1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Phát triển khán giả sân khấu cải lương tại thành phố hồ chí minh (nghiên cứu trường hợp nhà hát cải lương trần hữu trang)

310 6 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Phát Triển Khán Giả Sân Khấu Cải Lương Tại Thành Phố Hồ Chí Minh (Nghiên Cứu Trường Hợp Nhà Hát Cải Lương Trần Hữu Trang)
Trường học Viện Văn Hóa Nghệ Thuật Quốc Gia Việt Nam
Chuyên ngành Quản Lý Văn Hóa
Thể loại Luận Án Tiến Sĩ Quản Lý Văn Hóa
Năm xuất bản 2022
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 310
Dung lượng 6,61 MB

Cấu trúc

  • Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN KHÁN GIẢ CHO SÂN KHẤU CẢI LƯƠNG 9 (17)
  • Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KHÁN GIẢ Ở NHÀ HÁT CẢI LƯƠNG TRẦN HỮU TRANG 45 (53)
  • Trang 62 (0)
  • Chương 3: CƠ HỘI, THÁCH THỨC VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KHÁN GIẢ (114)

Nội dung

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN KHÁN GIẢ CHO SÂN KHẤU CẢI LƯƠNG 9

VỀ PHÁT TRIỂN KHÁN GIẢ CHO SÂN KHẤU CẢI LƯƠNG

1 1 Tổng quan tình hình nghiên cứu

Tổng quan tình hình nghiên cứu là một nhiệm vụ quan trọng trong mỗi công trình khoa học, giúp tác giả nhận diện và đánh giá những kết quả đã đạt được cũng như những khoảng trống chưa được nghiên cứu trong các công trình trước Chúng tôi phân loại các nghiên cứu theo ba nhóm: nghiên cứu ngoài nước, nghiên cứu trong nước và theo trình tự thời gian.

1 1 1 Nhóm công trình viết về khán giả nghệ thuật

- Nhóm công trình nước ngoài

Năm 1993, nhóm tác giả David, T và Glenn, A W đã công bố công trình như

Kinh tế học về nghệ thuật biểu diễn nghiên cứu mối quan hệ giữa sự phát triển của nghệ thuật biểu diễn và các lý thuyết kinh tế học văn hóa Bài viết cũng xem xét những kinh nghiệm và quan điểm chính sách liên quan đến sự phát triển của nghệ thuật biểu diễn, đặc biệt nhấn mạnh tầm quan trọng của việc phát triển khán giả.

Năm 1998, tác giả Close, H và Dovovan, R xuất bản cuốn Who is my maket?

Aguide to researching audience and visitors in the arts (Ai là thị trường của tôi?

Hướng dẫn nghiên cứu khán giả và du khách trong các tổ chức nghệ thuật cung cấp giải pháp xây dựng phương pháp nghiên cứu khán giả cho các tổ chức văn hóa - nghệ thuật Bài viết này mang lại nội dung hữu ích cho nghiên cứu sinh, với phân tích về sự cần thiết và nguyên tắc cơ bản của nghiên cứu khán giả nghệ thuật, cách chọn nghiên cứu thị trường hiệu quả, và xác định nguồn lực bên trong và bên ngoài của tổ chức Hệ thống tri thức này cũng bổ sung những thiếu sót về phương pháp chọn mẫu, xây dựng bảng hỏi, cũng như triển khai khảo sát định lượng và phỏng vấn sâu nhằm phát triển khán giả cho sân khấu Cải lương tại TP HCM.

Năm 2001, nhà nghiên cứu David T đã xuất bản cuốn sách "Kinh tế và văn hóa", trong đó ông nhấn mạnh giá trị vô hình không thể trao đổi như giá trị tinh thần và biểu tượng Ông cũng phân tích sâu về tính hàng hóa của các sản phẩm văn hóa - nghệ thuật, khẳng định rằng công chúng, bao gồm khán giả và khách hàng, là một yếu tố thiết yếu trong cấu trúc và hệ thống của ngành kinh tế văn hóa.

Năm 2005, Arts Victoria và The Australia Council phối hợp xuất bản cuốn

Nghiên cứu khán giả trở nên dễ dàng hơn với cấu trúc gồm ba chương chính, bao gồm cách xác định vấn đề và đối tượng nghiên cứu, cũng như mẫu nghiên cứu Tài liệu hướng dẫn cách thu thập thông tin qua các phương pháp định lượng và định tính, đồng thời phân tích kết quả nghiên cứu từ bảng khảo sát và phỏng vấn sâu Đặc biệt, nó nêu rõ những yêu cầu cần thiết để rút ra kết luận chính xác Đối với nghiên cứu sinh, tài liệu này đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện các phương pháp nghiên cứu, giúp làm rõ kết quả nghiên cứu của công trình.

Vào năm 2007, giám đốc điều hành nhà hát nổi tiếng David, M C đã công bố tác phẩm "Quản lý nhà hát: Sản xuất và quản lý nghệ thuật biểu diễn", mang đến những góc độ tiếp cận mới trong nghiên cứu quản lý nghệ thuật biểu diễn Tác giả phân tích các vấn đề cốt lõi như nhân lực, tài chính, quan hệ công chúng, tính sáng tạo, gây quỹ, tiếp thị và quảng cáo Đặc biệt, tác phẩm nhấn mạnh mối quan hệ giữa sản phẩm nghệ thuật và nhu cầu của khách hàng, cùng với việc phát triển khán giả nghệ thuật Đây là tài liệu tham khảo quan trọng cho những người làm công tác quản lý nghệ thuật và các nhà nghiên cứu phát triển khán giả trong lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn.

Vào năm 2011, công trình "Nghiên cứu văn hóa: Lý thuyết và thực hành" của nhà nghiên cứu Chris Barker đã có những đóng góp quan trọng cho nghiên cứu văn hóa ở Việt Nam và thế giới Tác phẩm gồm 14 chương, cung cấp hệ thống tri thức phong phú về các khái niệm chính trong nghiên cứu văn hóa, vấn đề văn hóa và hệ tư tưởng, cũng như mối liên hệ giữa sinh học và văn hóa Đặc biệt, chương 10 của công trình đề cập đến khán giả, với mô hình "khán giả tích cực", nhấn mạnh rằng khán giả không chỉ là người tiêu thụ mà còn là những nhà sản xuất ý nghĩa Liên hệ giữa khán giả tích cực và nghiên cứu phát triển khán giả trong sân khấu Cải lương cho thấy sự đóng góp quan trọng của khán giả trong quá trình sáng tạo nghệ thuật, khi sự tương tác của họ trước, trong và sau khi thưởng thức vở diễn tạo động lực lớn cho nghệ sĩ tiếp tục cống hiến cho nghệ thuật.

Năm 2014, Fanizza, S D đã xuất bản cuốn "Cách phát triển khán giả cho nghệ thuật: tìm hiểu kiến thức cơ bản, lập kế hoạch của bạn", cung cấp kiến thức nền tảng về tiếp thị, bán hàng, quan hệ công chúng và dịch vụ khách hàng trong lĩnh vực văn hóa - nghệ thuật, đặc biệt là về xây dựng kế hoạch và phát triển khán giả cho nghệ thuật biểu diễn Đến năm 2021, Hadley, S cho ra mắt cuốn "Chính sách phát triển khán giả và văn hóa", tập trung phân tích mối quan hệ giữa phát triển khán giả và chính sách văn hóa của nhà nước Ông đề xuất những phương pháp phát triển khán giả mang tính đột phá, nhấn mạnh rằng việc phát triển khán giả cần được coi là một chức năng tư tưởng của chính sách văn hóa quốc gia, liên quan chặt chẽ đến việc xác định, phát triển và cung cấp giá trị văn hóa - nghệ thuật cho công chúng.

Hadley, S thực sự là một tài liệu quý giá cho NCS trong quá trình thực hiện công trình của mình [168]

- Nhóm công trình trong nước

Năm 1983, nhà nghiên cứu Đức Kôn công bố bản dịch công trình của nhóm tác giả Lêchxâyép và Dimditriépski, chỉ ra mối quan hệ chặt chẽ giữa kịch mục của nhà hát và thị hiếu nghệ thuật của công chúng Ông cho rằng, thông qua danh mục vở diễn, có thể nhận diện quy luật cung - cầu của sân khấu và khán giả, cũng như tâm lý của một tầng lớp khán giả nhất định Đến năm 1986, ông xuất bản công trình "Sân khấu: phê bình, tiểu luận (Tập 1)", nhấn mạnh rằng trình độ thưởng thức nghệ thuật của công chúng ảnh hưởng đến sự phát triển của sân khấu Để thu hút khán giả, sân khấu cần sáng tạo nhiều tác phẩm vừa đáp ứng nhu cầu giải trí, vừa có giá trị giáo dục, phù hợp với tâm lý và trình độ của khán giả.

Năm 1993, tác giả Nguyễn Phan Thọ đã xuất bản cuốn "Xã hội học sân khấu," trong đó ông cho rằng công chúng tiếp cận nghệ thuật thông qua trí tuệ, tình cảm và cơ chế tâm lý “chiếu hình – đồng nhất.” Quá trình này dẫn đến hiện tượng “nhập tâm,” khi công chúng nội tâm hóa các đối tượng từ thế giới bên ngoài Tác giả nhấn mạnh rằng việc thụ cảm nghệ thuật sân khấu không chỉ là quy luật tâm lý cá nhân mà còn là một hiện tượng xã hội Dù thưởng thức nghệ thuật một mình hay cùng người khác, công chúng luôn có nhu cầu chia sẻ ấn tượng và cảm xúc với nhau Do đó, môi trường xã hội, đặc biệt là các nhóm, đóng vai trò quan trọng trong việc thụ cảm nghệ thuật sân khấu, như việc những người yêu thích Cải lương thường hình thành nhóm để cùng nhau đi xem.

Vào năm 2002, tác phẩm "Sân khấu truyền thống – Từ chức năng giáo huấn đạo đức" của nhà nghiên cứu Tất Thắng đã được xuất bản, bao gồm 15 chương được chia thành 03 phần Trong các chương I, II, III, IV, tác giả đã tiến hành phân tích sâu sắc mối quan hệ giữa sân khấu truyền thống và chức năng giáo huấn đạo đức.

Tính tương tác giữa sân khấu và sự hình thành nhân cách, giáo huấn đạo đức đối với công chúng là rất quan trọng Theo tác giả, "sáng tạo và tiếp nhận với số lượng người tiếp nhận đông đảo đã khiến cho sân khấu có tác động trực tiếp tại chỗ mà mạnh mẽ tới người xem." Điều này cho thấy rằng sân khấu không chỉ là một hình thức nghệ thuật, mà còn có khả năng giáo dục và hình thành nhân cách cho khán giả.

Năm 2004, tác giả Trần Trọng Đăng Đàn đã chỉ ra rằng khán giả sân khấu Việt Nam vào cuối thập niên 90 như những người đói khát, chỉ được thỏa mãn tạm thời mà không có bữa ăn chất lượng Nguyễn Xuân Phong cảnh báo rằng nếu sân khấu tiếp tục theo đà hoạt động thị trường, sẽ không thể thoát khỏi tình trạng sa lầy Đạo diễn Trần Minh Ngọc đề xuất cần xây dựng các trung tâm văn hóa – sân khấu lớn, nâng cao quản lý, đầu tư, và chất lượng đào tạo để thu hút khán giả Năm 2006, Trần Đình Ngôn nhận định rằng công chúng hiện nay đã mất đi khả năng cảm thụ nghệ thuật tinh tế và để thưởng thức các loại hình sân khấu truyền thống, khán giả cần có kiến thức và bản sắc dân tộc Để thu hút công chúng, tác phẩm sân khấu cần giải quyết những vấn đề bức xúc của cuộc sống và đáp ứng nhu cầu giải trí.

Năm 2006, nhà nghiên cứu Lê Thị Hoài Phương đã xuất bản cuốn sách "Sân khấu – nghề & nghiệp", trong đó nhấn mạnh rằng mục tiêu cuối cùng của sân khấu là phục vụ khán giả, nhưng không coi họ là "thượng đế" tuyệt đối Tác giả cho rằng để thu hút người xem, những người làm sân khấu cần chú ý đến thị hiếu của khán giả và khẳng định rằng mọi người đều có nhu cầu về hoạt động văn hóa, nghệ thuật giống như nhu cầu về không khí, thực phẩm và trang phục Cùng năm, trong bài viết "Quản lý nhà hát – một ngành kinh tế đặc thù trong cơ chế kinh tế thị trường", Hoài Phương nhấn mạnh rằng để vận hành nhà hát hiệu quả trong cơ chế thị trường, cần thiết lập “kiềng ba chân” bao gồm Phòng Marketing, Phòng Phát triển tài chính và Phòng Giáo dục nghệ thuật, với mối quan hệ chặt chẽ giữa các phòng để phát triển khán giả cho nhà hát.

Trong bài viết “Giáo dục nghệ thuật và đơn vị nghệ thuật biểu diễn” của tác giả Phạm Bích Huyền năm 2013, tác giả nhấn mạnh vai trò quan trọng của giáo dục nghệ thuật trong việc phát triển và duy trì khán giả cho các đơn vị nghệ thuật Hoạt động này không chỉ cung cấp công cụ hữu hiệu để thu hút công chúng mà còn giúp duy trì mối quan hệ gắn bó giữa khán giả và nghệ thuật Đồng thời, giáo dục nghệ thuật có khả năng tạo ra nhu cầu thưởng thức nghệ thuật, nâng cao hiểu biết và khơi gợi sự quan tâm của công chúng, từ đó thúc đẩy sự tham gia của khán giả vào các hoạt động nghệ thuật.

Ngày đăng: 06/06/2022, 15:40

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

w