1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

Quá trình đổi mới quan điểm của đảng về công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta trong thời kỳ đổi mới từ 1986 đến nay

37 5 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Quá Trình Đổi Mới Quan Điểm Của Đảng Về Công Nghiệp Hoá, Hiện Đại Hoá Ở Nước Ta Trong Thời Kỳ Đổi Mới Từ 1986 Đến Nay
Tác giả Nguyễn Hoàng Hải Anh, Trần Thị Ánh, Ngô Linh Chi, Phạm Thị Thuỳ Dung, Bùi Ánh Dương, Trần Thành Đạt, Lê Công Đăng, Nguyễn Thị Thuý Hà, Nguyễn Thị Minh Hảo
Người hướng dẫn TS. Lê Thị Hồng Thuận
Trường học Trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
Chuyên ngành Lịch Sử Đảng Cộng Sản Việt Nam
Thể loại bài tập lớn
Định dạng
Số trang 37
Dung lượng 1,44 MB

Cấu trúc

  • I, Khái niệm Công nghiệp hoá, Hiện đại hoá (0)
    • 1. Cơ sở lý luận (0)
    • 2. Cơ sở thực tiễn (10)
      • 2.1. Quốc tế (10)
      • 2.2. Trong nước (13)
        • 2.2.1. Về mặt thuận lợi (13)
        • 2.2.2. Về mặt khó khăn, thách thức (13)
    • 1. Giai đoạn 1986-1996 đổi mới toàn diện, đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng (15)
      • 1.1. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI và bước đầu thực hiện đổi mới (1986 - 1991) (15)
      • 1.2. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII và thực hiện đường lối đổi mới (1991-1996) (15)
      • 1.3. Tiếp tục công cuộc đổi mới, đẩy mạnh CNH-HĐH (1996 - nay) (16)
        • 1.3.2. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (2001-2006) và Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X (2006-2011), tiếp tục thực hiện công cuộc đẩy mạnh CNH- HDH (18)
        • 1.3.4. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI (2011-2016) (18)
        • 1.3.5. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII (2016-2020) (19)
        • 1.3.6. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII (2021-2025) (19)
    • 2. So sánh sự giống và khác nhau trong đường lối của Đảng trước và sau thời kì đổi mới (20)
      • 2.1. Giống nhau (21)
      • 2.2. Khác nhau (21)
    • 1. Thành tựu của sự nghiệp đổi mới (23)
    • 2. Một số hạn chế (27)
    • 3. Nguyên nhân (29)
      • 3.1. Về khách quan (29)
      • 3.2. Về chủ quan (29)
    • 4. Đề ra phương hướng tiếp theo của Đảng trong quá trình công nghiệp hoá – hiện đại hoá (30)
    • 5. Liên hệ vai trò, trách nhiệm đặt ra cho thế hệ trẻ, thanh thiếu niên hiện nay (34)
      • 5.1. Vai trò (34)
      • 5.2. Trách nhiệm (35)

Nội dung

Khái niệm Công nghiệp hoá, Hiện đại hoá

Cơ sở thực tiễn

Cuộc cách mạng khoa học công nghệ từ giữa thế kỷ XX đã tạo ra những lực lượng sản xuất mới và mạnh mẽ, thúc đẩy nhiều quá trình hiện đại trong xã hội Sự chuyển biến này đã cấu trúc lại các nền kinh tế, thay đổi kết cấu hạ tầng sản xuất, và gia tăng xu thế toàn cầu hóa trong nhiều lĩnh vực quan trọng, ảnh hưởng sâu sắc đến các thiết chế xã hội, văn hóa và lối sống của các dân tộc.

Trong các ngành khoa học cơ bản như Toán học, Vật lí, Hóa học và Sinh học, đã có nhiều phát minh quan trọng Nổi bật là sự ra đời của cừu Đôli vào tháng 3 năm 1997 thông qua phương pháp sinh sản vô tính Ngoài ra, việc lập "Bản đồ gen người" vào tháng 6 năm 2000 và giải mã hoàn chỉnh bản đồ gen người vào tháng 4 năm 2003 cũng đánh dấu những bước tiến lớn trong nghiên cứu di truyền học.

– Trong lĩnh vực công nghệ đã xuất hiện những phát minh quan trọng, những thành tựu to lớn:

+ Những công cụ sản xuất mới (máy tính điện tử, máy tự động…)

+ Nguồn năng lượng mới (năng lượng mặt trời, năng lượng nguyên tử…)

Vật liệu mới như chất pôlime, cùng với các vật liệu siêu sạch, siêu cứng, siêu bền và siêu dẫn, đang mở ra nhiều cơ hội trong các lĩnh vực công nghiệp và xây dựng Đồng thời, công nghệ sinh học, bao gồm công nghệ di truyền, công nghệ tế bào, công nghệ vi sinh và công nghệ enzym, đang thúc đẩy cuộc "cách mạng xanh" trong nông nghiệp, giúp nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm nông nghiệp bền vững.

+ Trong lĩnh vực thông tin liên lạc và giao thông vận tải (cáp sợi thuỷ tinh quang dẫn, máy bay siêu âm khổng lồ, tàu hoả tốc độ cao)

+ Chinh phục vũ trụ (vệ tinh nhân tạo, du hành vũ trụ).

Công nghệ thông tin đã dẫn đến sự ra đời của mạng thông tin toàn cầu (Internet), được áp dụng rộng rãi trong tất cả các lĩnh vực kinh tế và xã hội, đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong sự phát triển của nền văn minh nhân loại, tạo nên kỷ nguyên “văn minh thông tin”.

Vào đầu thập niên 80 của thế kỷ XX, thế giới đối mặt với nhiều vấn đề toàn cầu như bảo vệ hòa bình, ngăn chặn chiến tranh hạt nhân, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, bùng nổ dân số, bệnh tật hiểm nghèo và sự phân hóa giàu nghèo Những thách thức này không thể được giải quyết bởi một quốc gia đơn lẻ, mà cần có nỗ lực chung của toàn nhân loại và sự hợp tác đa phương giữa các quốc gia.

‘’Về cương lĩnh đổi mới và phát triển’’ (NxbThông tin lí luận, Hà Nội.1991, tr 166):

Giải quyết các vấn đề này là điểm hội tụ, nơi các dân tộc gặp gỡ vì số phận và tương lai của chính họ cũng như của toàn nhân loại.

Cuối thập niên 80 của thế kỷ XX, sau hơn 70 năm tồn tại, hệ thống xã hội chủ nghĩa đã rơi vào khủng hoảng toàn diện và sâu sắc Để đối phó với thử thách này, nhiều quốc gia xã hội chủ nghĩa đã áp dụng những biện pháp khác nhau nhằm thoát khỏi cuộc khủng hoảng.

Trung Quốc, một nước xã hội chủ nghĩa láng giềng, đã thực hiện công cuộc “cải cách, mở cửa” từ năm 1978, mang lại những thành tựu kinh tế rõ rệt Những thành tựu này đã thu hút sự quan tâm của nhiều quốc gia, bao gồm cả Việt Nam.

VIDEO: https://www.youtube.com/watch?v=QS6oHq2cZRw

Cuộc cải tổ ở Liên Xô, một cường quốc xã hội chủ nghĩa hàng đầu, đã diễn ra với nhiều diễn biến phức tạp và khó khăn Sự thất bại của công cuộc cải tổ này không chỉ dẫn đến sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu, mà còn mang lại bài học quan trọng cho Việt Nam Việt Nam cần nhận thức rằng không thể tiến hành cải tổ theo cách "phủ định sạch trơn" và phải giải quyết một cách biện chứng mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị.

Thành công của các nước công nghiệp mới (NIC) như Singapore ở Đông Nam Á đã cung cấp những gợi ý quan trọng cho các quốc gia có nền kinh tế nông nghiệp và văn hóa phương Đông Động lực phát triển của các nước này là phát huy nội lực, khai thác tiềm năng quốc gia, thực hiện cơ chế thị trường, mở cửa nền kinh tế, tập trung vào xuất khẩu và thu hút đầu tư nước ngoài.

- Thứ năm , khu vực Châu Á – Thái Bình Dương đang có những bước phát triển đầy năng động

Bên cạnh đó hiện nay, trong quan hệ quốc tế nổi bật xu thế hoà bình, ổn định hợp tác phát triển, đấu tranh vì hoà bình.

- Những thành tựu của công cuộc đổi mới tạo ra thế và lực để chuyển sang giai đoạn phát triển cao hơn.

Trong bối cảnh hòa bình và ổn định của khu vực, sự phát triển năng động của Châu Á – Thái Bình Dương cùng với xu thế quốc tế hóa nền kinh tế thế giới đang thúc đẩy sự hợp tác và hội nhập toàn cầu Điều này mở ra cơ hội lớn cho đất nước chúng ta trong việc mở rộng khả năng hội nhập cộng đồng thế giới.

2.2.2 Về mặt khó khăn, thách thức:

Trong giai đoạn 1976-1986, Việt Nam đã xây dựng mô hình chủ nghĩa xã hội với những bước đi nhanh chóng nhưng thiếu bền vững Cơ chế kế hoạch hóa tập trung cùng với việc chỉ công nhận hai thành phần kinh tế (quốc doanh và tập thể) đã kìm hãm sức sản xuất, khiến nhiều tiềm năng xã hội không được phát huy và các vấn đề thiết yếu trong đời sống nhân dân không được giải quyết Kết quả là đất nước không có sự thay đổi đáng kể và thiếu bứt phá, dẫn đến việc nhân dân kém nhiệt tình lao động và mất đi động lực sáng tạo Hơn nữa, tình trạng thiếu hụt, mất cân đối và nguy cơ bất ổn định gia tăng, tạo ra căng thẳng và làm giảm lòng tin của người dân.

Cuối thập niên 70 và đầu thập niên 80 của thế kỷ XX, đất nước ta rơi vào khủng hoảng kinh tế - xã hội, dẫn đến sự suy giảm niềm tin vào chủ nghĩa xã hội.

Nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa, tham nhũng, quan liêu và diễn biến hòa bình từ thế lực thù địch đang tác động lẫn nhau, tạo thành một mối đe dọa nghiêm trọng Tất cả những nguy cơ này đều cần được xem xét một cách nghiêm túc, vì không thể coi nhẹ bất kỳ nguy cơ nào.

- Thứ ba, Nước ta lại bị các thế lực thù địch bao vây, cấm vận; chiến tranh biên giới Tây

Nam và biên giới phía Bắc gây ra…

III, Quá trình đổi mới quan điểm của Đảng về Công nghiệp hoá, hiện đại hoá

Từ góc nhìn lịch sử, có thể khẳng định rằng Đảng ta đã nhất quán trong việc đánh giá tầm quan trọng của công cuộc công nghiệp hoá đối với đất nước Tuy nhiên, do những yếu tố chủ quan như nóng vội và duy ý chí, cùng với sự hạn chế về trình độ nhận thức, chúng ta đã xác định sai bước đi trong một thời gian dài Cụ thể, đã có chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hoá mà chưa có đủ các tiền đề cần thiết, như Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI đã chỉ ra.

Giai đoạn 1986-1996 đổi mới toàn diện, đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng

1.1 Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI và bước đầu thực hiện đổi mới (1986 -

Tại Đại hội VI vào tháng 12 năm 1986, Đảng ta đã chỉ ra những sai lầm và khuyết điểm trong quá trình phát triển, từ đó xác định nhiệm vụ quan trọng là đổi mới nhận thức và lý luận nhằm tổ chức thực tiễn cho công nghiệp hóa (CNH).

VI của Đảng đã nhấn mạnh tầm quan trọng của việc thực hiện ba Chương trình mục tiêu trong công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, bao gồm lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, trong những năm còn lại của giai đoạn đầu của thời kỳ quá độ.

Sự thay đổi trong lựa chọn mô hình chiến lược công nghiệp hóa (CNH) hiện nay là chuyển từ mô hình hướng nội (thay thế nhập khẩu) sang mô hình hỗn hợp, trong đó vừa hướng về xuất khẩu vừa thay thế nhập khẩu Mô hình này đang được áp dụng phổ biến và đạt nhiều thành công tại các nước Châu Á.

1.2 Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII và thực hiện đường lối đổi mới (1991-

Lý luận mới về công nghiệp hóa (CNH) đã có sự chuyển biến quan trọng, khi Đại hội lần đầu tiên khẳng định rằng việc công nghiệp hóa đất nước theo hướng hiện đại cần gắn liền với phát triển nông nghiệp toàn diện Đây được xem là nhiệm vụ trung tâm nhằm từng bước xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội.

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh và quản lý kinh tế, xã hội, từ việc sử dụng lao động thủ công sang ứng dụng phổ biến sức lao động kết hợp với công nghệ và phương pháp tiên tiến Quá trình này dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học - công nghệ, nhằm tạo ra năng suất lao động xã hội cao.

Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII của Đảng vào tháng 1 năm 1994 đã làm rõ và bổ sung lý luận về công nghiệp hoá Đảng khẳng định công nghiệp hoá là nhiệm vụ trung tâm, đóng vai trò quan trọng hàng đầu trong việc thoát khỏi nguy cơ tụt hậu so với các nước xung quanh, đồng thời duy trì ổn định chính trị, xã hội và bảo vệ độc lập, chủ quyền, hướng tới phát triển xã hội chủ nghĩa.

Hội nghị nhấn mạnh rằng công nghiệp hoá không nên lặp lại những sai lầm trong quá khứ, mà cần phải xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội một cách bền vững Quá trình này không chỉ đơn thuần là tăng tốc độ và tỷ trọng sản xuất công nghiệp, mà còn là sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn liền với đổi mới công nghệ, nhằm tạo nền tảng cho sự tăng trưởng nhanh, hiệu quả và bền vững cho nền kinh tế quốc dân.

Khái niệm công nghiệp hoá đã được mở rộng với những nội dung mới, không chỉ tập trung vào việc tăng tỷ trọng và tốc độ sản xuất công nghiệp mà còn nhấn mạnh sự đổi mới công nghệ Công nghệ mới và tiên tiến được coi là nền tảng cho sự tăng trưởng nhanh, nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất Đặc biệt, công nghiệp hoá hiện nay gắn liền với sự phát triển bền vững của toàn bộ đời sống kinh tế - xã hội.

1.3 Tiếp tục công cuộc đổi mới, đẩy mạnh CNH-HĐH (1996 - nay)

1.3.1 Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII và bước đầu thực hiện công cuộc đẩy mạnh CNH-HDH (1996-2001)

Tại Đại hội VIII (1996), Đảng ta đã khẳng định Việt Nam đã vượt qua khủng hoảng kinh tế - xã hội, hoàn thành nhiệm vụ giai đoạn đầu thời kỳ quá độ và bắt đầu chuyển sang thời kỳ mới, tập trung vào công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước Mục tiêu của quá trình này là xây dựng Việt Nam thành một nước công nghiệp với cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, và quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất Đến năm 2020, yêu cầu đặt ra là nỗ lực phấn đấu để đất nước cơ bản trở thành một nước công nghiệp, với đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng và an ninh vững chắc, cùng một xã hội công bằng và văn minh.

Quan điểm về CNH trong thời kì mới gồm:

1) Giữ vững độc lập tự chủ đi đôi với mở rộng hợp tác quốc tế, đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ đối ngoại Dựa vào nguồn lực trong nước và chính đi đôi với tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài

2) CNH, HĐH là sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo

3) Lấy phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững

4) Khoa học và công nghệ là động lực của CNH, HĐH Kết hợp công nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại; tranh thủ đi nhanh vào hiện đại ở những khâu quyết định

5) Lấy hiệu quả kinh tế – xã hội làm tiêu chuẩn cơ bản để xác định phương án phát triển, lựa chọn dự án đầu tư và công nghệ

6) Kết hợp kinh tế với quốc phòng – an ninh

Nội dung của công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) được điều chỉnh nhằm tập trung vào nông nghiệp như một khâu đột phá, coi nông nghiệp kết hợp với công nghiệp chế biến là lĩnh vực chiến lược hàng đầu.

Công nghiệp hoá được định hình nhằm tận dụng lợi thế sẵn có của đất nước, đồng thời nắm bắt cơ hội phát triển các ngành ưu tiên theo xu hướng hiện đại.

1.3.2 Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (2001-2006) và Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X (2006-2011), tiếp tục thực hiện công cuộc đẩy mạnh CNH-HDH

Tại Đại hội IX (2001), từ nhận thức bối cảnh mới khi thế giới bước vào thế kỷ XXI với

Ba xu hướng nổi bật hiện nay, bao gồm cách mạng khoa học công nghệ, kinh tế tri thức và toàn cầu hóa, đã được Đảng xác định là nền tảng cho đường lối công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong 10 năm đầu thế kỷ XXI Mục tiêu chính là "phát triển kinh tế, công nghiệp hóa, hiện đại hóa" nhằm đưa đất nước thoát khỏi tình trạng kém phát triển.

Tại Đại hội X (2006), Đảng ta đã xác định rõ mục tiêu tranh thủ cơ hội từ bối cảnh quốc tế và khai thác tiềm năng, lợi thế của đất nước nhằm rút ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) Định hướng này nhấn mạnh vai trò quan trọng của kinh tế tri thức trong phát triển kinh tế, khẳng định kinh tế tri thức là yếu tố then chốt cho sự thành công của CNH, HĐH theo hướng xã hội chủ nghĩa.

=> Điểm mới trong lý luận CNH của Đảng ta thời kỳ này là

So sánh sự giống và khác nhau trong đường lối của Đảng trước và sau thời kì đổi mới

- Nhiệm vụ: là nhiệm vụ trọng tâm trong suốt thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta

- Mục tiêu: xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho CNXH, nâng cao đời sống vật chất, văn hóa tinh thần cho nhân dân

Tiêu chí Trước đổi mới Sau đổi mới

Nóng vội, giản đơn, ham làm nhanh không quan tâm hiệu quả ktxh Đề ra chủ trương, kế hoạch định hướng Quan tâm hiệu quả kinh tế xã hội

Cơ chế kế hoạch hóa tập trung của nhà nước được thực hiện bằng cơ chế thị trường

Mô hình Khép kín Hướng ngoại: mở rộng hội nhập Kinh tế thị trường XHCN

Nhà nước và các doanh nghiệp NN Toàn dân và thành phần kinh tế xã hội

- Tại hội nghị trung ương lần thứ 1 khóa III có 4 phương hướng:

1 Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý

2 Kết hợp chặt chẽ phát triển công nghiệp với phát triển nông nghiệp

3 Ra sức phát triển công nghiệp nhẹ song song với việc ưu tiên phát triển công nghiệp nặng

- Đại hội XI nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội

1 Giữ vững độc lập tự chủ đi đôi với mở rộng hợp tác quốc tế, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại

2 CNH-HĐH là sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành phần kinh tế, trong đó Nhà nước kinh tế giữ vai trò chủ đạo

4 Ra sức phát triển công nghiệp trung ương đồng thời đẩy mạnh phát triển công nghiệp địa phương

-Tại đại hội IV ( tháng 12/1976) đề ra

-Tại đại hội V ( tháng 3/1982) lấy nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu

3 Lấy phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự nghiệp và bền vững

4 Khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực của CNH-HĐH

5 Lấy hiệu quả kinh tế xã hội làm tiêu chuẩn cơ bản để xác định phương án phát triển, lựa chọn dự án đầu tư và công nghệ

6 Kết hợp kinh tế với quốc phòng - an ninh

Không đề cập 5 quan điểm

- CNH gắn liền với HĐH và CNH, HDH gắn với phát triển tri thức

- CNH-HĐH gắn với phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập phát triển kinh tế quốc tế

- Lấy phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững

- Khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực của CNH-HĐH

Phát triển nhanh chóng, hiệu quả và bền vững là mục tiêu quan trọng, kết hợp tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội và công bằng Đồng thời, việc bảo vệ môi trường tự nhiên và bảo tồn đa dạng sinh học cũng cần được chú trọng để đảm bảo sự phát triển toàn diện và lâu dài.

Kết quả CNH ưu tiên ( Bổ sung )

Văn hóa giáo dục : hàng chục trường ĐH, CĐ ra đời Đào tạo xấp xỉ 43 vạn người Tăng 19 lần so với 1960.

-Kinh tế: số DN tăng 16,5 lần Nhiều khu công nghiệp lớn hình thành xuất hiện ngành công nghiệp nặng

-Một số lĩnh vực khác cũng bắt đầu phát triển.

Nước ta đã thực hiện đường lối đổi mới, dẫn đến sự phát triển vượt bậc trong các lĩnh vực công nghiệp và xây dựng Trong bối cảnh xuất phát điểm thấp và bị ảnh hưởng nặng nề bởi chiến tranh, những kết quả đạt được có ý nghĩa quan trọng, tạo nền tảng cho sự phát triển nhanh chóng của đất nước trong các giai đoạn tiếp theo.

- Cơ sở kỹ thuật được tăng cường, khả năng tự chủ của nền kinh tế tăng cao

- Cơ cấu chuyển dịch theo hướng CNH- HĐH đạt được những kết quả quan trọng Đưa nền kinh tế phát triển cao

Công cuộc đổi mới là một quá trình cách mạng sâu sắc và toàn diện, thể hiện sự nỗ lực của toàn Đảng và toàn dân nhằm đạt được những mục tiêu lớn lao.

Việt Nam đã đạt được những thành tựu lịch sử quan trọng, thể hiện khát vọng "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh" Tuy nhiên, đất nước vẫn đối mặt với nhiều vấn đề phức tạp và những hạn chế cần được giải quyết để thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng và bền vững.

IV, Đánh giá công cuộc đổi mới của Đảng về Công nghiệp hoá, hiện đại hoá

Thành tựu của sự nghiệp đổi mới

Công nghiệp hóa không những trở thành nhận thức mà còn trở thành hành động mạnh mẽ thôi thúc mỗi người dân, mỗi doanh nghiệp mỗi ngành kinh tế

Kinh tế Việt Nam đã có sự tăng trưởng mạnh mẽ với tốc độ GDP bình quân đạt 7,5% trong giai đoạn 2001-2005 và 7% trong giai đoạn 2006-2010 Sự ổn định của kinh tế vĩ mô và kiểm soát lạm phát đã góp phần nâng cao thực lực nền kinh tế.

2010 tăng trưởng 7,26% /năm, đạt mục tiêu chiến lược đã đề ra; GDP 5 năm 2011-2015 bình quân 5,9%; năm 2018 đạt 6,7%

Trong giai đoạn 1986-1991, Việt Nam trải qua tình trạng lạm phát phi mã, với mức lạm phát lên tới 402,1% mỗi năm trong giai đoạn 1986-1988 Từ năm 1993 đến 2003, mức lạm phát trung bình hàng năm của quốc gia này duy trì ở mức 6%.

Từ năm 2004 đến 2011, lạm phát tại Việt Nam đã trải qua nhiều biến động lớn, với tỷ lệ dao động từ 6,5%/năm đến gần 20% vào năm 2008 Kể từ năm 2012, lạm phát đã có xu hướng ổn định, duy trì dưới mức 7%, cụ thể là 6,81% vào năm 2012 và 6,04% vào năm 2013.

Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân năm

Việt Nam nổi bật với tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh chóng, đứng đầu trong khu vực và trên toàn cầu Quốc gia này đã vươn lên thành một nước đang phát triển với thu nhập trung bình, khẳng định vị thế của mình trên bản đồ kinh tế thế giới.

Năm 2010, GDP) đạt 101,6 tỷ USD, gấp 3,26 lần so với năm 2000 (31,2 tỷ USD) Năm

Từ năm 2000 đến 2010, GDP bình quân đầu người của Việt Nam đã tăng từ 1.047 USD lên 1.168 USD, gấp khoảng 3 lần so với năm 2000 Chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam trong giai đoạn 2007-2008 đạt 0,733, xếp hạng 100/177 quốc gia, thuộc nhóm trung bình cao toàn cầu Đến năm 2018, GDP tăng trưởng 7,08%, với thu nhập bình quân đầu người vượt ngưỡng 2.500 USD.

Cơ sở vật chất và hạ tầng đô thị đã được đầu tư xây dựng đáng kể, đặc biệt là trong lĩnh vực giao thông với các tuyến đường bộ, sân bay, bến cảng và cầu Ngành công nghiệp năng lượng cũng đã phát triển mạnh mẽ, với nhiều dàn khoan dầu khí và các nhà máy thủy điện lớn như Hòa Bình, Sơn La, Trị An, Tuyên Quang, Lai Châu, cùng nhiều nhà máy nhiệt điện khác.

Phát triển các khu công nghiệp tập trung, khu công nghiệp vừa và nhỏ, cùng với các cụm và điểm công nghiệp, đã tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp mở rộng sản xuất Sự phát triển này không chỉ thúc đẩy sản xuất hàng hóa xuất khẩu mà còn góp phần cải thiện hạ tầng và bảo vệ môi trường.

Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế đang diễn ra theo hướng tích cực, với sự giảm tỷ trọng của ngành nông lâm ngư nghiệp và sự gia tăng nhanh chóng của các ngành công nghiệp, xây dựng và dịch vụ.

Môi trường đầu tư được cải thiện, đa dạng hóa được nhiều nguồn vốn đầu tư cho phát triển.

Khi bắt đầu giai đoạn đổi mới, Đảng và Nhà Nước ta đã cải thiện khung pháp lý về đầu tư nước ngoài, tạo ra môi trường thuận lợi cho các nhà đầu tư Các thủ tục hành chính đã được cải cách để trở nên đơn giản và hiệu quả hơn, đồng thời chú trọng đầu tư vào cơ sở hạ tầng kỹ thuật Điều này không chỉ tạo điều kiện cho nhà đầu tư nước ngoài mà còn hướng tới phát triển công nghiệp hỗ trợ, tập trung vào các ngành và sản phẩm trọng điểm.

Sau 30 năm đổi mới, dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Việt Nam đã không ngừng tăng Năm 2010, vốn đầu tư thực hiện đạt 11 tỷ USD, tới năm 2015 đã đạt 14,5 tỷ USD, và tới năm 2016 đã đạt 15,8 tỷ USD Tính đến cuối năm 2017, Việt Nam đã thu hút được trên 25.000 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài với tổng mức đầu tư đăng ký hơn 333 tỷ USD Đến nay, 129 quốc gia/vùng lãnh thổ đã đầu tư vào Việt Nam Các dự án FDI đã hiện diện tại 63/63 địa phương, vốn FDI cũng đã được đầu tư vào 19/21 ngành nghề sản xuất kinh doanh của Việt Nam (Bộ Tài chính, 2018) Theo số liệu của Cục Đầu tư nước ngoài - Bộ Kế hoạch và Đầu tư, năm 2019 vốn FDI vào Việt Nam đạt 38,95 tỷ USD, tăng 7,2% so với năm 2018 Trong đó, số dự án đăng ký góp vốn mới được cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư là 3883 dự án với giá trị 16,75 tỷ USD, đưa Việt Nam trở thành một trong những quốc gia hấp dẫn nhà đầu tư nước ngoài.

Về đối tác đầu tư:

Tính đến cuối năm 2020, Việt Nam đã thu hút 377 tỷ USD vốn đăng ký từ 33.148 dự án đầu tư quốc tế, theo Tổng cục Thống kê Trong số đó, có 10 quốc gia cam kết đầu tư trên 10 tỷ USD, với Hàn Quốc dẫn đầu với 69,3 tỷ USD và 9.149 dự án, chiếm 18,3% tổng vốn đầu tư Nhật Bản đứng thứ hai với 60,1 tỷ USD và 4.674 dự án, chiếm gần 15,9% Singapore, Đài Loan, Hồng Kông và Trung Quốc lần lượt chiếm 14,8%, 8,9%, 6,6% và 4,7% tổng vốn đầu tư vào Việt Nam.

Một số hạn chế

Công cuộc đổi mới đã chỉ ra những hạn chế cần khắc phục, đặc biệt trong công tác tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận Việc làm rõ các vấn đề trong quá trình đổi mới là cần thiết để định hướng thực tiễn và cung cấp cơ sở khoa học cho việc hoạch định đường lối của Đảng cũng như chính sách và pháp luật của Nhà nước Đồng thời, lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội cũng cần được tổng kết thực tiễn để tiếp tục làm sáng tỏ.

Kinh tế đang phát triển nhưng chưa bền vững và chưa tương xứng với tiềm năng cũng như nguồn lực hiện có Trong 10 năm qua, tốc độ tăng trưởng kinh tế đã giảm sút và quá trình phục hồi diễn ra chậm chạp Sự phát triển này thiếu bền vững không chỉ về mặt kinh tế mà còn ảnh hưởng đến văn hóa, xã hội và môi trường.

Tỷ lệ lạm phát đã giảm đáng kể, nhưng vẫn còn biên độ dao động lớn Từ mức lạm phát cao nhất gần 800% vào năm 1986, tỷ lệ này đã giảm xuống khoảng 3% vào năm 2003 Tuy nhiên, trong giai đoạn từ 2004 đến 2011, tốc độ lạm phát lại không ổn định, dao động từ 6,5% đến gần 20% vào năm 2008.

Chất lượng và hiệu quả lao động xã hội của Việt Nam hiện vẫn ở mức thấp so với các quốc gia trong khu vực và toàn cầu Theo Báo cáo Năng lực cạnh tranh toàn cầu năm 2018 của Diễn đàn Kinh tế Thế giới, Việt Nam xếp hạng 77, giảm 3 bậc so với năm 2017, cho thấy năng lực cạnh tranh quốc gia chưa đạt yêu cầu Trong khu vực ASEAN, vị trí của Việt Nam cũng chỉ ở mức trung bình, cần cải thiện để nâng cao năng suất lao động và khả năng cạnh tranh.

7, sau rất nhiều nước như Singapore, Thái Lan, Brunei, Malaysia,…

 Việc tạo nền tảng để cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại không đạt được mục tiêu đề ra.

Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2016 - 2020 đặt ra mục tiêu tăng trưởng GDP bình quân hàng năm đạt từ 6,5% đến 7%, với GDP bình quân đầu người vào năm 2020 dự kiến đạt khoảng 3.200 - 3.500 USD Đồng thời, tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ trong GDP cũng được kỳ vọng sẽ chiếm khoảng 85% vào năm 2020, và tỷ lệ đô thị hóa sẽ đạt từ 38% đến 40%.

Vào năm 2020, cơ cấu nền kinh tế cho thấy khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 33,72%, trong khi khu vực dịch vụ chiếm 41,63% Mức GDP bình quân đầu người đạt 2.785 USD.

Những hạn chế, khuyết điểm trên đây có cả nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan, trong đố nguyên nhân chủ quan là chủ yếu.

Video tổng kết: https://www.youtube.com/watch?v=iI_F1SWB4nU

Nguyên nhân

3.1 Về khách quan: Đổi mới là một sự nghiệp to lớn, toàn diện, lâu dài, rất khó khăn, phức tạp, chưa có tiền lệ trong lịch sử

Tình hình thế giới và khu vực đang đối mặt với nhiều thách thức, bao gồm sự chống phá mạnh mẽ từ các thế lực thù địch và phản động, cũng như những cơ hội chính trị không thuận lợi.

Công tác nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn chưa được chú trọng đúng mức, dẫn đến sự đổi mới tư duy lý luận chưa kiên quyết và mạnh mẽ, thậm chí còn lạc hậu so với sự chuyển biến nhanh chóng của thực tiễn Dự báo tình hình thường chậm và thiếu chính xác, ảnh hưởng đến chất lượng các quyết sách và đường lối của Đảng Nhận thức và giải quyết các mối quan hệ lớn vẫn còn hạn chế, cùng với sự đổi mới thiếu đồng bộ và lúng túng trong một số lĩnh vực.

Nhận thức và phương pháp chỉ đạo trong việc thực hiện các chủ trương, nghị quyết của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước vẫn còn nhiều hạn chế Quyền hạn và trách nhiệm, đặc biệt là của người đứng đầu, chưa được quy định rõ ràng, dẫn đến thiếu cơ chế kiểm soát quyền lực Nhiều nghị quyết đúng đắn không được triển khai tích cực, kết quả đạt được thấp Một số chính sách chưa phù hợp với thực tiễn và chậm được điều chỉnh, bổ sung.

Quản lý và giáo dục cán bộ, đảng viên, đặc biệt là lãnh đạo chủ chốt, chưa được chú trọng đúng mức, dẫn đến hiệu quả thấp và không đáp ứng yêu cầu Điều này gây ra sự thiếu thống nhất trong nhận thức và hành động của Đảng trước những diễn biến phức tạp Hơn nữa, việc đánh giá và bố trí cán bộ còn mang tính nể nang, cục bộ, thiếu quan tâm đến cơ chế và chính sách nhằm trọng dụng người có đức, có tài.

Quá trình quản lý đầu tư trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa đang gặp một số tồn tại hạn chế Đầu tiên, quyết định đầu tư và lựa chọn phương án thường chạy theo phong trào, thiếu tính bền vững Thứ hai, chất lượng thi công xây dựng thường thấp, kéo dài thời gian thực hiện và chi phí cao Cuối cùng, tình trạng lãng phí và thất thoát trong xây dựng vẫn phổ biến và chưa được khắc phục triệt để.

Đề ra phương hướng tiếp theo của Đảng trong quá trình công nghiệp hoá – hiện đại hoá

Trong Cương lĩnh (Bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng ta xác định rằng từ 2011 đến 2050, một trong tám nhiệm vụ cơ bản là đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức và bảo vệ tài nguyên, môi trường Mục tiêu chính của quá trình này là xây dựng nước ta thành một quốc gia công nghiệp với cơ sở vật chất và kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, và quan hệ sản xuất tiến bộ Điều này nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần, đảm bảo quốc phòng an ninh vững chắc, hướng tới một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng và văn minh.

Trong quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa, cần chú trọng vào ba vấn đề quan trọng: thể chế, nguồn lực công nghệ và con người.

- Về vấn đề thể chế, cần xây dựng chính sách phát triển công nghiệp quốc gia

Cần cụ thể hóa và triển khai các nhiệm vụ quan trọng như: chính sách phân bố không gian và chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp; phát triển các ngành công nghiệp ưu tiên; tạo lập môi trường đầu tư và kinh doanh thuận lợi; phát triển doanh nghiệp công nghiệp; khai thác và sử dụng hiệu quả tài nguyên, khoáng sản; đồng thời chú trọng bảo vệ môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu trong quá trình phát triển công nghiệp.

Bộ Kế hoạch và Đầu tư đang xây dựng chính sách phân bổ không gian tập trung vào các vùng, địa phương có tiềm năng phát triển, đặc biệt là những nơi đã hình thành cụm liên kết công nghiệp hoặc có lợi thế về giao thông, địa kinh tế, tài nguyên, lao động và logistic Mục tiêu là tạo ra động lực tăng trưởng cho nền kinh tế Đồng thời, bộ cũng tổng kết công tác quản lý hoạt động của các cụm liên kết ngành công nghiệp, khu công nghiệp và khu công nghệ cao Dựa trên những kết quả này, Bộ sẽ phối hợp với các bộ, ngành để xây dựng tiêu chí và phương pháp đánh giá hiệu quả hoạt động của các cụm liên kết này.

Bộ Công Thương đang triển khai cơ chế và chính sách thí điểm xây dựng cụm liên kết ngành công nghiệp tại một số địa phương Các sản phẩm ưu tiên bao gồm ô tô, máy nông nghiệp, thiết bị công trình, thiết bị công nghiệp, và thiết bị điện điện tử, cùng với các ngành sử dụng nhiều lao động như dệt may và da - giày Chương trình này nhằm phát huy lợi thế cạnh tranh, chuyên môn hóa và tối ưu hóa chuỗi giá trị trong các ngành công nghiệp.

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã hướng dẫn các địa phương phân bổ hợp lý các cơ sở chế biến nông lâm sản, liên kết với việc phát triển vùng nguyên liệu tập trung và tiêu thụ sản phẩm, đồng thời cơ cấu lại vật nuôi, cây trồng phù hợp với điều kiện tự nhiên và xã hội của từng địa phương Ngoài ra, cần xây dựng các cụm liên kết sản xuất - chế biến tiêu thụ nông sản tại những vùng có sản lượng lớn và điều kiện thuận lợi, lựa chọn các doanh nghiệp "đầu tàu" có đủ năng lực để dẫn dắt chuỗi liên kết một cách hiệu quả.

- Về nguồn lực công nghệ:

Khoa học và công nghệ (KH&CN) đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thông qua ảnh hưởng đến tổng cung và tổng cầu Các sản phẩm từ KH&CN không chỉ góp phần trực tiếp vào GDP mà còn quyết định đến tăng trưởng dài hạn và chất lượng tăng trưởng.

Một trong những giải pháp quan trọng để nâng cao nguồn lực công nghệ là chính sách thu hút FDI, đặc biệt là FDI công nghệ cao và bảo vệ môi trường, đồng thời thúc đẩy sự hợp tác giữa doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp Việt Nam Nhà nước cần ưu tiên nguồn lực cho nghiên cứu và đổi mới sáng tạo Một ví dụ điển hình cho sự thành công của giải pháp này là Ethiopia, nơi ông Arkebe Oqubay, Bộ trưởng kiêm cố vấn đặc biệt cho Thủ tướng, đã chia sẻ những thành tựu từ năm 2004.

Năm 2018, nền kinh tế Ethiopia ghi nhận mức tăng trưởng 10%, cao hơn so với 5,5% của năm trước Quốc gia này đã thực hiện chính sách công nghiệp hóa nhất quán, tập trung vào việc học hỏi từ các nước như Nhật Bản, Hàn Quốc và Đức thông qua các cuộc đối thoại chính sách Ethiopia cũng khuyến khích việc ứng dụng và chuyển giao công nghệ, nâng cao năng lực nghiên cứu và làm chủ công nghệ mới, từ đó hình thành năng lực sản xuất tự chủ và khả năng thích ứng của nền kinh tế Doanh nghiệp được xem là trung tâm trong nghiên cứu, phát triển và ứng dụng công nghệ, bao gồm cả công nghệ số Đồng thời, quốc gia này đang phát triển hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia và hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo.

C Mác nhấn mạnh rằng con người là yếu tố quan trọng nhất trong lực lượng sản xuất, và Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã khẳng định tầm quan trọng của việc phát triển nguồn nhân lực: “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người.” Sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế sẽ không thể thành công nếu thiếu nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao, với những cá nhân có đủ “đức” và “tài.”

Thứ nhất, để phát triển được nguồn nhân lực chất lượng cao cần chú trọng gắn kết

Đào tạo, sử dụng và đãi ngộ là ba khâu quan trọng trong quản lý nguồn nhân lực Đào tạo cần phải phù hợp với xu hướng và nhu cầu phát triển của nền kinh tế Việt Nam, đồng thời hướng đến đúng địa chỉ sử dụng Việc tiếp cận các phương pháp và cách làm hiệu quả từ thế giới cũng đóng vai trò quan trọng trong quá trình này.

Để nâng cao hiệu quả quản lý nguồn nhân lực ở Việt Nam, cần áp dụng các phương pháp quản lý phù hợp, chú trọng vào hai nhóm yếu tố chính Thứ nhất, yếu tố nguồn nhân lực bao gồm sự phù hợp giữa nhân viên và tổ chức, lương bổng, cơ hội đào tạo và phát triển nghề nghiệp, cũng như những thách thức trong công việc Thứ hai, yếu tố tổ chức liên quan đến hành vi lãnh đạo, mối quan hệ nội bộ, văn hóa tổ chức, chính sách và môi trường làm việc.

Thứ ba, đối với đội ngũ trí thức, nhân tài, cần quán triệt sâu sắc quan điểm:

Thực hành dân chủ và tôn trọng tự do tư tưởng là yếu tố quan trọng trong nghiên cứu và sáng tạo của trí thức Cần tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động nghề nghiệp của họ, đồng thời trọng dụng trí thức dựa trên phẩm chất, năng lực và cống hiến Chính sách đặc biệt nên được áp dụng cho nhân tài, nhằm nâng cao ý thức trách nhiệm công dân và xã hội vì sự nghiệp chung.

Liên hệ vai trò, trách nhiệm đặt ra cho thế hệ trẻ, thanh thiếu niên hiện nay

Thanh niên Việt Nam luôn giữ vai trò quan trọng trong các giai đoạn lịch sử, thể hiện tinh thần xả thân trong các cuộc chiến tranh giữ nước và là lực lượng chủ chốt trong việc kiến thiết đất nước Trong các cuộc cách mạng dân tộc, đặc biệt trong kháng chiến chống Pháp và Mỹ, thanh niên đã phát huy truyền thống yêu nước, xung phong trong phát triển kinh tế và văn hóa Trong thời kỳ đổi mới, thanh niên tiếp tục đóng góp tích cực vào công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, thực hiện khẩu lệnh “đâu cần thanh niên có, đâu khó có thanh niên” Dưới sự lãnh đạo của Đảng, thanh niên Việt Nam luôn thể hiện vai trò xung kích, sáng tạo trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Thanh niên Việt Nam là lực lượng năng động, sáng tạo và tri thức, chiếm hơn 50% lực lượng lao động trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước Họ mang trong mình hoài bão, ước mơ, ý chí và nghị lực, luôn thể hiện tinh thần quả cảm và lòng nhiệt tình cách mạng Với chí tiến thủ và bản lĩnh vững vàng, thanh niên đóng góp vào sự phát triển của đất nước thông qua lao động sáng tạo với ý thức và trách nhiệm cao.

Thanh niên Việt Nam là lực lượng kế thừa và phát huy truyền thống văn hóa dân tộc, nổi bật với tinh thần hiếu học, chuyên cần và sáng tạo Họ nỗ lực học tập, rèn luyện và tận dụng mọi cơ hội để thu thập tri thức, góp phần đẩy lùi nguy cơ và xây dựng sức mạnh tổng hợp, chủ động hội nhập với xu thế phát triển của nền văn minh nhân loại.

Thanh niên Việt Nam luôn thể hiện lòng trung thành và tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, đồng thời nêu cao tinh thần yêu nước Họ quyết tâm đóng góp vào sự nghiệp đổi mới, thúc đẩy công nghiệp hóa và hiện đại hóa, nhằm xây dựng một Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng và văn minh.

Chính sách và sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với thanh niên đã tạo ra nhiều cơ hội và điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của họ.

Thanh niên Việt Nam đang phải đối mặt với nhiều thách thức lớn, bao gồm tác động tiêu cực từ nền kinh tế thị trường, ảnh hưởng đến giá trị đạo đức và lối sống Bên cạnh đó, các thế lực thù địch cũng gia tăng hoạt động chống phá Đảng, nhắm vào thanh niên để lôi kéo và kích động họ tham gia vào các hoạt động có thể gây mất ổn định an ninh chính trị của đất nước.

Thanh niên cần tích cực tham gia học tập nâng cao trình độ lý luận chính trị để bồi đắp lý tưởng cách mạng Trong bối cảnh cách mạng hiện nay, sự tác động từ trong nước và quốc tế đang ảnh hưởng đến tư tưởng, tình cảm, và lối sống của giới trẻ Do đó, thanh niên cần rèn luyện lập trường tư tưởng vững vàng, yêu nước, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội Họ cũng cần có đạo đức trong sáng, lối sống lành mạnh và tích cực tham gia vào cuộc đấu tranh bảo vệ Đảng, nhà nước, cũng như các chính sách và pháp luật của nhà nước.

Xây dựng và phát huy lối sống “mỗi người vì mọi người, mọi người vì mỗi người” là cần thiết để hình thành ý thức tự trọng và tự chủ trong cộng đồng Mọi người cần sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, đồng thời bảo vệ môi trường Việc kết hợp hài hòa giữa tính tích cực cá nhân và tích cực xã hội sẽ nâng cao trách nhiệm cá nhân đối với bản thân, gia đình và xã hội Chúng ta cần khẳng định và tôn vinh những giá trị đúng đắn, cái đẹp, và những hành động cao thượng, nhằm nhân rộng các giá trị nhân văn trong đời sống.

Xung kích trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời đảm bảo quốc phòng và an ninh là nhiệm vụ quan trọng Các cá nhân cần tích cực tham gia vào các chương trình và dự án địa phương, tự nguyện thực hiện nghĩa vụ quân sự, cũng như tham gia các hoạt động bảo vệ Tổ quốc và duy trì an ninh trật tự, an toàn xã hội.

Việt Nam chủ động tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế và giải quyết các vấn đề toàn cầu, nhằm nâng cao ảnh hưởng của đất nước trên trường quốc tế Quốc gia này tích cực tham gia vào công tác ngoại giao nhân dân, đồng thời đóng góp hiệu quả vào các nỗ lực giữ gìn hòa bình, ngăn chặn nguy cơ chiến tranh, chống khủng bố, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu Việt Nam cũng chú trọng vào việc hạn chế sự bùng nổ dân số và phòng ngừa, đẩy lùi các dịch bệnh hiểm nghèo.

Hàng ngàn thanh niên tình nguyên nơi tuyến đầu chống dịch: https://www.youtube.com/watch?v=OAaR08cnZIk

Ngày đăng: 07/06/2022, 18:34

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

BẢNG ĐÁNH GIÁ HOẠT ĐỘNG NHÓM - Quá trình đổi mới quan điểm của đảng về công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta trong thời kỳ đổi mới từ 1986 đến nay
BẢNG ĐÁNH GIÁ HOẠT ĐỘNG NHÓM (Trang 2)
+ Công nghệ thông tin với sự hình thành mạng thông tin toàn cầu (Internet), được ứng dụng rộng rãi trong mọi ngành kinh tế và hoạt động xã hội, đưa nền văn minh nhân loại sang một chương mới “văn minh thông tin”. - Quá trình đổi mới quan điểm của đảng về công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta trong thời kỳ đổi mới từ 1986 đến nay
ng nghệ thông tin với sự hình thành mạng thông tin toàn cầu (Internet), được ứng dụng rộng rãi trong mọi ngành kinh tế và hoạt động xã hội, đưa nền văn minh nhân loại sang một chương mới “văn minh thông tin” (Trang 11)
- Thứ năm, khu vực Châu Á– Thái Bình Dương đang có những bước phát triển đầy - Quá trình đổi mới quan điểm của đảng về công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta trong thời kỳ đổi mới từ 1986 đến nay
h ứ năm, khu vực Châu Á– Thái Bình Dương đang có những bước phát triển đầy (Trang 13)
- Thứ nhất, trong giai đoạn từ 1976-1986: VN xây dựng Mô hình chủ nghĩa xã hội với - Quá trình đổi mới quan điểm của đảng về công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta trong thời kỳ đổi mới từ 1986 đến nay
h ứ nhất, trong giai đoạn từ 1976-1986: VN xây dựng Mô hình chủ nghĩa xã hội với (Trang 13)
=> Thực chất, đây là sự thay đổi trong lựa chọn mô hình chiến lược CNH, chuyển từ mô hình hướng nội (thay thế nhập khẩu) trước đây bằng mô hình hỗn hợp (hướng về xuất khẩu đồng thời thay thế nhập khẩu) đang được áp dụng phổ biến và khá thành công tại c - Quá trình đổi mới quan điểm của đảng về công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta trong thời kỳ đổi mới từ 1986 đến nay
gt ; Thực chất, đây là sự thay đổi trong lựa chọn mô hình chiến lược CNH, chuyển từ mô hình hướng nội (thay thế nhập khẩu) trước đây bằng mô hình hỗn hợp (hướng về xuất khẩu đồng thời thay thế nhập khẩu) đang được áp dụng phổ biến và khá thành công tại c (Trang 15)
Mô hình Khép kín Hướng ngoại: mở rộng hội nhập Kinh - Quá trình đổi mới quan điểm của đảng về công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta trong thời kỳ đổi mới từ 1986 đến nay
h ình Khép kín Hướng ngoại: mở rộng hội nhập Kinh (Trang 21)
Tình hình thế giới và khu vực có những mặt tác động không thuận lợi; sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch, phản động và cơ hội chính trị. - Quá trình đổi mới quan điểm của đảng về công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta trong thời kỳ đổi mới từ 1986 đến nay
nh hình thế giới và khu vực có những mặt tác động không thuận lợi; sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch, phản động và cơ hội chính trị (Trang 29)

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w