1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Lịch sử tư tưởng chính trị tìm hiểu tư tưởng hồ chí minh giải phóng dân tộc và về con đường cách mạng việt nam

37 1 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Tìm Hiểu Tư Tưởng Hồ Chí Minh Giải Phóng Dân Tộc Và Về Con Đường Cách Mạng Việt Nam
Chuyên ngành Lịch Sử Tư Tưởng Chính Trị
Thể loại Tiểu Luận
Định dạng
Số trang 37
Dung lượng 180,5 KB

Cấu trúc

  • PHẦN I: MỞ ĐẦU (2)
  • PHẦN II: NỘI DUNG (6)
    • CHƯƠNG 1: NGUỒN GỐC HèNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ GIẢI PHÓNG DÂN TỘC VÀ VỀ CON ĐƯỜNG CÁCH MẠNG VIỆT NAM (6)
      • 1. Sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc lựa chọn con đường giải phóng cho dân tộc Việt Nam (7)
      • 2. Hồ Chí Minh tích cực tham gia phong trào cộng sản quốc tế trước khi tiến hành vận động phong trào cách mạng Việt Nam (8)
      • 3. Chuẩn bị lực lượng tiên phong cho cách mạng Việt Nam (9)
      • 4. Chủ tịch Hồ Chí Minh phát hiện, khơi dậy và tổ chức thành công sức mạnh “dời non, lấp biển” của dân tộc Việt Nam (10)
      • 5. Sáng tạo trong cuộc chiến tranh nhân dân vĩ đại của dân tộc Việt Nam (0)
      • 6. Sáng tạo của Hồ Chí Minh trong việc kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại (0)
    • CHƯƠNG 2: NỘI DUNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ GIẢI PHÓNG DÂN TỘC VÀ VỀ CON ĐƯỜNG CÁCH MẠNG VIỆT NAM (15)
      • 1. Giải quyết vấn đề dân tộc ở Việt Nam – một nước thuộc địa nửa phong kiến, trước hết phải tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, đánh đuổi quân xâm lược, đánh đổ bọn tay sai, giành độc lập cho dân tộc, tự do cho dân, hoà bỡnh và thống nhất đất nước (15)
      • 2. Sau khi giành được độc lập dân tộc phải đưa đất nước tiến lên xây dựng chủ nghĩa xó hội, nhằm giải phúng con người, giải phóng xó hội, xoỏ bỏ nghốo nàn và lạc hậu, vươn tới cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho mọi người, mọi dân tộc (17)
      • 3. Phải thực hiện quyền bỡnh đẳng giữa các dân tộc và đoàn kết, giúp đỡ lẫn (18)
    • CHƯƠNG 3: CHÍNH SÁCH DÂN TỘC VÀ THỰC TIỄN HIỆN ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN TỘC Ở NƯỚC TA HIỆN NAY (26)
      • 1. Thực trạng 50 năm thực hiện chính sách dân tộc của Đảng ta (26)
      • 2. Giải pháp khắc phục chính sách dân tộc trong giai đoạn hiện nay (32)
  • PHẦN III: KẾT LUẬN (34)
  • TÀI LIỆU THAM KHẢO (37)

Nội dung

NỘI DUNG

NGUỒN GỐC HèNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ GIẢI PHÓNG DÂN TỘC VÀ VỀ CON ĐƯỜNG CÁCH MẠNG VIỆT NAM

GIẢI PHÓNG DÂN TỘC VÀ VỀ CON ĐƯỜNG

Sáng tạo là quá trình mà những cá nhân nhạy cảm với vấn đề có khả năng biến những hoàn cảnh phức tạp thành những thách thức để giải quyết Những người này khám phá và tìm ra cách giải quyết cho các tình huống khó khăn, từ đó tạo ra cái mới Hoạt động sáng tạo không chỉ là việc vượt ra ngoài kinh nghiệm cũ mà còn là biểu hiện sâu sắc của đời sống nội tâm và tâm hồn con người Sáng tạo cũng bao gồm việc lựa chọn các phương pháp và phương tiện mới để đạt được giải pháp hiệu quả hơn.

Sỏng tạo cách mạng khác biệt với các hoạt động sáng tạo khác, xuất hiện trong các tình huống cách mạng và có tác dụng lớn trong việc thay đổi hoàn cảnh Nó thể hiện sự thay đổi về chất trong phương pháp, cách thức và giải quyết các vấn đề cách mạng Sỏng tạo cách mạng bao gồm việc đưa ra các chiến lược và sách lược mới, cùng với những biện giải và phương pháp hoàn toàn mới Vai trò của sáng tạo cách mạng là thúc đẩy sự phát triển của xã hội.

Bài viết này tập trung vào việc khám phá những sáng tạo cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Người Qua quá trình vận dụng cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX, rõ ràng vị lãnh tụ của Đảng luôn thể hiện tinh thần sáng tạo và nhạy bén Hồ Chí Minh nắm vững bản chất các sự kiện và mối liên hệ bên trong, bên ngoài, từ đó đưa ra những chủ trương và giải pháp hợp lý, sáng tạo Nhiều tư liệu ghi lại cách ứng xử thông minh, tinh tế của Người, phản ánh nhân cách sáng tạo cao cả Bài viết sẽ nhấn mạnh một số hoạt động sáng tạo cách mạng của Hồ Chí Minh đã tạo ra những chuyển biến quan trọng cho dân tộc và thời đại.

1 Sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc lựa chọn con đường giải phóng cho dân tộc Việt Nam.

Vào cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, nhân dân Việt Nam phải đối mặt với áp bức từ thực dân Pháp và chế độ phong kiến Nguyễn Không cam chịu, họ liên tục đứng lên chống lại sự bóc lột, nhưng không thành công Trong bối cảnh đó, Nguyễn Tất Thành, một thanh niên yêu nước, đã có những suy nghĩ sáng tạo và quyết định khác biệt Mặc dù được Phan Bội Châu định hướng sang Nhật du học, Nguyễn Tất Thành từ chối vì ông nhận thấy cần phải hiểu rõ về thế giới và nước Pháp trước khi chọn con đường cách mạng cho dân tộc Vào tháng 6 năm 1911, ông tuyên bố muốn ra ngoài để học hỏi và trở về giúp đỡ đồng bào Sau gần 10 năm trải nghiệm và chịu ảnh hưởng từ các phong trào cách mạng phương Tây, đặc biệt là Cách mạng tháng Mười Nga, Nguyễn Ái Quốc (bí danh của Nguyễn Tất Thành) đã tìm ra con đường giải phóng dân tộc thông qua chủ nghĩa Mác - Lênin Vào tháng 7 năm 1920, khi đọc tác phẩm của V I Lênin, ông khẳng định con đường cách mạng xã hội chủ nghĩa cho Việt Nam, đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong tư duy cách mạng của Hồ Chí Minh.

2 Hồ Chí Minh tích cực tham gia phong trào cộng sản quốc tế trước khi tiến hành vận động phong trào cách mạng Việt Nam.

Hồ Chí Minh đã thể hiện một sự sáng tạo cách mạng trong quá trình giải phóng dân tộc, không đi theo con đường của các bậc tiền bối như Hoàng Hoa Thám hay Phan Bội Châu Ông tích cực tham gia phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, gia nhập đảng cộng sản Pháp, thành lập Hội liên hiệp thuộc địa và tham gia nhiều tổ chức quốc tế Điều này cho thấy sự nhận thức của Người về kẻ thù chung của các dân tộc thuộc địa là chủ nghĩa đế quốc và thực dân Hồ Chí Minh từng viết rằng, để tiêu diệt chủ nghĩa tư bản, cần phải đồng thời tấn công cả hai nguồn gốc của nó, cả ở chính quốc lẫn thuộc địa, nếu không, hệ thống này vẫn sẽ tồn tại và tiếp tục bóc lột giai cấp công nhân.

Việc tham gia phong trào công nhân sản quốc tế đã giúp Nguyễn Ái Quốc tích lũy kinh nghiệm quý báu trong hoạt động cách mạng, nâng cao hiểu biết về chủ nghĩa Mác – Lênin và rèn luyện phẩm chất đạo đức của người cách mạng Ông đã xây dựng mối liên hệ chặt chẽ giữa cách mạng Việt Nam với các phong trào cách mạng toàn cầu và phong trào cộng sản quốc tế Thực tế, từ những hoạt động sáng tạo của Nguyễn Ái Quốc trong những năm 20 – 30 của thế kỷ XX, phong trào cách mạng Việt Nam đã gắn bó mật thiết với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.

3 Chuẩn bị lực lượng tiên phong cho cách mạng Việt Nam.

Xuất phát từ quan điểm rằng để có phong trào cách mạng cần có lực lượng tiên phong, Nguyễn Ái Quốc đã đề nghị Quốc tế cộng sản cử người đến Quảng Châu vào những năm 1924-1925 nhằm xây dựng phong trào công nhân và cộng sản ở Đông Nam Á, đồng thời chỉ đạo phong trào nông dân tại Châu Á và chuẩn bị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam Tại đây, Người đã mở các lớp huấn luyện chính trị và vào tháng 6 năm 1925, thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên Trong thời gian này, Người đã đào tạo và bồi dưỡng một thế hệ cách mạng đầu tiên, tạo thành hạt nhân cho phong trào giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp ở Việt Nam Phân tích sự sáng tạo của Nguyễn Ái Quốc trong hoạt động này, có thể rút ra một số bài học quý giá.

Nguyễn Ái Quốc đã chọn Quảng Châu làm điểm khởi đầu cho phong trào cách mạng ở Đông Nam Á và phong trào công nhân Châu Á, thể hiện sự phát triển hợp lý trong sự nghiệp cách mạng của ông Sau khi tìm ra con đường giải phóng dân tộc và giai cấp, ông đã nhanh chóng tiến hành giác ngộ quần chúng về con đường cách mạng Sự kết hợp giữa nhiệm vụ chung của Quốc tế cộng sản và nhiệm vụ riêng đối với cách mạng Việt Nam là một sáng tạo độc đáo của Nguyễn Ái Quốc.

Nguyễn Ái Quốc đã tập hợp các thanh niên yêu nước để bồi dưỡng và giáo dục lý tưởng cách mạng, nhằm giác ngộ quần chúng về con đường cách mạng Ông nhận thấy ở những thanh niên trẻ này những triển vọng lớn trong việc tham gia và lãnh đạo cách mạng Việt Nam Những học trò đầu tiên của ông, như Trần Phú, đã góp phần quan trọng vào sự phát triển của phong trào cách mạng.

Lê Hồng Phong, Nguyễn Lương Bằng, và Phạm Văn Đông là những nhân vật có cống hiến to lớn cho phong trào cách mạng Việt Nam Từ thế hệ thanh niên đầu tiên này, chủ nghĩa Mác - Lênin đã được du nhập vào Việt Nam, dẫn đến sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam với đường lối đúng đắn Đội quân cách mạng đã phát triển mạnh mẽ, trở thành làn sóng cách mạng dũng mãnh, đánh bại các lực lượng phản cách mạng và ngăn chặn âm mưu xâm lược của các đế quốc, thực dân như phát xít Nhật, thực dân Pháp và đế quốc Mỹ.

Nguyễn Ái Quốc đã phát hiện ra sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam, điều này thể hiện sự sáng tạo và tầm nhìn của ông Trong các nước công nghiệp phát triển, công nhân chiếm tỷ lệ lớn trong dân cư, nên việc khẳng định vai trò của họ là dễ hiểu Tuy nhiên, ở Việt Nam, một nước thuộc địa nửa phong kiến với đa số là nông dân, việc thừa nhận vai trò của giai cấp công nhân gặp nhiều khó khăn.

Xuất phát từ luận điểm của Lênin về tầm quan trọng của lý luận cách mạng, Nguyễn Ái Quốc đã chú trọng việc giáo dục lý luận cho thanh niên Ông nhận thức rằng chỉ có lý luận cách mạng tiên phong mới giúp Đảng thực hiện trách nhiệm cách mạng Qua hoạt động giáo dục lý luận và việc đưa lý luận vào phong trào quần chúng, Nguyễn Ái Quốc đã góp phần thấm nhuần sâu sắc tư tưởng cách mạng trong cộng đồng.

C Mác: “Lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh đổ bởi sức mạnh vật chất, nhưng lý luận sẽ trở thành sức mạnh vật chất khi thõm nhập vào quần chỳng”.

4 Chủ tịch Hồ Chí Minh phát hiện, khơi dậy và tổ chức thành cụng sức mạnh “dời non, lấp biển” của dõn tộc Việt Nam.

Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh, với tư tưởng Mác – Lênin, đã nhận thức sâu sắc vai trò của quần chúng trong lịch sử và sớm nhận ra lòng yêu nước mãnh liệt của dân tộc Việt Nam như một truyền thống quý báu Mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, tinh thần yêu nước lại bùng lên, tạo thành sức mạnh chống lại kẻ thù Hồ Chí Minh không chỉ nhìn nhận công nhân và nông dân là lực lượng chính của cách mạng, mà còn mở rộng ra tiểu tư sản trí thức, binh lính và các tầng lớp khác, khi họ cùng chung lòng yêu nước và chống lại thực dân Sự sáng tạo của Người nằm ở việc xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam, đại diện cho lợi ích toàn dân tộc, và thiết lập Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, mà vẫn giữ vững bản chất giai cấp của Đảng và Nhà nước Hồ Chí Minh đã vượt qua giáo điều, vận dụng lý luận một cách linh hoạt trong những tình huống phức tạp nhất.

5 Sáng tạo trong cuộc chiến tranh nhân dân vĩ đại của dõn tộc Việt Nam.

Một dân tộc nhỏ bé nhưng kiên cường đã đứng lên đấu tranh và giành chiến thắng trước những kẻ thù mạnh mẽ nhất thế giới như thực dân Pháp và đế quốc Mỹ Ngay từ những năm đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra sự chênh lệch lực lượng giữa nhân dân ta và thực dân Pháp.

“Chỳng nhiều là mấy vạn

Mỡnh mấy triệu đồng bào

Chúng đường xa mỏi mệt

NỘI DUNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ GIẢI PHÓNG DÂN TỘC VÀ VỀ CON ĐƯỜNG CÁCH MẠNG VIỆT NAM

VÀ VỀ CON ĐƯỜNG CÁCH MẠNG VIỆT NAM

Sau khi tìm ra con đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã thành lập một chính đảng cách mạng chân chính tại Việt Nam Người lãnh đạo Trung ương Đảng, dẫn dắt sự nghiệp đấu tranh cách mạng của nhân dân Việt Nam vượt qua mọi gian khổ và khó khăn, đạt được nhiều thắng lợi liên tiếp.

Hồ Chí Minh đã cống hiến cả cuộc đời cho nhân dân và đất nước, tập trung vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng con người và xóa bỏ áp bức, bất công Ông luôn hướng tới một cuộc sống ấm no, tự do và hạnh phúc cho mọi người Chính vì vậy, vấn đề dân tộc và giải quyết các vấn đề liên quan trong cách mạng Việt Nam luôn là mối quan tâm lớn của Người Dưới đây, tôi xin trình bày một số quan điểm quan trọng của Hồ Chí Minh về những vấn đề này.

1 Giải quyết vấn đề dân tộc ở Việt Nam – một nước thuộc địa nửa phong kiến, trước hết phải tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, đánh đuổi quân xâm lược, đánh đổ bọn tay sai, giành độc lập cho dân tộc, tự do cho dân, hoà bỡnh và thống nhất đất nước. Độc lập, tự do, hoà bỡnh và thống nhất đất nước là khát vọng cháy bỏng của người dân mất nước Bởi, mất nước là mất tất cả Sống trong cảnh nước mất, nhà tan, mọi quyền lực nằm trong tay quân xâm lược và bọn tay sai thỡ quyền sống của con người cũng bị đe doạ chứ nói gỡ đến quyền bỡnh đẳng, tự do, dân chủ của mọi người Nếu có, đó chỉ là thứ tự do cướp bóc, bắt bớ, giết hại và tù đày cả quân xâm lược và bọn tay sai Chính vỡ vậy mà

"Khụng cú gỡ quý hơn độc lập tự do" là một trong những tư tưởng lớn của Hồ Chí Minh, trở thành chân lý của dân tộc Việt Nam và nhân loại có lương tri Tư tưởng độc lập cho dân tộc và tự do cho nhân dân đã trở thành mục tiêu hàng đầu của cách mạng Việt Nam, được quán triệt trong toàn bộ tiến trình cách mạng và thể hiện nổi bật trong các thời điểm lịch sử quan trọng.

Hồ Chí Minh đã trả lời câu hỏi của nữ đồng chí Rôđơ tại Đại hội lần thứ 18 của Đảng xã hội Pháp vào ngày 29 tháng 12 năm 1920 về lý do ông bỏ phiếu cho Quốc tế III Ông nhấn mạnh rằng mặc dù không hiểu rõ về chiến lược và chiến thuật vô sản, ông nhận thức rõ ràng rằng Quốc tế III rất quan tâm đến vấn đề thuộc địa Ông khẳng định: "Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn, đấy là tất cả những điều tôi hiểu."

Vào giữa năm 1922 tại Pháp, Hồ Chí Minh đã bày tỏ với Bộ trưởng Bộ Thuộc địa Pháp Anbe Xarô về nguyện vọng mãnh liệt của mình và của nhân dân Việt Nam: "Điều mà chúng tôi cần nhất trong đời là: Đồng bào tôi được tự do, Tổ quốc tôi được độc lập…".

Năm 1945, trong bối cảnh cách mạng Việt Nam đang có thời cơ mới, Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh với đồng chí Võ Nguyên Giáp rằng: "Thời cơ thuận lợi đã đến, chúng ta phải quyết tâm giành lấy độc lập, kể cả việc đốt cháy cả dãy Trường Sơn."

Năm 1966, trong bối cảnh Mỹ mở rộng chiến tranh phá hoại miền Bắc, Hồ Chí Minh đã kêu gọi tinh thần kiên cường của nhân dân Việt Nam, nhấn mạnh rằng chiến tranh có thể kéo dài nhiều năm nhưng nhân dân không bao giờ sợ hãi Ông khẳng định rằng dù Hà Nội, Hải Phòng và các thành phố có thể bị tàn phá, nhưng độc lập và tự do vẫn là giá trị quý giá nhất mà dân tộc quyết tâm bảo vệ.

Hồ Chí Minh coi mục tiêu đấu tranh giành độc lập cho Tổ quốc và tự do cho đồng bào là lẽ sống của mình Ông khẳng định rằng quyền độc lập dân tộc không thể tách rời quyền con người, và độc lập là điều kiện tiên quyết để mang lại hạnh phúc cho mọi người dân Đồng thời, độc lập dân tộc cũng tạo điều kiện cho Việt Nam sống bình đẳng với các dân tộc khác trên thế giới, cũng như đảm bảo sự hòa thuận và bình đẳng giữa các dân tộc trong nước, cùng nhau hướng tới cuộc sống ấm no, tự do và hạnh phúc.

2 Sau khi giành được độc lập dân tộc phải đưa đất nước tiến lên xây dựng chủ nghĩa xó hội, nhằm giải phúng con người, giải phóng xó hội, xoỏ bỏ nghốo nàn và lạc hậu, vươn tới cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho mọi người, mọi dân tộc.

Giải quyết vấn đề dân tộc trong cách mạng Việt Nam không chỉ dừng lại ở việc giành độc lập và tự do, mà còn phải đảm bảo cuộc sống ấm no cho nhân dân Nếu có độc lập và tự do nhưng người dân vẫn phải chịu đói khổ, thì nền độc lập và tự do đó sẽ trở nên vô nghĩa.

Hồ Chí Minh thấu hiểu nỗi khổ của nhân dân Việt Nam trong thời kỳ thực dân và phong kiến Ông coi việc xoá bỏ nghèo nàn và lạc hậu là nhiệm vụ quan trọng trong sự nghiệp giải phóng xã hội, nhằm xây dựng một cuộc sống ấm no, tự do và hạnh phúc cho mọi người Đây là ước nguyện sâu sắc của Hồ Chí Minh và cũng là mong mỏi từ lâu của nhân dân các dân tộc Việt Nam Ông từng nói: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, ai cũng được học hành.”

Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng việc thực hiện ước nguyện này nhằm giải quyết triệt để và thực tiễn vấn đề dân tộc tại một quốc gia thuộc địa nửa phong kiến.

Hồ Chí Minh và những người có lương tri đều trăn trở về việc xây dựng một xã hội công bằng, nơi mà nhân dân các dân tộc Việt Nam và toàn nhân loại không còn bị áp bức, bóc lột Sự tương đồng trong tư duy giữa Hồ Chí Minh và các nhà sáng lập học thuyết cách mạng thể hiện rõ ràng qua ước nguyện chung này.

Chứng kiến cảnh sống khổ cực và bị bóc lột của giai cấp công nhân, Hồ Chí Minh và các nhà lãnh đạo như Mác, Ăngghen, và Lênin khẳng định rằng con đường giải phóng xã hội phải tiến lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, không phải là tư bản chủ nghĩa hay quay về chế độ phong kiến Đối với Việt Nam, Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng chỉ có chủ nghĩa xã hội mới đủ điều kiện để thực hiện triệt để quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc của mọi người.

CHÍNH SÁCH DÂN TỘC VÀ THỰC TIỄN HIỆN ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN TỘC Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

TOÀN DÂN TỘC Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

1 Thực trạng 50 năm thực hiện chính sách dân tộc của Đảng ta.

Việt Nam là một quốc gia độc lập và thống nhất, nơi nhiều dân tộc anh em sinh sống hòa thuận Tình yêu quê hương, yêu dân tộc và yêu đất nước của các dân tộc gắn bó chặt chẽ với nhau, hình thành nên một quá trình quan trọng trong sự nghiệp giải phóng và xây dựng cuộc sống mới.

Bác Hồ đã nhấn mạnh tầm quan trọng của sự đoàn kết giữa các dân tộc anh em trong việc xây dựng Tổ quốc Ông kêu gọi mọi người nỗ lực để miền núi phát triển đồng đều với miền xuôi, và vùng cao đạt được sự phát triển tương đương với vùng thấp.

Ngay từ những ngày đầu của cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã có đường lối đúng đắn, tập hợp đội ngũ chiến sĩ kiên cường và những người con ưu tú của các dân tộc anh em Họ đã tham gia xây dựng lực lượng vũ trang, thành lập Mặt trận Việt Minh, lập nên các khu căn cứ địa và mở đường tiến lên giải phóng hoàn toàn đất nước Đặc biệt, có 116 anh hùng từ 22 dân tộc và 236 bà mẹ anh hùng đã góp phần quan trọng trong sự nghiệp này.

32 dân tộc thiểu số đó núi lờn sự đóng góp to lớn, sự hy sinh cao cả cho sự nghiệp chung của toàn Đảng toàn dân ta.

Tính tích cực cao của nhân dân các dân tộc thiểu số trong sự nghiệp giải phóng đất nước xuất phát từ sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam, đã động viên và phát huy lòng yêu nước, tự hào dân tộc, cùng với truyền thống đấu tranh và tinh thần đoàn kết giữa các dân tộc.

Kể từ sau ngày giải phóng thống nhất đất nước 1975, nhờ sự chăm lo của Đảng và Nhà nước, các dân tộc thiểu số Việt Nam đã phát triển đồng đều từ Bắc chí Nam Nhiều vùng và địa phương đã có bước tiến mạnh mẽ, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần rõ rệt Hiện nay, 54 dân tộc trong cộng đồng cả nước cư trú ở 53 tỉnh, thành phố, với những đổi mới sâu sắc Trước đây, phần lớn các dân tộc thiểu số sống ở miền núi, vùng sâu, vùng xa, gặp khó khăn trong việc đi lại và sống biệt lập, chủ yếu tự cấp, tự túc Tuy nhiên, hiện nay, cuộc sống của họ đã có sự giao thoa, với quan hệ hôn nhân và hợp tác làm ăn trở nên phổ biến ở hơn 40 tỉnh, thành phố.

Việt Nam hiện nay đa dạng với 36 dân tộc anh em tại Đắk Lắk và 27 dân tộc tại Bà Rịa – Vũng Tàu Trước đây, người Tày và người H’Mông chủ yếu sống trên các vùng núi cao ở Việt Bắc, nhưng giờ đây họ đã di cư đến Tây Nguyên và Vũng Tàu Tất cả các dân tộc Việt Nam đều đoàn kết, cùng chung tay xây dựng Tổ quốc, thể hiện rõ tinh thần “Dân tộc Việt Nam là một, Tổ quốc Việt Nam là một”.

Trong những năm gần đây, Đảng ta đã ban hành nhiều nghị quyết quan trọng về công tác dân tộc, được triển khai rộng rãi và thể chế hoá bởi Chính phủ Những nghị quyết này tạo nền tảng vững chắc cho việc chỉ đạo và xử lý các cơ chế, chính sách phát triển kinh tế - xã hội, được bổ sung và đổi mới phù hợp với tình hình thực tế ở từng vùng Nhờ vào sự chỉ đạo và điều hành tích cực, hiệu quả của Chính phủ, các bộ, ngành và địa phương, công tác dân tộc đã có những chuyển biến tích cực.

Chương trình 135 (giai đoạn 1) đã được Nhà nước đầu tư 9.142,2 tỷ đồng, triển khai tại 2.410 xóm thuộc 330 huyện của 52 tỉnh, thành phố, mang lại lợi ích cho gần 5,5 triệu đồng bào dân tộc thiểu số Giai đoạn này đã hoàn thành mục tiêu tại 671 xóm đặc biệt khó khăn, trong khi 1.644 xóm đang tiếp tục được đầu tư ở giai đoạn II Nhờ đầu tư lớn, cơ sở hạ tầng vùng dân tộc và miền núi phát triển, với 6.658 công trình đường bộ được nâng cấp và xây mới, 97,42% số xóm có đường ô tô đến trung tâm Hệ thống điện sinh hoạt và các công trình thủy lợi, nước sinh hoạt cũng được xây dựng, nâng cao đời sống người dân Kinh tế vùng dân tộc thiểu số chuyển biến tích cực, với tốc độ tăng trưởng ổn định, giáo dục và đào tạo có nhiều cải cách, thu hút gần 60.000 học sinh vào hệ thống trường phổ thông dân tộc nội trú Mạng lưới y tế cơ sở và công tác thông tin, tuyên truyền cũng đạt được nhiều thành tựu, giúp cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho đồng bào Chính trị, quốc phòng, an ninh được giữ vững, củng cố khối đoàn kết các dân tộc, góp phần xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc.

Bên cạnh những mặt tích cực, những kết quả đạt được, công tác dân tộc trong những năm qua vẫn cũn những tồn tại, như:

Trong nhiều năm qua, một số chủ trương và chính sách về công tác dân tộc đã được triển khai nhưng vẫn chưa đạt được kết quả như mong đợi, với nhiều mục tiêu vẫn chưa hoàn thành Theo báo cáo của Ủy ban Dân tộc, tình trạng thiếu đói và đói giáp hạt trong đồng bào vẫn còn cao, đặc biệt là ở các vùng như Sơn.

Tỉnh Lai Châu có 3.012 hộ với 14.274 khẩu, trong khi Yên Bái có 5.174 hộ với 26.482 khẩu Tình hình di cư tự do vẫn diễn ra, đặc biệt ở Điện Biên và Yên Bái Tình trạng buôn bán ma túy và trồng cây thuốc phiện ở miền núi phía Bắc đang trở thành “điểm nóng”, với Sơn La phát hiện và thu giữ 33,897 kg heroin cùng 8.542 viên ma túy tổng hợp vào năm 2006 Tình trạng nghiện hút và tiêm chích ma túy gia tăng, trong khi gần 2.000 xã đặc biệt khó khăn và tỷ lệ hộ nghèo vẫn cao, chủ yếu ở vùng sâu, vùng xa Hiện có 333.313 hộ cần hỗ trợ nhà ở, 83.984 hộ cần đất ở, và 280.994 hộ cần nước sinh hoạt Kết quả thực hiện chương trình hỗ trợ trong 2 năm qua đạt thấp, khiến kinh tế miền núi chậm phát triển Một số vùng còn lúng túng trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế và sản xuất, với chất lượng sản phẩm hàng hóa thấp và khó tiêu thụ Công nghiệp địa phương chưa phát triển, thương mại chủ yếu tập trung ở thị xã, chưa đáp ứng nhu cầu sản xuất và đời sống của đồng bào vùng cao Tình trạng cung cấp nước sinh hoạt cho vùng cao và xây dựng các trung tâm khoa học – kỹ thuật vẫn chưa đạt được mục tiêu đề ra.

Cơ sở hạ tầng ở miền núi hiện vẫn ở tình trạng thấp kém, không đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và an ninh quốc phòng Giáo dục và đào tạo còn hạn chế, với cơ sở vật chất và trang thiết bị thiếu thốn, tỷ lệ trẻ em đến trường chưa cao, và việc dạy chữ dân tộc chưa đạt yêu cầu Đội ngũ giáo viên ở vùng sâu, vùng xa không đảm bảo cả về số lượng lẫn chất lượng, dẫn đến hiệu quả đào tạo thấp Hệ thống y tế vùng dân tộc cũng gặp nhiều bất cập, người nghèo khó tiếp cận dịch vụ y tế, trong khi công tác quản lý yếu kém và chính sách đối với cán bộ y tế chưa hợp lý Một số vùng dân tộc tiềm ẩn nguy cơ mất ổn định chính trị, xã hội như truyền đạo trái phép, di cư tự do, và tranh chấp đất đai phức tạp Các thế lực thù địch lợi dụng tình hình để kích động, chống phá, gây mất ổn định.

Địa bàn miền núi rộng lớn và hiểm trở, cùng với thiên tai và lũ lụt, gây khó khăn cho giao lưu và phát triển Nhiều vùng sâu, vùng xa chưa có hệ thống giao thông, khiến đồng bào khó tiếp cận dịch vụ thông tin, y tế và giáo dục Hạ tầng yếu kém và kinh tế chưa phát triển, phụ thuộc vào thiên nhiên, cùng với phong tục tập quán lạc hậu, ảnh hưởng lớn đến phát triển kinh tế - xã hội Một số địa phương chưa nhận thức đầy đủ về vai trò của công tác dân tộc, dẫn đến chính sách chưa phù hợp và hiệu quả thấp Công tác chỉ đạo điều hành thiếu đồng bộ, nhiều sai phạm trong thực hiện chính sách dân tộc và chương trình dự án Hệ thống chính trị, đặc biệt là cấp cơ sở, còn yếu kém về năng lực và thiếu cán bộ biết tiếng dân tộc, dẫn đến việc chưa nắm bắt được nguyện vọng của đồng bào Công tác phát triển Đảng ở nông thôn chậm, và nhiều tổ chức chính trị - xã hội hoạt động chưa hiệu quả Hệ thống tổ chức cán bộ làm công tác dân tộc chưa hoàn chỉnh và chưa đáp ứng yêu cầu, trong khi các vấn đề bức xúc về cán bộ chưa được giải quyết triệt để Công tác cán bộ cần đổi mới để phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ cách mạng hiện nay.

Tư tưởng ỷ lại và cơ chế xin cho vẫn còn ăn sâu trong tư duy của một bộ phận cán bộ, đảng viên, dẫn đến việc nhiều địa phương chưa phát huy được nội lực và tinh thần tự lực, tự cường của nhân dân.

Chính sách cho vùng dân tộc và miền núi hiện có nhiều nhưng việc tổ chức thực hiện còn thiếu đồng bộ và chưa hiệu quả, dẫn đến khó khăn trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội Nhiều chính sách vẫn trùng lặp về đối tượng và địa bàn, trong khi việc xây dựng và đánh giá chính sách chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn Kiểm tra, thanh tra và giám sát thực hiện chính sách chưa được thực hiện sâu sát, và việc xử lý vi phạm còn chậm trễ, thiếu tính răn đe Hơn nữa, nguồn đầu tư cho phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc vẫn hạn chế, khiến một số chính sách không đủ vốn để triển khai.

2 Giải pháp khắc phục chính sách dân tộc trong giai đoạn hiện nay.

Mặc dù đã đạt được nhiều thành quả trong chính sách dân tộc, nhưng từ khi chuyển sang cơ chế thị trường, nhiều vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi vẫn chưa kịp phát triển do những khó khăn lịch sử và hiện tại Tài nguyên cạn kiệt, vốn đầu tư hạn chế và dân số tăng nhanh đã dẫn đến đời sống khó khăn, đặc biệt ở các khu vực sâu xa Hàng vạn người dân từ các tỉnh miền núi phía Bắc và miền Trung đã di cư ồ ạt lên Tây Nguyên và các tỉnh phía Nam, gây ra tình trạng phá rừng và tranh chấp đất đai Để khắc phục những hạn chế này và phát huy những thành tích đã đạt được, các địa phương cần huy động mọi nguồn lực trong dân, tiếp tục thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước.

Ngày đăng: 18/06/2022, 14:24

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Viện nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh biờn niờn tiểu sử, Nxb, Chớnh trị quốc gia, Hà Nội, 1993, tập 1 Khác
2. Hồ Chí Minh, biên niên tiểu sử, sách đó dẫn, tập 1 Khác
3. Hồ Chớ Minh, biờn niờn tiểu sử, sỏch đó dẫn, tập 2 Khác
4. Viện nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh, toàn tập, Nxb chớnh trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tập 12 Khác
5. Viện nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh, toàn tập, Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, tập 3 Khác
6. Hồ Chí Minh, toàn tập, sách đó dẫn, tập 3 Khác
7. Nhận thức về dõn vấn đề dân tộc trong tỡnh hỡnh mới, Viện CNXHKH Khác
8. Tạp chí chuyên đề của Uỷ ban trung ương mặt trận tổ quốc Việt Nam Khác

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w