NGHIÊN CỨU GIẢI PHẪU CƠ SINH HỌC DÂY CHẰNG CHÉO SAU VÀ ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ TÁI TẠO DÂY CHẰNG QUA NỘI SOI BẰNG GÂN CƠ MÁC DÀI.NGHIÊN CỨU GIẢI PHẪU CƠ SINH HỌC DÂY CHẰNG CHÉO SAU VÀ ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ TÁI TẠO DÂY CHẰNG QUA NỘI SOI BẰNG GÂN CƠ MÁC DÀI. NGHIÊN CỨU GIẢI PHẪU CƠ SINH HỌC DÂY CHẰNG CHÉO SAU VÀ ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ TÁI TẠO DÂY CHẰNG QUA NỘI SOI BẰNG GÂN CƠ MÁC DÀI. NGHIÊN CỨU GIẢI PHẪU CƠ SINH HỌC DÂY CHẰNG CHÉO SAU VÀ ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ TÁI TẠO DÂY CHẰNG QUA NỘI SOI BẰNG GÂN CƠ MÁC DÀI. NGHIÊN CỨU GIẢI PHẪU CƠ SINH HỌC DÂY CHẰNG CHÉO SAU VÀ ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ TÁI TẠO DÂY CHẰNG QUA NỘI SOI BẰNG GÂN CƠ MÁC DÀI.NGHIÊN CỨU GIẢI PHẪU CƠ SINH HỌC DÂY CHẰNG CHÉO SAU VÀ ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ TÁI TẠO DÂY CHẰNG QUA NỘI SOI BẰNG GÂN CƠ MÁC DÀI.
Giải phẫu học dây chằng chéo sau
1.1.1 Đặc điểm các bó của dây chằng chéo sau
DCCS là một thành phần quan trọng của dây chằng trong bao khớp gối, bao gồm hai bó chính Bó lớn, được gọi là bó trước ngoài, chiếm phần lớn hình dạng của dây chằng, trong khi bó nhỏ hơn, gọi là bó sau trong, chạy chéo ra phía sau xương chày.
Sự phân biệt giữa hai bó DCCS, bó trước ngoài và bó sau trong, không rõ ràng về mặt giải phẫu, với chiều dài không chênh lệch nhiều Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng bó trước ngoài thường lớn hơn bó sau trong Theo A Amis và David cùng cộng sự, sự phân chia này chủ yếu là do cách phân tích khi phẫu tích, không phải là đặc điểm giải phẫu rõ ràng Việc chia thành hai bó này xuất phát từ quan sát khi gập duỗi gối, cho thấy DCCS tách thành hai bó với mức độ căng chùng khác nhau tùy thuộc vào vị trí gối Khi nhìn từ phía sau khớp gối, có thể thấy hai bó sợi chạy theo hai hướng khác nhau.
Hình 1.1 Bó trước ngoài và bó sau trong dây chằng chéo sau
Theo Forsythe (2009), các sợi của bó TN chạy thẳng đứng hơn, trong khi các sợi của bó ST lại chạy chéo vào trong, dẫn đến việc phân chia thành hai bó Tuy nhiên, nghiên cứu của Inderster cho rằng DCCS có ba bó, bao gồm hai bó đã được mô tả và một bó sau chéo, mà theo ông, nằm trong bó ST của các tác giả khác.
Covey và Mejia cho rằng việc phân chia giải phẫu học DCCS thành hai hoặc ba bó là quá đơn giản, vì cấu trúc của nó phức tạp hơn với nhiều bó sợi có chiều dài khác nhau Tương tự, Makris cũng nhận định rằng DCCS bao gồm bốn dải: trước, trung tâm, sau dọc và sau chéo.
Hình 1.2 Markis cho rằng DCCS có nhiều bó, DCCS nhìn từ phía sau
PL: bó sau dọc, PO: bó sau chéo, PML: dây chằng sụn chêm lồi cầu, A: bó trước, C: bó trung tâm LM: sụn chêm ngoài
“Nguồn: Markris và cộng sự, 2000” [70]
Các sợi của bó TN bám vào gờ xương trên hố gian lồi cầu trong khi bó
ST bám vào mặt ngoài của lồi cầu trong hố gian lồi cầu Khi quan sát từ phía sau, các sợi của bó TN trên xương chày nằm phía trước so với các sợi của bó khác.
ST, nằm nông hơn so với các sợi của bó ST
1.1.2 Giải phẫu diện bám DCCS trên lồi cầu đùi
Theo nghiên cứu của Theo Lopes và cộng sự [68], diện bám của DCCS trên lồi cầu xương đùi kéo dài từ trước ra sau, với phần xa được bao quanh bởi bờ sụn khớp lồi cầu trong.
Khi quan sát khớp gối từ bên hông hoặc phía sau, có thể thấy rằng dây chằng chéo trước (DCCS) không chỉ gắn vào mặt ngoài của lồi cầu trong, mà còn bám lên gờ liên lồi cầu.
Theo nghiên cứu của Lopes, hình dạng và kích thước diện bám trên lồi cầu của DCCS có sự biến đổi đáng kể Cụ thể, hình dạng thường là nửa hình tròn chiếm 75% và hình bầu dục chiếm 25% Ngoài ra, có một gờ xương ở phía đầu gần cũng được ghi nhận.
Hình 1.3 Diện bám của DCCS ở mặt ngoài lồi cầu trong xương đùi trái
Mũi tên trắng: diện bám bó trước ngoài Mũi tên đen: diện bám bó sau trong “Nguồn: Lopes, 2008” [68]
Gờ liên lồi cầu trong là điểm mốc xương quan trọng, xác định giới hạn bờ gần của diện bám DCCS trên lồi cầu xương đùi Nghiên cứu của Lopes cũng chỉ ra sự tồn tại của một gờ xương giữa hai bó.
TN và ST, ông cũng ghi nhận sự thay đổi độ nghiêng trên diện bám của bó
TN và bó ST trên lồi cầu xương đùi, tác giả dùng các khái niệm “gần – xa”,
Để xác định tâm của DCCS, bó TN và bó ST, ta cần sử dụng phương pháp "trước - sau" Qua đó, có thể đo kích thước diện bám và khoảng cách từ tâm đến bờ sụn lồi cầu, cũng như khoảng cách giữa các tâm Mejia [77] cũng đồng tình với nhận định này, cho rằng hình dạng diện bám trên lồi cầu có sự biến đổi đáng kể.
Trong nghiên cứu của Lopes và cộng sự năm 2008, các nhà khoa học đã tiến hành khảo sát 20 khớp gối trên xác ướp và ghi nhận diện tích bám của từng bó, với kết quả trung bình được công bố.
Khoảng cách trung bình giữa tâm của hai bó: 11 ± 1,18 mm
Khoảng cách ngắn nhất từ tâm diện bám các bó đến bờ sụn lồi cầu khi gối gấp 90 0 : o Bó trước ngoài: 7 ± 1,02 mm o Bó sau trong: 8 ± 0,99 mm
Nghiên cứu của Inderster [54] thì nhận thấy kết quả trung bình chỗ bám của DCCS trên lồi cầu như sau:
Đường kính trước sau: 20,9 mm
Đường kính theo hướng gần xa hay theo hướng trên dưới: 12,2 mm
Nghiên cứu của Inderster không chỉ ra kích thước và hình dạng diện bám của toàn bộ dây chằng, cũng như từng bó dây chằng trên lồi cầu xương đùi của DCCS.
Osti [86] đã thực hiện phẫu tích và đo kích thước diện bám bằng hệ thống chụp hình kỹ thuật số, chia diện bám thành các vùng dựa trên đường Blumensaat và bờ sụn của lồi cầu Tuy nhiên, tác giả chỉ tập trung vào việc đo kích thước mà không ghi nhận hình dạng của diện bám.
Hình 1.4 Gờ xương ở mặt ngoài lồi cầu trong xương đùi trái
Mũi tên trắng là gờ xương giữa 2 bó, mũi tên đen là gờ xương giới hạn ở phần gần của toàn bộ diện bám DCCS
Nghiên cứu của Trang Mạnh Khôi [3] đã khảo sát đặc điểm giải phẫu diện bám của DCCS ở 102 khớp gối trên xác ướp formol, cho thấy kích thước diện bám tổng thể của DCCS là 14,46 x 12,09 mm Cụ thể, kích thước của bó TN là 10,52 x 8,51 mm và của bó ST là 10,38 x 8,96 mm.
1.1.3 Các số đo kích thước của DCCS
DCCS có hai bó TN và ST, dễ dàng phân biệt bằng mắt thường và qua phẫu tích Sự khác biệt về giải phẫu cho thấy mặc dù nằm trong cùng một dây chằng, chúng có kích thước khác nhau và thay đổi theo tư thế của khớp gối Theo Girgis, DCCS có chiều dài 38 mm và chiều rộng 13 mm.
Inderster [54] đo đường kính của toàn bộ dây chằng tại đoạn 1/3 giữa lúc gối gập 90 0 có kết quả trung bình như sau:
Đường kính trước sau: 4,4 mm Đường kính trong ngoài: 11 mm Chiều dài trung bình của từng bó như sau:
Bó TN: 37,5 mm Bó ST: 36,7 mm
Nghiên cứu của Inderster không đo kích thước đường kính của từng bó TN và bó ST
1.1.4 Giải phẫu chỗ bám của DCCS trên xương chày