1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM _ Phân tích nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự

30 10 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Phân Tích Nguyên Tắc Quyền Tự Định Đoạt Của Đương Sự Trong Tố Tụng Dân Sự
Định dạng
Số trang 30
Dung lượng 234,98 KB

Cấu trúc

  • 1. Những vấn đề chung về quyền tự định đoạt của đương sự trong luật tố tụng dân sự (18)
    • 1.1. Khái niệm quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự (18)
    • 1.2. Cơ sở của nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự (18)
  • 2. Phân tích nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự và đề xuất một số giải pháp nhằm đảm bảo cho việc thực hiện nguyên tắc này (21)
    • 2.1. QTĐĐCĐS trong việc khởi kiện vụ án dân sự (21)
    • 2.2. QTĐĐCĐS trong việc đưa ra yêu cầu (23)
    • 2.3. QTĐĐCĐS trong việc đưa ra các yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (25)
    • 2.4. QTĐĐCĐS trong việc thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu (26)
    • 2.5. QTĐĐCĐS trong việc thỏa thuận giải quyết VADS (27)
    • 2.6. QTĐĐCĐS trong việc kháng cáo, thay đổi, bổ sung và rút yêu cầu kháng cáo đối với bản án, quyết định giải quyết VADS (28)

Nội dung

LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VN ĐỀ BÀI: Phân tích nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự và đề xuất một số giải pháp nhằm đảm bảo cho việc thực hiện nguyên tắc này Nếu thiếu hoặc sai mọi người có thể gửi ý kiến về địa chỉ Email: ahadinhhaigmail.com ĐỂ NHẬN QUÀ  BẠN SẼ ĐƯỢC GÌ KHI GỬI PHẢN HỒI ĐẾN EMAIL? => Giúp cho HỌC LIỆU EDU phát triển hơn, cung cấp đáp án chính xác cho các bạn. => Tổng hợp kết quả phản hồi và sẽ chọn ngẫu nhiên 5 trong những bạn đã gửi phản hồi về Email hàng tuần và sẽ nhận những phần quà có giá trị bằng TIỀN MẶT.

Những vấn đề chung về quyền tự định đoạt của đương sự trong luật tố tụng dân sự

Khái niệm quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự

Quyền tự định đoạt của đương sự là quyền quyết định về quyền lợi và lựa chọn biện pháp pháp lý để bảo vệ quyền lợi của họ, là nguyên tắc cơ bản trong Bộ luật Tố tụng Dân sự (BLTTDS) Nguyên tắc này hướng dẫn việc xây dựng và thực hiện pháp luật tố tụng dân sự, đồng thời chi phối toàn bộ hoạt động của đương sự trong quá trình tham gia tố tụng Khi có yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp trong trường hợp vi phạm hoặc tranh chấp, Tòa án có trách nhiệm xem xét và thụ lý để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của đương sự.

Cơ sở của nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự

* Cơ sở lí luận của nguyên tắc quyền tự định đoạt ca đương sự trong

Nguyên tắc quyền tự định đoạt dân sự (QTĐĐCĐS) trong tố tụng dân sự (TTDS) có nguồn gốc từ các nguyên tắc giao lưu dân sự, trong đó các quan hệ dân sự được hình thành, thay đổi hoặc chấm dứt dựa trên sự tự nguyện, tự thỏa thuận và bình đẳng giữa các bên Trong TTDS, nguyên tắc này cho phép các bên tham gia tự do quyết định về quyền lợi dân sự của mình và các quyền liên quan đến phương tiện tố tụng để bảo vệ quyền lợi hợp pháp bị xâm hại QTĐĐCĐS trong TTDS được thể hiện qua các quyền được quy định trong các quy phạm pháp luật hình thức, phát sinh từ các nguyên tắc giao lưu dân sự theo quy định của pháp luật nội dung Đồng thời, nguyên tắc này cũng được thiết lập nhằm đảm bảo quyền bảo vệ cho các đương sự.

Theo Điều 9 của Bộ luật Tố tụng dân sự, các đương sự có quyền tự bảo vệ quyền lợi của mình hoặc nhờ luật sư và những người đủ điều kiện theo quy định hỗ trợ trong quá trình tố tụng.

BLTTDS bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, đồng thời Toà án có trách nhiệm đảm bảo cho họ thực hiện quyền bảo vệ này Pháp luật quy định rằng đương sự có quyền khởi kiện và yêu cầu Toà án giải quyết khi quyền lợi của họ bị xâm phạm, và việc này hoàn toàn dựa trên tự do ý chí Để đảm bảo quyền bảo vệ, pháp luật cũng cho phép đương sự chấm dứt, thay đổi hoặc bổ sung yêu cầu trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự Nếu không có quy định về QTĐĐCĐS trong TTDS, nguyên tắc bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự sẽ không thể thực thi Do đó, pháp luật TTDS đã đưa ra quy định về nguyên tắc này.

Quyền tự định đoạt trong tố tụng dân sự, được quy định tại Điều 5 Bộ luật Tố tụng dân sự, cho phép đương sự tự quyết định khởi kiện hoặc yêu cầu giải quyết vụ việc dân sự Quyền này là một trong những quyền tố tụng quan trọng, giúp đương sự chủ động trong việc khởi kiện và yêu cầu giải quyết, từ đó đảm bảo các vụ việc dân sự được xử lý nhanh chóng, chính xác và khách quan Vì vậy, việc ghi nhận quyền tự định đoạt trong tố tụng dân sự là một vấn đề cấp thiết.

* Cơ sở thực tiễn của nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong

Khi xảy ra tranh chấp dân sự, bên bị xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp cần khởi kiện hoặc yêu cầu toà án giải quyết, vì toà án chỉ có thể can thiệp khi có yêu cầu từ đương sự Tuy nhiên, thực tế cho thấy nhiều người dân thiếu hiểu biết về quyền lợi của mình, dẫn đến việc không yêu cầu hoặc yêu cầu sai quy định pháp luật Do đó, cần quy định rõ ràng quyền chấm dứt, thay đổi hoặc bổ sung yêu cầu của đương sự Bên cạnh đó, toà án cũng gặp nhiều sai sót trong việc tiếp nhận và giải quyết yêu cầu, có khi không thực hiện hoặc giải quyết vượt quá phạm vi yêu cầu Vì vậy, quy định trách nhiệm của toà án trong việc đảm bảo quyền lợi cho đương sự là rất cần thiết, được thể hiện qua Điều 5 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2004, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.

Phân tích nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự và đề xuất một số giải pháp nhằm đảm bảo cho việc thực hiện nguyên tắc này

QTĐĐCĐS trong việc khởi kiện vụ án dân sự

Quyền khởi kiện vụ án dân sự (VADS) là quyền cơ bản của đương sự trong quá trình tố tụng dân sự, cho phép họ tự định đoạt việc khởi kiện khi quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm Theo quy định tại các điều 4, 5, 9, 186, 190 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, đương sự có thể tự mình hoặc ủy quyền cho người khác khởi kiện nếu đủ năng lực hành vi tố tụng Trong trường hợp đương sự không đủ năng lực, người đại diện theo pháp luật sẽ quyết định việc khởi kiện thay Để bảo vệ quyền tự định đoạt, Tòa án không được từ chối giải quyết vụ việc dân sự, ngay cả khi chưa có điều luật áp dụng, và chỉ thụ lý khi nhận được đơn khởi kiện VADS từ đương sự, giải quyết trong phạm vi đơn đó.

Theo Điều 187 BLTTDS năm 2015, các cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền khởi kiện không chỉ để bảo vệ quyền lợi của mình mà còn để bảo vệ quyền lợi của người khác, lợi ích công cộng và lợi ích của Nhà nước Việc khởi kiện này không hạn chế quyền tự định đoạt của đương sự, mà còn bảo vệ quyền khởi kiện của những chủ thể yếu trong xã hội như phụ nữ và trẻ em, những người không thể tự khởi kiện vụ án dân sự (VADS) Đối với những lợi ích công cộng và lợi ích Nhà nước bị xâm phạm, cần có cơ quan, tổ chức đứng ra khởi kiện để bảo vệ Trong trường hợp VADS đã được giải quyết bằng bản án hoặc quyết định có hiệu lực pháp luật, nguyên tắc là đương sự không được khởi kiện lại Tuy nhiên, Điều 192 BLTTDS năm 2015 quy định các trường hợp ngoại lệ cho phép đương sự khởi kiện lại, bao gồm yêu cầu xin ly hôn, thay đổi quyền nuôi con, mức cấp dưỡng, bồi thường thiệt hại, và các vụ án liên quan đến tài sản mà trước đó Tòa án chưa chấp nhận yêu cầu.

Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc khởi kiện vụ án dân sự, điều

Theo Điều 184 BLTTDS năm 2015, đương sự có quyền tự định đoạt về việc yêu cầu áp dụng quy định về thời hiệu khởi kiện, và Tòa án chỉ áp dụng quy định này khi có yêu cầu từ các bên trước khi ra bản án Điều 190 cũng cho phép nộp đơn khởi kiện qua nhiều phương thức như nộp trực tiếp, gửi qua bưu chính hoặc trực tuyến, tạo điều kiện thuận lợi cho đương sự Tuy nhiên, theo Điều 189, người khởi kiện VADS phải nộp đơn đến Tòa án mà không được trực tiếp khởi kiện, điều này tạo ra một hạn chế nhất định.

QTĐĐCĐS trong việc đưa ra yêu cầu

Đương sự có quyền quyết định khởi kiện, trong khi bị đơn cũng có quyền đưa ra yêu cầu phản tố hoặc chấp nhận, bác bỏ yêu cầu của đương sự Theo khoản 4 và khoản 5 điều 72 BLTTDS năm 2015, bị đơn có thể đưa ra yêu cầu phản tố nếu có liên quan đến yêu cầu của đương sự hoặc đề nghị đối trừ với nghĩa vụ của họ Ngoài ra, bị đơn còn có quyền đưa ra yêu cầu độc lập đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, yêu cầu này cũng phải liên quan đến việc giải quyết vụ án.

Trong tố tụng dân sự, phản tố là hành động của bị đơn khởi kiện ngược lại nguyên đơn về một quan hệ pháp luật khác, nhưng có liên quan đến yêu cầu khởi kiện ban đầu Nếu yêu cầu của bị đơn hoàn toàn mới và không liên quan, họ phải khởi kiện thành vụ án riêng Quyền phản tố của bị đơn khác với quyền phản đối; trong khi quyền phản đối nhằm chứng minh sự không xâm hại đến quyền lợi của nguyên đơn, quyền phản tố cho phép bị đơn đưa ra yêu cầu ngược lại về một quan hệ pháp luật độc lập liên quan đến yêu cầu của nguyên đơn.

Quyền phản tố là quyền yêu cầu bù trừ nghĩa vụ liên quan đến yêu cầu của nguyên đơn, và được giải quyết trong cùng một vụ án Việc quy định cụ thể các trường hợp yêu cầu phản tố theo Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) giúp bị đơn thực hiện quyền tự định đoạt, bảo vệ quyền lợi của mình và bác bỏ các yêu cầu của nguyên đơn.

Khoản 1 điều 200 BLTTDS năm 2015 quy định: Cùng với việc phải nộp cho Tòa án văn bản ghi ý kiến của mình đối với yêu cầu của đương sự , bị đơn có quyền yêu cầu phản tố đối với đương sự , người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập. Đồng thời để khắc phục hạn chế của BLTTDS 2004, khoản 3 điều 200 BLTTDS năm 2015 đã quy định thời điểm thực hiện yêu cầu phản tố của bị đơn: Bị đơn có quyền đưa ra yêu cầu phản tố trước thời điểm mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải Khi bị đơn đưa ra yêu cầu phản tố đối với đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đưa ra yêu cầu độc lập, thì Tòa án sẽ phải xem xét giải quyết cùng với yêu cầu khởi kiện của đương sự.

QTĐĐCĐS trong việc đưa ra các yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập là cá nhân tham gia tố tụng độc lập với nguyên đơn và bị đơn, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của mình trong vụ kiện mà Tòa án đang giải quyết Trong VADS, lợi ích pháp lý của người này luôn độc lập với lợi ích của nguyên đơn và bị đơn, cho phép họ có khả năng đưa ra yêu cầu chống lại cả hai bên trong vụ án.

Khởi kiện vụ án dân sự là bước đầu tiên của cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác nhằm yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình hoặc của người khác Hành vi khởi kiện là cơ sở pháp lý để hình thành quan hệ pháp luật tố tụng dân sự; không có khởi kiện thì không có quá trình tố tụng Tòa án chỉ giải quyết vụ việc dân sự khi nhận được đơn khởi kiện hoặc yêu cầu từ các chủ thể Đương sự có quyền quyết định khởi kiện và nội dung khởi kiện, trong khi bị đơn có quyền phản tố Theo Điều 73 BLTTDS năm 2015, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có thể đưa ra yêu cầu độc lập hoặc tham gia tố tụng cùng bên đương sự hoặc bên bị đơn Khi có yêu cầu độc lập liên quan đến vụ án, Tòa án phải xem xét và giải quyết cùng với các yêu cầu của các đương sự khác.

Để khắc phục những hạn chế của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004, khoản 2 điều 201 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định rằng người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền đưa ra yêu cầu độc lập trước thời điểm mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải.

QTĐĐCĐS trong việc thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu

Khi khởi kiện vụ án dân sự, đương sự có quyền quyết định các hành vi tố tụng tiếp theo, bao gồm việc thay đổi, bổ sung hoặc chấm dứt yêu cầu của mình Quyền tự định đoạt này được quy định rõ ràng trong các điều 70, 71, 217, 245 và 249 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 Theo khoản 1 điều 244, quy định này nhằm đảm bảo bên đối lập có đủ thời gian chuẩn bị chứng cứ và tài liệu để bảo vệ quyền lợi của mình, mặc dù điều này có thể hạn chế quyền tự định đoạt của người yêu cầu.

Đương sự có quyền rút yêu cầu trong vụ án dân sự, bao gồm việc rút đơn khởi kiện, yêu cầu phản tố hoặc yêu cầu độc lập Hành vi rút yêu cầu thể hiện sự từ bỏ yêu cầu và phương tiện bảo vệ quyền lợi qua tố tụng Trong một số trường hợp, việc rút yêu cầu chỉ đơn thuần là từ bỏ phương tiện bảo vệ quyền lợi hợp pháp, cho phép đương sự tự nguyện thực hiện nghĩa vụ đối với bên khác mà không muốn tiếp tục tranh chấp.

Theo quy định tại điều 299 BLTTDS, trước khi mở phiên tòa hoặc tại phiên tòa phúc thẩm, nếu đương sự rút đơn khởi kiện thì Hội đồng xét xử

HĐXX phúc thẩm cần xác minh sự đồng ý của bị đơn trước khi quyết định việc rút đơn khởi kiện Nếu bị đơn không đồng ý, HĐXX sẽ không chấp nhận yêu cầu rút đơn; ngược lại, nếu bị đơn đồng ý, HĐXX sẽ chấp nhận và ra quyết định hủy bản án sơ thẩm, đình chỉ giải quyết vụ án Quy định này, mặc dù nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp của bị đơn, nhưng cũng vô tình hạn chế quyền tự định đoạt của đương sự trong quá trình tố tụng dân sự, khuyến khích bị đơn theo kiện.

QTĐĐCĐS trong việc thỏa thuận giải quyết VADS

Điều 5 BLTTDS năm 2015 quy định trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, đương sự có quyền thỏa thuận với nhau một cách tự nguyện, không vi phạm điều cấm của luật và không trái đạo đức xã hội Để tạo điều kiện cho các đương sự thực hiện được quyền này điều 10 BLTTDS năm 2015 quy định: “Tòa án có trách nhiệm hòa giải và tạo điều kiện thuận lợi để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ việc dân sự theo quy định của Bộ luật này” Theo quy định tại điều 205 BLTTDS năm 2015, thì trong thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án, Tòa án tiến hành hòa giải để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án, trừ những vụ án không được hòa giải hoặc không tiến hành hòa giải được theo quy định tại điều 206 và điều 207 của Bộ luật này hoặc vụ án được giải quyết theo thủ tục rút gọn Việc hòa giải phải được tiến hành theo các nguyên tắc: Tôn trọng sự tự nguyện thỏa thuận của các đương sự, không được dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực, bắt buộc các đương sự phải thỏa thuận không phù hợp với ý chí của mình; nội dung thỏa thuận giữa các đương sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội Như vậy, BLTTDS năm 2015 đã quy định tương đối đầy đủ các vấn đề liên quan đến hòa giải VADS đảm bảo quyền tự định đoạt của đương sự trong thỏa thuận giải quyết VADS Tuy vậy, trong trường hợp trong thời hạn 7 ngày kể từ ngày Tòa án lập biên bản mà đương sự thay đổi thỏa thuận này bằng thỏa thuận khác thì chưa được BLTTDS năm 2015 quy định cụ thể.

QTĐĐCĐS trong việc kháng cáo, thay đổi, bổ sung và rút yêu cầu kháng cáo đối với bản án, quyết định giải quyết VADS

Quyền kháng cáo bản án và quyết định giải quyết VADS là một quyền tố tụng cơ bản của đương sự, cho phép họ chống lại bản án sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật Qua việc kháng cáo, đương sự yêu cầu Tòa án cấp trên xem xét lại vụ án để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình Đặc biệt, trong quá trình kháng cáo, đương sự có quyền tự định đoạt.

271, 284, 293 BLTTDS năm 2015 đã quy định khá đầy đủ các vẫn đề liên quan đến kháng cáo, đảm bảo quyền tự định đoạt của đương sự trong việc kháng cáo.

Nền kinh tế phát triển kéo theo vai trò quan trọng của pháp luật, đặc biệt là pháp luật tố tụng dân sự Việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật là yêu cầu thiết yếu để bảo đảm quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự Việt Nam Cần thực hiện đồng bộ các giải pháp nhằm kiện toàn hệ thống Tòa án và nâng cao trình độ chuyên môn, phẩm chất đội ngũ cán bộ Điều này sẽ thúc đẩy phát triển các quan hệ dân sự và nền kinh tế xã hội.

Ngày đăng: 18/06/2022, 22:42

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w