Đoạn nào trong Quyết định số 171 cho thấy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được xác lập trước ngày BLDS năm 2015 có hiệu lực và chưa được công chứng, chứng thực?
Theo Quyết định số 171, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được ký trước ngày Bộ luật Dân sự năm 2015 có hiệu lực và chưa được công chứng, chứng thực Cụ thể, vào ngày 03/02/2002, hợp đồng chuyển nhượng 500m2 đất cho ông Khâu Văn Sĩ với giá 500.000.000 đồng đã được ký kết; tiếp theo, vào ngày 18/4/2009, một hợp đồng chuyển nhượng khác cũng đã được thực hiện.
Lê Sĩ Thắng 87m2 đất với giá 435.000.000 đồng; ngày 18/4/2009, ký chuyển nhượng cho ông Lê Văn Dư 87m2 đất với giá 435.000.000 đồng.
Sau khi hoàn tất giao dịch chuyển nhượng, ông Qúy và bà Thủy đã thông báo cho ông Sĩ, ông Dư và ông Thắng rằng giao dịch này được thực hiện bằng giấy viết tay Do đó, bên nhận chuyển nhượng chỉ có quyền xây dựng công trình sau khi ký hợp đồng công chứng, đăng bộ và thực hiện chuyển mục đích sử dụng đất.
Đoạn nào trong Quyết định số 171 cho thấy Toà án đã áp dụng Điều
Theo Điều 129 Bộ luật Dân sự 2015, hợp đồng chuyển nhượng vẫn có hiệu lực ngay cả khi được ký kết trước thời điểm Bộ luật này có hiệu lực Quyết định số 171 của Tòa án đã minh chứng cho việc áp dụng quy định này, khẳng định tính hợp pháp của các hợp đồng chuyển nhượng trong bối cảnh pháp lý mới.
Vào năm 2015, hợp đồng chuyển nhượng dù được ký kết trước khi Bộ luật Dân sự năm 2015 có hiệu lực vẫn được xem xét theo quy định của pháp luật Cụ thể, tại Bản án dân sự phúc thẩm số 621/2020/DS-PT ngày 01/7/2020, Tòa án Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định sửa đổi bản án sơ thẩm liên quan đến vấn đề này.
Không công nhận việc chuyển quyền sử dụng đất giữa ông Phan Quý, bà Lê Thị Bích Thủy với các ông Khâu Văn Sĩ, Lê Văn Dư, Lê Sĩ Thắng; cũng như giữa ông Lê Văn Dư với các ông Khâu Văn Sĩ, Lê Sĩ Thắng là không có hiệu lực Đồng thời, không công nhận quyền sử dụng đất của ông Lê Văn Dư và bà Trần Thị Hiệp đối với 674m² đất, thửa 504, tờ bản đồ số 40, Phường 15, quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh.
Công nhận 674m² đất nêu trên thuộc quyền sử dụng của ông Phan Quý, Bà
Lê Thị Bích Thủy; buộc các ông/bà, trẻ: Lê Văn Dư, Trần Thị Mỹ Hiệp, Khâu Văn
Sĩ, Hồ Thị Đồng, Lê Sĩ Thắng, Tạ Thị Thọ, Lê Trần Minh Hằng, Lê Trần Ngọc Huyền, Lê Quốc Thái, Lê Quốc Thịnh và Lê Thu Thảo có trách nhiệm trả lại phần đất cho ông Quý và bà Thủy.
TIEU LUAN MOI download : skknchat@gmail.com
Việc Toà án áp dụng Điều 129 BLDS 2015 trong trường hợp như trên có thuyết phục không? Vì sao?
Tòa án áp dụng Điều 129 BLDS 2015 cho hợp đồng nhượng quyền bất động sản như trên là thuyết phục Vì:
Hợp đồng chuyển nhượng quyền sở hữu đất chưa được công chứng và chứng thực, trong đó bên nhượng quyền đã giao tài sản và bên nhận quyền sở hữu đã nhận tài sản, đồng thời đã xây dựng công trình kiên cố trước khi có văn bản này Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng quy định tại Khoản 2, Điều 129 Bộ luật Dân sự 2015.
Các hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ký kết vào năm 2002 và 2009 vi phạm pháp luật, vì người sử dụng đất chưa có quyền sử dụng hợp pháp do các hợp đồng này chưa được công chứng và chứng thực.
Đoạn nào trong Quyết định số 93 cho thấy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 10/8/2009 chưa được công chứng, chứng thực?
Theo Quyết định số 93, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ký ngày 10/8/2009 chưa được công chứng, chứng thực Cụ thể, về hình thức của hợp đồng, các giao dịch dân sự được thực hiện trước ngày 01/01/2017 phải tuân theo quy định của Bộ luật Dân sự 2015, theo điểm d khoản 1 Điều 688.
Vào ngày 10/08/2009, giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa vợ chồng ông Cưu, bà Lắm và vợ chồng ông Mến, bà Nhiễm không được công chứng, chứng thực, dẫn đến việc vi phạm quy định về hình thức.
Theo BLDS 2015, hệ quả pháp lý của việc hết thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu về hình thức.
Theo khoản 3 Điều 132 BLDS 2015, khi hết thời hiệu mà không có yêu cầu tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu, giao dịch đó sẽ có hiệu lực Do đó, hậu quả pháp lý của việc hết thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu về hình thức là hợp đồng vẫn có hiệu lực.
Đoạn nào trong Quyết định số 93 cho thấy Toà án đã áp dụng quy định về thời hiệu tại Điều 132 BLDS 2015 để công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 10/8/2009 dù chưa được công chứng, chứng thực?
về thời hiệu tại Điều 132 BLDS 2015 để công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 10/8/2009 dù chưa được công chứng, chứng thực?
Theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều của Bộ luật Dân sự năm 2015, thời hiệu áp dụng cho các giao dịch dân sự được xác lập trước ngày 01/01/2017 sẽ tuân theo các quy định của Bộ luật này.
TIEU LUAN MOI download : skknchat@gmail.com
Giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa vợ chồng ông Cưu, bà Lắm và vợ chồng ông Mến, bà Nhiễm vào ngày 10/8/2009 không được công chứng, chứng thực, vi phạm về hình thức Tuy nhiên, do đã quá thời hạn hai năm từ khi hợp đồng được xác lập đến khi nguyên đơn khởi kiện vào ngày 18/4/2017, bị đơn không yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu Vì vậy, theo khoản 2 Điều 132 Bộ luật Dân sự năm 2015, hợp đồng này vẫn có hiệu lực, cho thấy Tòa án đã áp dụng quy định về thời hiệu để công nhận tính hợp pháp của giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
Trong quyết định số 93, việc Toà án công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 10/8/2009 dù chưa được công chứng, chứng thực có thuyết phục không? Vì sao?
CSPL: Khoản 1 Điều 132 và 423 BLDS 2015
Quyết định của Tòa khi công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất dù chưa được công chứng, chứng thực là thuyết phục Vì:
Theo khoản 1 Điều 132 Bộ luật dân sự 2015, thời hiệu để Tòa tuyên giao dịch dân sự vô hiệu là 2 năm Tuy nhiên, ông Cưa và bà Lắm đã không yêu cầu Tòa tuyên giao dịch vô hiệu trong khoảng thời gian này Chỉ khi ông Mến và bà Nhiễm khởi kiện vì ông Cưa và bà Lắm không thực hiện nghĩa vụ sang tên quyền sử dụng đất, họ mới phản tố yêu cầu Tòa hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất Cần lưu ý rằng giao dịch dân sự vô hiệu và việc hủy hợp đồng là hai vấn đề khác nhau, và việc hợp đồng không được công chứng, chứng thực không phải là lý do để Tòa tuyên hủy hợp đồng theo Điều 423 BLDS 2015.
TIEU LUAN MOI download : skknchat@gmail.com
Vấn đề 2: Đơn phương chấm dứt, hủy bỏ do không thực hiện đúng hợp đồng
Nghiên cứu : Điều 423 và tiếp theo BLDS 2015 (Điều 417, 425, 426 BLDS 2005) và các quy định liên quan (nếu có);
Ông Minh đã ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông Cường một cách hợp pháp và đã giao đất cho ông Cường Tuy nhiên, ông Cường không thực hiện nghĩa vụ thanh toán tiền theo hợp đồng, mặc dù ông Minh đã nhiều lần nhắc nhở Hiện tại, ông Minh yêu cầu Tòa án hủy bỏ hợp đồng chuyển nhượng để lấy lại quyền sử dụng đất.
Bản án số 06/2017/KDTM-PT ngày 26/5/2017 của Toà án nhân dân tỉnh Vĩnh Long. Đọc :
Lê Minh Hùng, Giáo trình Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, Nxb Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam 2017, Chương
Đỗ Văn Đại đã trình bày chi tiết về Luật hợp đồng Việt Nam trong tác phẩm "Luật hợp đồng Việt Nam-Bản án và Bình luận bản án", xuất bản lần thứ tám năm 2020 bởi Nxb Đại học quốc gia Tp Hồ Chí Minh Tác phẩm này bao gồm Bản án số 224 và các bản án tiếp theo, cung cấp cái nhìn sâu sắc về các vấn đề pháp lý liên quan.
Và các tài liệu liên quan khác (nếu có).
Xem : https://www.youtube.com/watch? v=iIwzyUK2BLg&list=PLy3fk_j5LJA6AQWgAs8Jq2O9MlzRZxUko
2.1 Điểm giống nhau và khác nhau giữa hợp đồng vô hiệu và hủy bỏ hợp đồng do có vi phạm.
Hệ quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu và hợp đồng bị hủy bỏ do vi phạm đều dẫn đến việc cả hai loại hợp đồng này không có giá trị thi hành.
Trách nhiệm hoàn trả yêu cầu các bên phải trả lại tài sản đã nhận Nếu không thể hoàn trả bằng hiện vật, thì cần bồi hoàn bằng tiền Bên có lỗi sẽ phải bồi thường thiệt hại phát sinh.
TIEU LUAN MOI download : skknchat@gmail.com
Tiêu chí Hợp đồng vô hiệu Hủy bỏ hợp đồng
Căn cứ vào các điều khoản tại Điều 122, 131, 407, 423, 427 và 408 Bộ luật Dân sự 2015, cùng với Điều 314 Luật Thương mại, hợp đồng dân sự có thể bị chấm dứt khi vi phạm điều kiện hủy bỏ đã được các bên thỏa thuận trong hợp đồng.
- Vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ của hợp đồng;
- Trường hợp khác do pháp luật quy định.
Trong các trường hợp vi phạm điều cấm, một bên có quyền hủy bỏ hoặc chấm dứt hợp đồng Nếu không có điều khoản nào trong hợp đồng và không thuộc các trường hợp được quy định tại Điều 117, bên vi phạm sẽ không phải bồi thường cho bên kia.
- Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện;
- Bị lừa dối, đe dọa;
- Người xác lập không nhận thức và làm chủ hành vi của mình;
- Không tuân thủ quy định về hình thức;
TIEU LUAN MOI download : skknchat@gmail.com
- Có đối tượng không thể thực hiện được.
Hợp đồng này có hiệu lực và nghĩa vụ giữa các bên tại thời điểm giao kết; tuy nhiên, nếu có yếu tố phát sinh dẫn đến việc hủy hợp đồng, thì hiệu lực này sẽ không được công nhận.
Bên hủy hợp đồng phải thông báo cho bên kia về việc hủy bỏ hợp đồng để đảm bảo hiệu lực Nếu không thông báo và gây thiệt hại, bên hủy hợp đồng sẽ phải chịu trách nhiệm bồi thường.
Trách nhiệm bồi - Bên có lỗi gây thiệt hại thì - Các bên không phải thực thường phải có trách nhiệm bồi thường hiện nghĩa vụ đã thỏa
Trong hợp đồng, các bên có thể thỏa thuận về việc áp dụng các điều khoản liên quan đến phạt vi phạm và bồi thường cho bên thứ ba trong trường hợp xảy ra thiệt hại Đồng thời, cần có các quy định rõ ràng về cách giải quyết tranh chấp nhằm đảm bảo quyền lợi cho tất cả các bên liên quan.
Các bên có trách nhiệm khôi phục lại tình trạng ban đầu và hoàn trả cho nhau những gì đã nhận, sau khi trừ đi các chi phí hợp lý liên quan đến việc thực hiện hợp đồng cũng như chi phí bảo quản và phát triển tài sản.
- Bên bị thiệt hại do hành vi vi phạm nghĩa vụ của bên kia phải được bồi
TIEU LUAN MOI download : skknchat@gmail.com thường.
- Có quyền đòi lại phần lợi ích do việc đã thực hiện phần nghĩa vụ theo hợp đồng.
Thẩm quyền quyết Tòa án hoặc trọng tài Một trong các bên Tòa án định hoặc trọng tài.
TIEU LUAN MOI download : skknchat@gmail.com
Theo Toà án nhân dân tỉnh Vĩnh Long, hợp đồng vô hiệu hay bị huỷ bỏ?
Theo phán quyết của Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long, hợp đồng mua bán ô tô được ký kết vào ngày 26-05-2012 giữa Công ty TNHH MTV Đông Phong Cần Thơ và ông Trương Văn Liêm đã bị tuyên bố là vô hiệu.
- Tại phần “Nhận định của Tòa án”:
Hợp đồng mua bán xe ký ngày 26-05-2012 được xác định là vô hiệu theo Điều 122 của Bộ Luật Dân sự, do đó không có cơ sở để tuyên hủy hợp đồng hoặc xem xét yêu cầu phạt vi phạm từ nguyên đơn và bị đơn Hợp đồng vô hiệu không tạo ra quyền và nghĩa vụ cho các bên từ thời điểm giao kết, không ràng buộc trách nhiệm của các bên Do đó, cần tuyên bố hợp đồng vô hiệu và xử lý hậu quả theo Điều 131 của Bộ Luật Dân sự.
Hợp đồng ghi nhận bên Mua là "Trang trí nội thất Thanh Tháo" với người đại diện là Nguyễn Thị Dệt là không chính xác, vì bà Dệt không đại diện cho Trang trí nội thất Thanh Tháo Thực tế, bên đại diện đúng là Công ty TNHH-SX-TM Thành Thảo, do Trương Hoàng Thành giữ chức Giám đốc.
Hợp đồng ghi nhận bên mua là bà Nguyễn Thị Dệt, nhưng thực tế giao dịch lại được ký kết bởi ông Trương Văn Liêm, điều này vi phạm quy định pháp luật.
Khi các bên giao dịch mắc lỗi dẫn đến việc vô hiệu hợp đồng, trách nhiệm của họ là ngang nhau Do đó, các bên không phát sinh quyền và nghĩa vụ theo hợp đồng đã ký kết, và việc hoàn trả cho nhau những gì đã nhận là hoàn toàn hợp lý.
- Và tại phần “Tuyên xử”:
Tòa án đã đình chỉ việc xét xử đối với yêu cầu của nguyên đơn về việc các bị đơn tiếp tục thực hiện hợp đồng mua bán xe ô tô biển kiểm soát 64C – 008.76 Nguyên đơn yêu cầu thanh toán số tiền còn lại là 181.000.000đ cùng lãi suất 1%/tháng từ tháng 6/2012 cho đến khi có phán quyết sơ thẩm, kèm theo số tiền trước bạ dự kiến sang tên lại là 5.220.000đ.
Vô hiệu hợp đông mua bán xe ô tô ngày 26/5/2012 giao kết giữa công ty TNHH MTV Đông Phong Cân Thơ với ông Trương Văn Liêm.”
TIEU LUAN MOI download : skknchat@gmail.com
Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Toà án nhân dân tỉnh Vĩnh Long (về huỷ bỏ hay vô hiệu hợp đồng)
Hướng giải quyết về vô hiệu hợp đồng của TAND tỉnh Vĩnh Long được cho là hợp lý, căn cứ vào Điều 122, điểm a khoản 1 Điều 117 và khoản 1 Điều 142 của Bộ luật Dân sự 2015 Theo đó, hợp đồng vô hiệu do những lý do cụ thể được quy định trong các điều luật này.
“Điều 117 Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự
Giao dịch dân sự chỉ có hiệu lực khi đáp ứng đầy đủ các điều kiện, trong đó chủ thể tham gia phải có năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự tương ứng với giao dịch được thực hiện.
“Điều 122 Giao dịch dân sự vô hiệu
Giao dịch dân sự không có một trong các điều kiện được quy định tại Điều 117 của
Bộ luật này thì vô hiệu, trừ trường hợp Bộ luật này có quy định khác.”
“Điều 142 Hậu quả của giao dịch dân sự do người không có quyền đại diện xác lập, thực hiện
Giao dịch dân sự do người không có quyền đại diện thực hiện sẽ không phát sinh quyền và nghĩa vụ đối với người được đại diện, trừ khi có một trong các trường hợp sau: người được đại diện đã công nhận giao dịch, người được đại diện biết về giao dịch nhưng không phản đối trong thời hạn hợp lý, hoặc người được đại diện có lỗi khiến người giao dịch không biết hoặc không thể biết về việc không có quyền đại diện.
Trong hợp đồng, bên Mua được ghi là “Trang trí nội thất Thanh Thảo”, nhưng người đại diện là Nguyễn Thị Dệt lại không đúng, vì bà Dệt không đại diện cho Trang trí nội thất Thanh Thảo Thực tế, Công ty TNHH-SX-TM Thanh Thảo do Trương Hoàng Thành làm Giám đốc đại diện.
Hợp đồng ghi rõ bà Nguyễn Thị Dệt là đại diện bên mua, nhưng việc ông Trương Văn Liêm thực hiện giao dịch ký kết là vi phạm quy định pháp luật.
Theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 131 Bộ luật Dân sự 2015, lỗi dẫn đến việc vô hiệu hợp đồng giữa các bên là ngang nhau Do đó, các bên sẽ không phát sinh quyền và nghĩa vụ, và cần hoàn trả cho nhau những gì đã mất.
TIEU LUAN MOI download : skknchat@gmail.com
“Điều 131 Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu
Giao dịch dân sự vô hiệu không tạo ra, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự của các bên từ thời điểm giao dịch được thiết lập.
2 Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận.
Trường hợp không thể hoàn trả được bằng hiện vật thì trị giá thành tiền để hoàn trả.”
Nếu hợp đồng bị vô hiệu thì có áp dụng phạt vi phạm hợp đồng không? Vì sao?
CSPL: Khoản 1 Điều 131, khoản 1 Điều 407, khoản 1 Điều 418 BLDS 2015.
- Nếu hợp đồng bị vô hiệu thì không áp dụng phạt vi phạm hợp đồng, vì:
Theo khoản 1 điều 418 BLDS 2015, phạt vi phạm hợp đồng là thỏa thuận giữa các bên, trong đó bên vi phạm nghĩa vụ phải nộp tiền cho bên bị vi phạm Tuy nhiên, nếu hợp đồng bị vô hiệu theo khoản 1 Điều 131 BLDS 2015, các bên sẽ không bị ràng buộc bởi nghĩa vụ đã cam kết, bao gồm cả thỏa thuận phạt vi phạm hợp đồng.
Theo Điều 407 BLDS 2015, các quy định về giao dịch dân sự vô hiệu từ Điều 123 đến Điều 133 cũng áp dụng cho hợp đồng vô hiệu Căn cứ vào khoản 1 Điều 131, giao dịch dân sự vô hiệu không phát sinh, thay đổi hay chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm giao dịch được xác lập Do đó, nếu hợp đồng bị tuyên bố vô hiệu, nghĩa vụ phạt vi phạm hợp đồng sẽ không được áp dụng.
Chỉ khi hợp đồng có hiệu lực, thỏa thuận về phạt vi phạm hợp đồng mới có giá trị pháp lý và ràng buộc trách nhiệm các bên.
TIEU LUAN MOI download : skknchat@gmail.com
Hướng giải quyết của Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long đối với câu hỏi trên như thế nào và suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết này của Toà án nhân dân tỉnh Vĩnh Long
Tòa án nhân dân Vĩnh Long trong Bản án số 06/2017/KDTM-PT ngày 26/5/2017 đã quyết định không chấp nhận yêu cầu phạt vi phạm hợp đồng từ cả nguyên đơn và bị đơn, vì hợp đồng trong trường hợp này đã được tuyên bố là vô hiệu.
Nhóm hoàn toàn đồng tình với hướng giải quyết của Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long, dựa trên khoản 1 Điều 131 về hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu, quy định rằng "Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm giao dịch dân sự được xác lập." Điều này cho thấy mọi thỏa thuận trong hợp đồng đều không có giá trị ràng buộc, ngoại trừ các thỏa thuận về biện pháp bảo đảm Do đó, trong trường hợp hợp đồng vô hiệu, quyền và nghĩa vụ của các bên sẽ không phát sinh ngay từ thời điểm giao kết, dẫn đến nghĩa vụ phạt vi phạm hợp đồng sẽ không được áp dụng.
Điểm giống nhau và khác nhau giữa đơn phương chấm dứt hợp đồng và hủy bỏ hợp đồng do có vi phạm
và hủy bỏ hợp đồng do có vi phạm.
+ Đều do một bên thực hiện.
Chỉ khi một bên vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ hợp đồng thì bên còn lại mới không phải bồi thường Điều này cũng là điều kiện cần thiết để tiến hành hủy bỏ hoặc đơn phương chấm dứt hợp đồng.
+ Phải thông báo ngay cho bên kia biết về việc chấm dứt hoặc hủy bỏ hợp đồng, nếu không thông báo mà gây thiệt hại thì phải bồi thường.
+ Hậu quả pháp lý đều là sự kết thúc thực hiện hợp đồng.
+ Các bên không phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ, trừ thỏa thuận về phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại và thỏa thuận về giải quyết tranh chấp.
TIEU LUAN MOI download : skknchat@gmail.com
TIEU LUAN MOI download : skknchat@gmail.com
STT Tiêu chí Hủy bỏ hợp đồng Đơn phương chấm dứt hợp đồng
1 Căn cứ pháp lý Điều 423, 424, 425 Điều 428 BLDS 2015.
2 Các trường hợp - Do chậm thực hiện - Khi một bên vi phạm nghĩa vụ nghiêm trọng nghĩa vụ
- Do không có khả năng trong hợp đồng. thực hiện - Do hai bên thỏa thuận.
- Do tài sản bị mất, bị hư - Do pháp luật quy định. hỏng.
Để hủy bỏ hợp đồng, có ba điều kiện cần thiết: trước hết, phải có sự vi phạm hợp đồng; thứ hai, việc vi phạm này không nhất thiết phải có sự thỏa thuận giữa hai bên; và cuối cùng, các điều kiện này cũng phải tuân theo quy định của pháp luật.
Hợp đồng không có hoặc bị chấm dứt sẽ dẫn đến bốn hậu quả quan trọng Đầu tiên, hợp đồng sẽ có hiệu lực từ thời điểm bên kia nhận giao kết Thứ hai, các bên không được thông báo về việc chấm dứt hợp đồng Cuối cùng, các bên vẫn phải thực hiện nghĩa vụ theo thỏa thuận đã ký kết.
- Các bên không phải tiếp đã thỏa thuận. tục thực hiện nghĩa vụ nữa
- Hoàn trả cho nhau những gì đã nhận sau khi trừ đi chi phí
TIEU LUAN MOI download : skknchat@gmail.com
Các điều kiện để huỷ bỏ hợp đồng trong một hệ thống pháp luật nước ngoài
Sau đây là các điều kiện huỷ bỏ hợp đồng của hệ thống pháp luật Anh quốc 1 :
Not every breach of contract allows the innocent party to terminate the agreement; termination is only possible if the breached term is a condition, which is a crucial aspect of the contract If the term qualifies as a condition, the innocent party can terminate the contract regardless of the breach's minor consequences Conversely, a breach of warranty does not release the affected party from their future obligations, regardless of its severity In such cases, the contract remains in effect, and the parties must continue to fulfill their obligations, with damages being the sole remedy for the breach.
Sufficiently serious breach of an intermediate/innominate term
A breach of an intermediate or innominate term, which is neither a condition nor a warranty, warrants termination only if the breach is significantly serious It must fundamentally undermine the contract or hinder its intended commercial purpose.
"deprive the party not in default of substantially the whole benefit"3 of the contract.
In every case, the court will look at the nature and consequences of the breach to decide whether termination is justified.
When a party clearly indicates their intention to cease fulfilling a contract or refuses to perform a crucial aspect of it, the innocent party has the right to consider themselves released from any further obligations However, not every instance of non-performance constitutes a repudiatory breach; a party may only decline to fulfill certain contractual duties or specify a particular method of performance To assess whether the breach is repudiatory, courts will evaluate if the non-performance constitutes a breach of condition or significantly deprives the innocent party of the overall benefits of the contract.
1 Terminating Contracts under English Law (https://www.ashurst.com/en/news-and- insights/legal-updates/terminating-contracts-under-english-law/)
TIEU LUAN MOI download : skknchat@gmail.com
A declaration of non-performance can occur through an explicit refusal or be implied by a party's actions that suggest a lack of intention to meet their obligations When a party indicates a potential non-performance before the agreed time, it is referred to as an anticipatory breach.
*Một bên vi phạm điều kiện huỷ bỏ hợp đồng:
Không phải mọi hành vi vi phạm hợp đồng đều cho phép bên không vi phạm quyền hủy bỏ hợp đồng Quyền yêu cầu hủy bỏ chỉ được thực hiện khi điều khoản vi phạm được xác định là điều kiện hủy bỏ đã thỏa thuận giữa hai bên Trong trường hợp này, bên không vi phạm có quyền yêu cầu hủy bỏ hợp đồng, bất kể mức độ nghiêm trọng của vi phạm Ngược lại, nếu vi phạm không ảnh hưởng đến hiệu lực và thực hiện hợp đồng, hợp đồng vẫn tiếp tục có hiệu lực và các bên phải thực hiện nghĩa vụ đã thỏa thuận; bên vi phạm sẽ phải bồi thường thiệt hại nếu gây ra tổn thất.
*Một bên vi phạm nghiêm trọng các điều khoản khác của hợp đồng:
Việc vi phạm các điều khoản khác của hợp đồng chỉ dẫn đến hậu quả huỷ bỏ hợp đồng khi có sự vi phạm nghiêm trọng đến nguyên tắc và mục đích của hợp đồng, hoặc khi quyền và lợi ích hợp pháp của bên còn lại bị xâm phạm Trong những trường hợp này, Toà án sẽ xem xét kỹ lưỡng bản chất, nguyên nhân và hậu quả của việc vi phạm để đưa ra quyết định về việc huỷ bỏ hợp đồng.
*Một bên từ chối thực hiện /từ bỏ
Khi một bên rõ ràng tuyên bố ý định từ bỏ hợp đồng hoặc không thực hiện các khía cạnh thiết yếu của hợp đồng, bên còn lại có quyền ngừng thực hiện nghĩa vụ của mình Tuy nhiên, không phải mọi tuyên bố từ chối nghĩa vụ đều dẫn đến huỷ bỏ hợp đồng Đôi khi, bên vi phạm chỉ từ chối thực hiện một phần nghĩa vụ hoặc chỉ thực hiện theo cách cụ thể Để xác định liệu vi phạm này có đủ điều kiện để huỷ bỏ hợp đồng hay không, tòa án sẽ xem xét các nghĩa vụ bị từ chối có thuộc các điều kiện huỷ bỏ hợp đồng hay không.
2 Terminating Contracts under English Law
(https://www.ashurst.com/en/news-and-insights/legal-updates/terminating-contracts-under-english-law/)
TIEU LUAN MOI download : skknchat@gmail.com vụ của một bên có tước đi đáng kể toàn bộ lợi ích hợp đồng đem lại cho bên còn hay không
Ông Minh có được quyền hủy bỏ hợp đồng chuyển nhượng nêu trên không? Vì sao? Nếu có, nêu rõ văn bản cho phép hủy bỏ
trên không? Vì sao? Nếu có, nêu rõ văn bản cho phép hủy bỏ.
CSPL: Điểm b khoản 1 và khoản 2 Điều 423, khoản 1 Điều 424 BLDS 2015.
Ông Minh có quyền yêu cầu Tòa án hủy bỏ hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất với ông Cường, vì ông Cường đã không thực hiện nghĩa vụ thanh toán tiền dù đã nhận đất Theo Điều 423 BLDS 2015, việc ông Cường không trả tiền được coi là vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ hợp đồng Nếu trong hợp đồng có quy định về thời hạn thực hiện nghĩa vụ, thì ông Minh có quyền hủy hợp đồng nếu ông Cường không thực hiện nghĩa vụ trong thời gian đã thỏa thuận, theo quy định tại Điều 424 BLDS.
2015 về việc hủy bỏ hợp đồng do chậm thực hiện nghĩa vụ.
TIEU LUAN MOI download : skknchat@gmail.com
Vấn đề 3: Đứng tên giùm mua bất động sản
Các quy định về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng và hậu quả hợp đồng vô hiệu trong BLDS;
Quyết định số 19/2015/DS-GĐT, ban hành ngày 19/05/2015 bởi Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, là một tài liệu quan trọng trong lĩnh vực luật hợp đồng tại Việt Nam Để tìm hiểu sâu hơn về nội dung và ý nghĩa của quyết định này, độc giả có thể tham khảo tác phẩm "Luật hợp đồng Việt Nam-Bản án và Bình luận bản án" của Đỗ Văn Đại, xuất bản lần thứ tám bởi Nxb Đại học quốc gia Tp Hồ Chí Minh, trong đó có đề cập đến Bản án số 93-96.
Và các tài liệu liên quan khác (nếu có).
Việc Tòa án nhân dân tối cao xác định rằng ngôi nhà có tranh chấp thuộc sở hữu của bà Tuệ, người đã bỏ tiền ra mua nhưng nhờ ông Bình và bà Vân đứng tên hộ, đặt ra câu hỏi về tính thuyết phục của quyết định này Sự phân định quyền sở hữu trong trường hợp này cần được xem xét kỹ lưỡng dựa trên các chứng cứ và quy định pháp luật liên quan đến giao dịch tài sản.
Tòa án nhân dân tối cao đã xác định rằng nhà có tranh chấp thuộc sở hữu của bà Tuệ, người đã bỏ tiền mua nhà và nhờ ông Bình cùng bà Vân đứng tên hộ Quyết định này được cho là thuyết phục và hợp lý.
Theo "Giấy cam đoan xác định tài sản nhà ở" lập ngày 07/06/2001, căn nhà số 16 - B20 được bà Tuệ mua bằng tiền của mình và nhờ ông Bình cùng bà Vân đứng tên hộ Giấy cam đoan này có chữ ký xác nhận của ông Bình và bà Vân.
“Giấy khai nhận tài sản” ngày 09/08/2001 của bà Tuệ cũng có nội dung năm
Năm 1993, bà Tuệ đã mua căn nhà số 16 - B20 phường Nghĩa Tân, quận Cầu Giấy, Hà Nội với tổng diện tích sử dụng 134m², xây dựng 02 tầng trên 68,5m² đất Căn nhà được Công ty xây dựng nhà ở dân dụng xây dựng và đã được Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở vào ngày 25/05/2001 Do bà Tuệ là người Việt Nam định cư ở nước ngoài không đủ điều kiện đứng tên mua nhà tại Việt Nam, bà đã nhờ ông Bình và bà Vân đứng tên hộ, với chữ ký của cả ba bên trên giấy tờ.
Tại Biên bản hoà giải ngày 05/10/2010 và ngày 14/10/2010, ông Bình cũng thừa nhận nhà sô 16 - B20 là bà Tuệ cho tiền mua và nhờ bà Vân đứng tên cùng
TIEU LUAN MOI download : skknchat@gmail.com mua Anh Nguyễn Xuân Hải là con ông Bình cũng khẳng định nhà sô 16 - B20 do bà Tuệ mua.
Tòa án nhân dân tối cao đã xác định rằng ngôi nhà đang có tranh chấp thuộc quyền sở hữu của bà Tuệ, người đã bỏ tiền ra mua, trong khi ông Bình và bà Vân chỉ đứng tên hộ Quyết định này được đưa ra dựa trên các chứng cứ xác thực và thuyết phục.
3.2 Ở thời điểm mua nhà trên, bà Tuệ có được đứng tên không? Vì sao?
Theo Điều 1 Luật Đất đai 1993 và Điều 16 Pháp lệnh số 51, bà Tuệ không thể đứng tên sở hữu nhà khi mua vào thời điểm đó, vì pháp luật Việt Nam chưa quy định về quyền sở hữu nhà đất của người Việt có quốc tịch ngoại quốc.
Theo Điều 1 của Luật Đất đai 1993, tổ chức và cá nhân nước ngoài chỉ được quyền thuê đất mà không được cấp quyền sử dụng đất lâu dài.
Theo Điều 16 Pháp lệnh số 51 - LCT/HĐNN8 ngày 06/04/1991 về nhà ở, người nước ngoài có quyền sở hữu nhà ở tại Việt Nam trong thời gian đầu tư hoặc định cư dài hạn Bà Tuệ chỉ có thể đứng tên sở hữu nhà khi đang trong thời gian tiến hành đầu tư hoặc cư trú lâu dài tại Việt Nam, trừ khi có quy định khác từ các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia.
Bà Tuệ có nhu cầu mua nhà tại Việt Nam để thăm họ hàng trong vài tháng, nhưng không có ý định đầu tư vào thị trường bất động sản nơi đây Do đó, vào thời điểm bà Tuệ muốn mua nhà, bà không đủ điều kiện để đứng tên sở hữu.
Ở thời điểm hiện nay, bà Tuệ có được đứng tên mua nhà ở tại Việt Nam không?
Ở thời điểm hiện nay, bà Tuệ được đứng tên mua nhà ở tại Việt Nam.
Theo Giấy chứng nhận ngày 12/06/2009 của Tổng lãnh sự quán Việt Nam tại Nhật Bản, bà Tuệ vẫn giữ quốc tịch Việt Nam.
Ngày 18/06/2009, bà Tuệ còn được cấp “Giấy miễn thị thực” để bà Tuệ nhập cảnh Việt Nam nhiều lần Theo quy định tại Điều 1 Luật số 34/2009/QH12 ngày
TIEU LUAN MOI download : skknchat@gmail.com
Theo quy định tại Nghị quyết 18/06/2009 của Quốc hội về sửa đổi, bổ sung Điều 126 Luật nhà ở và Điều 121 Luật đất đai, bà Tuệ đủ điều kiện sở hữu nhà ở tại Việt Nam Do đó, hiện tại, bà Tuệ có quyền đứng tên mua nhà tại Việt Nam.
Theo Tòa án nhân dân tối cao, bà Tuệ đã được công nhận quyền sở hữu nhà trên không Tuy nhiên, cần xem xét liệu quyết định này đã có tiền lệ trong các vụ án trước đó hay chưa.
Ngày nay, theo Tòa án nhân dân tối cao, bà Tuệ được công nhận quyền sở hữu nhà trên.
Tòa án nhân dân tối cao đã có tiền lệ giải quyết thông qua Án lệ 02/2016/AL về tranh chấp đòi lại tài sản, được thông qua bởi Hội đồng Thẩm phán vào ngày 06/04/2016 và công bố theo Quyết định số 220/QĐ-CA Quyết định giám đốc thẩm số 27/2010/DS-GĐT ngày 08/07/2010 cũng đã đóng vai trò quan trọng trong việc xác định hướng giải quyết của vụ án này.
“Tranh chấp đòi lại tài sản” giữa nguyên đơn là bà Nguyễn Thị Thảnh (“bà
Trong vụ án này, nguyên đơn là bà Thảnh, một Việt kiều tại Hà Lan, trong khi bị đơn là ông Nguyễn Văn Tám và bà Nguyễn Thị Yêm là những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Bà Thảnh đã nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất (QSDĐ) với diện tích 7.595,7 m² đất ruộng từ vợ chồng ông Hêng Tính và bà Lý Thị Sà Quênh với giá 21,99 chỉ vàng.
Bà Thảnh, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, không được phép sở hữu quyền sử dụng đất (QSDĐ) tại Việt Nam theo Luật Đất Đai số 24-L/CTN ngày 14/07/1993 Do đó, bà đã ủy quyền cho em trai mình, ông Tám, đứng tên trên giấy tờ chuyển nhượng QSDĐ.
Sau đó, ông Tám đã chuyển nhượng toàn bộ đất trên cho Công ty Trách nhiệm hữu hạn Minh Châu với giá trị là 1.260.000.000 đồng (“Tiền Chuyển
Nhượng”) mà không được sự đồng ý của bà Thảnh Bà Thảnh khởi kiện ông Tám yêu cầu trả lại toàn bộ số Tiền Chuyển Nhượng.
Việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất trong trường hợp này bị coi là giao dịch vô hiệu do giả tạo và vi phạm điều cấm của pháp luật, theo quy định tại Điều 128 và Điều 129 của Bộ Luật Dân Sự số Tòa án đã có nhận định rõ ràng về tính chất vô hiệu của giao dịch này.
33/2005/QH11 ngày 14/06/2005 (“Bộ luật Dân sự”) Vì vậy, dựa theo Quyết định
Tòa án không công nhận giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nhưng thừa nhận công sức của bị đơn trong việc bảo quản và tôn tạo đất, góp phần tăng giá trị tài sản Nếu bà Thảnh và ông Tám không đạt được thỏa thuận về việc phân chia, mỗi bên sẽ được nhận một nửa số tiền chuyển nhượng theo quy định tại Điều 137 và 235 Bộ luật Dân sự.
Theo Tòa án nhân dân tối cao, phần giá trị chênh lệch giữa số tiền bà Tuệ bỏ ra và giá trị hiện tại của nhà đất có tranh chấp được xử lý như thế nào?
bỏ ra và giá trị hiện tại của nhà đất có tranh chấp được xử lý như thế nào?
Theo Tòa án nhân dân tối cao, trong phần xét thấy, giá trị chênh lệch giữa số tiền bà Tuệ đã chi và giá trị hiện tại của nhà đất tranh chấp sẽ được xử lý theo quy định pháp luật.
Bà Tuệ được công nhận quyền sở hữu nhà 16-B20, đồng thời xem xét công sức quản lý và giữ gìn nhà cho gia đình ông Bình Giá trị nhà đất sẽ được xác định theo giá thị trường tại thời điểm xét xử sơ thẩm, sau khi trừ đi số tiền mua nhà đất mà bà Tuệ đã bỏ ra Phần giá trị còn lại sẽ được chia đôi giữa bà Tuệ và ông Bình.
Hướng giải quyết trên của Tòa án nhân dân tối cao đã có Án lệ chưa? Nếu có, nêu Án lệ đó
có, nêu Án lệ đó. Án lệ 02/2016/AL về vụ án “Tranh chấp đòi lại tài sản”
Nguồn án lệ: Quyết định giám đốc thẩm số 27/2010/DS-GĐT ngày 08-7-
Vụ án "Tranh chấp đòi lại tài sản" tại tỉnh Sóc Trăng, theo quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao năm 2010, liên quan đến nguyên đơn bà Nguyễn Thị Thảnh và bị đơn ông Nguyễn Văn Tám, cùng với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Nguyễn Thị Yêm.
Trong trường hợp người Việt Nam định cư ở nước ngoài chuyển nhượng quyền sử dụng đất qua người đại diện trong nước, Tòa án cần xem xét công sức bảo quản và phát triển giá trị quyền sử dụng đất của người đứng tên Nếu không xác định được công sức cụ thể, cần phân chia giá trị chênh lệch tăng thêm giữa người thực sự trả tiền và người đứng tên nhận chuyển nhượng, đảm bảo công bằng trong giải quyết tranh chấp.
Nội dung vụ án: “Tuy bà Thảnh là người bỏ 21,99 chỉ vàng để chuyển nhượng đất (tương đương khoảng 27.047.700 đồng) Nhưng giấy tờ chuyển nhượng
Ông Tám, sau khi nhận chuyển nhượng đất, đã quản lý và chuyển nhượng cho người khác, nên cần xác định công sức của ông trong việc bảo quản và tăng giá trị đất Số tiền thu được, sau khi trừ đi 21,99 chỉ vàng của bà Thảnh, sẽ là lợi nhuận chung của cả hai Đồng thời, cần phân chia công sức của ông Tám để đảm bảo quyền lợi cho các bên liên quan Nếu không xác định được chính xác công sức của ông Tám, thì nên coi công sức của ông và bà Thảnh là ngang nhau để thực hiện việc chia lợi nhuận.
Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án nhân dân tối cao
Hướng giải quyết của Tòa án nhân dân là chưa thực sự hợp lý Vì:
Tòa án đã xem xét công sức quản lý và giữ gìn nhà cửa của ông Bình, tuy nhiên, bà Tuệ đã mua cho ông Bình nhà ở Yên Bái và đất tại Phú Thọ như một phần thưởng cho công việc này Ngoài ra, ông Bình đã tự ý nới rộng hai phòng nhỏ để cho thuê mà không thông báo cho bà Tuệ Gia đình ông Bình hiện đang sống trong ngôi nhà tranh chấp, điều này cho thấy ông Bình đã hưởng lợi từ công sức của mình Do đó, việc chia đôi giá trị còn lại sau khi trừ đi số tiền mua nhà đất cho ông Bình và bà Tuệ là không hợp lý.
Vấn đề 4: Tìm kiếm tài liệu
Yêu cầu 1 : Liệt kê những bài viết liên quan đến pháp luật hợp đồng được công bố trên các Tạp chí chuyên ngành Luật từ đầu năm 2018 đến nay.
Đặng Thái Bình trong bài viết “Điều kiện áp dụng chế định hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba trong BLDS Việt Nam - So sánh với pháp luật Nhật Bản” đã phân tích các điều kiện áp dụng hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba theo Bộ luật Dân sự Việt Nam, đồng thời so sánh với quy định pháp luật Nhật Bản Bài viết được đăng trên Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam, số 08(129)/2019, từ trang 39-51, cung cấp cái nhìn sâu sắc về sự khác biệt và điểm tương đồng giữa hai hệ thống pháp luật này.
Trần Thị Thuận Giang và Lê Tấn Phát đã nghiên cứu về hiệu lực của hợp đồng theo Công ước Liên hợp Quốc về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, nhấn mạnh những khía cạnh "khoảng xám" trong việc áp dụng và thực thi các quy định của công ước này Họ chỉ ra rằng, mặc dù Công ước đã cung cấp một khuôn khổ pháp lý rõ ràng, nhưng vẫn tồn tại những vấn đề chưa được giải quyết, gây khó khăn cho các bên liên quan trong giao dịch thương mại quốc tế.
TIEU LUAN MOI download : skknchat@gmail.com xu hướng quay về áp dụng pháp luật quốc gia”, Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam, Số 05(126)/2019, từ tr.90 -102.
3 Đinh Thị Chiến, “Quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người sử dụng lao động”, Số 09(130)/2019, từ tr.49-60.
Tưởng Duy Lượng đã chỉ ra những vấn đề quan trọng cần lưu ý khi áp dụng Điều 129 Bộ luật Dân sự liên quan đến giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức Bài viết nhấn mạnh tầm quan trọng của việc hiểu rõ các quy định pháp luật để tránh rủi ro pháp lý trong các giao dịch dân sự Việc tuân thủ hình thức quy định không chỉ bảo vệ quyền lợi của các bên liên quan mà còn góp phần duy trì tính ổn định của hệ thống pháp luật.
Nghiên cứu lập pháp, Số 9 (361)/2018, tr 42 – 46.
Đặng Thị Hồng Tuyến trong bài viết “Chấm dứt hợp đồng do hoàn thành hợp đồng” đã phân tích quy định pháp luật Đức và Trung Quốc, đồng thời so sánh với pháp luật Việt Nam Bài viết cung cấp cái nhìn sâu sắc về cách thức chấm dứt hợp đồng trong từng hệ thống pháp lý, từ đó giúp người đọc hiểu rõ hơn về các quy định và nguyên tắc liên quan đến việc hoàn thành hợp đồng.
6 Lữ Thị Ngụ Diệp, “ Quy định pháp luật về nghĩa vụ cung cấp thông tin trong giai đoạn đàm phán hợp đồng thương mại, số 11 (250)/2021 tr55-69.
7 Trần Ngọc hiệp,” So sánh thuật ngữ hợp đồng theo mẫu với 1 số thuật ngữ pháp luật khác có tính chất tương đương số 11 ( 257)/2021 tr80-87.
8 Đầu Mộng Diệp, “ Hợp đồng lao động điện tử - những vấn đề pháp lí đặt ra và khái niệm áp dụng vào thực tiễn” số 9 (244)/2020 tr60-74.
9 Bùi Thị Huyền “ Một số pháp luật tố tụng dân sự phát sinh từ thực tiễn giải quyết tranh chấp hợp đồng về quyền sử dụng đất” số 3 (262)/2022 tr30-41.
10 Nguyễn Võ Linh Giang, “Giải thích hợp đồng theo pháp luật Việt Nam và pháp luật Pháp” Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, Số 07/2019, tr.26
11 Thái Vũ, “Yêu cầu đánh giá thực tiễn thi hành quy định của pháp luật về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng” Tạp chí Toà án Nhân dân, 2020
12 Phan Vũ, “Hợp đồng thông minh và một số vấn đề pháp lí đặt ra”, Tạp chí
Nhà nước và Pháp luật, Số 05/2019, tr.29
13 ThS Ngô Thu Trang, “Vướng mắc trong áp dụng pháp luật về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng”, Tạp chí Toà án Nhân dân, 2019
Toà án quận Ninh Kiều đã thụ lý và xét xử vụ án “Tranh chấp hợp đồng lao động” đúng theo quy định của pháp luật, như được nêu trong bài viết của Thế Mỹ trên Tạp chí Toà án Nhân dân năm 2020.
15 Phùng Bích Ngọc, “Thực hiện hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành”, Tạp chí Luật học, Số 05/2019
Bài viết của TS Trần Kiên và TS Nguyễn Khắc Thu, mang tiêu đề “Khái niệm hợp đồng và những nguyên tắc cơ bản của hệ thống pháp luật hợp đồng Việt Nam”, được đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, phân tích sâu về khái niệm hợp đồng và các nguyên tắc cơ bản chi phối hệ thống pháp luật hợp đồng tại Việt Nam Nội dung bài viết cung cấp cái nhìn tổng quan về các quy định pháp lý liên quan đến hợp đồng, giúp độc giả hiểu rõ hơn về tầm quan trọng và vai trò của hợp đồng trong giao dịch thương mại.
17 Nguyễn Minh Oanh, “Các biện pháp khắc phục do vi phạm hợp đồng theo
Bộ nguyên tắc về luật hợp đồng Châu Âu - Giá trị tham khảo cho Việt Nam”, Tạp chí
Nhà nước và Pháp luật, Số 09/2019, tr.36
TIEU LUAN MOI download : skknchat@gmail.com
Bài viết của Võ Thị Thanh Linh và Đoàn Thanh Hải tập trung vào việc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong các hợp đồng giao kết từ xa, đặc biệt là giải pháp "quyền rút lui" theo quy định của pháp luật Châu Âu Tác giả nhấn mạnh tầm quan trọng của việc áp dụng các kinh nghiệm quốc tế để cải thiện khung pháp lý tại Việt Nam, nhằm đảm bảo quyền lợi hợp pháp cho người tiêu dùng trong bối cảnh thương mại điện tử ngày càng phát triển.
Trần Linh Huân trong bài viết "Một số vấn đề pháp lý về hợp đồng ủy quyền xác lập, thực hiện giao dịch bất động sản" đăng trên Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 03/2019, trang 16, đã phân tích các khía cạnh pháp lý liên quan đến hợp đồng ủy quyền trong lĩnh vực bất động sản Bài viết nêu rõ tầm quan trọng của việc xác lập và thực hiện giao dịch bất động sản thông qua hợp đồng ủy quyền, đồng thời chỉ ra những vấn đề pháp lý cần lưu ý để đảm bảo tính hợp pháp và hiệu quả của giao dịch.
Phạm Văn Cường trong bài viết “Quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi giao kết hợp đồng với người không phải đại diện theo pháp luật của công ty” đăng trên Tạp chí Toà án Nhân dân năm 2019, đã phân tích quyền lợi của bên thứ ba ngay tình trong các giao dịch với những người không có thẩm quyền đại diện theo pháp luật của công ty Bài viết cung cấp cái nhìn sâu sắc về những rủi ro và bảo vệ quyền lợi cho bên thứ ba trong bối cảnh pháp lý hiện hành.
Yêu cầu 2 : Cho biết làm thế nào để biết được những bài viết trên.
- Nhóm đã tìm kiếm trên mạng xã hội và các bài tạp chí pháp luật online Link tìm kiếm:
- https://lawnet.thukyluat.vn/posts/t11569-tong-hop-38-tap-chi-nganh-luat- khong-the-bo-qua?fbclid=IwAR1ZGQcO-ZP3uW_HCGUK5kV- sAwW_qZ34R5651MH1x1uOzyak3CPUsjM_yM
Danh mục tài liệu tham khảo
A Văn bản quy phạm pháp luật
2 Bộ luật dân sự 2015 B Tài liệu tham khảo.
1 Giáo trình Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Trường Đại học Luật TP.HCM;
2 Lê Thị Hồng Vân, Sách tình huống Pháp luật hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, Nxb Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam 2017;
3 Đỗ Văn Đại, Luật hợp đồng Việt Nam-Bản án và Bình luận bản án, Nxb Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam 2018 (xuất bản lần thứ bảy);
4 Lê Minh Hùng, Giáo trình Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, Nxb Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam 2017.
TIEU LUAN MOI download : skknchat@gmail.com