BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ ~~~~~~~~~~~~ TIỂU LUẬN CUỐI KỲ CUỘC CÁCH MẠNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA CHỈ CÓ THỂ THẮNG LỢI – THÀNH CÔNG KHI VÀ CHỈ KHI CÓ SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN TẠI SAO? LIÊN HỆ CÁCH MẠNG VIỆT NAM Môn học CHỦ NGHĨA KHOA HỌC XÃ HỘI Giảng viên hướng dẫn Sinh viên Thực hiện Nhóm Họ và Tên MSSV STT 1 2 3 4 5 Tháng 6, năm 2021 Thành phố Hồ Chí Minh NHÓM THỰC HIỆN NHÓM 13 Họ và tên thành viên MS.
LUẬN CỨ LÝ LUẬN
CÁCH MẠNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
Cách mạng xã hội chủ nghĩa là quá trình chuyển đổi từ chế độ tư bản chủ nghĩa sang chế độ xã hội chủ nghĩa, với giai cấp công nhân đóng vai trò lãnh đạo Cuộc cách mạng này nhằm mục tiêu xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ và văn minh, kết hợp với sự tham gia của quần chúng nhân dân lao động.
Cách mạng XHCN, theo nghĩa hẹp, là một cuộc cách mạng chính trị, trong đó giai cấp công nhân và nhân dân lao động giành quyền lực, thiết lập nhà nước chuyên chính vô sản, đại diện cho lợi ích của giai cấp công nhân và quần chúng nhân dân lao động.
Cách mạng XHCN bao gồm hai giai đoạn chính: giai đoạn đầu là cách mạng chính trị nhằm thiết lập nhà nước chuyên chính vô sản, tiếp theo là giai đoạn công nhân và nhân dân lao động sử dụng quyền lực nhà nước để cải tạo toàn diện xã hội cũ, với mục tiêu đạt được thành công trong việc xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
NGUYÊN NHÂN DẪN ĐẾN CUỘC CÁCH MẠNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
Nguyên nhân cốt lõi của mọi cuộc Cách mạng xã hội trong lịch sử là sự phát triển của lực lượng sản xuất (LLSX) làm cho quan hệ sản xuất (QHSX) hiện tại trở nên không còn phù hợp Điều này dẫn đến nhu cầu thiết yếu phải thay thế QHSX lạc hậu bằng một QHSX mới, tiên tiến hơn.
C.Mác và Ph.Ăngghen nhấn mạnh rằng, các quan hệ sản xuất, vốn là hình thức phát triển của lực lượng sản xuất, đã trở thành những rào cản đối với sự phát triển này Điều này đánh dấu sự khởi đầu của một cuộc cách mạng xã hội.
Cách mạng XHCN xuất phát từ mâu thuẫn nội tại của phương thức sản xuất TBCN, cụ thể là sự bất hợp lý giữa lực lượng sản xuất xã hội phát triển mạnh mẽ và quan hệ sản xuất tư nhân TBCN không còn phù hợp với trình độ phát triển này.
Mâu thuẫn cơ bản và nội tại của chế độ tư bản chủ nghĩa ngày càng trở nên gay gắt, dẫn đến tình trạng vô chính phủ trong sản xuất, khủng hoảng sản xuất thừa, khủng hoảng chu kỳ và thất nghiệp Sự tích tụ tư bản buộc giai cấp tư sản phải thừa nhận mâu thuẫn này thông qua việc tổ chức các liên minh, quốc hữu hóa một số ngành và thành lập công ty độc quyền xuyên quốc gia Tuy nhiên, những biện pháp này chỉ là tạm thời để duy trì quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, trong khi thực tế đã không còn phù hợp với trình độ xã hội hóa của lực lượng sản xuất Sự phù hợp thực sự chỉ có thể đạt được bằng cách thay thế quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa bằng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa thông qua cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Mâu thuẫn kinh tế giữa lực lượng sản xuất có tính xã hội cao và quan hệ sản xuất tư nhân trong chủ nghĩa tư bản đã tạo ra xung đột giai cấp giữa công nhân và tư sản Sự đối kháng này không chỉ phản ánh sự phát triển của mâu thuẫn kinh tế mà còn là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến cách mạng xã hội chủ nghĩa Do đó, sự phát triển của mâu thuẫn này là yếu tố quan trọng, góp phần vào sự bùng nổ tất yếu của cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Chủ nghĩa tư bản (CNTB) ngày càng phát triển đồng nghĩa với việc các mâu thuẫn nội tại trở nên sâu sắc hơn Bên cạnh đó, CNTB cũng tạo ra nhiều mâu thuẫn gay gắt với các dân tộc và quốc gia thuộc địa, cũng như giữa các nước tư bản với nhau Những xung đột này, cùng với chủ nghĩa khủng bố phát sinh từ tham vọng bành trướng và khai thác tài nguyên của các nước đế quốc, đang trở thành những yếu tố quan trọng dẫn đến sự cần thiết của cách mạng xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở các nước tư bản.
Cách mạng XHCN sẽ nổ ra khi có sự kết hợp giữa những nguyên nhân sâu xa và trực tiếp, cùng với sự chín muồi của các yếu tố khách quan trong lịch sử Sự bùng nổ của cách mạng phụ thuộc vào nỗ lực của giai cấp công nhân và Đảng Cộng sản tại mỗi quốc gia Khi các điều kiện khách quan và chủ quan đạt đến độ chín muồi, sẽ xuất hiện tình thế và thời cơ cho cách mạng, cho phép giai cấp công nhân, dưới sự lãnh đạo của Đảng, tiến hành cách mạng XHCN một cách thắng lợi.
GIAI CẤP CÔNG NHÂN
Giai cấp công nhân là một tập đoàn xã hội ổn định, hình thành và phát triển song song với nền công nghiệp hiện đại Họ đóng vai trò là lực lượng lao động tiên tiến trong các quy trình công nghệ và dịch vụ công nghiệp, tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào quá trình sản xuất và tái sản xuất của cải vật chất Giai cấp công nhân không chỉ đại diện cho lực lượng sản xuất mà còn phản ánh phương thức sản xuất tiên tiến trong thời đại ngày nay.
Giai cấp công nhân mang hai thuộc tính cơ bản:
Phương thức lao động và sản xuất hiện đại bao gồm những người lao động, cả trực tiếp lẫn gián tiếp, tham gia vào việc vận hành các công cụ sản xuất có tính chất công nghiệp ngày càng tiên tiến và xã hội hóa cao.
Trong quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, giai cấp công nhân là những người lao động không sở hữu tư liệu sản xuất, buộc phải bán sức lao động cho nhà tư bản Họ chịu sự bóc lột về giá trị thặng dư, điều này phản ánh một trong những đặc trưng cơ bản của giai cấp công nhân trong chế độ này Do đó, C.Mác và Ph.Ăngghen đã gọi giai cấp công nhân là giai cấp vô sản.
*Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân:
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là xoá bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa và sự bóc lột giữa người với người Mục tiêu là giải phóng giai cấp công nhân và nhân dân lao động, đồng thời giải phóng toàn thể nhân loại khỏi áp bức, bóc lột, và tình trạng nghèo nàn lạc hậu Cuối cùng, giai cấp công nhân hướng tới việc xây dựng một xã hội cộng sản chủ nghĩa văn minh.
Ph Ăngghen nhấn mạnh rằng sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản hiện đại là giải phóng thế giới, trong khi V.I Lênin khẳng định vai trò quan trọng của giai cấp vô sản trong việc xây dựng xã hội chủ nghĩa Tại Việt Nam, giai cấp công nhân cần thực hiện cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, với nhiệm vụ lãnh đạo thông qua Đảng Cộng sản Việt Nam, nhằm giành chính quyền và thiết lập nền chuyên chính dân chủ nhân dân Trong giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa, giai cấp công nhân sẽ dẫn dắt nhân dân lao động xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, xóa bỏ tình trạng bóc lột và áp bức, mang lại công bằng cho mọi người.
SỰ RA ĐỜI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
2.1 ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI TỪ SỰ KẾT HỢP CHỦ NGHĨA
MÁC - LÊNIN VỚI PHONG TRÀO CÔNG NHÂN VÀ PHONG TRÀO YÊU NƯỚC.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã vận dụng và phát triển sáng tạo những nguyên tắc cơ bản của V.I Lênin về Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân Điều này khẳng định tính chính danh và sứ mệnh lãnh đạo cách mạng của Đảng, đồng thời chứng minh Đảng là chính đảng mácxít mang bản chất giai cấp công nhân Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời từ sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác - Lênin và phong trào công nhân, với cống hiến nổi bật của Hồ Chí Minh là luận điểm về sự thành lập chính đảng của giai cấp vô sản tại một nước thuộc địa, nửa phong kiến Ở các nước phương Đông như Việt Nam, giai cấp công nhân tuy nhỏ bé nhưng đã có sự tập trung, và Hồ Chí Minh đã định hướng cho phong trào yêu nước và phong trào công nhân chuyển biến từ lập trường quốc gia sang khuynh hướng mácxít, từ tự phát sang tự giác Như Người đã khái quát trong tác phẩm "Ba mươi năm hoạt động của Đảng", chủ nghĩa Mác - Lênin kết hợp với phong trào công nhân và phong trào yêu nước đã dẫn đến sự thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương vào đầu năm 1930.
2.2 HỘI NGHỊ HỢP NHẤT CÁC TỔ CHỨC CỘNG SẢN, THÀNH LẬP ĐẢNG CỘNG
Dưới sự lãnh đạo của Nguyễn Ái Quốc, Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản Việt Nam diễn ra từ ngày 6/1 đến 7/2/1930 tại Hồng Kông, đánh dấu một sự kiện lịch sử quan trọng trong việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Hội nghị đã thống nhất ba tổ chức Cộng sản tại Việt Nam, bao gồm Đông Dương Cộng sản Đảng, An Nam Cộng sản Đảng và Đông Dương Cộng sản Liên đoàn, thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam Mục tiêu của đảng là lãnh đạo phong trào cách mạng nhằm giải phóng dân tộc, giai cấp, xã hội và con người, tiến tới xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Hội nghị đã thông qua Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt và Điều lệ vắn tắt, trong đó, Chánh cương vắn tắt và Sách lược vắn tắt thể hiện nội dung cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Hội nghị cũng ban hành Lời kêu gọi nhân dịp thành lập Đảng Cộng sản Việt
Nam của đồng chí Nguyễn Ái Quốc thay mặt Quốc tế Cộng sản và Đảng Cộng sản Việt
Nam gửi đến công nhân, nông dân, binh lính, thanh niên, học sinh và tất cả đồng bào bị áp bức, bóc lột.
Trải qua 90 năm xây dựng và phát triển, Đảng Cộng sản Việt Nam đã trải qua
12 kỳ Đại hội Mỗi kỳ Đại hội Đảng là một mốc lịch sử quan trọng ghi nhận, đánh dấu những thắng lợi, thành tựu của cách mạng Việt Nam.
2.3 MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ QUAN HỆ SẢN XUẤT Đảng chính trị là tổ chức cao nhất, đại biểu tập trung cho trí tuệ và lợi ích của toàn thể giai cấp Đối với giai cấp công nhân đó là Đảng Cộng sản, chẳng những đại biểu cho trí tuệ và lợi ích của giai cấp công nhân mà còn đại biểu cho toàn thể nhân dân lao động và dân tộc.
Để giai cấp công nhân hoàn thành sứ mệnh lịch sử, cần có một đảng chính trị vững mạnh, kiên định và sáng suốt, với đường lối chiến lược và sách lược đúng đắn, phản ánh lợi ích của toàn bộ giai cấp và phong trào.
Giai cấp công nhân là nền tảng xã hội của Đảng, cung cấp lực lượng cho sự phát triển của Đảng, trong khi Đảng giữ vai trò là đội tiên phong và bộ tham mưu của giai cấp Mối liên hệ giữa Đảng và giai cấp công nhân là chặt chẽ và không thể tách rời, thể hiện qua lợi ích, nguyện vọng và trí tuệ của giai cấp này Dù không phải tất cả đảng viên Đảng Cộng sản đều là công nhân, họ vẫn cần có nhận thức rõ ràng về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và đứng trên lập trường của họ.
Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản chân chính là sự lãnh đạo của giai cấp, với Đảng giữ vai trò cao nhất trong lý luận và tổ chức để dẫn dắt cả giai cấp và dân tộc Đảng không chỉ mang lại giác ngộ cho giai cấp công nhân mà còn thúc đẩy sức mạnh đoàn kết và nghị lực cách mạng trong toàn bộ dân tộc Để hoàn thành sứ mệnh lịch sử, giai cấp công nhân và từng cá nhân cần nỗ lực vươn lên trong tư tưởng, chính trị, văn hóa, khoa học kỹ thuật và tay nghề Các tổ chức nghiệp đoàn và công đoàn cần phát triển mạnh mẽ, đồng hành cùng sự phát triển của nền sản xuất công nghiệp hiện đại.
SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM QUA CÁC GIAI ĐOẠN CÁCH MẠNG
NAM QUA CÁC GIAI ĐOẠN CÁCH MẠNG
3.1 ĐẢNG LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN TA GIÀNH CHÍNH QUYỀN VÀ
BẢO VỆ ĐỘC LẬP DÂN TỘC
3.1.1 Đảng lãnh đạo cuộc đấu tranh giành chính quyền
Sau khi thành lập, Đảng đã dẫn dắt nhân dân trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc và giành chính quyền thông qua ba cao trào cách mạng quan trọng, góp phần quyết định vào thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945.
Cao trào cách mạng 1930-1931, đặc biệt là phong trào Xô Viết - Nghệ Tĩnh, đã làm rung chuyển chế độ thực dân Pháp và tay sai, thể hiện sức mạnh của Đảng quần chúng trong việc trừng trị các thế lực cường hào, phản động Sự kiện này đã dẫn đến việc thành lập chính quyền cách mạng tại một số địa phương theo hình thức Xô Viết Thời kỳ này khẳng định đường lối cách mạng Việt Nam là đúng đắn và để lại những bài học quý báu về xây dựng liên minh công-nông, Mặt trận Dân tộc Thống nhất, cùng với việc phát động phong trào quần chúng đấu tranh giành và bảo vệ chính quyền.
Cao trào cách mạng đòi dân sinh, dân chủ (1936 - 1939) đã thể hiện sức mạnh đoàn kết của quần chúng nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, buộc chính quyền thực dân phải nhượng bộ một số yêu cầu về dân sinh và dân chủ Quần chúng được giác ngộ chính trị, trở thành lực lượng chính trị hùng hậu của cách mạng Qua đó, Đảng đã tích lũy nhiều bài học kinh nghiệm quý giá trong việc xây dựng Mặt trận Dân tộc Thống nhất và tổ chức, lãnh đạo quần chúng đấu tranh công khai, hợp pháp.
Cao trào cách mạng giải phóng dân tộc (1939 - 1945) diễn ra dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, với Nguyễn Ái Quốc là lãnh tụ vĩ đại, đã kết hợp sự đoàn kết và tinh thần chiến đấu kiên cường của đảng viên, chiến sĩ và nhân dân yêu nước Cuộc kháng chiến này đã kết thúc thắng lợi với cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945, đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong lịch sử dân tộc.
Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945 đã chấm dứt sự thống trị của thực dân và phong kiến, mở ra một kỷ nguyên mới cho dân tộc Việt Nam Ngày 2/9/1945, tại quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đánh dấu sự ra đời của nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á Cách mạng tháng Tám không chỉ mang lại độc lập cho dân tộc mà còn khẳng định quyền làm chủ của nhân dân trong xây dựng xã hội.
Giai cấp lao động và nhân dân Việt Nam, cùng với các dân tộc bị áp bức khác, có quyền tự hào khi lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng thuộc địa, một Đảng mới chỉ 15 tuổi đã lãnh đạo thành công cuộc cách mạng và nắm giữ chính quyền toàn quốc.
3.1.2 Đảng lãnh đạo cuộc đấu tranh bảo vệ chính quyền cách mạng
Ngay khi thành lập, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã phải đối mặt với ba thách thức lớn: nạn đói, nạn dốt và giặc ngoại xâm Nạn đói vào đầu năm 1945 đã cướp đi sinh mạng của hơn hai triệu người ở miền Bắc, trong khi tỷ lệ mù chữ lên tới hơn 95% trong dân số.
Trước mối đe dọa từ 200.000 quân Tưởng và hơn 150.000 quân Pháp được hỗ trợ bởi liên quân Anh - Ấn, vận mệnh đất nước đang ở trong tình thế nguy cấp Đảng ta, dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã nhanh chóng đưa ra các chủ trương và quyết sách đúng đắn trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội, an ninh và quốc phòng Đối phó với các thế lực thù địch, chúng ta thực hiện sách lược mềm dẻo, khai thác mâu thuẫn và phân hoá chúng, đồng thời củng cố lực lượng để chuẩn bị cho kháng chiến Với đường lối chính trị vừa cứng rắn vừa linh hoạt, Đảng ta đã khơi dậy sức mạnh đoàn kết toàn dân, vượt qua muôn vàn khó khăn để giữ vững chính quyền và chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài chống thực dân Pháp.
3.1.3 Đảng lãnh đạo cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược
Mặc dù Chính phủ và nhân dân ta khao khát độc lập và hòa bình, chúng ta đã có những nhượng bộ, nhưng thực dân Pháp vẫn tiếp tục xâm lấn với ý đồ cướp nước ta lần nữa.
Lịch sử đã thử thách dân tộc ta trong việc bảo vệ độc lập, dẫn đến Lời kêu gọi kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh vào đêm 19-12-1946 Nhân dân cả nước đồng loạt đứng lên với quyết tâm bảo vệ đất nước, không chấp nhận làm nô lệ Với đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện và trường kỳ, Đảng đã lãnh đạo nhân dân vượt qua khó khăn, giành thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đặc biệt là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ Thắng lợi này không chỉ khẳng định ý chí kiên cường của dân tộc mà còn mở ra một trang sử mới cho đất nước.
Hồ Chí Minh khẳng định rằng Việt Nam đã tạo nên một kỳ tích lịch sử khi lần đầu tiên một nước thuộc địa nhỏ yếu đánh bại một nước thực dân hùng mạnh Đây không chỉ là chiến thắng vĩ đại của nhân dân Việt Nam mà còn là thành công của các lực lượng hòa bình, dân chủ và xã hội chủ nghĩa trên toàn thế giới.
Thắng lợi này khẳng định rằng, trong bối cảnh hiện nay, một dân tộc dù nhỏ yếu nhưng khi đoàn kết và kiên quyết đấu tranh dưới sự lãnh đạo của Đảng Mác - Lênin, sẽ có đủ sức mạnh để đánh bại mọi kẻ thù xâm lược Đồng thời, thắng lợi cũng chứng minh rằng chỉ có sự lãnh đạo đúng đắn của giai cấp công nhân, mà Đảng ta đại diện, cùng với đường lối cách mạng khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, mới có thể giúp nhân dân ta giành lại tự do và độc lập.
3.1.4 Đảng lãnh đạo nhân dân ta tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược (1954-1975)
Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, cách mạng Việt Nam bước vào giai đoạn mới, trong đó đất nước tạm thời bị chia thành hai miền với hai chế độ chính trị - xã hội đối lập Đảng xác định rằng con đường phát triển tất yếu của cách mạng Việt Nam là thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược.
Một là, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, xây dựng miền Bắc thành căn cứ địa vững mạnh của cách mạng cả nước.
Hai là, tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, chống đế quốc
Mỹ và bè lũ tay sai, giải phóng miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà.
Mặc dù mỗi miền Việt Nam thực hiện những nhiệm vụ chiến lược khác nhau, nhưng chúng có mối quan hệ chặt chẽ và tương hỗ Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc đóng vai trò quyết định trong sự phát triển chung của cách mạng Việt Nam, trong khi cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam giữ vị trí quan trọng, góp phần trực tiếp vào sự nghiệp giải phóng miền Nam và thống nhất đất nước.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ với tinh thần "Không có gì quý hơn độc lập, tự do" Trong cuộc chiến này, đế quốc Mỹ đã huy động lực lượng quân sự khổng lồ nhằm tiêu diệt lực lượng cách mạng Trải qua 21 năm chiến đấu kiên cường, nhân dân ta đã vượt qua mọi khó khăn, hy sinh và nhận được sự ủng hộ từ các lực lượng tiến bộ trên thế giới, đánh bại các chiến lược chiến tranh của đế quốc.
NHỮNG KINH NGHIỆM VÀ BÀI HỌC CỦA ĐẢNG TRONG QUÁ TRÌNH LÃNH ĐẠO CÁCH MẠNG VIỆT NAM
5.1 NẮM VỮNG NGỌN CỜ ĐỘC LẬP DÂN TỘC VÀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI.
Giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và Chủ nghĩa xã hội (CNXH) là một bài học quan trọng mà Đảng ta đã giải quyết đúng đắn và sáng tạo, phù hợp với điều kiện lịch sử của thời đại mới về mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp Đường lối này đã được thực hiện qua các thời kỳ đấu tranh cách mạng, thể hiện sự nhất trí cao trong những năm đầu giữa những người cộng sản Việt Nam Tuy nhiên, đã có sự không nhất trí về chiến lược, khi nhiệm vụ giải phóng dân tộc được đặt lên hàng đầu, trong khi cách mạng ruộng đất thực hiện từng bước Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta nhận thức rõ rằng việc đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu là yếu tố quyết định cho thắng lợi của cách mạng Việt Nam Trong thời kỳ tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã khẳng định rằng sự nghiệp cứu nước chỉ có thể gắn liền với cuộc cách mạng vô sản, do giai cấp công nhân lãnh đạo Các tài liệu như "Chính cương vắn tắt" và "Luận cương chính trị" đều xác định cách mạng Việt Nam trước hết là cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, sau đó là cách mạng XHCN, với mục tiêu cuối cùng là xây dựng Chủ nghĩa cộng sản ở Việt Nam Từ khi có Đảng, đường lối kết hợp độc lập dân tộc và CNXH đã trở thành ngọn cờ bách chiến bách thắng của cách mạng Việt Nam.
Hồ Chí Minh đã nhận thức rõ mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội (CNXH), nhấn mạnh rằng giải phóng dân tộc phải đi đôi với giải phóng giai cấp và xã hội Từ thế kỷ XVI đến XIX, giai cấp tư sản từng là lực lượng tiên tiến, nhưng khi chủ nghĩa tư bản chuyển sang chủ nghĩa đế quốc, giai cấp này trở thành phản động, ngăn cản tiến trình lịch sử Giai cấp vô sản (GCVS) đã ra đời và trở thành lực lượng tiên tiến, đại diện cho phương thức sản xuất mới, gắn liền với CNXH Hồ Chí Minh khẳng định rằng con đường cứu nước chỉ có thể thông qua cách mạng vô sản, nơi giải phóng GCVS sẽ dẫn đến giải phóng dân tộc Tư tưởng của Người phản ánh chân lý rằng độc lập dân tộc phải gắn liền với CNXH, và Đảng Cộng sản Việt Nam đã tiếp thu và phát triển tư tưởng này, lãnh đạo cách mạng Việt Nam đạt được nhiều thắng lợi.
5.2 SỰ NGHIỆP CÁCH MẠNG LÀ CỦA NHÂN DÂN, DO NHÂN DÂN VÀ VÌ NHÂN DÂN
Việc lắng nghe ý kiến của nhân dân để hoàn thiện đường lối lãnh đạo là truyền thống quý báu của Đảng ta Từ khi thành lập, Đảng luôn nắm bắt kịp thời tâm tư và nguyện vọng của mọi tầng lớp trong xã hội, đáp ứng những lợi ích chính đáng của họ Đảng thể hiện thái độ nghiêm túc trong việc lắng nghe, không ngừng nâng cao và hoàn thiện khả năng lãnh đạo Qua đó, Đảng đã tập hợp những ý kiến sáng suốt từ nhân dân, biến chúng thành những quyết định đúng đắn, thuyết phục quần chúng và lãnh đạo toàn dân đạt được những chiến công vĩ đại.
Để xây dựng Đảng dựa vào dân, cần khuyến khích quần chúng nhân dân đóng góp ý kiến cho dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng Các cấp ủy đảng và lãnh đạo địa phương cần thông tin về những tư tưởng và quan điểm mới trong dự thảo, đồng thời động viên các đồng chí lão thành cách mạng, cán bộ hưu trí, nhân sĩ, trí thức, văn nghệ sĩ, chuyên gia, nhà khoa học và kiều bào ở nước ngoài tích cực tham gia vào quá trình xây dựng này.
Đảng ta luôn khuyến khích mở rộng dân chủ và phát huy trí tuệ của các tổ chức, đảng viên và nhân dân trong việc xây dựng dự thảo văn kiện Quy trình lấy ý kiến nhân dân là bắt buộc trong việc chuẩn bị cho Đại hội Đảng toàn quốc Tuy nhiên, trong nhiều nhiệm kỳ trước, các thế lực thù địch đã lợi dụng quy trình này để đưa ra những ý kiến sai lệch, nhằm chia rẽ Đảng và giảm sút lòng tin của nhân dân Để ngăn chặn hành vi lợi dụng dân chủ và bảo vệ Đảng, các cấp ủy và toàn dân cần kiên quyết phản bác những thông tin sai trái, đồng thời phát hiện và xử lý nghiêm các hành vi xuyên tạc, chống phá Đại hội XIII của Đảng.
Quân đội ta là lực lượng vũ trang của nhân dân, do nhân dân xây dựng và vì lợi ích của nhân dân, luôn được lãnh đạo tuyệt đối và trực tiếp bởi Đảng Thời gian qua, quân đội đã nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu, đồng thời xây dựng Đảng bộ Quân đội vững mạnh và gương mẫu Đảng bộ Quân đội và toàn quân đã xác định rõ trách nhiệm chính trị trong việc tham gia xây dựng dự thảo các văn kiện Đại hội XIII của Đảng, quán triệt và thực hiện nghiêm túc Chỉ thị số 35-CT/TW ngày 30-5.
2019 của Bộ Chính trị về đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
Theo Chỉ thị số 747-CT/QUTW ngày 23-7-2019 của Thường vụ Quân ủy Trung ương, các đại hội đảng bộ trong quân đội đã diễn ra tích cực, hướng tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII Trong thời gian qua, các chi bộ và đảng bộ cơ sở đã thể hiện tinh thần trách nhiệm cao, quyết tâm chính trị mạnh mẽ, đóng góp nhiều ý kiến sâu sắc vào dự thảo văn kiện trình Đại hội đại biểu Đảng bộ Quân đội lần thứ XI, nhiệm kỳ 2020-2025.
Đảng bộ Quân đội đã nhận được sự đánh giá cao từ Trung ương về những ý kiến đóng góp liên quan đến các vấn đề mới, cốt lõi và thiết thực, đang thu hút sự quan tâm của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân.
Đảng ta luôn coi sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, thể hiện qua mọi hoạt động gắn bó mật thiết với lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân Việc lấy ý kiến đóng góp của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân vào dự thảo các văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII không chỉ phát huy dân chủ trong Đảng và xã hội, mà còn củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, tạo sự thống nhất cao về nhận thức, hành động và quyết tâm trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân để đạt được thắng lợi.
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng.
5.3 KHÔNG NGỪNG CỦNG CỐ, TĂNG CƯỜNG ĐOÀN KẾT: ĐOÀN KẾT TOÀN ĐẢNG, ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN, ĐOÀN KẾT DÂN TỘC, ĐOÀN KẾT QUỐC TẾ
Cương lĩnh nhấn mạnh rằng đoàn kết toàn Đảng, toàn dân, dân tộc và quốc tế là truyền thống quý giá của Đảng và nhân dân Việt Nam Các văn kiện của Đảng và tác phẩm của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thể hiện rõ tầm quan trọng của sự đoàn kết này trong việc xây dựng và phát triển đất nước.
Đảng ta và dân tộc ta có truyền thống đoàn kết vững mạnh, nhưng lần đầu tiên trong Văn kiện đại hội XI, Đảng đã nhấn mạnh sự gắn kết giữa các truyền thống này Sự gắn bó mật thiết giữa Đảng và dân tộc thể hiện qua việc Đảng đại diện cho nguyện vọng của nhân dân, dẫn dắt dân tộc tiến tới mục tiêu xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội trên đất nước.
Đại hội XI nhấn mạnh rằng Đảng cần phải vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức để thực hiện vai trò lãnh đạo Điều này đòi hỏi Đảng phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, nâng cao trí tuệ, bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực lãnh đạo, đồng thời giữ vững truyền thống đoàn kết thống nhất trong nội bộ.
Đại hội xác định giữ vững truyền thống đoàn kết thống nhất trong Đảng là giải pháp quan trọng để củng cố sức mạnh chính trị, tư tưởng và tổ chức của Đảng, giúp Đảng thực hiện tốt vai trò lãnh đạo trong bối cảnh hiện nay Để duy trì truyền thống này, cần tăng cường dân chủ và kỷ luật trong hoạt động Đảng, thường xuyên thực hiện tự phê bình và phê bình, đồng thời đấu tranh chống lại chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa cơ hội, cũng như các tệ nạn như quan liêu, tham nhũng, lãng phí và mọi hành động chia rẽ, bè phái.
Để duy trì truyền thống đoàn kết trong Đảng, đoàn kết toàn dân, dân tộc và quốc tế trong bối cảnh hiện nay, cần chú trọng vào những điểm chính sau đây.
Để nâng cao vai trò và trách nhiệm của cán bộ, đảng viên, cần tăng cường giáo dục về tầm quan trọng của việc giữ gìn truyền thống đoàn kết trong Đảng, đoàn kết toàn dân, dân tộc và quốc tế Đồng thời, cần nhấn mạnh kỷ luật của Đảng, quy định về phát ngôn và những hành vi không được phép của đảng viên Đảng viên cũng cần có thái độ nghiêm túc và trách nhiệm đối với những hành động và lời nói sai trái, đồng thời thúc đẩy đoàn kết quốc tế dựa trên quan điểm và đường lối của Đảng, cùng với sự tôn trọng lẫn nhau giữa các quốc gia.
KẾT LUẬN
Vai trò lãnh đạo của Đảng và giai cấp công nhân là không thay đổi trong mọi giai đoạn lịch sử, khẳng định vị trí tiên tiến và quan trọng của giai cấp công nhân trong sự phát triển toàn cầu Giai cấp công nhân, Đảng Cộng sản và tư tưởng Mác-Lênin luôn gắn bó chặt chẽ, đóng vai trò lãnh đạo trong việc tổ chức nhân dân lao động hướng tới giải phóng xã hội và con người Hiểu rõ vai trò này là điều cần thiết để mỗi cá nhân có nhận thức đúng đắn về các giai cấp trong xã hội, từ đó nâng cao ý thức trách nhiệm và tri thức văn hóa của bản thân.
Trong bối cảnh hiện nay, khi hệ thống XHCN đang suy yếu, các thế lực phản động gia tăng hoạt động chống phá các Đảng cộng sản và phủ nhận vai trò lịch sử của giai cấp công nhân Do đó, Đảng và nhà nước cần khẩn trương tăng cường công tác tuyên truyền và giáo dục nhằm nâng cao nhận thức về vai trò và vị trí của giai cấp công nhân trong xã hội.
Vai trò lãnh đạo của Đảng và giai cấp công nhân là yếu tố quan trọng cần được xã hội và Đảng Cộng sản chú trọng Việc tạo điều kiện thuận lợi cho giai cấp công nhân sẽ góp phần xây dựng một Đảng lãnh đạo vững mạnh và hoàn thiện, phù hợp với yêu cầu của thời đại hiện nay.