Quy luật về sự phù hợp của QHSX với trình độ phát triển của LLSX…
Các khái niệm
1.1.1 Lực lượng sản xuất và kết cấu:
Một quá trình sản xuất vật chất nào cũng cần phải có các nhân tố thuộc về:
- Người lao động( năng lực, kỹ năng, tri thức,…)
- Tư liệu sản xuất nhất định( đối tượng lao động, công cụ lao động, các tư liệu phụ trợ của quá trình,…)
Toàn bộ các nhân tố trên tạo thành lực lượng sản xuất của quá trình sản xuất.
Lực lượng sản xuất đại diện cho mối quan hệ giữa con người và tự nhiên trong quá trình sản xuất, bao gồm tất cả các yếu tố vật chất và tinh thần cần thiết để cải biến tự nhiên nhằm đáp ứng nhu cầu sinh tồn và phát triển của con người Kỹ thuật trong quá trình sản xuất có mối quan hệ biện chứng với các yếu tố này, tạo nên sức mạnh thực tiễn trong việc cải tạo môi trường sống.
Người l độ Đối tượng LĐ
Tư liệu phụ trợ Công cụ
Lực lượng sản xuất bao gồm hai yếu tố chính: người lao động với kỹ năng của họ và tư liệu sản xuất, đặc biệt là công cụ lao động.
Các yếu tố trong lực lượng sản xuất không thể tách rời, có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.
Trong lực lượng sản xuất, con người lao động và công cụ lao động đóng vai trò quan trọng nhất Người lao động là trung tâm của quá trình sản xuất, mang đến sức mạnh và kỹ năng cần thiết để thực hiện công việc.
1.1.2 Quan hệ sản xuất: Để tiến hành quá trình sản xuất nhất định con người phải có mối quan hệ với nhau Tổng thể những mối quan hệ này gọi là quan hệ sản xuất.
Quan hệ sản xuất là khái niệm triết học mô tả mối quan hệ kinh tế giữa con người trong quá trình sản xuất và tái sản xuất xã hội.
Quan hệ sản xuất bao gồm các yếu tố như sở hữu tư liệu sản xuất, tổ chức và quản lý sản xuất, cũng như phân phối sản phẩm Mặc dù các quan hệ này do con người tạo ra, nhưng sự hình thành và phát triển của chúng diễn ra khách quan, không phụ thuộc vào ý chí cá nhân Trong quá trình sản xuất, con người không thể tách rời khỏi cộng đồng, do đó, việc thiết lập mối quan hệ với nhau là điều cần thiết.
Quan hệ sản xuất gồm có 3 mặt:
- Quan hệ giữa người với người trong việc chiếm hữu những tư liệu sản xuất chủ yếu( gọi là quan hệ sở hữu).
- Quan hệ giữa người với người trong việc tổ chức, quản lý xã hội và trao đổi hoạt động cho nhau( gọi là quan hệ tổ chức, quản lý).
- Quan hệ giữa người với người trong phân phối, lưu thông sản phẩm làm ra( gọi là quan hệ phân phối lưu thông).
Các mối quan hệ sản xuất tồn tại trong sự thống nhất và chi phối lẫn nhau, chịu ảnh hưởng từ quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất, đây là yếu tố cơ bản và đặc trưng cho mỗi xã hội.
Quan hệ sản xuất là một yếu tố khách quan, được hình thành trong quá trình phát triển lịch sử mà không phụ thuộc vào ý muốn của con người Nó đóng vai trò then chốt trong các mối quan hệ xã hội, vì chính quan hệ sản xuất là nền tảng quyết định cho những quan hệ khác.
1.2 Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất:
Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là một hệ thống biện chứng, trong đó lực lượng sản xuất đóng vai trò quyết định đối với quan hệ sản xuất, trong khi đó, quan hệ sản xuất cũng có ảnh hưởng trở lại đối với lực lượng sản xuất.
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt cơ bản, tất yếu của quá trình sản xuất.
Lực lượng sản xuất là nội dung vật chất của quá trình sản xuất, còn quan hệ sản xuất là “ hình thức xã hội” của quá trình đó
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất có mối quan hệ quy định lẫn nhau, tạo thành một sự thống nhất cần thiết trong mọi quá trình sản xuất trong xã hội Sự tương tác này là yếu tố phổ biến và không thể thiếu trong thực tiễn sản xuất.
Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là một yếu tố quan trọng, phản ánh tính tất yếu khách quan trong quá trình phát triển Để đảm bảo sự phát triển bền vững, quan hệ sản xuất cần phải tương thích với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở từng giai đoạn lịch sử cụ thể.
Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là một hệ thống thống nhất, có khả năng chuyển hóa thành các mặt đối lập và dẫn đến mâu thuẫn.
Vai trò quyết định của lực lượng sản xuất đối với sự hình thành và biến đổi của quan hệ sản xuất:
Tương ứng với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, cần thiết phải có một quan hệ sản xuất phù hợp, bao gồm cả ba khía cạnh của quan hệ sản xuất.
Xu hướng sản xuất vật chất đang liên tục thay đổi và phát triển, điều này đòi hỏi quan hệ sản xuất cũng phải điều chỉnh để phù hợp với sự biến đổi của lực lượng sản xuất.
Lực lượng sản xuất thường thay đổi nhanh chóng do sự thúc đẩy từ người lao động, trong khi quan hệ sản xuất lại biến đổi chậm hơn do bị chi phối bởi quyền sở hữu tư liệu sản xuất, nhằm bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị Sự tác động ngược lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất cũng rất đáng chú ý.
Chủ trương khoán trong nông nghiệp của Việt Nam
Thực trạng của khoán hộ
Từ năm 1963 đến năm 1965, ở Vĩnh Phúc xuất hiện rải rác khoán hộ ở hợp tác xã Văn Quan, Đa Phúc, Hòa Loan,…
Ngày 10/09/1966, Ban thường vụ Tỉnh ủy Vĩnh Phúc ra nghị quyết về “Một số vấn đề quản lý lao động trong hợp tác xã hiện nay”
Khoán hộ đã có những hiệu quả như thúc đẩy sản xuất nông nghiệp ở Vĩnh Phúc:
- Năm 1965; Vĩnh Phúc có 131 hợp tác xã( chiếm 9,4% hợp tác xã), đạt 5 tấn lúa/ha với ruộng hai vụ lúa/
- Năm 1967 có 348 hợp tác xã( chiếm 21,4%) đạt sản lượng này gấp đôi so với năm 1965.
- Năm 1967, các loại nông sản vượt mức: hoa màu, rau xanh đứng thứ 3 toàn miền Bắc, thuốc lá thu mua vượt 14% thịt bán cho nhà nước vượt 31,5%.
- Hợp tác xã Đông Nam năng suất lúa tăng từ 520kg vụ lên 602kg vụ.
- Năm 1967, tổng đàn lợn tỉnh là 307000 con, tăng 20% so với năm 1966.
Chỉ sau một năm áp dụng khoán hộ, đến năm 1967, 75% hợp tác xã và 76% hộ sản xuất đã thực hiện hình thức này Có 160 hợp tác xã, chiếm hơn 70% tổng số hợp tác xã thời điểm đó, đạt năng suất lúa từ 5-7 tấn/ha, với sản lượng thóc đạt 197.000 tấn, tăng 2,7% so với năm 1964.
Mặc dù thời gian thực hiện Nghị quyết 68 không dài, nhưng đã mang lại hiệu quả lao động đáng kể Đến cuối năm 1967, tỉnh có 160 hợp tác xã, chiếm 70% tổng số hợp tác xã, với năng suất bình quân từ 5 tấn đến hơn 7 tấn/ha Sản lượng lương thực đạt khoảng 222.000 tấn, tăng hơn 4.000 tấn so với năm trước.
Sau 15 năm, Ban Bí thư Trung ương Đảng đưa ra chỉ thị số 100-CT/TW có ý nghĩa quan trọng trong việc mở đường thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển Chỉ thị được đánh giá là cột mốc đầu tiên, bước đột phá táo bạo vào mô hình hợp tác hóa, tập thể hóa nông nghiệp của nước ta và mở ra khả năng, cho phép hộ gia đình được làm chủ một số khâu sản xuất, sử dụng đất đai, tài nguyên; có quyền tiêu thụ sản phẩm làm ra khi hoàn thành nghĩa vụ với Nhà nước
Sau khi chỉ thị 100 được ban hành, việc khoán sản phẩm đã được áp dụng tại các hợp tác xã và tổ, đội sản xuất Kết quả là năng suất lúa đã tăng đáng kể, dao động từ 4% đến 20%, và ở một số nơi, mức tăng có thể đạt tới 50%.
Năm 1982, tỉnh Bắc Ninh đã thực hiện thành công việc khoán sản phẩm cho nhóm và người lao động, đồng thời ghi nhận một vụ mùa bội thu Sản xuất nông nghiệp đạt được những thắng lợi toàn diện, vượt qua các chỉ tiêu kế hoạch với tổng diện tích gieo trồng tăng so với năm 1981 Tổng sản lượng quy thóc đạt 222.777 tấn, tương đương 110,99% kế hoạch, trong khi năng suất lúa cả hai vụ đều tăng Đặc biệt, huyện Tiên Sơn dẫn đầu toàn tỉnh về năng suất lúa hai vụ với 60,49 tạ/ha.
Nghị quyết số 10 NQ-TW về Đổi mới quản lý nông nghiệp và Khoán 10 đã công nhận hộ nông dân là đơn vị kinh tế tự chủ Tại hội nghị Ban chấp hành trung ương Đảng lần thứ 6 và Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII vào tháng 3-1989, vai trò của hộ nông dân trong sản xuất hàng hóa tiếp tục được khẳng định Cơ chế Khoán 10 đã mang lại thành tựu đáng kể trong lĩnh vực thủy lợi, cải tạo giống, thâm canh và mở rộng diện tích canh tác Từ việc nhập khẩu hơn 450.000 tấn gạo vào năm 1988, Việt Nam đã đảm bảo nhu cầu lương thực trong nước và xuất khẩu từ 1 đến 1,5 triệu tấn gạo mỗi năm, tiến dần lên 4 đến 4,5 triệu tấn trong những năm tiếp theo Điển hình là Hợp Thịnh, nơi áp dụng hiệu quả các chính sách và kinh nghiệm sau Chỉ thị 100 và Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị, đã có những bước đi phù hợp với cơ chế mới.
- Quyết định đưa cây ngô đông vào đất 2 vụ lúa, mang hiệu quả kinh tế cao.
Giống lúa ngắn ngày T1, CN2 cùng với các giống ngô 3 tháng như VM1, Ganga 5, và TSB2 đã được gieo trồng tại địa phương, đồng thời sẽ được mở rộng quy mô sản xuất trong những năm tiếp theo.
Hợp Thịnh đã đạt được nhiều thành công trong việc ứng dụng sản xuất ngô giống vụ đông trên đất 2 vụ lúa Vào năm 2014 và 2015, xã triển khai các mô hình như “cánh đồng mẫu lớn quy mô 60ha” và “sản xuất khoai tây theo chuẩn VietGap” Những cơ chế khoán và sáng tạo trong nông nghiệp đã giúp Hợp Thịnh phát triển mạnh mẽ, cải thiện đời sống của người dân.
Việc áp dụng "khoán mới" đã thúc đẩy người nông dân tích cực sản xuất và chủ động trong công việc, dẫn đến việc chăm sóc và thâm canh cây trồng hiệu quả hơn Nhờ đó, năng suất và sản lượng cây trồng tăng cao, đồng thời tận dụng tốt thời gian, nguồn lao động và đất đai Quy trình đóng thuế và bán sản phẩm cho Nhà nước cũng trở nên nhanh chóng và thuận tiện hơn trước.
Tình trạng giấu diện tích và hạ thấp năng suất để trục lợi đang diễn ra phổ biến, dẫn đến việc một số diện tích đất và ruộng được cho xã viên mượn, làm ngoài kế hoạch Điều này gây ra sự phân tán đất đai và lao động, không tập trung vào công việc tập thể Nhiều hợp tác xã và tập đoàn sản xuất thể hiện hiện tượng khoán trắng và thu tô, thậm chí có nơi giao trả ruộng đất và tư liệu sản xuất cho chủ cũ để họ tự làm và nộp tô cho hợp tác xã hoặc tập đoàn.
Việc thực hiện các chính sách mới của Đảng và Nhà nước đã nâng cao ý thức tự giác của người lao động, góp phần cải thiện hiệu quả sản xuất và kinh doanh tại địa phương, từ đó nâng cao đời sống nhân dân Tuy nhiên, tình hình vẫn còn nhiều yếu tố không ổn định do khả năng lãnh đạo và quản lý còn hạn chế Một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân chưa dám mạnh dạn tìm kiếm phương thức làm ăn mới Nguyên nhân sâu xa là các chủ trương đổi mới vẫn đang trong giai đoạn thử nghiệm, chưa triệt để và toàn diện, với việc thực hiện tại địa phương chỉ mang tính chất trải nghiệm để tổng kết và hoàn thiện thêm đường lối đổi mới của Đảng.
Những chủ trương và kiến nghị về chủ trương khoán ở Việt Nam
Những chủ trương khoán hộ Việt Nam hiện nay
Việc phân tích chủ trương "khoán hộ" của Việt Nam, đặc biệt thông qua các chỉ thị 100-CT/TW và nghị quyết 10-NQ/TW, cho thấy rõ mục tiêu "hộ nông dân tự chủ" Trong những năm gần đây, việc áp dụng chủ trương này đã thể hiện sự chuyển biến mạnh mẽ trong việc hướng tới "tự chủ tài chính" cho các đơn vị sự nghiệp công lập và cơ chế khoán trong các doanh nghiệp.
Thứ nhất,Cơ chế tự chủ tài chính của các đơn vị sự nghiệp công lập:
Cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị cho phép các đơn vị tự quyết định và tự chịu trách nhiệm về các khoản thu chi của mình, tuy nhiên vẫn phải tuân thủ mức khung do Nhà nước quy định.
Để thực hiện cơ chế tự chủ tài chính, các đơn vị sự nghiệp cần xây dựng quy chế tiêu nội bộ phù hợp với đặc thù của từng lĩnh vực và tình hình thực tế của đơn vị.
Tự chủ tài chính cho các đơn vị công là một bước đột phá quan trọng và cần thiết, giúp giảm bớt áp lực tài chính lên ngân sách nhà nước Việc thực hiện cơ chế này không chỉ thúc đẩy sự đổi mới trong quản lý tài chính mà còn nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực công.
Trong đó, các mục tiêu của cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập được qui định như sau:
Trao quyền tự chủ và trách nhiệm cho các đơn vị giúp tối ưu hóa bộ máy, sử dụng hiệu quả lao động và nguồn lực tài chính để hoàn thành nhiệm vụ Điều này khuyến khích sự sáng tạo và năng động, đồng thời xây dựng “thương hiệu riêng” cho từng đơn vị.
Để thực hiện chủ trương xã hội hóa trong cung cấp dịch vụ, cần huy động sự đóng góp từ cộng đồng nhằm phát triển các hoạt động sự nghiệp Điều này sẽ giúp từng bước giảm dần sự phụ thuộc vào ngân sách nhà nước.
- Thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm đối với đơn vị sự nghiệp.
Việc thực hiện cơ chế tự chủ tài chính được thực hiện theo Nghị định số
Nghị định 43/2006/NĐ-CP quy định quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm của các đơn vị sự nghiệp công lập trong việc thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và quản lý tài chính.
Sau gần 10 năm thực hiện Nghị định số 43/2006/NĐ-CP, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 16/2015/NĐ-CP vào ngày 14/2/2015, nhằm mục tiêu đổi mới toàn diện các đơn vị sự nghiệp công lập Nghị định này nhấn mạnh việc giao quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm cho các đơn vị, đồng bộ hóa trong việc thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, nhân sự và tài chính.
Gồm 4 mức độ tự chủ tài chính:
- Tự chủ tài chính đối với đơn vị tự bảo đảm chi thường xuyên và chi đầu tư.
- Tự chủ tài chính đối với các đơn vị tự bảo đảm chi thường xuyên.
- Tự chủ tài chính đối với đơn vị tự bảo đảm một phần chi thường xuyên.
Các đơn vị được Nhà nước đảm bảo chi thường xuyên, theo chức năng và nhiệm vụ được giao, cần có sự tự chủ trong quản lý tài chính, đặc biệt là khi không có nguồn thu hoặc nguồn thu thấp.
Việc triển khai giao quyền tự chủ tài chính cho các đơn vị sự nghiệp công lập đã mang lại một số hiệu quả:
Các đơn vị sự nghiệp công lập đã tích cực sử dụng nguồn kinh phí ngân sách nhà nước được giao để thực hiện nhiệm vụ một cách hiệu quả Nhờ đó, họ đã phát triển và nâng cao cả số lượng lẫn chất lượng dịch vụ cung cấp.
Nguồn thu từ các đơn vị sự nghiệp công lập, kết hợp với việc tiết kiệm 10% chi hoạt động thường xuyên từ ngân sách nhà nước, góp phần quan trọng trong việc bù đắp một phần nhu cầu tăng lương theo quy định của Chính phủ.
Nhờ vào việc tăng cường khai thác nguồn thu, tiết kiệm chi phí và thực hiện cơ chế tự chủ, thu nhập tăng thêm của cán bộ, viên chức đã đạt mức bình quân từ 0,5 đến 1,5 lần so với tiền lương cấp bậc của đơn vị.
Một số đơn vị sự nghiệp công lập trong lĩnh vực giáo dục đại học, như Đại học Quốc Tế thuộc Đại học Quốc gia Tp.Hồ Chí Minh, đã tự đảm bảo toàn bộ chi phí hoạt động và chi trả thu nhập tăng thêm cho người lao động với mức khoảng 2-3 lần.
Việc sắp xếp bộ máy và tinh giảm biên chế, cùng với cân đối tài chính, đã dẫn đến việc xóa bỏ tính bao cấp tại một số địa phương, mang lại những kết quả đáng kể.
- Năm 2018, ở Hà Nội các đơn vị sự nghiệp công lập giảm từ 401 đơn vị còn 208 đơn vị.
Tại Quảng Ninh, 84 đơn vị đã được giao quyền tự chủ tài chính, trong khi đó có thêm 1.442 viên chức không nhận lương từ ngân sách nhà nước Đáng chú ý, kinh phí ngân sách cấp cho năm 2018 đã giảm 120 tỷ đồng so với năm 2017.