3.2.4. Hoàn thiện mạng lưới phân phối và marketing (95)
      • 3.2.5. Xây dựng các khu cụm công nghiệp dệt may (99)
    • 3.3. Kiến nghị đối với nhà nước (101)
      • 3.3.1. Xây dựng các Trung tâm tìm kiếm nguồn nguyên liệu (101)
      • 3.3.2. Xây dựng trung tâm thông tin (101)
      • 3.3.3. Thúc đẩy thương mại điện tử (102)
      • 3.3.4. Nâng cao hiệu quả của doanh nghiệp dệt may nhà nước và thúc đẩy đầu tư nước ngoài vào thượng nguồn (103)
      • 3.3.5. Cải tiến thủ tục hải quan (103)
      • 3.3.6. Cải thiện chính sách thuế (104)
  • KẾT LUẬN (105)
  • TÀI LIỆU THAM KHẢO (107)

Nội dung

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC THAM GIA CHUỖI GIÁ TRỊ DỆT MAY TOÀN CẦU

Các khái niệm cơ bản về chuỗi giá trị dệt may toàn cầu

1.1.1 Khái niệm chuỗi giá trị toàn cầu

Trước khi tìm hiểu về chuỗi giá trị toàn cầu, cần phải làm rõ chuỗi giá trị là gì?

Chuỗi giá trị bao gồm các hoạt động cần thiết để chuyển đổi sản phẩm hoặc dịch vụ từ khái niệm ban đầu đến tay người tiêu dùng và cuối cùng là quá trình vứt bỏ sau khi sử dụng Một chuỗi giá trị tồn tại khi tất cả các bên liên quan cùng tham gia để tối đa hóa giá trị trong toàn bộ chuỗi Định nghĩa này có thể được hiểu theo cả hai cách, nghĩa hẹp và nghĩa rộng.

Theo nghĩa hẹp, chuỗi giá trị bao gồm các hoạt động trong một công ty để sản xuất sản phẩm, từ xây dựng khái niệm và thiết kế, mua vật tư đầu vào, sản xuất, tiếp thị, phân phối đến dịch vụ hậu mãi Tất cả những hoạt động này tạo thành một "chuỗi" kết nối giữa người sản xuất và người tiêu dùng, đồng thời mỗi hoạt động đều góp phần tăng giá trị cho sản phẩm cuối cùng.

Chuỗi giá trị là tập hợp các hoạt động do nhiều bên tham gia thực hiện, bao gồm người sản xuất sơ cấp, người lắp ráp và nhà cung cấp dịch vụ, nhằm tạo ra hàng hóa hoặc dịch vụ Quy trình này bao gồm các bước từ khái niệm, thiết kế, tìm kiếm nhà cung cấp, chế tạo linh kiện, lắp ráp, khai thác thị trường, tiếp thị, phân phối đến hỗ trợ người tiêu dùng, tạo ra giá trị gia tăng cho sản phẩm.

Cách tiếp cận toàn diện không chỉ tập trung vào các hoạt động của một doanh nghiệp riêng lẻ, mà còn xem xét các mối liên hệ ngược và xuôi, cho đến khi sản phẩm hoàn thiện được kết nối với người tiêu dùng cuối cùng.

Chuỗi giá trị là tổng hợp các hoạt động mà công ty thực hiện từ khâu phát minh sản phẩm đến khi sản phẩm được bán ra thị trường, bao gồm thiết kế, sản xuất, marketing, phân phối và dịch vụ sau bán hàng Chuỗi giá trị có thể được tạo ra bởi một công ty hoặc nhiều công ty khác nhau, và không chỉ bao gồm sản xuất hàng hóa hữu hình mà còn các hoạt động dịch vụ Chuỗi giá trị được chia thành chuỗi giá trị giản đơn, bao gồm các hoạt động cơ bản từ đầu đến cuối sản phẩm, và chuỗi giá trị mở rộng, chi tiết hóa các hoạt động trong chuỗi giá trị giản đơn Ba đặc điểm quan trọng của chuỗi giá trị là: tạo ra liên kết giữa các doanh nghiệp thông qua sự hợp tác, yêu cầu tuân theo tiêu chuẩn và cải tiến liên tục để tăng khả năng cạnh tranh, và chia sẻ lợi nhuận hợp lý giữa các bên tham gia, tạo động lực cho họ phát huy vai trò trong chuỗi.

Chuỗi giá trị sản phẩm được chia thành ba giai đoạn chính: thượng nguồn (bao gồm nghiên cứu và phát triển - R&D, thiết kế, sản xuất linh kiện), trung nguồn (lắp ráp, gia công) và hạ nguồn (tiếp thị, xây dựng mạng lưới phân phối) Giá trị gia tăng thường cao nhất ở khâu R&D và marketing, tiếp theo là thiết kế và phân phối, trong khi sản xuất, gia công và lắp ráp tạo ra giá trị gia tăng thấp nhất Do đó, các nước phát triển thường tập trung vào các khâu có giá trị gia tăng cao, trong khi các khâu giá trị gia tăng thấp thường được chuyển giao cho các doanh nghiệp ở các nước đang phát triển.

Chuỗi giá trị có thể diễn ra trong một phạm vi hẹp nhưng cũng có thể diễn ra ở phạm vi toàn cầu

Chuỗi giá trị toàn cầu là quá trình mà sản phẩm hoặc dịch vụ trải qua nhiều giai đoạn và quốc gia trên toàn thế giới.

Dự án nghiên cứu kinh doanh quốc tế Việt Nam năm 2005 có định nghĩa về chuỗi giá trị toàn cầu như sau:

Chuỗi giá trị toàn cầu là một mạng lưới phức tạp bao gồm các quá trình lao động và sản xuất, dẫn đến việc tạo ra sản phẩm hoàn chỉnh cho người tiêu dùng.

Khái niệm chuỗi giá trị có sự tương đồng với chuỗi cung ứng và mạng sản xuất toàn cầu, cả ba đều nhằm mục tiêu tạo ra giá trị gia tăng cho các hoạt động Khi các hoạt động này mở rộng ra ngoài biên giới quốc gia, chúng được gọi là chuỗi giá trị toàn cầu và chuỗi cung ứng toàn cầu Sự khác biệt cơ bản giữa các khái niệm này nằm ở phạm vi và cách thức hoạt động trong việc tạo ra giá trị.

Thước đo trong chuỗi giá trị chính là khả năng gia tăng giá trị cho sản phẩm, tập trung vào việc nâng cao giá trị tại từng mắt xích trong chuỗi cung ứng, nhằm mang lại lợi ích tối đa cho người tiêu dùng.

- Thước đo của “chuỗi cung ứng” là khả năng tiết giảm chi phí cho việc sản xuất và phân phối sản phẩm

Mạng sản xuất tập trung vào các mối liên kết nội bộ và giữa các nhóm công ty trong chuỗi giá trị, nhằm sản xuất, phân phối và hỗ trợ tiêu dùng các sản phẩm cụ thể.

1.1.2 Lý thuyết chuỗi giá trị của Michael E Porter

Phương pháp chuỗi giá trị, được Michael E Porter giới thiệu trong cuốn sách “Lợi thế cạnh tranh” vào năm 1985, đã trở thành công cụ quan trọng giúp các doanh nghiệp xác định và duy trì lợi thế cạnh tranh bền vững trong thế kỷ 21 Khái niệm giá trị gia tăng trong chuỗi giá trị được xem là yếu tố quyết định cho sự thành công của tổ chức Porter cho rằng, doanh nghiệp có thể cung cấp sản phẩm hoặc dịch vụ với giá trị tương đương đối thủ nhưng với chi phí thấp hơn hoặc có những đặc tính mà khách hàng mong muốn Ông nhấn mạnh rằng việc phân tích doanh nghiệp như một tập hợp các hoạt động và quy trình là cần thiết để xác định lợi thế cạnh tranh, và điều này trở nên dễ dàng hơn khi tách biệt các hoạt động cơ bản và hoạt động bổ trợ, từ đó làm rõ cách mà chúng góp phần vào giá trị cuối cùng của sản phẩm.

Các hoạt động chính tập trung vào việc chuyển đổi vật lý và quản lý sản phẩm hoàn thành để phục vụ khách hàng Hậu cần đến và hậu cần ra ngoài đóng vai trò quan trọng trong chuỗi giá trị, tạo ra “giá trị” cho khách hàng và mang lại lợi ích tài chính cho doanh nghiệp Việc tích hợp sâu rộng các chức năng sản xuất, bán hàng, marketing với hậu cần là yếu tố then chốt của chuỗi giá trị Các hoạt động bổ trợ hỗ trợ các hoạt động chính và tiến trình chính, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.

Cụ thể các hoạt động trong chuỗi giá được minh họa ở hình 1.1

Hình 1.1 - Mô hình Chuỗi giá trị của Michael E Porter

Nguồn: Competitive Advantage: Creating and Sustaining Superior

Performance (Michael E Porter, 2009) Porter phân biệt và nhóm gộp thành năm hoạt động chính:

Hậu cần đến (inbound logistics) bao gồm các hoạt động như nhận, lưu trữ và vận chuyển nguyên liệu đầu vào cho sản phẩm Những hoạt động này liên quan đến quản trị nguyên vật liệu, quản lý kho bãi, kiểm soát tồn kho, lập lịch trình vận chuyển và xử lý trả hàng cho nhà cung cấp.

Sản xuất bao gồm các hoạt động chuyển đổi nguyên liệu đầu vào thành sản phẩm hoàn chỉnh, như gia công cơ khí, đóng gói, lắp ráp, bảo trì thiết bị, kiểm tra chất lượng, in ấn và quản lý cơ sở vật chất.

Sự cần thiết của việc tham gia chuỗi giá trị dệt may toàn cầu đối với các nước đang phát triển trong bối cảnh toàn cầu hóa

1.2.1 Toàn cầu hóa và tự do hóa thương mại: cơ hội và thách thức đối với các nước đang phát triển

Xu thế toàn cầu hoá đang ảnh hưởng mạnh mẽ đến tất cả các quốc gia, đặc biệt là các nước đang phát triển, tạo ra sự liên kết và phụ thuộc lẫn nhau ngày càng chặt chẽ Do đó, cả những quốc gia giàu có lẫn nghèo khó, lớn hay nhỏ đều cần nỗ lực nâng cao năng lực cạnh tranh của mình để không bị thua kém trong cuộc chiến toàn cầu về kinh tế.

Do sự di chuyển tự do của các yếu tố trong quá trình tái sản xuất hàng hóa và dịch vụ giữa các quốc gia, phân công lao động ngày càng sâu sắc và diễn ra trên toàn cầu, dẫn đến sự hình thành các chuỗi giá trị toàn cầu.

Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, các quốc gia phải đối mặt với nhiều thách thức và cơ hội trong chính sách thương mại và đầu tư Việc tham gia vào tiến trình toàn cầu hóa mang lại nhiều lợi ích, nhưng cũng đòi hỏi các quốc gia phải có chiến lược phù hợp Ngược lại, việc đứng ngoài sẽ dẫn đến sự phân biệt trong tiếp cận thị trường hàng hóa, dịch vụ và đầu tư, gây khó khăn cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa Đặc biệt, trong thời đại cách mạng công nghệ 4.0, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế không chỉ diễn ra trong từng quốc gia mà còn ảnh hưởng đến sự thay đổi cơ cấu kinh tế toàn cầu.

1.2.2 Tham gia chuỗi giá trị toàn cầu và nâng cao năng lực cạnh tranh

Hội nhập quốc tế đóng vai trò quan trọng trong việc tham gia chuỗi giá trị toàn cầu (GVC), cho phép các công đoạn sản xuất được đặt tại những quốc gia có hiệu quả cao nhất với chi phí thấp nhất Nhiều nghiên cứu kinh tế cho thấy lợi ích từ việc tham gia GVC có thể gấp 10-20 lần so với lợi ích từ tự do hóa thương mại Đối với doanh nghiệp ở các nước đang phát triển, việc trở thành một phần của GVC là yếu tố then chốt để tiếp nhận công nghệ cao.

Trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu đang hoạt động theo mô hình chuỗi giá trị toàn cầu, mỗi quốc gia đóng vai trò là một mắt xích quan trọng trong quá trình sản xuất hàng hóa hoàn chỉnh Để tận dụng tối đa các thế mạnh của mình, Việt Nam cần xác định rõ chiến lược tham gia vào "dòng thác" này Câu hỏi đặt ra là hàng dệt may Việt Nam sẽ tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu ra sao để nâng cao giá trị sản phẩm và tăng cường vị thế cạnh tranh trên thị trường quốc tế.

Mỗi sản phẩm đều chứa đựng một chuỗi giá trị kết nối đa dạng, tạo nên giá trị cuối cùng của nó Trong thời đại hội nhập, giá trị của sản phẩm không còn bị giới hạn bởi biên giới quốc gia, mà một sản phẩm có thể phát triển từ một địa phương cụ thể nhưng vẫn mang giá trị toàn cầu.

Chuỗi giá trị toàn cầu được hình thành từ những mắt xích liên kết, trong đó mỗi quốc gia và nền kinh tế giữ một vai trò nhất định Không thể kỳ vọng rằng lợi ích từ hội nhập sẽ được phân chia đồng đều Các quốc gia đầu tư công nghệ vào các nước đang phát triển để khai thác tài nguyên và lao động sẽ nhận được phần lợi lớn hơn Những nước như Việt Nam, với vị thế phát triển chậm hơn, sẽ chỉ nhận được phần nhỏ hơn trong cuộc chia sẻ này, nhưng vẫn tốt hơn là không có gì Nếu Việt Nam không đặt ra mục tiêu cạnh tranh ở các phân khúc tạo giá trị gia tăng cao, khoảng cách với các nước phát triển sẽ ngày càng rộng hơn.

Việc tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu không còn là điều xa vời mà là một yêu cầu cấp thiết đối với các doanh nghiệp dệt may Việt Nam, đặc biệt là hơn 3500 doanh nghiệp nhỏ và vừa với nhiều hạn chế Để nâng cao khả năng cạnh tranh và mở rộng thị phần, các doanh nghiệp cần liên kết với nhau để tạo ra các tập đoàn kinh tế mạnh, đồng thời rút kinh nghiệm từ các nền kinh tế khác Chính sách phát triển đồng bộ và hỗ trợ phù hợp là điều mà doanh nghiệp Việt Nam mong đợi để cải thiện năng lực cạnh tranh Trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu ngày càng gay gắt, vai trò của quốc gia trong việc tạo ra và duy trì lợi thế cạnh tranh thông qua việc địa phương hóa và khai thác những khác biệt về văn hóa, lịch sử và cơ cấu kinh tế trở nên quan trọng hơn bao giờ hết Các quốc gia thành công trong các ngành cụ thể thường có môi trường nội địa năng động và hướng về tương lai, điều này góp phần vào sự thành công trong cạnh tranh.

Theo Michael E Porter, sự thành công của nền kinh tế phụ thuộc vào khả năng khai thác lợi thế cạnh tranh một cách liên tục, yêu cầu đổi mới cả ở cấp độ doanh nghiệp và Chính phủ Ở Việt Nam, mặc dù nguồn lực tự nhiên và lao động rẻ là điểm mạnh ban đầu, nhưng cần giảm phụ thuộc vào lợi thế này và chuyển sang nền kinh tế có năng suất và chất lượng lao động cao hơn Hiện nay, việc tăng cường lợi thế cạnh tranh quốc gia chủ yếu dựa vào đổi mới công nghệ và quản lý, sản xuất sản phẩm giá trị gia tăng với công nghệ tiên tiến Điều này đòi hỏi sự phối hợp giữa các doanh nghiệp trong cùng ngành, quan hệ đối tác giữa các ngành liên quan và chính sách thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh Để phát triển hiệu quả, tư duy quản lý cần tập trung vào "tư duy giá trị gia tăng", nhằm tăng tỷ trọng giá trị Việt Nam giữ lại trong tổng giá trị xuất khẩu, đồng thời phân tích chuỗi giá trị quốc tế để tối ưu hóa lợi ích cho chuỗi giá trị quốc gia.

Trong bối cảnh toàn cầu hóa và phân công lao động xã hội ngày càng sâu sắc, doanh nghiệp, ngành và quốc gia không thể tồn tại độc lập trên thị trường quốc tế Tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu giúp các doanh nghiệp tận dụng thế mạnh tương đối của mình, từ đó nâng cao hiệu quả sản xuất, gia tăng giá trị và cải thiện năng lực cạnh tranh.

Việc tham gia chuỗi giá trị toàn cầu mang lại rất nhiều lợi ích cho các bên tham gia Cụ thể như sau:

Nâng cao tính chuyên môn hóa trong sản xuất là yếu tố quan trọng cho các nước và doanh nghiệp khi tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu Mỗi quốc gia thực hiện một hoặc một vài công đoạn cụ thể trong quá trình tạo ra sản phẩm cuối cùng, như nghiên cứu phát triển, sản xuất nguyên vật liệu, lắp ráp, hoặc phân phối Qua việc phân công lao động này, các nước phát triển những kỹ năng đặc thù, từ đó tạo ra lợi thế cạnh tranh nhờ vào tính chuyên môn hóa cao.

Nâng cao hiệu quả kinh doanh là mục tiêu hàng đầu của mọi doanh nghiệp, với lợi nhuận là thước đo chính Tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu giúp doanh nghiệp tận dụng những điểm mạnh riêng, từ đó giảm chi phí, cải thiện chất lượng sản phẩm hoặc dịch vụ, và tối đa hóa doanh thu Kết quả cuối cùng là gia tăng lợi nhuận, mang lại sự phát triển bền vững cho doanh nghiệp.

Để tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu, các doanh nghiệp vừa và nhỏ cần liên kết với nhau, phát huy lợi thế cạnh tranh thông qua công nghệ cao và nguồn nhân lực chất lượng Việc áp dụng quản lý tiên tiến và khai thác điều kiện thuận lợi của địa phương sẽ giúp giảm chi phí vận tải và tăng cường đầu tư cho nghiên cứu và phát triển công nghệ Mục tiêu là đưa ngành dệt may trở thành ngành công nghiệp trọng điểm, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước, tạo việc làm, nâng cao khả năng cạnh tranh và hội nhập kinh tế toàn cầu.

Kinh nghiệm tham gia chuỗi giá trị dệt may toàn cầu của Trung Quốc….-

1.3.1 Khái quát ngành dệt may Trung Quốc

Ngành dệt may Trung Quốc đứng đầu trong lĩnh vực công nghiệp toàn cầu, đóng vai trò quan trọng trong việc tạo việc làm và tăng thu nhập cho khu vực nông thôn Ngành này không chỉ mang lại ngoại tệ qua xuất khẩu mà còn mở rộng thị trường và nâng cao mức độ đô thị hóa Ngoài ra, ngành dệt may còn thúc đẩy các ngành công nghiệp liên quan và hình thành các vùng công nghiệp mới Trung Quốc dẫn đầu thế giới về sản lượng quần áo từ các chất liệu như len, cotton, lụa và sợi hóa học, giữ vị trí hàng đầu trong xuất khẩu hàng dệt may trong nhiều năm qua.

Ngành dệt may Trung Quốc đang hình thành một chuỗi sản xuất thống nhất và khoa học, từ thu hoạch nguyên liệu đến hoàn thiện sản phẩm Ngành này không ngừng phát triển để đáp ứng yêu cầu về số lượng, chất lượng và phân phối thông qua nghiên cứu công nghệ và thị hiếu xã hội Kể từ khi gia nhập WTO, Trung Quốc đã thu hút lượng lớn vốn và công nghệ đầu tư vào ngành dệt may, với tổng vốn đầu tư vào trang thiết bị tiên tiến vượt 20 tỷ USD từ năm 2001 đến 2006 Nhiều công ty may mặc nổi tiếng đã đặt nhà máy tại Trung Quốc, dẫn đến việc áp dụng rộng rãi công nghệ mới và sản phẩm sáng tạo trong quy trình sản xuất.

Ngành dệt may Trung Quốc đã có những tiến bộ đáng kể nhờ vào việc khoanh vùng nguồn tài nguyên, nâng cao công nghệ và giảm thiểu sự phụ thuộc Trong năm năm qua, Trung Quốc đã nhập khẩu máy móc trị giá 20 tỉ USD, chiếm 50% tổng đầu tư cho ngành Hơn nữa, 50% máy sợi từ những năm 1990 đã được thay thế, và 70% máy chính dùng cho PET đã được phát triển độc lập Điều này cho thấy khả năng nghiên cứu và phát triển của ngành dệt may Trung Quốc đã được cải thiện rõ rệt Với nhu cầu lớn trong nước, sản lượng bán hàng dệt may nội địa đã tăng từ 67% lên 72,8%, và sản lượng sản phẩm dệt may đã tăng gấp ba lần Tỷ lệ tiêu thụ bông cho ba loại sản phẩm quần áo, hàng dệt may dân dụng và hàng dệt may công nghiệp đã thay đổi từ 69:19:13 (2001) thành 54:33:13 (2006), được Du Yuzhou, Chủ tịch Hội đồng dệt may quốc gia Trung Quốc, nhận định là “sự thay đổi do điều chỉnh cấu trúc”.

Khả năng độc lập trong nghiên cứu của Trung Quốc đã được cải thiện đáng kể, với nhiều công nghệ mới được phát triển và ứng dụng rộng rãi trong ngành Tổng lượng sợi hóa học hiện chiếm 65% tổng sản lượng sợi, đồng thời chất lượng sợi cũng tăng 9% so với năm năm trước Nhiều loại sợi mới đã được sáng chế, đóng vai trò quan trọng trong các ngành công nghiệp đặc biệt như vũ trụ và quân sự Sự phát triển của ngành dệt may không chỉ thúc đẩy kinh tế vùng mà còn làm rõ nét hơn vị trí các sản phẩm khu vực Ngành dệt may Trung Quốc đang tập trung vào sản phẩm có nguồn vật liệu tại chỗ và đầu tư sâu vào khu vực phía đông, nơi có tiềm năng phát triển kinh tế cao Năm 2006, sản lượng sợi hóa học của Jiangsu và Zhejiang đạt 147.783 triệu tấn, tăng 32,09% so với năm trước, chiếm 72,96% tổng sản lượng sợi của Trung Quốc, cao hơn 4,29% so với năm trước đó.

Năm 2006, sản lượng sợi chỉ từ các vùng Shandong, Jiangsu và Hensan chiếm khoảng 58,97% tổng sản lượng sợi của Trung Quốc Đồng thời, những khu vực này cũng dẫn đầu trong ngành công nghiệp quần áo, với sản lượng quần áo đạt 1.294.166 tỷ chiếc, tăng trưởng hàng năm khoảng 18,74% Tổng sản lượng quần áo của ba vùng này chiếm 76,12% tổng sản lượng quần áo của Trung Quốc, tăng 2,47% so với năm trước.

Ngành dệt may Trung Quốc là một trong những lĩnh vực thu hút đầu tư nước ngoài sớm nhất, tạo dấu ấn tích cực cho các nhà đầu tư ngay từ giai đoạn đầu Điều này đã biến Trung Quốc thành điểm nóng đầu tư cho ngành may mặc toàn cầu Theo thống kê từ Hội đồng dệt may Trung Quốc, trong suốt kế hoạch 10 năm, tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành dệt may đã đạt 53,3 tỉ USD, với mức tăng trưởng hàng năm là 34,1%, trong đó 56% được đầu tư vào ngành công nghiệp quần áo.

1.3.2 Sự gia nhập của Trung Quốc trong chuỗi giá trị dệt may Châu Á

Ngành dệt may toàn cầu đã trải qua nhiều giai đoạn gia nhập kể từ những năm 1950, chủ yếu diễn ra tại các quốc gia Châu Á Giai đoạn đầu tiên là sự chuyển giao sản xuất từ Bắc Mỹ và Tây Âu sang Nhật Bản vào những năm 1950 và đầu những năm 1960 Tiếp theo, vào những năm 1970 và 1980, sản xuất dệt may chuyển từ Nhật Bản sang các nước “Big Three” Châu Á: Hồng Kông, Đài Loan và Hàn Quốc, những quốc gia này đã chiếm ưu thế trong xuất khẩu dệt may toàn cầu Khoảng 10 đến 15 năm sau, sự chuyển dịch này tiếp tục sang các nước đang phát triển khác, đặc biệt là vào những năm 1980 khi Trung Quốc, một số nước Đông Nam Á và Sri Lanka trở thành điểm đến mới Đến những năm 1990, Việt Nam, các nước Nam Á và Châu Mỹ La Tinh nhanh chóng gia tăng vai trò là nhà cung cấp mới trong ngành dệt may.

Cụ thể về mô hình nâng cấp ngành trong chuỗi dệt may Châu Á được thể hiện ở hình 1.4

Hình 1.4 Mô hình nâng cấp ngành trong chuỗi dệt may châu Á

Nguồn: The international competiveness of Asian economies in the apparel commodity chain (Gereffi, 2002)

Sự phát triển của các khâu trong chuỗi giá trị:

Nguyên liệu đầu vào cho ngành công nghiệp tại Trung Quốc bao gồm cây công nghiệp và tài nguyên dầu mỏ Trung Quốc sở hữu lợi thế lớn với diện tích canh tác cây công nghiệp rộng rãi và khí hậu phù hợp, cùng với nguồn tài nguyên dầu và khí đốt phong phú từ vùng biển rộng lớn.

Các yếu tố sản xuất

Nhà nước đã đầu tư mạnh mẽ vào các hệ thống nhà máy dệt sợi, huy động cả nguồn vốn trong nước và quốc tế Trung Quốc đã phát triển công nghệ mới nhằm nâng cao năng suất và chất lượng dệt, góp phần quan trọng vào sự phát triển của ngành dệt.

Sản lượng sợi đã tăng trưởng mạnh mẽ trong những năm gần đây Cụ thể, vào năm 2008, sản lượng sợi hóa học đạt 2.453,29 chục nghìn tấn, trong khi sợi tự nhiên đạt 2.170,92 chục nghìn tấn Đến năm 2009, sản lượng sợi hóa học đã tăng lên 2.747,28 chục nghìn tấn và sợi tự nhiên đạt 2.393,46 chục nghìn tấn.

Hệ thống sản xuất bao gồm các nhà máy may mặc trong nước với trang thiết bị hiện đại và đội ngũ công nhân tay nghề cao Trung Quốc cũng áp dụng mô hình OEM (sản xuất thiết bị gốc) và thực hiện hợp đồng gia công với các công ty may mặc nước ngoài, nhằm nâng cao giá trị gia tăng trong chuỗi giá trị.

Hệ thống marketing trong chuỗi giá trị ngành dệt may Trung Quốc bao gồm nhiều cửa hàng chuyên dụng, cửa hàng đặc biệt, đại lý và các chuỗi bán buôn, bán lẻ, giúp sản phẩm nhanh chóng và tiện lợi đến tay người tiêu dùng.

Năm 2009, lợi nhuận từ hoạt động bán buôn của ngành đạt 1.055,2 trăm triệu NDT (Nhân Dân Tệ) và lợi nhuận từ hoạt động bán lẻ đạt 359,1 trăm triệu NDT

Trung Quốc hiện là quốc gia dẫn đầu thế giới về xuất khẩu hàng dệt may, với giá trị xuất khẩu hàng may mặc đạt 46,76 tỷ USD vào năm 2008, nhưng giảm xuống còn 42,65 tỷ USD vào năm 2009 Quốc gia này chủ yếu không nhập khẩu sản phẩm may mặc, mà chỉ nhập khẩu nguyên liệu đầu vào như sợi tự nhiên và nhân tạo để phục vụ cho sản xuất.

Ngành dệt may Trung Quốc là một trong những ngành công nghiệp chủ chốt, nhờ vào điều kiện tự nhiên thuận lợi và đầu tư hiệu quả vào các khâu mang lại lợi nhuận cao Trung Quốc đã thành công trong việc phát triển ngành công nghiệp truyền thống này thông qua việc tăng cường đầu tư vào công nghệ và đổi mới quy trình quản lý Bài viết sẽ phân tích những tiến bộ trong chuỗi giá trị của ngành dệt may Trung Quốc trong năm 2009.

Trong hệ thống marketing, lĩnh vực bán lẻ đã đóng góp một phần giá trị gia tăng lên tới 351.900 triệu NDT, chiếm 34,16% tổng giá trị đầu vào Trong khi đó, giá trị bán buôn đạt 1.055.200 triệu NDT, tương đương 13,22% chi phí đầu vào.

THỰC TRẠNG THAM GIA CHUỖI GIÁ TRỊ DỆT MAY TOÀN CẦU CỦA VIỆT NAM

Tổng quan về ngành dệt may của Việt Nam

2.1.1 Về năng lực, tổ chức sản xuất sản phẩm dệt may xuất khẩu

Theo Hiệp hội Dệt may Việt Nam (VITAS), ngành dệt may Việt Nam hiện có hơn 3.500 doanh nghiệp, với sự đa dạng về cơ cấu doanh nghiệp theo chủ sở hữu, địa phương và nhóm sản phẩm.

Bảng 2.1 - Cơ cấu doanh nghiệp dệt may năm 2010 Phân loại Loại hình Số lượng Tỷ lệ (%)

Phân theo nhóm sản phẩm

(Nguồn: Hiệp hội Dệt May Việt Nam 2010)

Ngành may mặc Việt Nam, với 1.360 cơ sở thành viên thuộc VITAS, hoạt động chủ yếu ở 35 tỉnh thành, chủ yếu là các cơ sở may gia công xuất khẩu, đã thu hút khoảng 2 triệu lao động thường xuyên Năng lực sản xuất của ngành đạt hơn 2.500 triệu sản phẩm sơ mi tiêu chuẩn mỗi năm, tập trung chủ yếu tại các địa phương như Hà Nội, Đà Nẵng, Quảng Nam, Thành phố Hồ Chí Minh, Long An, Đồng Nai, Bình Dương và Cần Thơ.

Qui mô sản xuất của các cơ sở rất đa dạng, với một số doanh nghiệp có khả năng sản xuất trên 20 triệu sản phẩm mỗi năm, trong khi nhiều cơ sở khác chỉ đạt khoảng 1 triệu sản phẩm Hầu hết các cơ sở tập trung vào sản xuất một số mã hàng cố định, điều này xuất phát từ sự đầu tư chuyên môn hóa cũng như yêu cầu của các doanh nghiệp đặt gia công, vì khách hàng nước ngoài thường chỉ mạnh về một số mặt hàng nhất định Do đó, năng lực sản xuất hạn chế khiến nhiều doanh nghiệp chỉ nhận được các đơn hàng với số lượng nhỏ.

Mặc dù trình độ tổ chức sản xuất của các doanh nghiệp dệt may ở Việt Nam đã có sự cải thiện trong những năm gần đây, nhưng vẫn còn ở mức khiêm tốn Khoảng 90% doanh nghiệp vẫn áp dụng phương thức sản xuất cổ điển, hay còn gọi là phương thức bó, dẫn đến nhiều nhược điểm như thừa thao tác, quản lý khó nắm bắt hàng tồn đọng, tiến độ sản xuất chỉ có thể đánh giá qua số lượng thành phẩm, khó khăn trong việc điều chuyển, và không thể đánh giá chính xác năng lực hay năng suất của từng công nhân.

Chỉ có dưới 10% tổng số doanh nghiệp dệt may áp dụng phương thức sản xuất từng bộ chi tiết hoàn chỉnh, thông qua việc sử dụng chuyền treo bán tự động hoặc tự động.

2.1.2 Tình hình xuất khẩu sản phẩm dệt may của Việt Nam

Ngành dệt may Việt Nam có lịch sử phát triển lâu dài và đóng góp quan trọng vào chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước Ngành này không chỉ tạo việc làm cho hơn 2,2 triệu lao động mà còn góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững.

Ngành dệt may Việt Nam hiện đang đóng góp đáng kể vào kim ngạch xuất khẩu quốc gia, với 6 triệu lao động công nghiệp tham gia Khi Việt Nam gia nhập thị trường toàn cầu, ngành dệt may đã tận dụng cơ hội và vượt qua thách thức, trở thành mặt hàng xuất khẩu hàng đầu với tốc độ tăng trưởng cao Sản phẩm dệt may của Việt Nam đã khẳng định được vị thế vững chắc trên các thị trường khó tính như Mỹ, EU và Nhật Bản.

Hình thức sản xuất chủ yếu của doanh nghiệp Việt Nam hiện nay vẫn dựa vào hợp đồng gia công, khiến cho nguồn nguyên liệu phụ thuộc vào chỉ định của chủ hàng và nhập khẩu Điều này hạn chế khả năng cải thiện lợi nhuận cho các doanh nghiệp trong ngành.

Ngành dệt may là một lĩnh vực quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam Trong nhiều năm qua, sản phẩm dệt may không ngừng gia tăng về số lượng, đa dạng hóa chủng loại và nâng cao giá trị kim ngạch, trở thành mặt hàng xuất khẩu chủ lực và đóng góp lớn vào nền kinh tế quốc dân.

Ngành may mặc Việt Nam đã ghi nhận những thành công nổi bật trên thị trường quốc tế, đánh dấu sự khởi đầu tích cực cho quá trình đổi mới và phát triển kinh tế Với tiềm năng phát triển lớn và lợi thế cạnh tranh mạnh mẽ, may mặc trở thành một trong những lĩnh vực quan trọng trong ngành dệt may Ngành này không chỉ tạo ra giá trị hàng hóa phục vụ nhu cầu tiêu dùng nội địa mà còn đóng góp đáng kể vào xuất khẩu, thu hút lượng lao động lớn Năng lực sản xuất của ngành dệt may đã tăng trưởng mạnh mẽ, với số lượng doanh nghiệp tăng gấp 5-6 lần so với 10 năm trước và trình độ công nghệ được cải thiện đáng kể, nhiều quy trình sản xuất đạt tiêu chuẩn công nghệ tiên tiến toàn cầu.

Ngành dệt may Việt Nam đã đạt tốc độ tăng trưởng xuất khẩu cao trong nhiều năm qua, nhưng chất lượng tăng trưởng vẫn là một thách thức lớn Công nghệ nhuộm và may các sản phẩm cao cấp chưa được cải tiến đáng kể, chủ yếu vẫn sử dụng công nghệ trung bình Mặc dù ngành này tạo ra việc làm cho hơn 2,2 triệu lao động, tỷ lệ lao động có tay nghề cao vẫn rất thấp Hơn nữa, công nghệ phụ trợ trong ngành dệt may chưa phát triển, mặc dù đã có nhiều nỗ lực trong suốt những năm qua.

Năm 2010, tỷ lệ nhập khẩu nguyên phụ liệu trong ngành dệt may Việt Nam đạt 7,36 tỷ USD, trong đó bông 417 triệu USD, sợi 723 triệu USD, vải 4,1 tỷ USD, và phụ liệu cho dệt may & da giày 2,19 tỷ USD, với 70% nguyên liệu phải nhập khẩu từ nước ngoài Các thị trường chủ yếu là Trung Quốc (2,09 tỷ USD), Đài Loan (1,47 tỷ USD), Hàn Quốc (1,44 tỷ USD), và Nhật Bản (466 triệu USD) Nguồn nguyên liệu trong nước chỉ đáp ứng khoảng 30%, với bông đạt 10%, xơ, sợi tổng hợp 60%, sợi 70%, vải 50%, và phụ liệu 70% Điều này dẫn đến hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp, giá trị gia tăng (VA) giảm, và tỷ suất lợi nhuận chỉ từ 5% đến 10%, chủ yếu tập trung vào gia công Hơn nữa, phân bố không gian trong ngành cũng chưa hợp lý, tạo áp lực lớn cho xã hội và môi trường.

Gia nhập WTO mang lại nhiều thuận lợi cho ngành dệt may Việt Nam, giúp chủ động phát triển thị trường nước ngoài và giảm áp lực từ nhà cung cấp nguyên phụ liệu Điều này không chỉ giảm chi phí sản xuất mà còn tăng sức cạnh tranh cho sản phẩm thông qua giá cả Tuy nhiên, ngành dệt may cũng sẽ phải đối mặt với nhiều thách thức trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng gay gắt.

Việt Nam hiện nay được xem là "công xưởng" của thế giới trong ngành dệt may, nhưng chủ yếu chỉ tham gia vào khâu gia công sản phẩm cuối cùng với giá trị gia tăng thấp Để nâng cao vai trò của ngành dệt may trong nền kinh tế, việc thâm nhập sâu rộng vào chuỗi giá trị toàn cầu là hết sức cần thiết.

Gia nhập WTO đã mang lại những tác động tích cực cho môi trường kinh doanh tại Việt Nam, giúp nâng cao vị thế pháp lý của quốc gia trong thương mại quốc tế Điều này mở ra nhiều cơ hội mới cho việc mở rộng thị trường xuất khẩu, đặc biệt là việc bãi bỏ hạn ngạch đối với hàng dệt may xuất khẩu sang Hoa Kỳ, tạo điều kiện thuận lợi cho Việt Nam thu hút thêm nhiều đơn hàng trong ngành dệt may.

Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam tăng mạnh từ năm 2006 đến năm 2008 Năm 2008, kim ngạch xuất khẩu đạt 9,120 tỷ USD Năm

Thực trạng tham gia chuỗi giá trị toàn cầu của ngành dệt may Việt Nam

Ngành dệt may đáp ứng nhu cầu tiêu dùng với các sản phẩm như quần áo, chăn ga, gối đệm và đồ dùng gia đình như rèm cửa và khăn Ngoài ra, sản phẩm dệt may xuất khẩu còn được ứng dụng trong các lĩnh vực khác như vải kỹ thuật để lót đường, thi công đê điều, và làm vật liệu chống thấm Quy trình sản xuất bao gồm nhiều công đoạn từ cung ứng nguyên liệu như vải, cúc, chỉ, đến thiết kế sản phẩm, sản xuất, và cuối cùng là xuất khẩu và phân phối.

2.2.1 Công đoạn sản xuất và cung ứng nguyên liệu

Trong chuỗi giá trị dệt may toàn cầu, công đoạn sản xuất và cung ứng nguyên liệu đóng vai trò quan trọng, bao gồm việc cung cấp sản phẩm thô như sợi tự nhiên và nhân tạo Nguyên liệu cơ bản của ngành dệt may được sản xuất từ hai phương pháp chính: nguyên liệu tự nhiên từ nông nghiệp như cotton, len và tơ tằm, cùng với sợi tổng hợp từ dầu thô và khí tự nhiên Sự phát triển của ngành sản xuất sợi đã mang lại những thay đổi căn bản cho toàn cầu.

Trước đây, ngành dệt chủ yếu sử dụng nguyên liệu tự nhiên như bông xơ và len, nhưng hiện nay, nhờ vào sự phát triển của công nghệ hóa dầu, gỗ và khí tự nhiên đã cung cấp nhiều nguyên liệu mới Tuy nhiên, ngành dệt may Việt Nam gặp khó khăn khi phần lớn nguyên phụ liệu vẫn phải nhập khẩu do nguồn cung trong nước không đủ và không đáp ứng được yêu cầu chất lượng của doanh nghiệp Sự phát triển kém của các ngành công nghiệp phụ trợ và công nghệ sản xuất sợi hạn chế đã dẫn đến tình trạng ngành dệt may xuất khẩu phụ thuộc hoàn toàn vào nguyên liệu nhập khẩu.

Từ năm 2009, Việt Nam đã bắt đầu xuất khẩu vải, sợi và xơ polyester sang nhiều quốc gia dệt may lớn như Brazil, Thổ Nhĩ Kỳ và Tây Ban Nha, góp phần nâng cao kim ngạch xuất khẩu toàn ngành Tuy nhiên, ngành dệt may Việt Nam vẫn đang đối mặt với tình trạng thiếu nguyên phụ liệu, với tỷ lệ nhập khẩu lên đến 70% Cụ thể, 95% xơ bông, 70% sợi tổng hợp, 40% sợi xơ ngắn, 40% vải dệt kim và 60% vải dệt thoi đều phải nhập khẩu Sự phụ thuộc vào nguyên liệu nhập khẩu khiến giá trị gia tăng của chuỗi giá trị xuất khẩu dệt may bị ảnh hưởng khi giá nguyên liệu tăng Chẳng hạn, giá bông nhập khẩu năm 2011 đã tăng đến 80-90% so với năm 2010, làm kim ngạch nhập khẩu bông tăng gần 120% Trong hai tháng đầu năm 2011, kim ngạch nhập khẩu nguyên phụ liệu ngành dệt may đạt 670 triệu USD, gấp đôi so với cùng kỳ năm ngoái, trong đó nhập khẩu bông tăng 103% Sự gia tăng giá bông đã đẩy chi phí sản xuất sợi dệt lên 30-40%, làm giá thành sản xuất tăng ít nhất 15-20% Do đó, mặc dù kim ngạch xuất khẩu dệt may tăng mạnh trong những năm gần đây, nhưng giá trị thực tế của chuỗi giá trị xuất khẩu vẫn bị giảm do kim ngạch nhập khẩu nguyên phụ liệu tăng cao.

Ngành dệt may của Việt Nam hiện nay đang phụ thuộc quá lớn vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu, chủ yếu là từ Trung Quốc (xem bảng 2.2)

Bảng 2.2 - Nhập khẩu nguyên liệu dệt may ĐVT: ( triệu USD )

KNNK dệt may 4097,9 5214,5 5806,4 5251,0 7084 KNXK dệt may 5854,8 7732,0 9120,4 9066 11200 KNNK so với XK (%) 69,99 67,44 64,37 57,92 63,25

(Nguồn: Tổng cục Hải Quan, 2011)

Chi phí nguyên liệu ở Việt Nam cao hơn khoảng 25-30% so với Trung Quốc, chủ yếu do vận chuyển, hải quan và thiết bị Nguyên liệu chiếm tới 45% tổng chi phí, tạo ra bất lợi lớn cho ngành dệt may Trong 6 tháng đầu năm 2011, kim ngạch xuất khẩu dệt may đạt 6,16 tỷ USD nhưng phải nhập tới 5,76 tỷ USD nguyên phụ liệu Nhiều doanh nghiệp dệt may gặp khó khăn vì thiếu chủ động về nguyên liệu đầu vào, trong khi phụ kiện sản xuất trong nước chưa đáp ứng được yêu cầu về mẫu mã và chất lượng Giá trị gia tăng trên mỗi sản phẩm xuất khẩu dệt may của Việt Nam vẫn còn rất thấp.

Dệt vải là một bước quan trọng trong chuỗi cung cấp nguyên phụ liệu cho ngành may, bao gồm hai công đoạn chính là kéo sợi và dệt vải Các doanh nghiệp, từ siêu nhỏ đến lớn, đều có thể tham gia vào quy trình này, nhưng xu hướng hiện nay cho thấy các công ty lớn ngày càng chiếm ưu thế về vốn đầu tư Sản phẩm dệt không chỉ phục vụ cho ngành may mà còn là nguyên liệu cho sản xuất đồ nội thất và thảm, tạo ra nhiều chuỗi giá trị khác nhau, tuy nhiên, ngành may vẫn là lĩnh vực tiêu thụ chính của nguyên liệu dệt.

Nguyên liệu chính cho ngành may là vải được sản xuất ở Trung Quốc, Ấn Độ, Hàn Quốc Các phụ liệu đầu vào khác như chỉ, mác, mex, khóa, ren,

Việt Nam hiện đang phụ thuộc vào việc nhập khẩu nguyên liệu từ Ấn Độ, Trung Quốc, Đài Loan, Hồng Kông và Nhật Bản cho ngành dệt may Mặc dù đã có chiến lược phát triển công nghiệp phụ trợ, tỷ lệ nội địa hóa của ngành này chỉ đạt 42% sau năm 2009, cho thấy cần cải thiện khả năng sản xuất vải trong nước để giảm thiểu sự phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu ngoại nhập.

Các thiết bị in nhuộm và hoàn tất trong sản xuất nguyên phụ liệu chủ yếu được nhập khẩu từ nước ngoài, với 35% (khoảng 300 máy) được nhập từ năm 1986 trở lại đây, thuộc thế hệ A2, A3 và vẫn hoạt động tốt Tuy nhiên, nhiều thiết bị còn lại có nguồn gốc từ những năm 1960, sử dụng công nghệ lạc hậu, chỉ thích hợp cho vải khổ hẹp và tiêu tốn nhiều điện năng, làm tăng chi phí sản xuất Các máy nhuộm in và hoàn tất đến từ các nhãn hiệu như Morrison, Gerber, Gaston County, Hisaka, Vinago, Comfit Chất lượng vải vẫn hạn chế về màu sắc và họa tiết do thiếu dây chuyền công nghệ xử lý và làm đẹp vải chất lượng cao Hầu hết thiết bị và công nghệ in nhuộm được nhập khẩu từ Mỹ, Nhật Bản, Đức, Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan, trong khi chỉ một số ít thiết bị được sản xuất trong nước.

Ngành dệt may Việt Nam đang đối mặt với tình trạng lạc hậu về máy móc thiết bị, dẫn đến việc phải nhập khẩu 80 - 100% thuốc nhuộm từ nước ngoài Điều này cho thấy rằng phần lớn nguyên liệu tạo nên giá trị gia tăng của hàng may mặc Việt Nam phụ thuộc vào nguồn cung ngoại Đặc biệt, đối với các sản phẩm yêu cầu kỹ thuật cao và họa tiết phức tạp, công nghệ sản xuất trong nước hiện vẫn còn hạn chế, không đáp ứng được yêu cầu của thị trường quốc tế Tình trạng công nghệ lạc hậu trong ngành dệt đã hạn chế khả năng cung cấp nguyên liệu chất lượng cho ngành may, khiến cho ngành này phải phụ thuộc nhiều vào nguyên liệu nhập khẩu.

Theo Tiến sĩ Lê Đăng Doanh, chuyên gia kinh tế độc lập, ngành dệt may hiện đang đối mặt với khó khăn về nguồn cung vật liệu thiết yếu Ông cho biết, Việt Nam phải nhập khẩu hầu hết các sản phẩm đầu vào cho ngành dệt may, bao gồm sợi, bông, cúc và chỉ.

Ngành dệt may Việt Nam phụ thuộc vào Trung Quốc, với 70-75% giá trị xuất khẩu đến từ nguyên liệu nhập khẩu Việc nâng cao tỷ lệ nội địa hóa và cạnh tranh trong ngành này là thách thức lớn, đòi hỏi các giải pháp phát triển bền vững.

Phát triển nguồn nguyên phụ liệu vẫn là thách thức lớn đối với Việt Nam, đặc biệt trong ngành dệt may Hiện tại, tỷ lệ nội địa hóa trong sản xuất nguyên phụ liệu cho ngành này vẫn chưa đạt yêu cầu mong muốn.

2.2.2 Công đoạn nghiên cứu, thiết kế sản phẩm

Công đoạn thiết kế là yếu tố then chốt trong chuỗi giá trị dệt may xuất khẩu, ảnh hưởng lớn đến giá trị sản phẩm Tại Việt Nam, thiết kế chủ yếu được thực hiện ở các quốc gia có ngành công nghiệp thời trang phát triển như Mỹ, Anh, Italia, Pháp, Nhật Bản và Hồng Kông Một số doanh nghiệp như Công ty May Việt Tiến, Công ty May Phương Đông và Công ty Thời trang Việt Nam có khả năng thực hiện thiết kế, nhưng chủ yếu cho thị trường nội địa Đối với thị trường xuất khẩu, Việt Nam gặp khó khăn do thiếu thông tin về xu hướng quốc tế và khả năng thiết kế còn hạn chế.

Mặc dù chưa có nhiều thành công trong thiết kế, một số nhà sản xuất Việt Nam như May Phương Đông, May Việt Tiến, Công ty Thời trang Việt Nam và Scavi đã nỗ lực xây dựng thương hiệu cho sản phẩm xuất khẩu Tuy nhiên, chỉ có Scavi thực sự tiêu thụ sản phẩm trên thị trường quốc tế, trong khi các thương hiệu khác vẫn đang trong giai đoạn thăm dò Các doanh nghiệp dệt may xuất khẩu Việt Nam chủ yếu sản xuất theo mẫu thiết kế của khách hàng nước ngoài, dẫn đến việc giá trị gia tăng từ thiết kế thời trang thuộc về các hãng may mặc quốc tế, làm hạn chế giá trị xuất khẩu của hàng dệt may Việt Nam.

Thực trạng thời trang ở Việt Nam hiện nay phần lớn do việc nắm bắt xu hướng từ thị trường quốc tế mà không chủ động tạo ra xu hướng riêng Các trung tâm mẫu mốt và công ty may mặc tại Việt Nam thường chỉ học hỏi các sản phẩm từ các trung tâm lớn trên thế giới, thay vì tham gia vào quá trình thiết kế định hướng xu thế thời trang Mặc dù một số nhãn hiệu như Áo dài Sỹ Hoàng, Minh Hạnh, và Foci đã khẳng định được tên tuổi trong nước, nhưng chúng vẫn chưa đủ để xây dựng một thương hiệu mạnh mẽ trên thị trường khu vực và quốc tế Các thành tựu của ngành thời trang Việt Nam vẫn còn hạn chế, chưa đủ để tạo nên một diện mạo chung cho thương hiệu thời trang quốc gia.

Đánh giá sự tham gia chuỗi giá trị toàn cầu của ngành dệt may Việt Nam

2.3.1 Định vị ngành dệt may Việt Nam trong chuỗi giá trị toàn cầu

Trong chuỗi giá trị dệt may toàn cầu, Việt Nam chủ yếu tham gia vào khâu sản xuất và gia công, dẫn đến việc tạo ra giá trị gia tăng rất hạn chế Dưới đây là sơ đồ minh họa quy trình gia công sản phẩm may mặc tại Việt Nam.

Chuỗi giá trị toàn cầu của ngành dệt may xuất khẩu bao gồm năm công đoạn cơ bản: thiết kế, sản xuất phụ liệu, sản xuất, kiểm tra chất lượng và phân phối sản phẩm Mỗi giai đoạn đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra sản phẩm cuối cùng, từ ý tưởng thiết kế đến việc sản xuất và cung cấp hàng hóa đến tay người tiêu dùng.

Doanh nghiệp Dệt may Việt

Nam (cắt may, hoàn thiện) Đối tác nước ngoài (người đặt gia công) Cung cấp các yếu tố đầu vào của sản phẩm dệt may

Sản phẩm dệt may hoàn thiện tại Việt Nam chỉ đóng góp 5,1% giá trị cho sản phẩm cuối cùng, cho thấy mức giá trị gia tăng rất khiêm tốn so với các công đoạn khác trong chuỗi giá trị Cụ thể, trong tổng giá trị của một chiếc áo sơ mi, thiết kế chiếm 3,2%, nguyên phụ liệu 15,1%, và công đoạn sản xuất (cắt, may, hoàn thiện) chỉ 5,1% Trong khi đó, khâu xuất khẩu, marketing và phân phối lại chiếm tới 74,8% giá trị, cho thấy sự chênh lệch lớn trong việc tạo ra giá trị gia tăng giữa các công đoạn.

2.3.2 Nguyên nhân của việc ngành dệt may Việt Nam tham gia chưa có hiệu quả trong chuỗi giá trị dệt may toàn cầu

2.3.2.1 Thiết bị công nghệ lạc hậu

Ngành dệt may Việt Nam đang đối mặt với tình trạng lạc hậu và thiếu đồng bộ trong thiết bị công nghệ, dẫn đến sản phẩm không có năng lực cạnh tranh Hơn 50% máy móc đã sử dụng trên 25 năm, gây hư hỏng và làm giảm năng suất cũng như chất lượng sản phẩm, trong khi giá thành lại cao Mặc dù doanh nghiệp đã đầu tư nguồn vốn tự có và vay vốn để nâng cấp công nghệ, chỉ khoảng 15% công suất dệt được cải thiện nhờ vào việc nhập khẩu máy móc hiện đại Hơn 20.000 máy may mới đã được trang bị, góp phần nâng cao chất lượng hàng may xuất khẩu và nội địa Ngành may cũng liên tục mở rộng sản xuất và đổi mới thiết bị để đáp ứng yêu cầu chất lượng toàn cầu, nhưng vẫn chưa đủ để đáp ứng nhu cầu sản xuất ngày càng cao.

2.3.2.2 Nguyên vật liệu kém chất lượng, phải nhập khẩu nhiều

Theo thống kê của Tổng cục Hải quan, năm 2011, trị giá nhập khẩu vải đạt 6,73 tỷ USD, tăng 25,5% so với năm trước Nguyên phụ liệu dệt may và da giày đạt 2,95 tỷ USD, tăng 12,5% Xơ sợi dệt có trị giá 1,53 tỷ USD, tăng 30,4%, trong khi bông vượt mốc 1 tỷ USD với mức tăng 56,1%.

Năm 2011, các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đã nhập khẩu 7,88 tỷ USD, tăng 26,3% so với năm 2010, trong khi các doanh nghiệp trong nước đạt 4,39 tỷ USD, tăng 22%.

Các thị trường chính cung cấp nhóm hàng này cho Việt Nam trong năm

Năm 2011, Trung Quốc đạt 3,96 tỷ USD, tăng 26,4% so với năm 2010; Hàn Quốc đạt 2,11 tỷ USD, tăng 22%; Đài Loan đạt 2 tỷ USD, tăng 16,6%; Nhật Bản đạt 737 triệu USD, tăng 43,4%; Hoa Kỳ đạt 733 triệu USD, tăng 70,9%; Hồng Kông đạt 594 triệu USD, tăng 10,3%.

Hiện nay, ngành công nghiệp dệt may Việt Nam phụ thuộc lớn vào nguyên liệu nhập khẩu, với 95% xơ bông, 70% sợi tổng hợp, 40% sợi xơ ngắn, 40% vải dệt kim và 60% vải dệt thoi Sự phụ thuộc này khiến các công ty dệt may phải chấp nhận gia công cho đối tác nước ngoài, mặc dù lợi nhuận thấp, nhằm đảm bảo nguồn cung nguyên phụ liệu ổn định và kịp thời cho sản xuất.

Còn sản xuất theo dạng FOB, lợi nhuận cao hơn, nhưng bù lại phải chịu khó tự tìm nguồn nguyên phụ liệu bằng cách nhập khẩu

Ngành dệt may Việt Nam chỉ đáp ứng 30% nhu cầu nguyên phụ liệu, nhưng điều này không phản ánh năng lực sản xuất yếu kém Phụ liệu nội địa có khả năng đáp ứng đủ, trong khi nguyên liệu nội địa có thể cung cấp đến 70% nhu cầu sản xuất Tuy nhiên, do yêu cầu cao về chất lượng sản phẩm từ các đối tác nước ngoài, nguyên phụ liệu Việt Nam chưa đáp ứng đủ tiêu chuẩn và phải nhập khẩu từ nước ngoài Hiện tại, Việt Nam cũng thiếu đội ngũ thiết kế kiểu dáng nguyên liệu (vải) chuyên nghiệp.

Tất cả các quốc gia, bao gồm cả Trung Quốc, đều phải nhập khẩu nguyên phụ liệu do nhu cầu toàn cầu rất đa dạng Để đáp ứng nhu cầu này, các nước cần tập trung vào việc phát triển mạnh mẽ và có định hướng vào một số loại nguyên liệu nhất định, nhằm trở thành nguồn cung cấp chính cho thị trường thế giới.

Việt Nam phải nhập khẩu phần lớn nguyên phụ liệu cho ngành dệt may do sản lượng và diện tích trồng bông trong nước còn thấp Một số nguyên phụ liệu đã được sản xuất trong nước nhưng có giá thành cao hơn đến 5% so với hàng nhập khẩu, đồng thời chất lượng cũng không ổn định.

Hiện nay, các doanh nghiệp dệt lớn tại Việt Nam chủ yếu sản xuất vải sơ mi, ka ki và dệt thun, trong khi vải thời trang sản xuất nội địa còn rất hiếm Nguyên phụ liệu trong nước chủ yếu bao gồm nút, chỉ, dây kéo, vải lót và bao bì.

Ngành công nghiệp dệt may Việt Nam đang đối mặt với tình trạng thiếu hụt nguyên liệu bông và xơ, ảnh hưởng đến toàn bộ chuỗi sản xuất từ kéo sợi đến nhuộm và hoàn tất vải Bên cạnh đó, ngành công nghiệp phụ trợ cũng gặp nhiều hạn chế trong quy trình nhuộm và hoàn tất, cần được cải thiện để nâng cao chất lượng sản phẩm.

Diện tích, năng suất sản xuất bông, xơ tại Việt Nam hiện nay chỉ đáp ứng được 2% nhu cầu bông, xơ cho ngành dệt sợi

Khâu nhuộm và hoàn tất vải còn yếu kém ảnh hưởng đến sự phát triển của ngành công nghiệp thời trang Đây là giai đoạn quyết định đến chất lượng và mẫu mã vải, ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh với hàng ngoại Việc có nguồn nguyên phụ liệu tại chỗ sẽ giúp các nhà thiết kế chủ động hơn trong việc tìm kiếm nguyên liệu cho các sản phẩm thiết kế của mình.

2.3.2.3 Nguồn nhân lực dồi dào, giá rẻ nhưng trình độ chưa cao đặc biệt là thiếu các nhà thiết kế chuyên nghiệp

Ngành dệt may hiện nay là lĩnh vực sử dụng nhiều lao động nhất tại Việt Nam, với hơn 20% lực lượng lao động trong khu vực công nghiệp và gần 5% tổng lực lượng lao động quốc gia Đặc biệt, gần 80% lao động trong ngành là nữ giới, chủ yếu có trình độ văn hóa tốt nghiệp PTTH và PTCS Đội ngũ lao động trẻ, chưa có gia đình cao, tạo điều kiện thuận lợi cho việc đào tạo và nâng cao năng suất Tuy nhiên, do thiếu đào tạo bài bản, trình độ lao động còn hạn chế, trong khi điều kiện làm việc căng thẳng và giá trị gia tăng sản phẩm thấp dẫn đến thu nhập thấp cho công nhân Tình trạng này gây ra thiếu hụt công nhân tại các thành phố lớn, khiến doanh nghiệp phải liên tục tuyển dụng lao động phổ thông và đào tạo, nhưng số lao động ra đi nhiều hơn số lao động mới tuyển Hệ quả là nhiều cuộc đình công tự phát xảy ra, ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.

ĐỊNH HƯỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỂ VIỆT NAM

Ngày đăng: 26/06/2022, 18:59

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Bộ Công Thương (2008), Qui hoạch phát triển ngành dệt may Việt Nam đến năm 2015, tầm nhìn đến năm 2020, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Qui hoạch phát triển ngành dệt may Việt Nam đến năm 2015, tầm nhìn đến năm 2020
Tác giả: Bộ Công Thương
Năm: 2008
2. Doris Becker, Phạm Ngọc Trâm và Hoàng Đình Tú (2006), Phát triển chuỗi giá trị - công cụ gia tăng giá trị cho sản xuất nông nghiệp, Dự án thuộc Chương trình Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Phát triển chuỗi giá trị - công cụ gia tăng giá trị cho sản xuất nông nghiệp, Dự án thuộc Chương trình Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam
Tác giả: Doris Becker, Phạm Ngọc Trâm và Hoàng Đình Tú
Năm: 2006
3. Nguyễn Thị Đông (2011), Phân tích chuỗi giá trị và tổ chức quan hệ liên kết của doanh nghiệp may xuất khẩu ở Việt Nam, Luận án Tiến sỹ kinh tế công nghiệp, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Phân tích chuỗi giá trị và tổ chức quan hệ liên kết của doanh nghiệp may xuất khẩu ở Việt Nam
Tác giả: Nguyễn Thị Đông
Năm: 2011
4. Hiệp hội Dệt May Việt Nam (Vitas) (2006), Chiến lược xuất khẩu ngành dệt may giai đoạn 2006 - 2010, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Chiến lược xuất khẩu ngành dệt may giai đoạn 2006 - 2010
Tác giả: Hiệp hội Dệt May Việt Nam (Vitas)
Năm: 2006
5. Phạm Thu Hương (2006), Báo cáo nghiên cứu Chiến lược và năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam sau khi dỡ bỏ hệ thống hạn ngạch dệt may - một cách tiếp cận trong chuỗi giá trị toàn cầu, Đại học Ngoại Thương, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Báo cáo nghiên cứu Chiến lược và năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam sau khi dỡ bỏ hệ thống hạn ngạch dệt may - một cách tiếp cận trong chuỗi giá trị toàn cầu
Tác giả: Phạm Thu Hương
Năm: 2006
6. Nguyễn Việt Khôi (2011), Đầu tư trực tiếp của TNCs và sự tham gia của nước nhận đầu tư vào chuỗi giá trị toàn cầu: trường hợp Trung Quốc, Luận án tiến sỹ kinh tế, Trường Đại học Kinh tế - Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đầu tư trực tiếp của TNCs và sự tham gia của nước nhận đầu tư vào chuỗi giá trị toàn cầu: trường hợp Trung Quốc
Tác giả: Nguyễn Việt Khôi
Năm: 2011
7. Micheal E. Porter (2009), Lợi thế cạnh tranh: Tạo lập và duy trì thành tích vượt trội trong kinh doanh, Nhà xuất bản Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Lợi thế cạnh tranh: Tạo lập và duy trì thành tích vượt trội trong kinh doanh
Tác giả: Micheal E. Porter
Nhà XB: Nhà xuất bản Trẻ
Năm: 2009
8. Nguyễn Ngọc Sơn (2007), “Việt Nam trong chuỗi giá trị toàn cầu của ngành dệt may”, Tạp chí Kinh tế và Phát triển, 2 (74), Tr. 65-67 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Việt Nam trong chuỗi giá trị toàn cầu của ngành dệt may”, "Tạp chí Kinh tế và Phát triển
Tác giả: Nguyễn Ngọc Sơn
Năm: 2007
9. Nguyễn Ngọc Sơn (2008), “Dệt may Việt Nam thời kỳ hậu WTO: Thực trạng và giải pháp”, Tạp chí Kinh tế & Dự báo, (11), Tr. 42-47 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Dệt may Việt Nam thời kỳ hậu WTO: Thực trạng và giải pháp”, "Tạp chí Kinh tế & Dự báo
Tác giả: Nguyễn Ngọc Sơn
Năm: 2008
10. Ngô Kim Thanh (2009), “Doanh nghiệp dệt may Việt Nam đối phó với suy thoái kinh tế toàn cầu”, Kinh tế và Phát triển, 2 (7), Tr 56- 58 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Doanh nghiệp dệt may Việt Nam đối phó với suy thoái kinh tế toàn cầu”, "Kinh tế và Phát triển
Tác giả: Ngô Kim Thanh
Năm: 2009
11. Nguyễn Đức Thành (2009), Kinh tế Việt Nam năm 2008, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Kinh tế Việt Nam năm 2008
Tác giả: Nguyễn Đức Thành
Nhà XB: Nhà xuất bản Thống kê
Năm: 2009
12. Trần Văn Thọ (2005), Biến động kinh tế Đông Á và con đường công nghiệp hóa Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia , Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Biến động kinh tế Đông Á và con đường công nghiệp hóa Việt Nam
Tác giả: Trần Văn Thọ
Nhà XB: Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia
Năm: 2005
13. Thủ tướng Chính phủ (2008), Quyết định phê duyệt chiến lược phát triển ngành công nghiệp dệt may đến năm 2015, định hướng đến năm 2020, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Quyết định phê duyệt chiến lược phát triển ngành công nghiệp dệt may đến năm 2015, định hướng đến năm 2020
Tác giả: Thủ tướng Chính phủ
Năm: 2008
14. Ninh Thị Thu Thủy (2007), “Tổ chức sản xuất ngành dệt may sau khi bãi bỏ chế độ hạn ngạch”, Tạp chí Khoa học Đại học Đà Nẵng, (14), Tr.4 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tổ chức sản xuất ngành dệt may sau khi bãi bỏ chế độ hạn ngạch”, "Tạp chí Khoa học Đại học Đà Nẵng
Tác giả: Ninh Thị Thu Thủy
Năm: 2007
15. Tổng cục Hải Quan (2010), Báo cáo về xuất nhập khẩu hàng dệt may, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Báo cáo về xuất nhập khẩu hàng dệt may
Tác giả: Tổng cục Hải Quan
Năm: 2010
16. Tổng cục Hải Quan (2011), Báo cáo về xuất nhập khẩu hàng dệt may, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Báo cáo về xuất nhập khẩu hàng dệt may
Tác giả: Tổng cục Hải Quan
Năm: 2011
17. Tổng cục Thống kê (2009), Niên giám thống kê năm 2009, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Niên giám thống kê năm 2009
Tác giả: Tổng cục Thống kê
Nhà XB: Nhà xuất bản Thống kê
Năm: 2009
18. Trần Văn Tùng (2007), Thay đổi công nghệ để tham gia mạng lưới sản xuất toàn cầu, Nhà xuất bản Thế giới, Hà Nội.Tiếng Anh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thay đổi công nghệ để tham gia mạng lưới sản xuất toàn cầu
Tác giả: Trần Văn Tùng
Nhà XB: Nhà xuất bản Thế giới
Năm: 2007
19. Gary Gereffi (2001), The International competitiveness of Asian Economies in the Apparel commodity chain, Duke University, USA Sách, tạp chí
Tiêu đề: The International competitiveness of Asian Economies in the Apparel commodity chain
Tác giả: Gary Gereffi
Năm: 2001
20. Gary Gereffi, Olga Memedovic (2003), The Global Apparel Value Chain: What Prospects f or Upgrading by Developing countries, United Nation Industrial Development Organzation,Vienna Sách, tạp chí
Tiêu đề: The Global Apparel Value Chain: What Prospects f or Upgrading by Developing countries
Tác giả: Gary Gereffi, Olga Memedovic
Năm: 2003

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

DANH MỤC BẢNG - (LUẬN VĂN THẠC SĨ) Chuỗi giá trị dệt may toàn cầu và khả năng tham gia của ngành dệt may dệt may Việt Nam
DANH MỤC BẢNG (Trang 9)
DANH MỤC HÌNH VẼ - (LUẬN VĂN THẠC SĨ) Chuỗi giá trị dệt may toàn cầu và khả năng tham gia của ngành dệt may dệt may Việt Nam
DANH MỤC HÌNH VẼ (Trang 10)
Hình 1. 1- Mô hình Chuỗi giá trị của Michael E. Porter - (LUẬN VĂN THẠC SĨ) Chuỗi giá trị dệt may toàn cầu và khả năng tham gia của ngành dệt may dệt may Việt Nam
Hình 1. 1- Mô hình Chuỗi giá trị của Michael E. Porter (Trang 25)
Hình 1.2. Chuỗi giá trị dệt may toàn cầu - (LUẬN VĂN THẠC SĨ) Chuỗi giá trị dệt may toàn cầu và khả năng tham gia của ngành dệt may dệt may Việt Nam
Hình 1.2. Chuỗi giá trị dệt may toàn cầu (Trang 31)
Hình 1.4. Mô hình nâng cấp ngành trong chuỗi dệt may châ uÁ - (LUẬN VĂN THẠC SĨ) Chuỗi giá trị dệt may toàn cầu và khả năng tham gia của ngành dệt may dệt may Việt Nam
Hình 1.4. Mô hình nâng cấp ngành trong chuỗi dệt may châ uÁ (Trang 45)
Bảng 2. 1- Cơ cấu doanh nghiệp dệt may năm 2010 - (LUẬN VĂN THẠC SĨ) Chuỗi giá trị dệt may toàn cầu và khả năng tham gia của ngành dệt may dệt may Việt Nam
Bảng 2. 1- Cơ cấu doanh nghiệp dệt may năm 2010 (Trang 48)
Hình 2.1. Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam giai đoạn 2006-2010 - (LUẬN VĂN THẠC SĨ) Chuỗi giá trị dệt may toàn cầu và khả năng tham gia của ngành dệt may dệt may Việt Nam
Hình 2.1. Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam giai đoạn 2006-2010 (Trang 53)
Hình 2.2. Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang các  thị trường Mỹ, EU, Nhật Bản giai đoạn 2006 - 2010 - (LUẬN VĂN THẠC SĨ) Chuỗi giá trị dệt may toàn cầu và khả năng tham gia của ngành dệt may dệt may Việt Nam
Hình 2.2. Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang các thị trường Mỹ, EU, Nhật Bản giai đoạn 2006 - 2010 (Trang 54)
Hình 2.3- Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang các nước năm 2011 - (LUẬN VĂN THẠC SĨ) Chuỗi giá trị dệt may toàn cầu và khả năng tham gia của ngành dệt may dệt may Việt Nam
Hình 2.3 Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang các nước năm 2011 (Trang 55)

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN