TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU , CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI DU LI ̣CH LÀNG NGHỀ Ở ĐỊA PHƯƠNG
Tổng quan ti ̀nh hình nghiên cƣ́u
Hiện nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn “Quản lý nhà nước về du lịch làng nghề ở Hà Nội” Một số công trình tiêu biểu có thể kể đến như sau:
Tác giả Nguyễn Thu Hạnh (2006) đã tiến hành nghiên cứu về việc tổ chức khai thác không gian kiến trúc cảnh quan tại các khu di tích lịch sử văn hóa ở thành phố Hà Nội và vùng phụ cận, nhằm phục vụ cho chiến lược phát triển du lịch Thủ đô Đề tài khoa học cấp Bộ này tập trung vào công tác quản lý nhà nước liên quan đến việc khai thác không gian kiến trúc cảnh quan của các công trình di tích lịch sử văn hóa.
Hà Nội và các khu vực lân cận đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng chiến lược phát triển du lịch bền vững và lâu dài cho Thủ đô Hà Nội.
Tác giả Đỗ Thị Nhài (2008) trong luận văn thạc sĩ Du lịch học tại trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn đã nghiên cứu về hoạt động quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp du lịch tại Hà Nội Luận văn hệ thống hóa các cơ sở lý luận về quản lý nhà nước trong lĩnh vực du lịch, đồng thời phân tích thực trạng quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp du lịch hiện nay Nghiên cứu tập trung vào tổ chức bộ máy quản lý nhà nước và đưa ra đánh giá về thuận lợi, khó khăn, thời cơ, thách thức, cũng như các giải pháp chính sách vĩ mô và kiến nghị đến các cấp có thẩm quyền từ Trung ương đến chính quyền địa phương và các ban ngành của thành phố Hà Nội.
Tác giả Lê Uyên Thảo, Nguyễn Lê Diệu Hằng, Nguyễn Quốc Việt
Nghiên cứu năm 2012 về "Giải pháp nhằm phát triển du lịch làng nghề ở tỉnh Đà Nẵng và các vùng lân cận" đã chỉ ra tiềm năng lớn của du lịch làng nghề tại Đà Nẵng thông qua việc áp dụng các lý thuyết du lịch cơ bản Tác giả đã sử dụng tài liệu thứ cấp kết hợp với nghiên cứu định lượng và khảo sát thực tế để đề xuất các giải pháp phát triển du lịch làng nghề cho cá nhân, doanh nghiệp và địa phương Báo cáo nhấn mạnh rằng trong tương lai gần, du lịch làng nghề sẽ trở thành một trong những hình thức du lịch chủ yếu tại Đà Nẵng, với mục tiêu phát triển du lịch hiện đại, thân thiện với thiên nhiên và giàu bản sắc văn hóa địa phương.
Tác giả Phan Văn Tú (2011) trong luận văn thạc sĩ kinh tế tại Đại Học Đà Nẵng đã nghiên cứu về các giải pháp phát triển làng nghề ở thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam Nghiên cứu tập trung vào lý thuyết về làng nghề, phân loại và các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển, cũng như kinh nghiệm từ một số địa phương khác Tác giả đã thực hiện khảo sát thực tế tại các làng nghề, sử dụng phương pháp thống kê, tổng hợp và so sánh để đưa ra kết luận Kết quả cho thấy phát triển làng nghề ở Hội An hiện tại còn thiếu tính bền vững và hiệu quả kinh tế xã hội thấp, do đó cần sự quan tâm và đầu tư từ cơ quan nhà nước và doanh nghiệp.
Tác giả Nguyễn Thị Huệ (2012) trong luận văn thạc sĩ tại Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội đã nghiên cứu về phát triển du lịch làng nghề tại tỉnh Hải Dương Nghiên cứu tập trung vào các lý thuyết tổng quan về du lịch, làng nghề và phát triển du lịch làng nghề Bằng phương pháp nghiên cứu tài liệu thứ cấp và khảo sát thực tiễn, tác giả đã phân tích thực trạng du lịch làng nghề tại Hải Dương, bao gồm số lượng khách du lịch, công tác quản lý, hệ thống sản phẩm làng nghề, và khả năng liên kết giữa các làng nghề với công ty du lịch, cũng như những hạn chế hiện có Kết luận cho thấy, để phát triển du lịch làng nghề ở Hải Dương, cần có sự kết nối chặt chẽ giữa các công ty lữ hành và làng nghề truyền thống, cùng với sự quan tâm từ các cơ quan quản lý trong việc quy hoạch và đào tạo kỹ năng du lịch cho người dân địa phương.
Tác giả Nguyễn Thanh Huyền (2012) trong luận văn thạc sỹ tại Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội đã nghiên cứu về việc xây dựng sản phẩm du lịch làng nghề phục vụ hoạt động du lịch tỉnh Vĩnh Phúc Luận văn này phân tích lý thuyết về du lịch làng nghề truyền thống, vai trò và đặc điểm của loại hình du lịch này, cũng như tầm quan trọng của việc khôi phục và phát triển du lịch làng nghề Qua nghiên cứu, tác giả đã chỉ ra rằng Vĩnh Phúc có tiềm năng lớn cho phát triển sản phẩm du lịch làng nghề, nhưng gặp nhiều khó khăn như thiếu vốn đầu tư, trang thiết bị và diện tích sản xuất Do đó, cần thiết phải có các chính sách và biện pháp phù hợp để khai thác tiềm năng này, đóng góp tích cực vào mục tiêu kinh tế - xã hội của tỉnh.
Tác giả Vũ Thị Thúy (2010) nghiên cứu về đề tài: “Nghiên cứu phát triển du lịch làng gốm Phù Lãng ở Bắc Ninh”, Luận văn thạc sỹ, Đại học
Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội đã nghiên cứu về làng nghề và du lịch làng nghề, đặc biệt là tại làng gốm Phù Lãng Luận văn hệ thống hóa lý luận về các vấn đề này và khảo sát quy trình sản xuất gốm cùng các tài nguyên và cơ sở vật chất phục vụ du lịch Nghiên cứu chỉ ra rằng làng gốm Phù Lãng có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển du lịch, và cần có kế hoạch cụ thể trong tương lai để thu hút du khách đến tham quan.
Tác giả Nguyễn Thị Loan (2012) đã nghiên cứu về việc xây dựng mô hình làng nghề và khu du lịch sinh thái nhằm phát triển nông thôn bền vững tại các xã vùng đệm của vườn quốc gia Tam Đảo, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên Nghiên cứu này tập trung vào việc kết hợp giữa bảo tồn văn hóa địa phương và phát triển kinh tế bền vững, góp phần nâng cao đời sống cộng đồng dân cư và bảo vệ môi trường.
Luận văn thạc sỹ tại Trường Đại học Kinh tế và Quản trị Kinh doanh Thái Nguyên nghiên cứu các lý thuyết về du lịch, đặc biệt là du lịch sinh thái và du lịch làng nghề, cùng mối quan hệ giữa phát triển làng nghề và du lịch trong bối cảnh phát triển kinh tế địa phương Nghiên cứu áp dụng phương pháp khảo sát thực tế và nghiên cứu tài liệu thứ cấp, từ đó rút ra kết luận rằng nhiều địa phương trong tỉnh đã bắt đầu xây dựng mô hình làng nghề và khu du lịch sinh thái kết hợp với phát triển nông nghiệp nông thôn Tuy nhiên, do hạn chế về quản lý, vốn và đào tạo, các mô hình này chưa phát huy hiệu quả kinh tế - xã hội như mong đợi Do đó, cần có các giải pháp chiến lược cụ thể từ các cấp, ban ngành để nâng cao hiệu quả của các mô hình này, hướng tới phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững.
Tác giả Trần Thị Minh Nguyệt (2008) trong luận văn thạc sĩ tại Trường Đại học Thương Mại đã nghiên cứu về quản lý nhà nước và phát triển nghề, làng nghề Hà Tây trong giai đoạn hiện nay Nghiên cứu này đã tổng hợp lý thuyết về nghề truyền thống và vai trò của làng nghề đối với kinh tế, văn hóa, xã hội, đồng thời phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển của chúng Qua việc thu thập dữ liệu từ các nguồn tài liệu khoa học, Internet, tạp chí và khảo sát thực tế, luận văn đã chỉ ra những thành công cũng như hạn chế trong phát triển nghề và làng nghề Hà Tây, đồng thời nêu ra các vấn đề cần giải quyết trong tương lai.
Các nghiên cứu từ năm 2008 đến 2012 đã tập trung vào phát triển làng nghề, nghề truyền thống, và du lịch sinh thái gắn với nông nghiệp tại nhiều địa phương trên cả nước Qua việc thu thập và xử lý dữ liệu, các nghiên cứu này đã chỉ ra những thành công và thách thức trong phát triển sản phẩm truyền thống và quy hoạch du lịch làng nghề, đồng thời đề xuất các giải pháp cho tương lai.
Khác với các nghiên cứu trước đây, bài viết này tập trung nghiên cứu công tác quản lý nhà nước về du lịch làng nghề tại Thủ đô Hà Nội một cách trực diện và toàn diện Tác giả phân tích thực trạng quản lý từ cấp trung ương đến các cấp chính quyền địa phương, ban ngành và đoàn thể, đồng thời chỉ ra những hệ quả của công tác này đối với đời sống kinh tế du lịch làng nghề Bài viết cũng hệ thống hóa, bổ sung và làm rõ một số vấn đề lý luận thực tiễn, tập trung vào địa bàn Hà Nội và đề xuất các giải pháp cải thiện công tác quản lý nhà nước về du lịch làng nghề cho thành phố.
Tổng quan về qua ̉n lý nhà nước đối với du li ̣ch làng nghề dưới góc đô ̣ đi ̣a phương
1.2.1 Mô ̣t số khái niệm cơ bản
Làng nghề được hiểu là những cộng đồng vẫn duy trì hoạt động nông nghiệp nhỏ lẻ, nhưng nổi bật với một nghề truyền thống tinh xảo, có sự hiện diện của các thợ thủ công chuyên nghiệp và bán chuyên nghiệp Những người này không chỉ sản xuất các sản phẩm thủ công mỹ nghệ mà còn hình thành các phường hội, có quy trình công nghệ nhất định và sống chủ yếu bằng nghề của mình Sản phẩm từ làng nghề trở thành hàng hóa có giá trị thương mại, không chỉ tiêu thụ trong nước mà còn hướng tới xuất khẩu ra thị trường quốc tế Với lịch sử hàng trăm năm, nhiều làng nghề đã trở thành di sản văn hóa dân gian, được ghi nhớ qua tên gọi, ca dao và tục ngữ.
Làng nghề là một thiết chế kinh tế - xã hội quan trọng ở nông thôn, hình thành từ sự kết hợp giữa yếu tố làng và nghề Nó tồn tại trong một không gian địa lý cụ thể, bao gồm nhiều hộ gia đình sống chủ yếu nhờ vào nghề thủ công Giữa các hộ gia đình này có mối liên kết chặt chẽ về kinh tế, xã hội và văn hóa, tạo nên sự phát triển bền vững cho cộng đồng.
Du lịch làng nghề truyền thống là một loại hình du lịch văn hóa còn mới mẻ ở Việt Nam Để hiểu rõ về du lịch làng nghề truyền thống, trước tiên cần xem xét khái niệm du lịch văn hóa.
Du lịch văn hóa mang đến cho du khách cơ hội khám phá và trải nghiệm những giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể độc đáo tại các địa phương trên khắp đất nước.
Du lịch văn hóa là hình thức du lịch dựa vào bản sắc văn hóa dân tộc, nơi cộng đồng tham gia nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống.
Du lịch làng nghề là hình thức du lịch văn hóa tổng hợp, đưa du khách đến tham quan các làng nghề truyền thống, giúp họ khám phá các giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể gắn liền với những làng nghề cổ truyền của địa phương Các giá trị văn hóa vật thể bao gồm đình, chùa, di tích lịch sử và sản phẩm thủ công truyền thống Trong khi đó, giá trị văn hóa phi vật thể là kho tàng kinh nghiệm, kỹ thuật và bí quyết nghề nghiệp, từ việc sử dụng nguyên liệu, kỹ thuật chế tác cho đến ý tưởng sáng tạo trong sản xuất sản phẩm thủ công truyền thống.
Tour du lịch làng nghề mang đến cơ hội khám phá quy trình kỹ thuật của nghề truyền thống, đồng thời giúp du khách thâm nhập vào cuộc sống cộng đồng với những phong tục, tập quán và nghi thức đặc trưng của các làng nghề truyền thống trên khắp Việt Nam.
Quản lý nhà nước có thể hiểu là chức năng, quyền hạn và nhiệm vụ của nhà nước, trong đó nhà nước sử dụng quyền lực đã được thể chế hóa để tác động liên tục đến các quá trình, lĩnh vực và quan hệ xã hội Mục tiêu của quản lý nhà nước là đảm bảo hiệu quả trong việc đạt được các mục tiêu quản lý đã đề ra.
Chúng ta có thể định nghĩa quản lý nhà nước theo hai bình diện:
Quản lý nhà nước, theo nghĩa rộng, là hoạt động tổ chức và điều hành của hệ thống các cơ quan trong bộ máy nhà nước, bao gồm sự tác động và tổ chức quyền lực nhà nước trên các lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Quản lý nhà nước, theo nghĩa hẹp, được hiểu là hoạt động thực hiện và điều hành của các cơ quan hành chính nhà nước Đây là quá trình tổ chức và điều hành của hệ thống cơ quan hành chính nhằm điều chỉnh các quá trình xã hội và hành vi con người theo pháp luật, với mục tiêu đạt được các yêu cầu và nhiệm vụ quản lý nhà nước.
Trong bài viết này, chúng tôi sẽ áp dụng khái niệm quản lý nhà nước theo hai cách hiểu: nghĩa rộng và nghĩa hẹp Việc này sẽ được thực hiện tùy thuộc vào từng vấn đề, phạm vi và góc độ tiếp cận khác nhau để phân tích và giải thích các khía cạnh liên quan.
1.2.1.3 Quản lý nhà nước về du lịch
Quản lý nhà nước về du lịch là quá trình tổ chức và điều chỉnh liên tục các hoạt động du lịch thông qua quyền lực công cộng và pháp luật, dựa trên nền tảng thể chế chính trị nhất định Mục tiêu của quản lý này là đạt được hiệu quả kinh tế - xã hội mà nhà nước đề ra.
Quản lý nhà nước về du lịch là quá trình chỉ đạo và điều hành các mối quan hệ xã hội trong lĩnh vực kinh doanh du lịch thông qua hệ thống pháp luật Các cơ quan có thẩm quyền tác động đến các đối tượng quản lý nhằm định hướng cho hoạt động du lịch phát triển theo mục tiêu kinh tế - xã hội mà nhà nước đề ra.
1.2.1.4 Quản lý nhà nước về du lịch làng nghề ở địa phương
Quản lý nhà nước về du lịch làng nghề là quá trình tác động có tổ chức và điều chỉnh liên tục từ quyền lực công cộng, chủ yếu thông qua hệ thống pháp luật, nhằm điều phối các hoạt động du lịch Mục tiêu của quản lý này là đạt được hiệu quả kinh tế - xã hội theo định hướng của nhà nước, dựa trên nền tảng thể chế chính trị nhất định.
Quản lý nhà nước về du lịch làng nghề là chức năng quản lý vĩ mô tại địa phương, không can thiệp vào hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp du lịch Mục tiêu của quản lý này là tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau hoạt động trong lĩnh vực du lịch Qua đó, quản lý nhà nước về du lịch làng nghề hướng đến phát triển du lịch theo định hướng chung của tiến trình phát triển địa phương và đất nước.
1.2.2 Vai trò của quản lý nhà nước về du lịch làng nghề
Kinh nghiê ̣m về nâng cao hiê ̣u quả quản lý nhà nước đối với du li ̣ch làng nghề và bài học kinh nghiệm cho Hà Nội
1.3.1 Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới
Nhiều quốc gia trên thế giới như Nhật Bản, Thái Lan và Trung Quốc đã phát triển thành công các phong trào thi đua nhằm thúc đẩy du lịch làng nghề thủ công truyền thống.
1.3.1.1 Thái Lan và thủ đô Bangkok
Thái Lan là một trong những quốc gia có ngành du lịch phát triển mạnh mẽ nhất ở Châu Á, đóng góp đáng kể vào nguồn ngoại tệ của đất nước Mỗi năm, quốc gia này thu hút hơn 10 triệu khách du lịch quốc tế, cho thấy sức hấp dẫn của điểm đến này Kể từ năm 2005, chính phủ Thái Lan đã tích cực đầu tư vào ngành du lịch, nhằm thúc đẩy sự phát triển bền vững của ngành công nghiệp không khói này.
Bangkok là một trong những thành phố phát triển du lịch làng nghề hàng đầu Việc tổ chức lại các làng nghề truyền thống tại Thái Lan không chỉ giúp bảo tồn và nâng cao kỹ năng của nghệ nhân mà còn gìn giữ văn hóa truyền thống Đồng thời, điều này tạo ra công ăn việc làm ở nông thôn, ngăn chặn di cư vào đô thị và góp phần vào việc sản xuất các sản phẩm xuất khẩu cũng như sản phẩm phục vụ du lịch.
Thái Lan sở hữu khoảng 70.000 làng nghề thủ công, và từ năm 2001, Chính phủ Thái Lan đã triển khai dự án OTOP (One Tambon One Product) nhằm khai thác kỹ năng của các làng nghề truyền thống ở miền Bắc, tạo thêm thu nhập và giải quyết vấn đề lao động địa phương Chương trình này, được phát động bởi Cục xúc tiến xuất khẩu (DEP) thuộc Bộ Thương mại Thái Lan, không chỉ đơn thuần là mỗi làng có một sản phẩm, mà mỗi làng mang trong mình những kỹ năng, văn hóa và truyền thống riêng, tạo nên những đặc trưng độc đáo cho sản phẩm Chính phủ còn hỗ trợ kết nối các làng nghề với thị trường toàn cầu thông qua việc tiêu chuẩn hóa sản phẩm, hoàn thiện quy trình đóng gói, tiếp thị và tổ chức kênh phân phối quốc tế.
Ý tưởng "mỗi làng một sản phẩm" (OVOP) được Morihiko Hiramatsu khởi xướng tại quận Oita, Nhật Bản vào năm 1979 Mô hình này sau đó được nhiều quốc gia ở Châu Á áp dụng và được gọi là OTOP, tức là "mỗi thị trấn một sản phẩm" hoặc "mỗi địa phương một sản phẩm".
Thái Lan là một quốc gia thành công trong phát triển mô hình OTOP, với khoảng 36.000 mô hình hiện có, mỗi mô hình bao gồm từ 30 đến 3.000 thành viên Chính sách khuyến khích và hỗ trợ đã góp phần duy trì và phát triển nghề thủ công truyền thống của đất nước này.
Nó đã hỗ trợ người dân Thái trong việc tạo ra việc làm và sản xuất nhiều sản phẩm độc đáo của từng địa phương, từ đó tăng thu nhập cho những người tham gia Quan trọng hơn, nó còn giúp bảo tồn giá trị tri thức truyền thống trong nền văn hóa lâu đời của họ.
1.3.1.2 Trung Quốc và thủ đô Bắc Kinh, thành phố Thượng Hải
Chính phủ Trung Quốc đã xác định du lịch là một trong những lĩnh vực trọng điểm cho tăng trưởng kinh tế mới, đồng thời là trụ cột ưu tiên đầu tư phát triển Để quản lý và phát triển ngành du lịch hiệu quả, chính phủ thường xuyên xây dựng và hoàn thiện các cơ chế, chính sách Trong quá trình phát triển, Trung Quốc chủ yếu áp dụng mô hình nhà nước làm chủ đạo với hai nội dung chính.
Nhà nước và các địa phương sử dụng bộ máy quản lý hành chính để định hướng chính sách phát triển cho doanh nghiệp du lịch, đồng thời tổ chức và tuyên truyền xúc tiến, quản lý thị trường hiệu quả.
Để phát huy tính chủ động của chính quyền địa phương, đặc biệt là cấp tỉnh trong phát triển du lịch, Trung Quốc đã triển khai các sản phẩm du lịch độc đáo nhằm thu hút du khách quốc tế và nội địa Bắc Kinh và Thượng Hải, hai thành phố hàng đầu về du lịch, mỗi nơi đều mang những đặc trưng riêng: Bắc Kinh là trung tâm kinh tế chính trị văn hóa lâu đời, trong khi Thượng Hải nổi bật với sự hiện đại và năng động Tuy nhiên, vấn nạn ô nhiễm môi trường, đặc biệt là ô nhiễm không khí, đang ảnh hưởng nghiêm trọng đến lượng khách và doanh thu du lịch tại hai thành phố này.
1.3.1.3 Malaysia và thủ đô Kuala Lumpur
Chính phủ Malaysia đã nhận thức rõ vai trò quan trọng của du lịch trong nền kinh tế và đã có những bước tiến đáng kể trong quản lý và phát triển ngành này, giúp Malaysia trở thành một trong những quốc gia dẫn đầu về du lịch tại Đông Nam Á Hiện tại, du lịch Malaysia thu hút từ 14-15 triệu lượt khách quốc tế mỗi năm, với thời gian lưu trú trung bình khoảng 5-7 ngày Hãng hàng không quốc gia đã mở rộng nhiều tuyến bay nội địa và quốc tế, cùng với sự phát triển của các trung tâm du lịch mạo hiểm và hệ thống khách sạn trên toàn quốc Cơ sở hạ tầng vững mạnh và tăng trưởng kinh tế cao đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển du lịch, đặc biệt là du lịch sinh thái, với thị trường mục tiêu chủ yếu từ các nước trong khu vực như Singapore, Thái Lan, Nhật Bản và Đài Loan.
Thủ đô Kuala Lumpur không chỉ là trung tâm kinh tế, thương mại và tài chính của Malaysia mà còn là điểm đến du lịch hấp dẫn Ngành du lịch tại đây ngày càng đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế dịch vụ, nhờ vào sự hiện diện của nhiều chuỗi khách sạn quốc tế Sự phát triển du lịch Kuala Lumpur được thúc đẩy bởi tính đa dạng văn hóa, chi phí hợp lý và sự phong phú trong ẩm thực và mua sắm.
1.3.2 Kinh nghiệm của một số địa phương ở nước ta
Du khách đến Ninh Bình không chỉ khám phá các điểm du lịch nổi tiếng như Khu du lịch sinh thái Tràng An, Tam Cốc - Bích Động, và Nhà thờ đá Phát Diệm, mà còn có cơ hội tìm hiểu về những làng nghề mỹ nghệ đặc sắc của vùng đất này.
Để bảo tồn và phát triển các làng nghề truyền thống, cần kết hợp với phát triển du lịch nhằm thu hút khách du lịch Hiện nay, tỉnh có 60 làng nghề tiểu thủ công nghiệp, trong đó 36 làng nghề được công nhận, bao gồm 16 làng chế biến cói, 5 làng chế tác đá mỹ nghệ, 4 làng thêu ren, 5 làng mây tre đan, 1 làng sản xuất cốt chăn bông, 2 làng bún, 2 làng mộc và 1 làng gốm mỹ nghệ Các làng nghề này không chỉ tạo việc làm cho lao động, đặc biệt là ở vùng nông thôn, mà còn mang đến những trải nghiệm độc đáo cho du khách.
Ninh Bình có nhiều làng nghề truyền thống, nhưng phần lớn vẫn sản xuất theo quy mô nhỏ và chưa phát triển kịp với thị trường, thiếu sự kết hợp với du lịch Điểm yếu trong phát triển du lịch làng nghề là khâu tiếp thị và sự thiếu hụt hướng dẫn viên Để bảo tồn và phát triển các làng nghề, cần gắn du lịch với việc xây dựng các tuyến du lịch, phát triển thêm làng nghề mới phù hợp với điều kiện địa phương Phòng quản lý công nghiệp sẽ tổ chức tham quan học hỏi từ các địa phương có làng nghề đa dạng như Hà Nội, Hải Dương, Đà Nẵng, đồng thời phối hợp với các ban ngành để đào tạo kiến thức marketing và kỹ thuật cho thợ thủ công Cần thực hiện chính sách ưu đãi đầu tư, hỗ trợ lãi suất, thuế cho các cơ sở nông thôn và tìm kiếm thị trường cho sản phẩm làng nghề nhằm nâng cao giá trị sản phẩm và thu hút khách du lịch.