Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên TBD (CPTPP)
Lịch sử hình thành
Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ Xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) là một hiệp định thương mại tự do quan trọng cho các quốc gia trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương, tiền thân là Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương Được khởi xướng vào năm 2002 bởi ba quốc gia Chi-lê, Niu Di-lân và Xinh-ga-po, CPTPP nhằm thúc đẩy hợp tác thương mại và đầu tư giữa các nước đối tác trong khu vực.
Vào năm 2005, Brunei đã tham gia vào các cuộc đàm phán cùng với ba quốc gia khác, dẫn đến việc ký kết Hiệp định Pacific-4 (P4) Những quốc gia này được công nhận là những nước sáng lập của hiệp định này.
Ngày 22 tháng 9 năm 2008, Hoa Kỳ tuyên bố tham gia vào P4 nhưng đề nghị không phải trong khuôn khổ Hiệp định P4 cũ, mà các bên sẽ đàm phán một Hiệp định hoàn toàn mới, gọi là Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) Ngay sau đó, các nước Ốt-xtrây-lia và Pê-ru cũng tuyên bố tham gia TPP.
TIEU LUAN MOI download : skknchat@gmail.com
Năm 2009, Việt Nam bắt đầu tham gia TPP với vai trò quan sát viên đặc biệt Sau ba phiên đàm phán, Việt Nam chính thức gia nhập Hiệp định này tại Hội nghị Cấp cao APEC diễn ra từ ngày 13 đến 14 tháng 11 năm 2010 tại Yokohama, Nhật Bản.
Trong quá trình đàm phán, TPP đã mở rộng thành viên với sự gia nhập của Ma-lai-xi-a, Mê-hi-cô, Ca-na-đa và Nhật Bản, nâng tổng số quốc gia tham gia lên 12.
Sau hơn 30 phiên đàm phán kỹ thuật và hơn 10 cuộc họp cấp Bộ trưởng, các nước TPP đã hoàn tất nội dung đàm phán tại Hội nghị Bộ trưởng ở Atlanta, Hoa Kỳ vào tháng 10 năm 2015 Vào ngày 04 tháng 02 năm 2016, Bộ trưởng của 12 quốc gia tham gia Hiệp định TPP đã tham dự Lễ ký xác thực văn bản Hiệp định tại Auckland, New Zealand.
Vào ngày 30 tháng 01 năm 2017, Hoa Kỳ đã công bố quyết định rút khỏi Hiệp định TPP Sau sự kiện này, các quốc gia còn lại trong TPP đã chủ động nghiên cứu và thảo luận để tìm ra phương án xử lý phù hợp cho hiệp định trong bối cảnh mới.
Tháng 11 năm 2017, tại Đà Nẵng, Việt Nam, 11 nước còn lại đã thống nhất đổi tên Hiệp định TPP thành Hiệp định CPTPP với những nội dung cốt lõi
Ngày 08 tháng 3 năm 2018, các Bộ trưởng của 11 nước tham gia Hiệp định CPTPP đã chính thức ký kết Hiệp định CPTPP tại thành phố San-ti-a-gô, Chi-lê.
Các nội dung của Hiệp định CPTPP
Hiệp định CPTPP bao gồm 07 Điều và 01 Phụ lục, quy định mối quan hệ với Hiệp định TPP Hiệp định này được ký kết bởi 12 quốc gia, bao gồm: Ô-xtrây-lia, Bru-nây Đa-rút-xa-lam, Ca-na-đa, Chi-lê, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Ma-lai-xi-a, Mê-hi-cô, Niu Di-lân, Pê-ru, và Xinh-ga-pua.
Tải xuống TIEU LUAN MOI tại địa chỉ skknchat@gmail.com, liên quan đến Hiệp định CPTPP được ký kết vào ngày 06 tháng 2 năm 2016 tại Niu Di-lân, cùng với việc giải quyết các vấn đề liên quan đến tính hiệu lực, rút lui hoặc gia nhập hiệp định này.
Lời văn các chương của hiệp định
01 - Chương Các điều khoản ban đầu và các định nghĩa chung
2 - Chương Đối xử quốc gia và mở cửa thị trường hàng hoá
3 - Chương Quy tắc xuất xứ và thủ tục chứng nhận xuất xứ
5 - Chương Quản lý hải quan và tạo thuận lợi thương mại
6 - Chương Phòng vệ thương mại
7 - Chương Các biện pháp an toàn thực phẩm và kiểm dịch động thực vật (SPS)
8 - Chương Hàng rào kỹ thuật đối với thương mại (TBT)
10 - Chương Thương mại dịch vụ xuyên biên giới
11 - Chương Dịch vụ tài chính
12 - Chương Nhập cảnh tạm thời cho khách kinh doanh
14 - Chương Thương mại điện tử
15 - Chương Mua sắm của Chính phủ
TIEU LUAN MOI download : skknchat@gmail.com
16 - Chương Chính sách cạnh tranh
17 - Chương Doanh nghiệp Nhà nước và độc quyền chỉ định
18 - Chương Sở hữu trí tuệ
21 - Chương Hợp tác và xây dựng năng lực
22 - Chương Nâng cao sức cạnh tranh và thuận lợi hoá hoạt động kinh doanh
24 – Chương Doanh nghiệp nhỏ và vừa
25 – Chương Hội tụ phương pháp hoạt định chính sách thương mại
26 – Chương Minh bạch hoá và chống tham nhũng
27 – Chương Các điều khoản hành chính và thể chế
28 – Chương Giải quyết tranh chấp
29 – Chương Các ngoại lệ và các điều khoản chung
30 – Chương Các điều khoản cuối cùng
Ngoài ra Hiệp định còn có 4 phụ lục:
Phụ lục I: Biện pháp không tương thích về Dịch vụ và Đầu tư trong thương mại xuyên biên giới.
Phụ lục II: Biện pháp không tương thích về Dịch vụ và Đầu tư trong thương mại xuyên biên giới.
TIEU LUAN MOI download : skknchat@gmail.com
Phụ lục III: Biện pháp không tương thích về Dịch vụ tài chính
Phụ lục IV: Biện pháp không tương thích về Doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp độc quyền chỉ định.
Về cơ bản, Hiệp định CPTPP giữ nguyên nội dung của Hiệp định TPP (gồm
Hiệp định CPTPP bao gồm 30 chương và 4 phụ lục, cho phép các nước thành viên tạm hoãn 20 nhóm nghĩa vụ nhằm đảm bảo sự cân bằng về quyền lợi và nghĩa vụ trong bối cảnh Hoa Kỳ rút khỏi Hiệp định TPP Các nghĩa vụ tạm hoãn này bao gồm 11 nghĩa vụ liên quan đến Chương Sở hữu trí tuệ, 2 nghĩa vụ trong Chương Mua sắm của Chính phủ, và 7 nghĩa vụ khác liên quan đến các lĩnh vực như Quản lý hải quan, Đầu tư, Thương mại dịch vụ xuyên biên giới, Dịch vụ Tài chính, Viễn thông, Môi trường, và Minh bạch hóa, chống tham nhũng Tuy nhiên, các cam kết về mở cửa thị trường trong Hiệp định TPP vẫn được duy trì trong CPTPP.
Một số các cam kết chính liên quan đến hàng nông sản trong CPTPP
1.4.1.Cam kết về thuế quan:
Các thành viên CPTPP đã đồng thuận duy trì các cam kết mở cửa thị trường hàng hóa của Hiệp định TPP trong khuôn khổ CPTPP, với cam kết xóa bỏ thuế nhập khẩu đối với hầu hết các mặt hàng trong Biểu thuế quan Các cam kết này được thể hiện cụ thể theo từng dòng thuế trong Biểu thuế nhập khẩu của từng quốc gia thành viên CPTPP.
**Cam kết thuế nhập khẩu của Việt Nam:
Việt Nam cam kết thực hiện một biểu thuế thống nhất cho tất cả các nước CPTPP, trong đó sẽ xóa bỏ thuế nhập khẩu đối với 66% số dòng thuế ngay khi Hiệp định có hiệu lực.
TIEU LUAN MOI có thể tải xuống tại địa chỉ skknchat@gmail.com Hiệp định có hiệu lực đã mang lại lợi ích rõ rệt, với 86,5% số dòng thuế giảm sau 3 năm Các mặt hàng còn lại sẽ trải qua lộ trình giảm thuế từ 5 đến 10 năm Đặc biệt, Việt Nam đã đưa ra các cam kết cụ thể về thuế đối với mặt hàng nông sản trong khuôn khổ CPTPP.
- Xóa bỏ thuế ngay đối với mặt hàng gạo, quả nhiệt đới và hoa tươi của các nước CPTPP;
- Cơ bản xóa bỏ thuế đối với cà phê, chè, hạt tiêu, hạt điều (trong 4 năm) và rau củ nhiệt đới (3 - 4 năm);
- Có lộ trình xóa bỏ thuế trong 2 - 4 năm đối với các mặt hàng khác như quả nhiệt đới (2 năm), quả ôn đới (3 - 4 năm);
- Xóa bỏ thuế trong hạn ngạch của WTO đối với đường và muối (vào năm thứ 11), và trứng (vào năm thứ 6).
**Cam kết thuế nhập khẩu của các nước CPTPP đối với Việt Nam:
Các nước CPTPP đã cam kết loại bỏ từ 97% đến 100% thuế nhập khẩu đối với hàng hóa xuất xứ từ Việt Nam, tùy theo từng quốc gia Điều này đồng nghĩa với việc hầu hết hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam sang các nước CPTPP sẽ được miễn thuế nhập khẩu ngay khi Hiệp định có hiệu lực hoặc theo lộ trình đã định.
1.4.2 Cam kết về vệ sinh an toàn thực phẩm và kiểm dịch
Chương SPS về biện pháp an toàn thực phẩm và kiểm dịch động thực vật (SPS) trong CPTPP nhắc lại các nghĩa vụ trong Hiệp định SPS của WTO.
Hiệp định SPS cho phép các quốc gia thực hiện các biện pháp vệ sinh và an toàn thực phẩm nhằm bảo vệ sức khỏe con người, động vật và thực vật trên lãnh thổ của mình mà không bị hạn chế.
Tất cả các nước cần đảm bảo rằng các biện pháp áp dụng phải dựa trên căn cứ khoa học hoặc theo các tiêu chuẩn, hướng dẫn, khuyến nghị quốc tế Những biện pháp này cần được thực hiện ở mức cần thiết, không gây cản trở thương mại và phải đảm bảo không phân biệt đối xử giữa các sản phẩm nội địa và ngoại nhập.
Hợp tác và tham vấn kỹ thuật trong các vấn đề SPS là một phần mở rộng quan trọng so với WTO, nhằm tăng cường minh bạch trong việc công nhận hệ thống quản lý và các biện pháp SPS giữa các quốc gia Điều này bao gồm việc công nhận điều kiện vùng và khu vực liên quan đến tình hình sâu hại, dịch bệnh và thương mại, cũng như quy trình chứng nhận và kiểm tra nhập khẩu đối với hàng hóa nông sản thực phẩm.
CPTPP cam kết sâu hơn Hiệp định SPS của WTO, tập trung vào bốn khía cạnh quan trọng: quy trình phân tích hóa học và đánh giá rủi ro, thanh tra về SPS, kiểm tra chuyên ngành SPS khi nhập khẩu, và biện pháp SPS trong tình huống khẩn cấp.
1.4.3 Cam kết đối với trợ cấp đối với nông sản
CPTPP chỉ áp dụng các quy định về trợ cấp xuất khẩu cho nông sản giữa các nước thành viên, cấm việc trợ cấp xuất khẩu nông sản sang các nước thành viên khác Đồng thời, các quốc gia CPTPP cam kết hợp tác trong khuôn khổ WTO để xây dựng quy tắc đa phương liên quan đến tín dụng xuất khẩu, cũng như các chương trình bảo hiểm và bảo lãnh tín dụng xuất khẩu.
CPTPP không yêu cầu cam kết về trợ cấp nội địa cho nông sản, điều này cho phép Việt Nam tiếp tục áp dụng các biện pháp trợ cấp nội địa cho lĩnh vực nông sản.
TIEU LUAN MOI tải về: skknchat@gmail.com cho phép các biện pháp trợ cấp cho nông nghiệp nông thôn mà không hoặc rất ít tác động đến thương mại, như trợ cấp trong chương trình "hỗ trợ phát triển sản xuất" cho nông dân nghèo và các vùng khó khăn CPTPP không quy định cụ thể về doanh nghiệp nhà nước xuất khẩu nông sản, nhưng các nước thành viên cam kết hợp tác trong khuôn khổ Hiệp định WTO để giải quyết vấn đề này.
- Xóa bỏ các hạn chế gây bóp méo thương mại trong việc trao quyền xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp
Xóa bỏ mọi hình thức cấp vốn đặc biệt mà các thành viên WTO cung cấp, cả trực tiếp lẫn gián tiếp, cho các doanh nghiệp thương mại nhà nước xuất khẩu, nhằm giảm thiểu sự ảnh hưởng của họ trong tổng xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp của quốc gia đó.
- Tăng cường minh bạch hóa sự vận hành và duy trì của các doanh nghiệp thương mại nhà nước xuất khẩu.
Lợi ích của Việt Nam khi tham gia Hiệp định CPTPP
Thị trường TPP mang đến cơ hội lớn cho các nền kinh tế phát triển hàng đầu thế giới, với quy tắc chung là xóa bỏ 100% thuế nhập khẩu, trong đó 90% sẽ được gỡ bỏ ngay khi hiệp định có hiệu lực Nhờ vào những ưu đãi này, Việt Nam sẽ có nhiều cơ hội để phát triển, đặc biệt là trong lĩnh vực xuất khẩu.
Việc Nhật Bản và Canada giảm thuế nhập khẩu xuống 0% cho hàng hóa của Việt Nam sẽ mang lại nhiều lợi ích tích cực cho nền kinh tế.
Doanh nghiệp Việt Nam sẽ được hưởng lợi từ cam kết cắt giảm thuế quan ưu đãi khi xuất khẩu hàng hóa sang các nước thành viên Hiệp định CPTPP, từ đó thúc đẩy kim ngạch xuất khẩu Để biết thêm chi tiết, vui lòng tải về tài liệu tại địa chỉ skknchat@gmail.com.
Theo Hiệp định, các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam như nông thủy sản, điện và điện tử sẽ được miễn thuế ngay khi hiệp định có hiệu lực Nghiên cứu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho thấy, với mức độ cam kết này, xuất khẩu của Việt Nam có thể tăng 4,04% đến năm 2035.
Việc thiết lập quan hệ FTA với các nước CPTPP mang lại cơ hội cho Việt Nam tái cấu trúc thị trường xuất nhập khẩu theo hướng cân bằng hơn Theo nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới công bố tháng 3 năm 2018, dự báo rằng đến năm 2030, xuất khẩu của Việt Nam sang các nước CPTPP sẽ có sự gia tăng đáng kể.
54 tỷ đô-la Mỹ lên 80 tỷ đô-la Mỹ, chiếm 25% tổng lượng xuất khẩu. ã Lợi ớch về việc tham gia chuỗi cung ứng khu vực và toàn cầu
Các nước CPTPP đóng góp 13,5% GDP toàn cầu và có tổng kim ngạch thương mại vượt 10.000 tỷ USD, bao gồm những thị trường lớn như Nhật Bản, Canada và Australia, tạo ra nhiều cơ hội mới trong chuỗi cung ứng Tham gia CPTPP sẽ thúc đẩy xu hướng phát triển kinh tế mạnh mẽ hơn, nâng cao năng suất lao động và giảm dần tình trạng gia công lắp ráp Điều này giúp Việt Nam tham gia vào các công đoạn sản xuất có giá trị gia tăng cao, chuyển mình sang các ngành điện tử, công nghệ cao và sản phẩm nông nghiệp xanh Đây là cơ hội lớn để nâng tầm nền kinh tế Việt Nam trong 5-10 năm tới.
TIEU LUAN MOI download : skknchat@gmail.com
Các ngành dự kiến có mức tăng trưởng lớn bao gồm thực phẩm, đồ uống, thuốc lá, dệt may, hóa chất, sản phẩm nhựa, đồ da, trang thiết bị vận tải, máy móc và các trang thiết bị khác Theo nghiên cứu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, CPTPP có thể tạo ra mức tăng trưởng bình quân từ 4% cho các ngành công nghiệp nhẹ và thâm dụng lao động.
- 5% và mức tăng xuất khẩu có thể đạt từ 8,7% - 9,6%. ã Lợi ớch về cải cỏch thể chế
Tham gia CPTPP, một hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, sẽ giúp Việt Nam hoàn thiện thể chế pháp luật kinh tế, đặc biệt là thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Điều này không chỉ hỗ trợ cho quá trình đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế, mà còn tạo ra cơ hội để cải thiện môi trường kinh doanh theo hướng thông thoáng, minh bạch và dễ dự đoán hơn, tiệm cận các chuẩn mực quốc tế Từ đó, CPTPP sẽ thúc đẩy đầu tư trong nước và nước ngoài, mang lại lợi ích về việc làm và thu nhập cho người dân.
Tham gia CPTPP sẽ tạo ra cơ hội nâng cao tốc độ tăng trưởng, đồng thời tạo thêm nhiều việc làm và nâng cao thu nhập, góp phần xóa đói giảm nghèo Theo nghiên cứu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, CPTPP có thể tăng bình quân từ 20.000 đến 26.000 việc làm mỗi năm Ngân hàng Thế giới cũng dự báo rằng đến năm 2030, CPTPP sẽ giúp giảm 0,6 triệu người nghèo sống dưới mức chuẩn 5,5 đô-la Mỹ/ngày, mang lại lợi ích cho tất cả các nhóm thu nhập.
TIEU LUAN MOI download : skknchat@gmail.com
Tăng trưởng kinh tế tạo ra nguồn lực để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và chăm sóc sức khỏe cộng đồng Các nước thành viên CPTPP phát triển hơn Việt Nam và nhập khẩu từ họ chủ yếu không cạnh tranh trực tiếp, cho phép Việt Nam áp dụng lộ trình giảm thuế hợp lý Kết hợp với việc hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội, Việt Nam có thể giải quyết các vấn đề xã hội phát sinh từ CPTPP Hiệp định CPTPP cũng cam kết bảo vệ môi trường, đảm bảo quá trình mở cửa và thu hút đầu tư diễn ra thân thiện với môi trường, góp phần vào sự phát triển bền vững của nền kinh tế Việt Nam.
Thực trạng và ảnh hưởng của CPTPP đối với xuất khẩu nông sản Việt Nam
Tình hình xuất khẩu nông sản của Việt Nam giai đoạn 2016 - 2021
2.1.1 Giai đoạn 2016 - 2018 (trước khi thực thi Hiệp định CPTPP) trước tham gia CPTPP
Kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản 11 tháng đầu năm 2016 đạt 29,1 tỷ USD, tăng 5,9% so cùng kỳ năm 2015 nhưng có sự sụt giảm trong xuất khẩu gạo.
Trong 10 tháng đầu năm 2016, xuất khẩu rau quả của Việt Nam đạt gần 2 tỷ USD, tăng hơn 30% so với cùng kỳ năm 2015, và dự kiến cả năm sẽ đạt khoảng 2,3 đến 2,4 tỷ USD Trái cây chiếm gần 74% tổng giá trị xuất khẩu, với 29 loại được xuất khẩu sang nhiều thị trường khó tính như Nhật Bản, Mỹ, và châu Âu Các loại quả xuất khẩu cao như thanh long, nhãn, dưa hấu và xoài cho thấy tiềm năng lớn trong lĩnh vực này, theo Cục Bảo vệ thực vật.
Tải luận văn mới tại: skknchat@gmail.com Việc xuất khẩu sang Trung Quốc chiếm tỷ trọng lớn, do đó, nếu chúng ta thúc đẩy thương mại và mở rộng thị trường xuất khẩu một cách hiệu quả, kim ngạch xuất khẩu chắc chắn sẽ tăng đáng kể.
Thủy sản tiếp tục khẳng định vị thế là ngành hàng xuất khẩu chủ lực của nông nghiệp Việt Nam, với giá trị xuất khẩu đạt 6,4 tỷ USD trong 11 tháng đầu năm 2016, tăng 6,9% so với cùng kỳ năm 2015 Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc và Hàn Quốc là bốn thị trường nhập khẩu hàng đầu, chiếm 54,1% tổng giá trị xuất khẩu Đặc biệt, các thị trường như Trung Quốc, Hà Lan, Mỹ và Thái Lan ghi nhận mức tăng trưởng xuất khẩu mạnh mẽ lần lượt là 47,7%, 16,1%, 13,1% và 12,6%.
Năm 2016, trong khi trái cây và thủy sản ghi nhận sự tăng trưởng mạnh mẽ trong xuất khẩu nông sản, gạo lại cho thấy dấu hiệu suy giảm đáng kể Khối lượng gạo xuất khẩu trong 11 tháng đầu năm 2016 ước đạt 4,54 triệu tấn, giảm 25% so với cùng kỳ năm 2015, với kim ngạch chỉ đạt 2 tỷ USD, giảm 20,3% Mặc dù giá gạo xuất khẩu bình quân đạt 450 USD/tấn, tăng 5,6% so với năm trước, nhưng Trung Quốc vẫn là thị trường nhập khẩu gạo lớn nhất của Việt Nam, chiếm 36% thị phần Nhiều thị trường truyền thống khác, như Philippines, đang trải qua sự sụt giảm nghiêm trọng trong nhập khẩu gạo.
Theo Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA), sự sụt giảm lượng gạo nhập khẩu từ các nước như Thái Lan (giảm 61,6%), Malaysia (giảm 51,5%) và Singapore (giảm 34,1%) là do thành công của các chính phủ trong việc thực hiện chính sách nông nghiệp tự túc lương thực Điều này dẫn đến việc nhu cầu nhập khẩu gạo ngày càng giảm.
TIEU LUAN MOI download : skknchat@gmail.com khẩu gạo vào Mỹ cũng ghi nhận sự sụt giảm đáng kể với mức 28,3%
Nguyên nhân là do thị trường Mỹ yêu cầu khắt khe về chất lượng gạo khiến nhiều lô hàng gạo của nước ta không đáp ứng được.
Giá trị xuất khẩu các mặt hàng nông sản chính năm 2017 ước đạt
18,96 tỷ USD, tăng 15,7% so với cùng kỳ năm 2016
Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, gạo, cao su, chè và hạt điều là những nông sản có kim ngạch xuất khẩu tăng trưởng cả về lượng và giá trị Cụ thể, khối lượng xuất khẩu gạo trong tháng 12/2017 ước đạt cao, phản ánh sự phát triển tích cực của ngành nông nghiệp Việt Nam.
Năm 2017, Việt Nam ước đạt xuất khẩu 5,89 triệu tấn gạo, mang lại giá trị 2,66 tỷ USD, tăng 22,4% về khối lượng và 23,2% về giá trị so với năm trước Trong 11 tháng đầu năm, Trung Quốc tiếp tục dẫn đầu về thị trường nhập khẩu gạo của Việt Nam với 39,5% thị phần.
Mặc dù giá xuất khẩu cà phê tăng, nhưng khối lượng xuất khẩu giảm mạnh đã dẫn đến giá trị xuất khẩu cà phê năm 2017 giảm nhẹ so với năm 2016 Cụ thể, khối lượng xuất khẩu ước đạt 1,42 triệu tấn với giá trị 3,21 tỷ USD, giảm 20,2% về khối lượng và 3,8% về giá trị so với cùng kỳ năm trước Đức và Hoa Kỳ vẫn là những thị trường tiêu thụ chính.
Kỳ tiếp tục là hai thị trường tiêu thụ cà phê lớn nhất của Việt Nam Đối với mặt hàng cao su, khối lượng xuất khẩu cao su trong tháng được ước tính tăng trưởng.
Vào tháng 12 năm 2017, khối lượng xuất khẩu cao su đạt 175 nghìn tấn với giá trị 253 triệu USD, nâng tổng xuất khẩu cao su năm 2017 lên 1,39 triệu tấn và 2,26 tỷ USD So với năm 2016, khối lượng xuất khẩu tăng 11% và giá trị tăng 35,6% Giá cao su xuất khẩu bình quân trong 11 tháng đầu năm 2017 đạt 1.654,7 USD/tấn, tăng 28,3% so với cùng kỳ năm trước.
TIEU LUAN MOI download : skknchat@gmail.com
Tương tự đối với mặt hàng chè, năm 2017, khối lượng chè xuất khẩu ước đạt
Trong 11 tháng đầu năm 2017, Việt Nam xuất khẩu 140 nghìn tấn chè với giá trị đạt 229 triệu USD, tăng 7,2% về khối lượng và 5,6% về giá trị so với cùng kỳ năm 2016 Tuy nhiên, xuất khẩu chè sang Pakistan, thị trường lớn nhất chiếm 29,8% thị phần, giảm 12,8% về khối lượng và 8,5% về giá trị Ngược lại, các thị trường như Tiểu Vương quốc Ả Rập Thống Nhất, Đài Loan và Ả Rập Xê Út ghi nhận sự tăng trưởng mạnh về giá trị xuất khẩu Đối với hạt điều, năm 2017, khối lượng xuất khẩu ước đạt 353 nghìn tấn và giá trị 3,52 tỷ USD, tăng 1,9% về khối lượng và 23,8% về giá trị so với năm 2016 Giá hạt điều xuất khẩu trung bình đạt 9.926,3 USD/tấn, tăng 22,3% so với cùng kỳ năm trước.
2016 Hoa Kỳ, Hà Lan và Trung Quốc vẫn duy trì là 3 thị trường nhập khẩu điều lớn nhất của Việt Nam chiếm thị phần lần lượt là 35%, 15,6% và 12,9%.
Giá trị xuất khẩu hàng rau quả trong tháng 12 năm 2017 ước đạt 276 triệu USD, nâng tổng giá trị xuất khẩu năm 2017 lên 3,45 tỷ USD, tăng 40,5% so với năm 2016 Các thị trường chủ lực bao gồm Trung Quốc, Nhật Bản, Hoa Kỳ và Hàn Quốc.
4 thị trường nhập khẩu hàng đầu của hàng rau quả Việt Nam trong 11 tháng đầu năm 2017 với thị phần lần lượt là 75,7%, 3,7%, 2,9%, và 2,5%.
Sắn và các sản phẩm từ sắn: Khối lượng xuất khẩu sắn và các sản phẩm từ sắn trong tháng 12 năm 2017 ước đạt 446 nghìn tấn với giá trị đạt
132 triệu USD, đưa khối lượng xuất khẩu sắn và các sản phẩm từ sắn năm
2017 ước đạt 3,95 triệu tấn và 1,04 tỷ USD, tăng 6,9% về khối lượng và tăng 4,2% về giá trị so với cùng kỳ năm 2016.
Xuất khẩu nông sản năm 2018 đạt mức kỷ lục mới, với hơn 40 tỷ USD
TIEU LUAN MOI download : skknchat@gmail.com
Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, mặc dù phải đối mặt với áp lực cạnh tranh gay gắt và sự gia tăng bảo hộ nông sản từ nhiều quốc gia, xuất khẩu nông sản Việt Nam năm 2018 vẫn đạt kỷ lục với kim ngạch 11 tháng đầu năm đạt 36,3 tỷ USD, tăng 9,1% so với cùng kỳ năm 2017 Dự báo cả năm sẽ vượt mức 40 tỷ USD, khẳng định vị thế của Việt Nam là cường quốc xuất khẩu nông sản, đứng thứ 15 thế giới và xuất khẩu sang hơn 180 quốc gia và vùng lãnh thổ.
Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, năm 2018, xuất khẩu nông sản của Việt Nam đã duy trì và mở rộng thị phần, với 5 thị trường chính là Trung Quốc (22,9%, tăng 3,6%), Mỹ (17,9%, tăng 9,4%), Nhật Bản (19,1%, tăng 7,1%), ASEAN (10,64%, tăng 11,0%) và Hàn Quốc (6,9%, tăng 29,4%) Ngoài ra, các thị trường mới nổi như Trung Đông, châu Phi và Đông Âu cũng được phát triển một cách bài bản, bổ trợ cho các thị trường trọng điểm.
Trong năm 2018, giá trị xuất khẩu các mặt hàng chủ lực của Việt Nam tăng trưởng, mặc dù một số nông sản chủ lực phải đối mặt với áp lực giảm giá Tuy nhiên, nhiều mặt hàng như gạo, rau quả, cá tra, đồ gỗ và lâm sản đã ghi nhận sự tăng giá trên thị trường quốc tế.
Phân tích ảnh hưởng của Hiệp định CPTPP đối với xuất khẩu nông sản Việt Nam
2.2.1 Bối cảnh ngành nông nghiệp Việt Nam khi thực thi Hiệp định CPTPP
Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) chính thức có hiệu lực tại Việt Nam từ ngày 14/1/2019 Đây là một hiệp định thương mại tự do thế hệ mới với tiêu chuẩn cao, phạm vi cam kết rộng và mức độ cam kết sâu hơn so với các cam kết khi gia nhập WTO cũng như các FTA mà Việt Nam đã tham gia trước đó.
TIEU LUAN MOI download : skknchat@gmail.com
Khi Hiệp định CPTPP có hiệu lực, hầu hết hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam vào các nước CPTPP sẽ được miễn thuế nhập khẩu ngay lập tức hoặc theo lộ trình Đồng thời, một số đối tác CPTPP cũng cam kết giảm thuế nhập khẩu đối với các sản phẩm nông nghiệp của Việt Nam.
Xuất khẩu nông, lâm, sản của Việt Nam vào các nước CPTPP, đặc biệt là Canada và Nhật Bản, sẽ được hưởng thuế xuất khẩu giảm xuống 0%, thay vì mức 5-10% như hiện nay Canada đã cam kết xóa bỏ thuế nhập khẩu cho 95% số dòng thuế ngay khi Hiệp định có hiệu lực, trong đó 100% kim ngạch xuất khẩu gạo, rau và hoa quả sẽ được miễn thuế Ngoài ra, 100% kim ngạch xuất khẩu gỗ và 78% kim ngạch xuất khẩu nông sản của Việt Nam cũng sẽ được xóa bỏ thuế quan Dù dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, xuất khẩu nông, lâm, thủy sản của Việt Nam sang Canada vẫn ghi nhận mức tăng trưởng hai con số trong năm qua.
Năm 2020, Việt Nam đã tận dụng tốt lợi thế từ Hiệp định CPTPP, với kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản sang Canada đạt 636,21 triệu USD, tăng 10,7% so với năm 2019 Canada trở thành một trong những thị trường xuất khẩu ghi nhận tăng trưởng tích cực của Việt Nam trong năm nay Việc gia tăng xuất khẩu sang Canada không chỉ mang lại cơ hội cho nông, lâm, thủy sản Việt Nam mà còn mở ra khả năng tiếp cận các thị trường khác, nhờ Canada là cửa ngõ toàn cầu với 14 Hiệp định thương mại và gần 1,5 tỷ người tiêu dùng, tổng GDP đạt 49.300 tỷ USD.
Nhật Bản cam kết xóa bỏ thuế cho 86% số dòng thuế ngay khi Hiệp định có hiệu lực, tương đương với 93,6% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản, và gần 90% số dòng thuế sẽ được xóa bỏ sau 5 năm Đồng thời, Việt Nam cũng đạt thỏa thuận xóa bỏ thuế quan cho 97% kim ngạch xuất khẩu gỗ tại thị trường Nhật Bản.
TIEU LUAN MOI download : skknchat@gmail.com
Australia cam kết cắt giảm 93% số dòng thuế, tương đương 95,8% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường này, khoảng 2,9 tỷ USD, ngay khi Hiệp định có hiệu lực Các sản phẩm còn lại sẽ được xóa bỏ thuế theo lộ trình cắt giảm tối đa vào năm thứ 4 Đặc biệt, các mặt hàng nông sản của Việt Nam như gạo, rau và hoa quả sẽ được miễn thuế ngay khi Hiệp định có hiệu lực.
Mexico sẽ xóa bỏ 77,2% số dòng thuế ngay khi Hiệp định có hiệu lực, tương ứng với 36,5% kim ngạch nhập khẩu từ Việt Nam Đến năm thứ 10 kể từ khi Hiệp định có hiệu lực, nước này sẽ loại bỏ thuế quan đối với 98% số dòng thuế.
Thị trường Peru cam kết loại bỏ thuế quan đối với các sản phẩm nông sản chủ lực của Việt Nam như hạt điều, chè, tiêu, rau quả và một số loại cà phê Trong khi đó, Brunei sẽ xóa bỏ thuế ngay khi hiệp định có hiệu lực cho các sản phẩm thịt gà, thịt lợn, cũng như các sản phẩm chế biến và chăn nuôi khác.
Việc Canada, Úc và Nhật Bản giảm thuế nhập khẩu về 0% cho nông sản Việt Nam sẽ thúc đẩy kim ngạch xuất khẩu, tạo ra cơ hội lớn cho các mặt hàng nông sản của Việt Nam.
2.2.2 Cơ hội và thách thức của Hiệp định CPTPP đối với xuất khẩu nông sản Việt Nam
2 2.2.1 Cơ hộ i c ủ a Hi ệp định CPTPP đố i v ớ i xu ấ t kh ẩ u nông s ả n Vi ệ t Nam
Việt Nam sở hữu lợi thế nông nghiệp nổi bật so với nhiều quốc gia trong CPTPP Nếu khai thác hiệu quả cơ hội mở rộng thị trường từ CPTPP, nông nghiệp Việt Nam có khả năng duy trì thặng dư thương mại ổn định.
Ngành nông nghiệp Việt Nam vẫn còn nhiều tiềm năng phát triển, với khả năng đóng góp tích cực cho sự tăng trưởng kinh tế Để khai thác triệt để những cơ hội này, cần có những chiến lược và giải pháp hiệu quả.
Mở rộng thị trường tiêu dùng sản phẩm nông nghiệp
Các mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực của Việt Nam vào CPTPP bao gồm gỗ, sản phẩm gỗ và thủy sản, đặc biệt là tôm và cá tra, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu nông nghiệp Hiện tại, xuất khẩu nông sản của Việt Nam chủ yếu tập trung vào một số mặt hàng chính và ít đối tác lớn trong CPTPP Tham gia CPTPP mang lại cơ hội cho Việt Nam mở rộng xuất khẩu sang các thị trường lớn như Mexico, Australia và Canada, đồng thời đa dạng hóa sản phẩm nông sản Doanh nghiệp Việt Nam sẽ được hưởng lợi từ cam kết cắt giảm thuế quan, giúp tăng cường khả năng tiếp cận các thị trường lớn nhất thế giới.
Tăng tính kết nối giữa các doanh nghiệp thông qua việc tham gia chuỗi cung ứng khu vực và toàn cầu
Các nước CPTPP chiếm 13,5% GDP toàn cầu và có tổng kim ngạch thương mại hơn 10.000 tỷ USD, bao gồm nhiều thị trường lớn như Nhật Bản, Canada và Úc Tham gia CPTPP sẽ thúc đẩy sự phát triển của chuỗi cung ứng mới, nâng cao trình độ phát triển của nền kinh tế và nông nghiệp Việt Nam Điều này sẽ tăng năng suất lao động, giúp doanh nghiệp tham gia vào các công đoạn sản xuất có giá trị gia tăng cao hơn, từ đó tạo động lực cho việc đầu tư sản xuất trong nước, giảm xuất khẩu nguyên liệu và sơ chế, đồng thời phát triển chuỗi giá trị và chuỗi cung ứng, tăng cường xuất khẩu sản phẩm.
Tải xuống TIEU LUAN MOI tại địa chỉ skknchat@gmail.com để khám phá những phương pháp chế biến nông sản có giá trị gia tăng cao Đây là cơ hội lớn giúp nâng cao vị thế nền nông nghiệp Việt Nam trong vòng 5 - 10 năm tới.
Nâng cao chất lượng sản phẩm
CPTPP mang lại cơ hội cho doanh nghiệp chủ động thích ứng với thay đổi môi trường kinh doanh do hội nhập kinh tế quốc tế, thông qua việc điều chỉnh kế hoạch kinh doanh trung và dài hạn để thúc đẩy xuất khẩu vào các thị trường tiềm năng Doanh nghiệp Việt Nam cần tuân thủ nghiêm ngặt các tiêu chuẩn của thị trường trong khối để nâng cao sức cạnh tranh cho sản phẩm Hàng nông sản Việt Nam cũng phải đối mặt với áp lực cạnh tranh từ hàng hóa các nước CPTPP tràn vào thị trường nội địa, tạo động lực cho doanh nghiệp cải cách mô hình kinh doanh và đầu tư vào dây chuyền sản xuất cũng như nguồn lực lao động.
Những định hướng và giải pháp thúc đẩy xuất khẩu nông sản Việt
Triển vọng xuất khẩu nông sản Việt Nam trong điều kiện thực thi
Dưới tác động của CPTPP, Bộ Công Thương nhận định rằng Việt Nam đang đứng trước nhiều cơ hội phát triển Các sản phẩm nông sản chủ lực như gỗ, sản phẩm gỗ và thủy sản, đặc biệt là tôm và cá tra, đang có kim ngạch xuất khẩu cao, đóng góp lớn vào tổng xuất khẩu nông nghiệp Tuy nhiên, hoạt động xuất khẩu nông sản hiện tại của Việt Nam vẫn chỉ tập trung vào một số mặt hàng chính và một vài đối tác lớn trong CPTPP.
Trong thời gian tới, Việt Nam sẽ mở rộng danh mục các mặt hàng nông sản, không chỉ tập trung vào những sản phẩm chủ lực Với lợi thế về nông sản vượt trội hơn so với các quốc gia trong Hiệp định, chúng ta có cơ hội phát triển đa dạng các mặt hàng nông sản đạt tiêu chuẩn CTPTT để xuất khẩu sang các thị trường quốc tế.
Đẩy mạnh hợp tác xuất khẩu giữa các nước thành viên Hiệp định CPTPP là cần thiết, đặc biệt khi các quốc gia không có lợi thế về nông nghiệp sẽ chuyển hướng đầu tư sang Việt Nam Hoạt động đầu tư xuyên quốc gia cần đi kèm với việc áp dụng khoa học công nghệ và nâng cao kỹ năng lao động để tối ưu hóa lợi ích Sự giảm bớt hàng rào bảo hộ nông nghiệp sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc thu hút nguồn vốn đầu tư từ các nước khác.
Việt Nam cần tiếp tục tận dụng lợi thế thuế quan cho xuất khẩu nông sản và sử dụng hợp lý các trợ cấp nông sản Các cam kết về trợ cấp nông sản trong Hiệp định CPTPP mở ra cơ hội lớn cho nước ta để thu hút sự ưu ái từ thị trường quốc tế Đồng thời, việc tăng cường kết nối giữa các doanh nghiệp thông qua tham gia chuỗi cung ứng khu vực và toàn cầu là rất cần thiết.
TIEU LUAN MOI download : skknchat@gmail.com
Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu nông sản Việt Nam nhằm khai thác Hiệp định CPTPP
Hiệp định CPTPP đã tạo ra nhiều cơ hội cho thị trường Việt Nam, nâng cao khả năng cạnh tranh quốc tế Tuy nhiên, nông sản Việt Nam cũng đối mặt với những thách thức lớn Để tận dụng tối đa Hiệp định, cần triển khai các biện pháp phù hợp.
Nhà nước đã triển khai chính sách khuyến khích người dân tham gia sản xuất và phát triển kinh doanh nông sản cùng các doanh nghiệp lớn, nhằm mở rộng quy mô sản xuất và đáp ứng yêu cầu của Hiệp định CPTPP Đặc biệt, các quy định nghiêm ngặt về an toàn vệ sinh thực phẩm đã được thiết lập để xử lý các hành vi sử dụng thuốc kích thích và các loại thuốc ảnh hưởng đến chất lượng nông sản và sức khỏe con người Để đáp ứng các thị trường khó tính, cần có quy định cao hơn về chất lượng nông sản và đảm bảo tuân thủ các quy định của Hiệp định SPS Bên cạnh đó, các biện pháp hỗ trợ người nông dân trong sản xuất và nâng cao chất lượng sản phẩm cũng được chú trọng, bao gồm tuyên truyền về tiêu chuẩn SPS, hướng dẫn kỹ thuật nuôi trồng hiện đại và phát triển giống cây Mặc dù đã có nhiều biện pháp khuyến khích, cần tiếp tục thúc đẩy sự tham gia tích cực của người dân trong sản xuất nông sản.
Tải luận văn mới tại địa chỉ skknchat@gmail.com Mặc dù đã áp dụng nhiều biện pháp, nhưng hiệu quả vẫn chưa cao Các hợp tác xã và doanh nghiệp kinh doanh nông sản vẫn còn nhỏ lẻ, chưa khai thác hết tiềm năng phát triển của nông sản.
Doanh nghiệp và nông dân cần tuân thủ nghiêm ngặt các quy định của Nhà nước và tiêu chuẩn Hiệp định SPS để nâng cao uy tín nông sản Việt Nam trên thị trường quốc tế, đặc biệt trong khuôn khổ CPTPP Việc mở rộng quy mô sản xuất và áp dụng các phương thức, kỹ thuật nuôi trồng hiện đại sẽ mang lại hiệu quả cao Học hỏi và cải tiến chất lượng sản phẩm là lợi thế lớn cho cả doanh nghiệp và nông dân Do đó, cần tìm hiểu kỹ các khâu nuôi trồng, giống cây và quy định tiêu chuẩn để nâng cao chất lượng sản phẩm Bên cạnh đó, việc đa dạng hóa mặt hàng nông sản và linh hoạt trong sản xuất, từ sản phẩm tươi đến sản phẩm chế biến, sẽ giúp nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường quốc tế và đáp ứng nhanh chóng các thay đổi của thị trường.
Kết luận
Hội nhập kinh tế quốc tế không chỉ duy trì hòa bình và ổn định, mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh tế và nâng cao tính minh bạch trong các chính sách và cơ chế quản lý Là thành viên của CPTPP và sở hữu thế mạnh về nông sản, Việt Nam đã tận dụng cơ hội này để nâng cao vị thế trên trường quốc tế.
Tải luận văn mới tại: skknchat@gmail.com Để thúc đẩy sự phát triển xuất khẩu, đặc biệt là nông sản, cần phát huy những thế mạnh và ưu điểm hiện có Mặc dù đối mặt với nhiều khó khăn, nhưng với sự chỉ đạo của Đảng và Nhà nước cùng tinh thần hợp tác của người dân, nông sản Việt Nam sẽ có nhiều cơ hội được biết đến hơn Xuất khẩu của Việt Nam sẽ ngày càng phát triển, góp phần vào sự thịnh vượng của nền kinh tế quốc gia.
TIEU LUAN MOI download : skknchat@gmail.com