BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ Y TẾ ĐẠI HỌC Y DƯỢC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HOÀNG THỊ PHƯƠNG TRANG STRESS VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN CỦA HỌC SINH TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG CHUYÊN LƯƠNG THẾ VINH, THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI NĂM 2016 LUẬN VĂN THẠC SĨ Y TẾ CÔNG CỘNG TP Hồ Chí Minh, năm 2017 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ Y TẾ ĐẠI HỌC Y DƯỢC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HOÀNG THỊ PHƯƠNG TRANG STRESS VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN CỦA HỌC SINH TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG CHUYÊN LƯƠNG THẾ VINH, THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
- Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 09/2016 đến tháng 04/2017
- Địa điểm nghiên cứu: Trường THPT chuyên Lương Thế Vinh, TP Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.
Đối tượng nghiên cứu
Học sinh trường THPT chuyên Lương Thế Vinh, Thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, năm 2016
Học sinh trường THPT chuyên Lương Thế Vinh, Thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, năm 2016
2.2.3 Cỡ mẫu Áp dụng công thức tính cỡ mẫu sau:
Trong đó: n: Số học sinh THPT được nghiên cứu p= 0,45 (dựa theo kết quả của Phùng Đức Nhật năm 2012) [13]
Z: ứng với độ tin cậy 95% thì z =1,96 α: là mức ý nghĩa thống kê, lấy α = 5% d: sai số cho phép là 0,05
Để đảm bảo tính đại diện cho nghiên cứu, cỡ mẫu cần được điều chỉnh với hệ số thiết kế 1,5 và thêm 10% dự phòng để đối phó với khả năng từ chối tham gia khảo sát.
Để xác định số học sinh cần khảo sát theo từng khối lớp, trước tiên cần tính tỷ lệ phần trăm Trường có tổng cộng 967 học sinh, trong đó khối 10 có 369 học sinh, khối 11 có 338 học sinh và khối 12 có 260 học sinh Tổng số mẫu nghiên cứu cần lấy là 633 học sinh.
+ Học sinh cần khảo sát trong khối 10 là: 241 (học sinh)
+ Học sinh cần khảo sát trong khối 11 là: 221 (học sinh)
+ Học sinh cần khảo sát trong khối 12 là: 171(học sinh)
Bước 2: Tính số học sinh cần khảo sát theo từng lớp
Kết quả được thể hiện qua bảng sau:
STT Lớp Sỉ số Tỷ lệ
Bước 3: Trường THPT chuyên Lương Thế Vinh có tất cả 36 lớp học, bao gồm
Trong quá trình thu thập dữ liệu cho các khối lớp 10, 11 và 12, điều tra viên sẽ tiến hành chọn ngẫu nhiên học sinh từ danh sách sĩ số lớp để đảm bảo số lượng cần thiết Mỗi lớp học sẽ được phát bộ câu hỏi và hướng dẫn học sinh tự điền trong khoảng thời gian 20 phút Bộ câu hỏi không yêu cầu thông tin cá nhân như họ và tên, cũng như không mã hóa danh tính, do đó, trước khi rời lớp, điều tra viên cần kiểm tra tính đầy đủ của các câu trả lời Sau khi hoàn tất việc thu thập dữ liệu từ 36 lớp học, quá trình nhập liệu và phân tích sẽ được thực hiện.
- Được sự đồng ý của học sinh tham gia điền vào bộ câu hỏi
- Tất cả những học sinh có mặt tại lớp trong thời gian phỏng vấn
- Kết quả trả lời của học sinh đầy đủ và trung thực.
Thu thập dữ kiện
2.3.1 Phương pháp thu thập dữ kiện
Hướng dẫn cho học sinh tự điền vào bộ câu hỏi soạn sẵn
2.3.2 Công cụ thu thập dữ kiện
Bộ câu hỏi được chia thành 3 phần, trong đó phần 1 bao gồm 14 câu hỏi đánh giá mức độ stress, được rút ra từ thang đo tự đánh giá stress DASS 42 của Lovibond S.H và Lovibond P.F Các câu hỏi này bao gồm các số: 1, 6, 8, 11, 12, 14, 18, 22, 27, 29, 32, 33, và 35.
Phần 2 là bộ câu hỏi về các yếu tố liên quan, gồm thông tin chung của học sinh và các yếu tố liên quan như yếu tố học tập, cá nhân, gia đình và xã hội
2.4.1 Kiểm soát sai lệch chọn lựa
- Chọn mẫu phù hợp với tiêu chí đưa vào và loại ra
- Chọn đúng đối tượng theo danh sách lớp của nhà trường
2.4.2 Kiểm soát sai lệch thông tin
- Định nghĩa rõ ràng và cụ thể các biến số
- Thiết kế bộ câu hỏi, bảng hướng dẫn phỏng vấn ngắn gọn, dễ hiểu để đáp ứng được mục tiêu nghiên cứu
- Câu hỏi sắp xếp theo trình tự, có tính logic và phù hợp với đối tượng tham gia nghiên cứu
- Hướng dẫn cho điều tra viên
- Thực hiê ̣n điều tra thử để hiê ̣u chỉnh bô ̣ câu hỏi
- Đối tươ ̣ng nghiên cứu tự quyết đi ̣nh câu trả lời, không gợi ý câu trả lời
- Giải đáp thông tin, thắc mắc cho đối tượng nghiên cứu.
Liệt kê và định nghĩa biến số
- Điểm stress được tính là tổng điểm 14 câu hỏi về stress được rút ra trong thang đo trầm cảm – lo âu – stress DASS 42 bao gồm các câu 1, 6, 8, 11,
Biến số định lượng bao gồm bốn giá trị: "không đúng với tôi chút nào cả", "đúng với tôi phần nào hoặc thỉnh thoảng mới đúng", "đúng với tôi phần nhiều hoặc phần lớn thời gian" và "hoàn toàn đúng với tôi hoặc hầu hết thời gian là đúng" Các giá trị này giúp đánh giá mức độ phù hợp của các yếu tố trong cuộc sống cá nhân.
- Mức độ stress của học sinh được chia dựa vào điểm stress, là biến thứ tự, gồm năm giá trị:
+ Rất nặng (từ 34 điểm trở lên)
- Điểm cắt stress: Có stress từ 0-18 điểm, không stress từ 19 điểm trở lên
- Giới tính là giới tính của đối tượng nghiên cứu, biến nhị giá, có hai giá trị: nam hoặc nữ
Dân tộc, được xác định theo phần khai báo trên chứng minh nhân dân hoặc các giấy tờ tùy thân có giá trị pháp lý khác, là một biến danh định quan trọng Biến này được phân loại thành bốn giá trị chính: Kinh, Hoa, Khmer và Khác.
- Khối lớp là biến danh định, có ba giá trị: khối lớp 10, khối lớp 11, khối lớp 12
- Phân loại lớp là biến danh định, có ba giá trị:
+ Chuyên ban tự nhiên (bao gồm các lớp toán, lý, hóa, sinh)
+ Chuyên ban xã hội (bao gồm các lớp văn, sử địa, ngoại ngữ, tin học) + Không chuyên ban
Học lực được xác định theo Quyết định số 40/2006/QĐ-BGDĐT của Bộ Giáo dục và Đào tạo, quy định về đánh giá và xếp loại học sinh trung học cơ sở và trung học phổ thông Đây là một biến danh định với bốn giá trị khác nhau.
+ Giỏi (điểm tổng kết từ 8,0 trở lên)
+ Khá (điểm tổng kết từ 7,0 đến 7,9)
+ Trung bình (điểm tổng kết từ 5,0 đến 6, 9)
+ Yếu (điểm tổng kết dưới 5,0)
Lo lắng về ngoại hình, sợ thất bại và cảm giác thua kém bạn bè, cùng với nỗi lo về kết quả học tập, đều là những yếu tố tâm lý có hai mặt: tích cực và tiêu cực Những cảm xúc này có thể ảnh hưởng đến sự tự tin và động lực của mỗi người trong cuộc sống.
- Gặp khó khăn trong vấn đề tình cảm nam nữ là biến nhị giá, có hai giá trị: có, không
- Hút thuốc được tính là có khi có hút trong một tuần vừa qua, là biến nhị giá, có hai giá trị: có, không
- Bị bệnh, lo lắng về tình hình bệnh tật ảnh hưởng đến học tập, là biến nhị giá, có hai giá trị: có, không
- Thời gian ngủ trong một ngày, là biến thứ bậc, có ba giá trị:
+ Ngủ quá nhiều (nếu ngủ nhiều hơn 10 tiếng/ngày)
+ Bình thường (nếu ngủ từ 8 đến 10 tiếng/ngày)
+ Thiếu ngủ (nếu ngủ ít hơn 8 tiếng/ngày)
Thời gian chơi game trong một tuần được phân loại thành năm mức độ: không bao giờ, hiếm khi, thỉnh thoảng, thường xuyên và rất thường xuyên Các mức độ này giúp xác định tần suất tham gia vào trò chơi, từ đó có thể đánh giá thói quen giải trí của người chơi.
- Uống rượu bia được tính là có khi có sử dụng rượu bia trong một tuần vừa qua, là biến nhị giá, có hai giá trị: có, không
- Chỗ ở hiện tại là biến danh định, có năm giá trị: Ở nhà ba mẹ, phòng trọ, kí túc xá, ở với bà con họ hàng, khác…
- Sử dụng phương tiện đi học hằng ngày là biến danh định, có sáu giá trị: xe buýt, xe máy, xe đạp, đi bộ, đi ô tô, khác
Áp lực từ sự quan tâm quá mức của bố mẹ đối với việc học và kỳ vọng cao về tương lai có thể tạo ra những biến nhị giá, với hai giá trị chính: tích cực và tiêu cực.
Theo quyết định số 09/2011/QĐ – TTg, tình trạng kinh tế được phân loại thành hai nhóm: hộ nghèo và không nghèo, áp dụng cho giai đoạn 2011 – 2015 Quy định này nhằm xác định chuẩn hộ nghèo và cải thiện điều kiện sống cho các hộ gia đình trong xã hội.
Gia đình chu cấp kinh tế cho cá nhân trong một tháng bao gồm các khoản chi phí cho học tập, ăn ở và đi lại Kinh phí này được phân loại thành ba mức độ: thoải mái, đủ tiêu và thiếu.
- Lo lắng về tình trạng kinh tế gia đình làm ảnh hưởng đến việc học, là biến nhị giá, có hai giá trị: có, không
- Xung đột gia đình là biến danh định, có năm giá trị: không bao giờ, hiếm khi, thỉnh thoảng, thường xuyên, rất thường xuyên
- Lo lắng về xung đột trong gia đình là biến nhị giá, có hai giá trị: có, không
- Thời gian lên lớp/ học thêm trong một tuần, thời gian học thêm trong một tuần là biến danh định, có ba giá trị: ít, bình thường, nhiều
- Kế hoạch học tập cho bản thân là biến nhị giá, có hai giá trị: có, không
- Cảm thấy áp lực về thi cử là biến nhị giá, có hai giá trị: có, không
- Cảm nhận về phương pháp giảng dạy của thầy cô là những biến danh định, có ba giá trị: hứng thú, bình thường, nhàm chán
- Cảm nhận về chương trình học trong lớp là những biến danh định, có ba giá trị: hứng thú, bình thường, nhàm chán
- Xung đột với thầy cô, là những biến danh định có bốn giá trị: không bao giờ, hiếm khi, thỉnh thoảng, thường xuyên, rất thường xuyên
- Xung đột với bạn bè, là những biến danh định có bốn giá trị: không bao giờ, hiếm khi, thỉnh thoảng, thường xuyên, rất thường xuyên
- Nhà trường tổ chức các buổi ngoại khóa là biến nhị giá, có hai giá trị: có, không
- Tham gia hoạt động ngoại khóa do nhà trường tổ chức, là biến nhị giá, có hai giá trị: có, không
- Lo lắng khi không có bạn bè cùng chia sẻ, tâm sự, là biến nhị giá, có hai giá trị: có, không
- Tham gia các buổi tập huấn về sức khỏe tâm thần vị thành niên, là biến nhị giá, có hai giá trị: có, không
Gọi điện thoại hoặc trực tuyến để nhận tư vấn về sức khỏe và tâm lý trong tháng qua là một dịch vụ có hai giá trị: có và không.
- Biết nơi nào khám hay tư vấn về sức khỏe tâm thần là biến nhị giá, có hai giá trị: có, không
- Đã từng cảm thấy bị stress là biến nhị giá, có hai giá trị: có, không
Cách ứng phó với stress có thể được chia thành năm giá trị quan trọng: sử dụng chất kích thích, giải trí qua việc xem phim hoặc nghe nhạc, khẳng định lại bản thân, chia sẻ cảm xúc với người khác, và tìm kiếm những phương pháp khác để giảm căng thẳng.
Xử lý và phân tích dữ kiện
Nhập số liệu bằng phần mềm Epidata 3.1
Xử lý số liệu bằng phần mềm Stata 10.0, Excel 2010
- Tính tỉ lệ phần trăm cho các biến số định tính (danh định) Dùng phép kiểm chi bình phương cho các biến số này
- Tính trung bình và độ lệch chuẩn cho các biến số định lượng
Xác định mối liên hệ giữa các biến số danh định, định lượng và thứ tự thông qua tỉ số tỉ lệ nguy cơ PR (Prevalence Ratio) là một phương pháp quan trọng trong nghiên cứu thống kê Để đảm bảo tính chính xác, mức ý nghĩa thống kê được thiết lập ở mức 95% Điều này giúp các nhà nghiên cứu đánh giá mối liên hệ và tác động của các biến số một cách hiệu quả.
- Kiểm định hệ số tin cậy cronbach’s alpha cho 14 câu stress rút ra từ thang đo DASS-42.
Nghiên cứu thử
Nghiên cứu thử nghiệm đã được thực hiện trên 50 học sinh thuộc ba khối 10, 11, 12 tại trường THPT chuyên Lương Thế Vinh, TP Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai Mục đích là để điều chỉnh các câu hỏi chưa rõ ràng hoặc có nhiều ý trong mỗi câu hỏi, đồng thời xem xét những trở ngại phát sinh trước khi tiến hành thu thập dữ liệu chính thức.
Đạo đức trong nghiên cứu
- Phê duyệt để tiến hành nghiên cứu phải được cấp bởi Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh
- Trước khi thu thập dữ liệu ở ở trường THPT chuyên Lương Thế Vinh phải có sự chấp thuận bằng văn bản của hiệu trưởng
Trước khi tiến hành thu thập dữ liệu, chúng tôi sẽ giải thích rõ ràng mục đích nghiên cứu cho học sinh, nhấn mạnh rằng việc tham gia là hoàn toàn tự nguyện Chúng tôi cam kết bảo mật thông tin, đảm bảo rằng câu trả lời của họ sẽ được giữ kín và không ai có thể truy cập vào thông tin cá nhân Ngoài ra, chúng tôi khẳng định rằng không có câu trả lời đúng hay sai, và học sinh có quyền dừng hoặc rút lui khỏi nghiên cứu bất cứ lúc nào.
KẾT QUẢ
Các yếu tố chung của học sinh trường THPT chuyên Lương Thế Vinh
3.2.1 Các yếu tố nền của học sinh
Bảng 3.1 Các yếu tố nền của học sinh (nc3) Đặc tính Số lượng Tỷ lệ (%)
Trong nghiên cứu với 633 học sinh, tỷ lệ học sinh nữ chiếm 68,7%, trong khi nam giới chỉ chiếm 31,3% Số lượng học sinh ở ba khối lớp tương đối đồng đều, với 19,1% không theo học chuyên ban Đặc biệt, chỉ có 0,6% học sinh có học lực trung bình và 0,6% có học lực yếu.
3.2.2 Các yếu tố về học tập của học sinh
Bảng 3.2 Các yếu tố về học tập của học sinh (nc3) Đặc tính Số lượng
Cảm thấy thời gian lên lớp trong một tuần nhiều
Cảm thấy thời gian học thêm trong một tuần nhiều
Cảm thấy áp lực về thi cử
Hứng thú với phương pháp dạy của thầy cô giáo
Hứng thú với chương trình học trong lớp
Có kế hoạch học tập cho bản thân
Xung đột với bạn bè
Xung đột với Thầy Cô
Tham gia các hoạt động ngoại khóa của trường
Có 59,9% học sinh cho rằng thời gian lên lớp trong một tuần là nhiều
Theo khảo sát, 31,3% học sinh cho rằng thời gian học thêm trong tuần là quá nhiều, trong khi 79,8% cảm thấy áp lực về thi cử Đáng chú ý, 19,6% học sinh không hứng thú với phương pháp dạy của giáo viên và 89,9% không thích chương trình học hiện tại Hơn nữa, 31,4% học sinh không có kế hoạch học tập rõ ràng Về mặt quan hệ xã hội, 78,8% học sinh gặp xung đột với bạn bè, và 27,8% có xung đột với giáo viên Cuối cùng, có 22,5% học sinh không tham gia các hoạt động ngoại khóa.
3.2.3 Các yếu tố về bản thân của học sinh
Bảng 3.3 Các yếu tố về bản thân của học sinh (nc3)
Theo khảo sát, có tới 85,6% học sinh cảm thấy sợ thất bại và 78,2% lo lắng về việc thua kém bạn bè Bên cạnh đó, 36,6% học sinh gặp khó khăn trong các mối quan hệ tình cảm nam nữ Về vấn đề ngoại hình, 70,3% học sinh thể hiện sự lo lắng, trong khi 80,6% bày tỏ nỗi lo về kết quả học tập Đặc biệt, 58,4% học sinh lo ngại rằng bệnh tật có thể ảnh hưởng đến thành tích học tập của họ.
Cảm thấy sợ thất bại
Cảm thấy sợ thua kém bạn bè
Cảm thấy gặp khó khăn trong vấn đề tình cảm nam nữ
Cảm thấy lo lắng về ngoại hình bản thân
Cảm thấy lo lắng kết quả học tập
Cảm thấy lo lắng tình hình bệnh tật của mình ảnh hưởng đến kết quả học tập
Bảng 3.4 Các yếu tố về bản thân của học sinh (nc3)(tiếp theo)
Theo khảo sát, có 54,5% học sinh không tham gia hoạt động thể dục thể thao, trong khi 74,4% học sinh chơi game Đáng chú ý, 18,6% học sinh sử dụng rượu bia và 9,5% có thói quen hút thuốc lá Về giấc ngủ, 62,4% học sinh ngủ ít hơn 8 tiếng mỗi ngày, còn 5,4% ngủ nhiều hơn 10 tiếng Phương tiện di chuyển chủ yếu của học sinh là xe máy Ngoài ra, 25,4% học sinh không sống cùng cha mẹ và cũng có 25,4% học sinh mắc bệnh.
Tập thể dục thể thao
Thời gian bạn ngủ trong một ngày
Xe đa ̣p 71 11,2 Đi bô ̣ 62 9,8 Ô tô 18 2,8
Sống chung với cả cha và me ̣
Bị bệnh (về thể chất)
3.2.4 Các yếu tố về gia đình của học sinh
Bảng 3.5 Các yếu tố về gia đình của học sinh (nc3) Đặc tính Số lượng Tỷ lệ (%)
Tình trạng kinh tế gia đình
Gia đình chu cấp kinh tế
Xung đô ̣t gia đình
Lo lắng về sự xung đột trong gia đình
Lo lắng về tình trạng kinh tế gia đình làm ảnh hưởng đến việc học tập
Áp lực vì bố mẹ quan tâm quá mức đến việc học
Áp lực từ việc bố mẹ kì vọng quá nhiều về tương lai
Theo một nghiên cứu, 63,5% học sinh đến từ hộ nghèo và 3,3% cảm thấy hỗ trợ tài chính từ gia đình không đủ Đáng chú ý, 81,2% học sinh sống trong môi trường gia đình có xung đột, và 33,3% lo lắng rằng tình hình kinh tế gia đình sẽ ảnh hưởng đến việc học Hơn nữa, 59,6% học sinh cảm thấy lo âu về xung đột gia đình, trong khi 42,3% chịu áp lực do sự quan tâm quá mức của cha mẹ đối với việc học Cuối cùng, 57,2% học sinh cảm thấy áp lực từ kỳ vọng cao của cha mẹ về tương lai của mình.
3.2.5 Các yếu tố về xã hội của học sinh
Bảng 3.6 Các yếu tố về xã hội của học sinh (nc3) Đặc tính Số lượng (n)
Lo lắng khi không có bạn bè cùng chia sẻ tâm sự
Biết nơi nào khám hay tư vấn về sức khỏe tâm thần
Tham gia các buổi tập huấn về sức khỏe tâm thần vị thành niên
Gọi điện thoại hay online để được tư vấn về sức khỏe và tâm lý
Hơn 55% học sinh cảm thấy lo lắng khi không có bạn bè để chia sẻ và tâm sự Chỉ 33,3% học sinh biết đến các cơ sở khám và tư vấn sức khỏe Đặc biệt, 89,3% học sinh chưa từng tham gia các buổi tập huấn về sức khỏe tâm thần vị thành niên, và 95,1% không sử dụng dịch vụ tư vấn qua điện thoại hay trực tuyến về sức khỏe và tâm lý.
3.2.6 Các biểu hiện về tâm lý, thực thể và cách ứng phó của học sinh với stress
Bảng 3.7 Các biểu hiện về tâm lý, thực thể và cách ứng phó của học sinh với stress Đă ̣c tính Có Không
SL (%) SL (%) Đã từng bị những dấu hiệu mà bạn cho rằng mình bị stress (nc3) 473 (74,7) 160 (25,3) Những biểu hiện về tâm lý
Lo lắng, chán nản, buồn rầu 399 (84,4) 74 (15,6) Không thích tiếp xúc với mọi người 265 (56,0) 208 (44,0) Nhạy cảm với các tin đồn 187 (39,5) 286 (60,5) Hay chỉ trích, phê phán người khác 189 (40,0) 284 (60,0)
Hay gây sự, hung hăng 106 (22,4) 367 (77,6) Những biểu hiện về thực thể
Có cảm giác khô miệng, đắng miệng 166 (35,1) 307 (64,9)
Thở nhanh 151 (31,9) 322 (68,1) Đau ngực, cảm giác rã rời chân tay 185 (39,1) 288 (60,9) Nhịp tim nhanh, huyết áp tăng 165 (34,9) 308 (65,1)
Toát mồ hôi, ra mồ hôi tay 180 (38,0) 293 (62,0) Rối loạn kinh nguyệt 119 (25,2) 354 (74,8) Cách ứng phó với stress
Giải trí như xem phim, nghe nhạc 374 (79,1) 99 (20,9)
Chia sẻ với người khác 206 (43,5) 267 (56,5) Chán ăn hoặc có trường hợp ăn nhiều 256 (54,1) 217 (45,9) Hút thuốc, uống rượu nhiều 16 (3,4) 457 (96,6) Thích bỏ nhà đi lang thang 70 (14,8) 403 (85,2)
Có 74,7% học sinh tự cảm thấy rằng mình đã từng có dấu hiệu stressss
Trong số các biểu hiện về stress ở học sinh, 84,4% cảm thấy lo lắng, chán nản, buồn rầu; 56,0% không thích tiếp xúc với mọi người; và 39,5% nhạy cảm với tin đồn Ngoài ra, 40,0% hay chỉ trích người khác, 70,4% thường cáu giận, và 22,4% có hành vi hung hăng Về các triệu chứng thể chất, 61,9% học sinh gặp phải nhức đầu và mất ngủ, 39,1% cảm thấy đau ngực và rã rời chân tay, trong khi 38,1% thường ra mồ hôi, đặc biệt là mồ hôi tay Để đối phó với stress, phần lớn học sinh chọn những hoạt động lành mạnh như xem phim, nghe nhạc (79,1%), ngủ (78,4%), và gặp gỡ để chia sẻ tâm tư (43,5%) Tuy nhiên, có 3,4% học sinh hút thuốc, uống rượu, và 14,8% bỏ nhà đi lang thang.
Tỷ lệ học sinh trường THPT chuyên Lương Thế Vinh có biểu hiện stress39 3.4 Một số yếu tố của học sinh liên quan đến stress
3.3.1 Tỷ lệ học sinh có biểu hiện stress Điểm trung bình của tự cảm nhận stress là 17,2; độ lệch chuẩn là 7,6; điểm tự cảm nhận stress thấp nhất là 0 điểm và cao nhất là 42 điểm
Bảng 3.8 Tỷ lệ học sinh có biểu hiện stress (nc3) Đặc tính Số lượng Tỷ lệ (%)
Tỷ lệ học sinh trường THPT chuyên Lương Thế Vinh có biểu hiện stress theo thang đo DASS 42 là 43,3%
Biểu đồ 3.1 Tỷ lệ học sinh có biểu hiện stress theo mức độ
Có 2,1% học sinh có biểu hiện stress ở mức độ rất nặng và 12,0% học sinh biểu hiện stress ở mức độ nặng
3.4 Một số yếu tố của học sinh liên quan đến stress
3.4.1 Một số yếu tố đặc điểm nền của học sinh liên quan đến stress
Bảng 3.9 Một số yếu tố đặc điểm nền của học sinh liên quan đến stress (nc3) Đặc điểm Có stress Không stress p PR
Nghiên cứu cho thấy có mối liên quan thống kê đáng kể giữa khối lớp và mức độ stress ở học sinh, với p0,05)
3.4.2 Một số yếu tố về học tập của học sinh liên quan đến stress
Bảng 3.10 Một số yếu tố về học tập của học sinh liên quan đến stress (nc3) Đă ̣c tính Có stress
Cảm thấy thời gian lên lớp trong một tuần nhiều
Cảm thấy thời gian học thêm trong một tuần nhiều
Cảm thấy áp lực về thi cử
Hứng thú với phương pháp dạy của giáo viên
Hứng thú với chương trình học trong lớp
Có kế hoạch học tập cho bản thân
- Tìm thấy một số yếu tố về học tập của học sinh có liên quan đến stress có ý nghĩa thống kê (p≤0,05), cụ thể như sau:
Tỷ lệ học sinh gặp phải stress cao hơn ở nhóm cảm thấy thời gian lên lớp trong một tuần nhiều, đạt 50,4%, so với nhóm cảm thấy thời gian lên lớp bình thường, chỉ 38,5% Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với khoảng tin cậy 95% từ 1,1 đến 1,6.
Tỷ lệ học sinh biểu hiện stress trong nhóm không hứng thú với phương pháp dạy của giáo viên đạt 45,6%, cao hơn 1,3 lần so với nhóm học sinh hứng thú, chỉ chiếm 33,9% Kết quả này có độ tin cậy 95%, với khoảng tin cậy từ 1,0 đến 1,8.
Tỷ lệ học sinh có biểu hiện stress trong nhóm không hứng thú với chương trình học lên tới 44,8%, cao hơn 1,5 lần so với nhóm học sinh hứng thú, chỉ đạt 29,7% Kết quả này cho thấy mối liên hệ giữa sự hứng thú với chương trình học và mức độ stress của học sinh, với khoảng tin cậy 95% nằm trong khoảng từ 1,0 đến 2,2.
Không có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa cảm giác thời gian học thêm nhiều trong một tuần, áp lực thi cử và kế hoạch học tập cá nhân với mức độ stress (p>0,05).
Bảng 3.11 Một số yếu tố về học tập của học sinh liên quan đến stress (nc3)(tiếp theo) Đă ̣c tính Có stress
Xung đột với bạn bè
Xung đột với Thầy Cô
Tham gia các hoạt động ngoại khóa của trường (nI8)
Nghiên cứu đã chỉ ra rằng có một số yếu tố như xung đột giữa bạn bè và tham gia các hoạt động ngoại khóa tại trường có mối liên hệ thống kê đáng kể với mức độ stress (p≤0,05).
Tỷ lệ học sinh trải qua stress trong nhóm có xung đột với bạn bè đạt 62,0%, cao gấp 1,6 lần so với nhóm không có xung đột, chỉ ở mức 38,1% Kết quả này có độ tin cậy 95% với khoảng tin cậy từ 1,4 đến 1,9.
Tỷ lệ học sinh không tham gia hoạt động ngoại khóa có biểu hiện stress đạt 55,4%, cao hơn 1,2 lần so với học sinh tham gia các hoạt động này, chỉ ở mức 40,2% Kết quả này có độ tin cậy 95%, với khoảng tin cậy từ 1,1 đến 1,7.
- Chưa tìm thấy mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa xung đột với Thầy cô với stress (p> 0,05)
3.4.3 Một số yếu tố về bản thân của học sinh liên quan đến stress
Bảng 3.12 Một số yếu về tố bản thân của học sinh liên quan đến stress
(nc3) Đă ̣c tính Có stress
Cảm thấy sợ thất bại
Cảm thấy sợ thua kém bạn bè
Cảm thấy gặp khó khăn trong tình cảm nam nữ
Cảm thấy lo lắng về ngoại hình bản thân
Cảm thấy lo lắng với kết quả học tập
Cảm thấy lo lắng tình hình bệnh tật (n1)
Nghiên cứu chỉ ra rằng một số yếu tố cá nhân của học sinh, như nỗi sợ thất bại và khó khăn trong mối quan hệ tình cảm, có mối liên hệ thống kê với mức độ căng thẳng (p≤ 0,05).
Tỷ lệ học sinh có biểu hiện stress của nhóm có cảm thấy sợ thất bại
(45,9%) cao gấp 1,7 lần nhóm không cảm thấy sợ thất bại (27,5%), KTC
Tỷ lệ học sinh gặp stress trong nhóm có khó khăn về tình cảm nam nữ đạt 50,0%, cao hơn 1,3 lần so với nhóm không gặp khó khăn (39,4%) Kết quả này có độ tin cậy 95%, với khoảng tin cậy từ 1,1 đến 1,5.
Chưa có mối liên hệ thống kê rõ ràng giữa các yếu tố như lo lắng về ngoại hình, cảm giác sợ thua kém bạn bè, lo âu về kết quả học tập và lo lắng về tình trạng sức khỏe với mức độ stress.
Bảng 3.13 Một số yếu tố về bản thân của học sinh liên quan đến stress (nc3)(tt) Đă ̣c tính Có stress
Tập thể dục thể thao
Không có mối liên hệ thống kê đáng kể nào giữa các yếu tố như tập thể dục thể thao, chơi game, sử dụng rượu bia và thuốc lá với mức độ stress, với giá trị p lớn hơn 0,05.
Bảng 3.14 Một số yếu tố về bản thân của học sinh liên quan đến stress (nc3)(tt) Đă ̣c tính Có stress
Thời gian bạn ngủ trong một ngày
0,05)
Bảng 3.16 Một số yếu tố gia đình của học sinh liên quan đến stress (nc3) Đă ̣c tính Có stress
Xung đô ̣t gia đình
Lo lắng về sự xung đột trong gia đình
Lo lắng về tình trạng kinh tế gia đình
Áp lực vì bố mẹ quan tâm quá mức
Áp lực từ việc bố mẹ kì vọng quá nhiều về tương lai
Nghiên cứu cho thấy có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa xung đột gia đình và mức độ stress ở học sinh (p=4), cho thấy khoảng 1/3 học sinh trung học có dấu hiệu stress cao, trong đó có 68 nữ (45,9%) và 32 nam (20,5%) Thêm vào đó, 8,2% người tham gia đạt hoặc vượt quá điểm số cắt.
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy tỷ lệ 61,5% là cao so với các nghiên cứu trước đây trên đối tượng học sinh Điều này có thể giải thích bởi thời điểm nghiên cứu trùng với giai đoạn học sinh chuẩn bị cho kỳ thi giữa kỳ và cuối kỳ Thêm vào đó, đối tượng nghiên cứu là học sinh trường chuyên Lương Thế Vinh, một trong những trường trọng điểm tại tỉnh Đồng Nai, nơi học sinh thường xuyên phải đối mặt với áp lực và lo âu trong học tập cũng như trong các quyết định cá nhân trong suốt thời gian học.
Stress tích cực giúp con người cân bằng giữa cơ thể và môi trường, tăng cường sự linh hoạt và kinh nghiệm sống, từ đó thúc đẩy sự trưởng thành Tuy nhiên, stress tiêu cực lại là nguyên nhân gây ra nhiều bệnh tâm sinh lý, làm mất cân bằng trong cơ thể và dẫn đến rối loạn chức năng sinh lý và sinh hóa, như bệnh dạ dày, tim mạch và tiểu đường Điều này ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng cuộc sống và hoạt động hàng ngày của con người.
Một số yếu tố của học sinh liên quan đến stress
- Nhóm yếu tố nền của học sinh liên quan đến stress
Nghiên cứu cho thấy có mối liên quan giữa khối lớp và mức độ stress ở học sinh, trong đó học sinh khối 11 và 12 có tỷ lệ biểu hiện stress cao gấp 1,4 lần so với học sinh khối 10 Kết quả này tương đồng với nghiên cứu của tác giả Đồng Thị Yến tại tỉnh Hải Dương, cho thấy số lượng học sinh khối lớp cao có xu hướng gặp nhiều áp lực hơn.
Học sinh khối 12 đang phải đối mặt với mức độ stress cao hơn khối 10, chủ yếu do áp lực từ các kỳ thi, kết quả học tập và kỳ vọng từ thầy cô, cha mẹ Kỳ thi thử đại học sắp diễn ra là yếu tố tác động trực tiếp đến sức khỏe và tâm lý của các em Giáo viên đặt ra yêu cầu cao hơn, buộc học sinh phải làm việc độc lập và tự giác hơn Cuối cấp, học sinh không chỉ học để đáp ứng nhu cầu hiểu biết mà còn để chọn nghề cho tương lai Sự thay đổi tâm sinh lý trong giai đoạn thanh thiếu niên cùng với yêu cầu xã hội ngày càng cao dễ dẫn đến tình trạng căng thẳng, mệt mỏi và chán nản trong việc học.
Nghiên cứu không tìm thấy mối liên quan giữa giới tính, chuyên ban và học lực với mức độ stress Kết quả này tương đồng với nhiều nghiên cứu trước đó Cụ thể, nghiên cứu của Nguyễn Cao Minh cho thấy trong nhóm trẻ em 12-16 tuổi tại miền Bắc, nữ chiếm 53,6% trong số những trẻ có nguy cơ mắc vấn đề sức khỏe tâm thần, trong khi nam chỉ chiếm 46,4% Nhóm tuổi 16 có tỷ lệ cao nhất (23,2%), trong khi nhóm 14 và 15 tuổi có tỷ lệ thấp nhất (17,9%) Nghiên cứu của Lê Anh Tuấn (2010) cho thấy tỷ lệ học sinh nam có biểu hiện stress là 62,2%, thấp hơn so với 67,8% ở nữ, mặc dù sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê Tại Iran, 78% nữ và 57% nam trong độ tuổi 13-17 có triệu chứng trầm cảm từ nhẹ đến nặng.
Theo một nghiên cứu tại Mỹ, có 9,3% học sinh cảm thấy stress nặng và 32,5% học sinh trải qua stress nhẹ Tương tự, một nghiên cứu của Ying Sun về ảnh hưởng của stress và ứng phó với trầm cảm ở thanh thiếu niên Trung Quốc cho thấy tỷ lệ trầm cảm và stress ở nam thanh thiếu niên (46,8%) cao hơn so với nữ (41,7%).
- Nhóm yếu tố về học tập của học sinh liên quan đến stress
Nghiên cứu cho thấy có mối liên quan thống kê giữa cảm giác quá tải về thời gian lên lớp và sự thiếu hứng thú với phương pháp giảng dạy của giáo viên cũng như chương trình học Theo Nguyễn Thị Hằng Phương (2009), 96,7% học sinh lo lắng về việc phải đậu đại học, trong khi 94,4% lo lắng vì điểm kém, và 92,2% cảm thấy áp lực từ yêu cầu học tập Bùi Thị Hoa chỉ ra rằng học sinh gặp khó khăn trong việc tập trung, vận dụng kiến thức, và ghi nhớ bài giảng Phùng Đức Nhật nhấn mạnh rằng 52,4% học sinh cảm thấy lo lắng về khối lượng bài vở, với mối liên quan có ý nghĩa thống kê (p