Ở thời điểm hiện tại, Việt Nam vẫn là một quốc gia đang phát triển, thu nhập bình quân đầu người còn thấp, tuy nhiên đang trong xu hướng hội nhập quốc tế và dần dần khẳng định vị thế của mình trên trường quốc tế. Đảng và Nhà nước ta đã khẳng định phải quyết tâm đẩy mạnh Công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, từ một nền kinh tế tập trung bao cấp trở thành một nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội Chủ nghĩa, sớm đưa nước ta thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu, kém phát triển với rất nhiều thành công rực rỡ. Theo báo World Bank: “Những cải cách kinh tế từ năm 1986 kết hợp với những xu hướng toàn cầu, chuyển đổi từ kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường đã giúp Việt Nam từ một trong những quốc gia nghèo nhất thế giới thành nước có thu nhập trung bình thấp. Việt Nam hiện là một trong những quốc gia năng động nhất Đông Á Thái Bình Dương”. Để đạt được những thành tựu đó bên cạnh việc phải tận dụng các nguồn lực vốn có thì Đảng ta đã có tư duy đổi mới đúng đắn, đặc biệt là về lĩnh vực kinh tế. Đó là một quá trình cấp bách và khó khăn nhưng nó cũng thể hiện sự đổi mới về tư duy, ngày càng hoàn thiện cả về lí luận cũng như thực tiễn xây dựng Xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Để tìm hiểu và nghiên cứu thêm thật nhiều những chính sách, giải pháp và hướng đi của Đảng và Nhà nước trong quá trình đổi mới nền kinh tế Việt Nam. Chúng em đã chọn đề tài: “Quá trình đổi mới quan điểm của Đảng về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta trong thời kỳ đổi mới từ 1986 đến nay” làm chủ đề thảo luận nhóm với mục đích làm rõ sự hình thành và phát triển nhận thức mới của Đảng, đường lối chính sách và những thách thức sắp tới.
CƠ SỞ KHOA HỌC DẪN ĐẾN ĐỔI MỚI QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
Cơ sở lý luận
Kinh tế bao gồm các yếu tố sản xuất, điều kiện sống của con người và mối quan hệ trong quá trình sản xuất và tái sản xuất xã hội Vấn đề sở hữu và lợi ích là cốt lõi của kinh tế Theo nghĩa rộng, kinh tế đề cập đến toàn bộ hoạt động sản xuất, trao đổi, phân phối và lưu thông của cộng đồng hoặc quốc gia trong một khoảng thời gian, thường là một năm Định nghĩa về kinh tế đã thay đổi theo lịch sử và sự phát triển của các hoạt động kinh tế.
Theo nghĩa hẹp, thị trường là nơi diễn ra hành vi trao đổi, mua bán hàng hoá giữa các chủ thể kinh tế với nhau.
Thị trường, theo nghĩa rộng, là tổng thể các mối quan hệ liên quan đến việc trao đổi và mua bán hàng hóa trong xã hội Nó được hình thành dựa trên các điều kiện lịch sử, kinh tế và xã hội nhất định.
3 Nền kinh tế thị trường
Nền kinh tế thị trường là một hệ thống kinh tế hoạt động dựa trên cơ chế thị trường, nơi mà mọi quan hệ sản xuất và trao đổi hàng hóa diễn ra thông qua thị trường Trong nền kinh tế này, các quy luật thị trường đóng vai trò quan trọng trong việc điều tiết và ảnh hưởng đến các hoạt động kinh tế.
Sự hình thành kinh tế thị trường là một bước ngoặt quan trọng trong lịch sử, từ nền kinh tế tự nhiên và tự túc, tiến hóa qua giai đoạn kinh tế hàng hóa Kinh tế thị trường đã trải qua nhiều giai đoạn phát triển, từ kinh tế thị trường sơ khai đến kinh tế thị trường hiện đại ngày nay Đây là một sản phẩm của văn minh nhân loại, phản ánh sự tiến bộ và phát triển trong các hoạt động kinh tế.
4 Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế hoạt động theo quy luật thị trường, đồng thời hướng tới xây dựng một xã hội dân giàu, nước mạnh, với nền dân chủ, công bằng và văn minh Mô hình này có sự điều tiết từ Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Cơ sở thực tiễn
1.1 Nền kinh tế kém phát triển, khủng hoảng xã hội diễn ra nhiều năm
Từ năm 1975, Việt Nam đã hoàn toàn độc lập và thống nhất, bước vào giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội Dù xuất phát điểm thấp và chịu ảnh hưởng nặng nề từ chiến tranh, nhân dân Việt Nam đã nỗ lực vượt qua nhiều khó khăn trong suốt 15 năm Chúng ta đã đạt được những tiến bộ trong việc hàn gắn vết thương chiến tranh và xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội, đặc biệt trong lĩnh vực văn hóa, giáo dục và y tế Tuy nhiên, nền kinh tế vẫn còn kém phát triển, với sản xuất nhỏ và tính tự túc cao Cơ sở hạ tầng và trang thiết bị kỹ thuật lạc hậu, dẫn đến hiệu quả kinh tế thấp và tình trạng khủng hoảng kinh tế xã hội kéo dài, với sản xuất chậm và lạm phát cao.
1.2 Nhà nước vận hành theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu bao cấp
Trước khi đổi mới, kinh tế xã hội chủ nghĩa chủ yếu dựa vào kế hoạch hóa, coi đây là đặc trưng quan trọng nhất để phân bổ nguồn lực, trong khi thị trường chỉ được xem như công cụ bổ sung Cơ chế kế hoạch hóa tập trung và bao cấp có những đặc điểm như quản lý chặt chẽ, thiếu tính linh hoạt và không khuyến khích sản xuất hàng hóa, dẫn đến hiệu quả kinh tế không cao.
Nhà nước quản lý nền kinh tế chủ yếu thông qua mệnh lệnh hành chính, dựa trên hệ thống chi tiêu pháp lệnh chi tiết từ cấp trên xuống cấp dưới Doanh nghiệp hoạt động theo các quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và các chỉ tiêu pháp lệnh được giao Tất cả các phương hướng sản xuất, nguồn vật tư, vốn, định giá sản phẩm, tổ chức bộ máy, nhân sự và tiền lương đều do các cấp có thẩm quyền quyết định.
Nhà nước giao chỉ tiêu kế hoạch và cấp phát vốn, vật tư cho doanh nghiệp Doanh nghiệp có trách nhiệm nộp sản phẩm cho Nhà nước Trong trường hợp thua lỗ, Nhà nước sẽ bù đắp, còn nếu có lãi, Nhà nước sẽ thu lại.
Các cơ quan hành chính hiện nay can thiệp quá sâu vào hoạt động sản xuất và kinh doanh của doanh nghiệp mà không chịu trách nhiệm về những quyết định của mình Điều này dẫn đến việc ngân sách Nhà nước phải gánh chịu những thiệt hại vật chất từ các quyết định sai lầm Hệ quả là cơ quan quản lý nhà nước làm thay chức năng của doanh nghiệp, khiến cho các doanh nghiệp vừa bị hạn chế quyền tự chủ, vừa phụ thuộc vào cấp trên mà không phải chịu trách nhiệm về kết quả sản xuất của mình.
Quan hệ hàng hóa - tiền tệ bị coi nhẹ và chỉ được xem là hình thức, trong khi quan hệ hiện vật lại đóng vai trò chủ yếu trong nền kinh tế Chế độ "cấp phát - giao nộp" được nhà nước sử dụng để quản lý kinh tế, và hạch toán kinh tế chỉ mang tính hình thức.
Bộ máy quản lý cồng kềnh với nhiều cấp trung gian không chỉ kém năng động mà còn tạo ra đội ngũ quản lý thiếu năng lực, mang phong cách cửa quyền và quan liêu Các hình thức thực hiện chính của chế độ bao cấp cũng góp phần vào tình trạng này.
1 Bao cấp qua giá: Nhà nước quyết định giá trị tài sản, thiết bị, vật tư, hàng hóa thấp hơn giá trị thực của chúng nhiều lần so với giá trị thị trường Với giá thấp như vậy, coi như một phần những thứ đó được cho không Do đó, hạch toán kinh tế chỉ là hình thức
2 Bao cấp qua chế độ tem phiếu (tiền lương hiện vật): Nhà nước quy định chế độ phân phối vật phẩm tiêu dùng cho cán bộ, công nhân viên, công nhân theo định mức qua hình thức tem phiếu Chế độ tem phiếu với mức giá khác xa so với giá thị trường đã biến chế độ tiền lương thành lương hiện vật, thủ tiêu động lực kích thích người lao động và phá vỡ nguyên tắc phân phối theo lao động
3 Bao cấp qua chế độ cấp phát vốn của ngân sách, nhưng không có chế tài ràng buộc trách nhiệm vật chất đối với các đơn vị được cấp vốn Điều đó vừa làm tăng gánh nặng đối với ngân sách vừa làm cho sử dụng vốn kém hiệu quả, nảy sinh cơ chế “xin cho” c, Đánh giá về cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp
Thứ nhất, về ưu điểm:
1 Đối với kinh tế: Trong thời kỳ kinh tế còn tăng trưởng chủ yếu theo chiều rộng thì cơ chế này có tác dụng nhất định, nó cho phép tập trung tối đa các nguồn lực kinh tế vào mục đích chủ yếu trong từng giai đoạn và điều kiện cụ thể, đặc biệt trong quá trình công nghiệp hóa theo xu hướng ưu tiên phát triển công nghiệp nặng
2 Đối với văn hóa: với hào khí dân tộc đang lên sau chiến thắng lừng lẫy của các cuộc kháng chiến, cũng như do được sống trong một chế độ hoàn toàn mới, độc lập, tự do, nên người dân tràn đầy hy vọng, sẵn sàng đóng góp công sức, tiền của của mình cho công cuộc xây dựng chế độ xã hội mới, chế độ xã hội chủ nghĩa
3 Đối với xã hội: Cơ chế này ra đời trong thời kỳ đất nước vừa bước qua những năm tháng đau thương của chiến tranh Tình hình xã hội còn nhiều rối ren, phức tạp Vì vậy, cơ chế đã góp phần ổn định đời sống và duy trì trật tự xã hội Lấy kinh tế quốc doanh và tập thể là chủ yếu, muốn nhanh chóng xóa sở hữu tư nhân và kinh tế cá thể tư nhân; xây dựng nền kinh tế khép kín
Thứ hai, về hạn chế:
1 Đối với kinh tế: Theo thời gian, cơ chế này ngày càng không phù hợp với hoàn cảnh của đất nước Nó làm thủ tiêu cạnh tranh, kìm hãm tiến bộ khoa học – công nghệ, triệt tiêu động lực kinh tế đối với người lao động, không kích thích tính năng động, sáng tạo của các đơn vị sản xuất kinh doanh Chính điều này đã làm cho nền kinh tế rơi vào tình trạng trì trệ, khủng hoảng
2 Đối với văn hóa: Làm cho đội ngũ cán bộ công chức của các cơ quan hành hành chính nhà nước trở nên quan liêu, lộng quyền, hách dịch Nhà trường chỉ là nơi thực hiện mọi kế hoạch và chỉ tiêu, pháp lệnh mà Nhà nước giao, không cần quan tâm nhiều đến đầu ra làm cho hệ thống giáo dục thiếu tính cạnh tranh, kém năng động, sáng tạo, là mảnh đất cho căn bệnh thành tích và chủ nghĩa hình thức tồn tại
QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ LĨNH VỰC KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
Giai đoạn thứ nhất (Từ đại hội VI đến đại hội VIII)
1 Nội dung qua các kỳ đại hội a Đại hội VI Đại hội khẳng định đường lối đổi mới toàn diện đất nước, chỉ ra những sai lầm, chủ quan, nóng vội muốn “đốt cháy giai đoạn” trong việc cải tạo thành phần kinh tế nhất là đã vi phạm quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất, dứt khoát từ bỏ mô hình kinh tế phi thị trường, chỉ huy tập trung, bao cấp Đại hội phê phán sâu sắc các quan điểm chủ trương giáo điều, chủ quan, nóng vội, duy ý chí, không tôn trọng quy luật khách quan trong đường lối phát triển kinh tế đất nước nhiều năm trước Đại hội khẳng định: “Việc bố trí lại cơ cấu kinh tế phải đi đôi với đổi mới cơ chế quản lý kinh tế Cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp từ nhiều năm nay không tạo được động lực phát triển, làm suy yếu kinh tế xã hội chủ nghĩa, hạn chế việc sử dụng và cải tạo các thành phần kinh tế khác, kìm hãm sản xuất, làm giảm năng suất, chất lượng, hiệu quả, gây rối loạn trong phân phối lưu thông và đẻ ra nhiều hiện tượng tiêu cực trong xã hội.”
Đảng thừa nhận sự tồn tại của nền kinh tế hàng hoá và thị trường, xác định cơ chế vận hành là thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa Đại hội đề ra đường lối phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, nhấn mạnh việc củng cố thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa và khai thác mọi khả năng từ các thành phần kinh tế khác Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần được khẳng định là đặc trưng của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội Tuy nhiên, Đảng mới chỉ nêu hiện trạng của các thành phần mà chưa phân biệt rõ ràng các hình thức tổ chức và quan điểm tập trung vào việc tháo gỡ những khó khăn.
Bài viết đề cập đến 13 rào cản chính cản trở sản xuất và phát triển kinh tế, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế Đại hội đã xác định cần xóa bỏ cơ chế kế hoạch tập trung, chuyển sang một cơ chế mới với kế hoạch hóa làm trung tâm Điều này bao gồm việc sử dụng đúng đắn quan hệ hàng hóa-tiền tệ, yêu cầu sản xuất phải gắn liền với thị trường, và mọi hoạt động kinh tế cần so sánh chi phí với hiệu quả Ngoài ra, cần mở rộng giao lưu hàng hóa, xóa bỏ các rào cản thương mại và thực hiện chính sách giá một giá cho hoạt động kinh doanh thương nghiệp.
Tại Đại hội VI, Đảng chưa đề cập đến phát triển nền kinh tế thị trường mà chủ yếu nhấn mạnh vào việc đổi mới cơ chế quản lý và xóa bỏ quản lý hành chính tập trung, quan liêu bao cấp, nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế Tiếp theo, Đại hội VII đã làm rõ chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần, khẳng định đây là con đường chiến lược dẫn đến chủ nghĩa xã hội tại Việt Nam Đại hội xác định cần tiếp tục xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần và đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, phát huy sức mạnh của các thành phần kinh tế trong một nền kinh tế quốc dân thống nhất Cơ chế này sẽ vận hành theo định hướng xã hội chủ nghĩa, với vai trò của thị trường trong việc hướng dẫn các đơn vị kinh tế lựa chọn lĩnh vực hoạt động và phương thức sản xuất kinh doanh hiệu quả Đồng thời, Đại hội cũng chủ trương từng bước hình thành và mở rộng các thị trường hàng tiêu dùng, tư liệu sản xuất, dịch vụ, vốn và tiền tệ, cũng như thị trường chứng khoán khi có điều kiện Cuối cùng, việc mở rộng quan hệ kinh tế với tất cả các nước và tổ chức quốc tế là cần thiết, với mục tiêu tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội.
Đại hội VII đã khẳng định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước rằng phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, với sự quản lý của Nhà nước, là cần thiết Đảng tiếp tục xác nhận đường lối đúng đắn từ Đại hội VI và bổ sung cơ chế vận hành của nền kinh tế, chỉ ra năm thành phần kinh tế, trong đó kinh tế quốc doanh đóng vai trò chủ đạo và là công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước Tại Đại hội VIII, Đảng đã nhấn mạnh phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm, thực hiện cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Để nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế và sức cạnh tranh của nền kinh tế, cần phát huy tối đa nội lực và thực hiện tiết kiệm Việc tập trung vào công nghiệp hoá và xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội là rất quan trọng, đồng thời cũng cần chú trọng đến việc xây dựng quan hệ sản xuất Phát triển kinh tế cần gắn liền với việc thực hiện công bằng xã hội.
Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế và điều chỉnh cơ cấu đầu tư là cần thiết để phát triển nông nghiệp và nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hợp tác hoá Cần đẩy mạnh đổi mới và quản lý hiệu quả các loại hình doanh nghiệp, đồng thời thực hiện các biện pháp để cải cách hệ thống tài chính - tiền tệ và tiết kiệm triệt để Giải quyết việc làm và xoá đói giảm nghèo cũng là ưu tiên hàng đầu Đổi mới lãnh đạo của Đảng và quản lý nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong lĩnh vực kinh tế - xã hội là rất quan trọng Tại Đại hội VIII, khái niệm “thành phần kinh tế Nhà nước” được đưa ra thay cho “thành phần kinh tế quốc doanh”, khẳng định vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước trong công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa và phát triển nền văn minh nhân loại.
Tại đại hội VIII, các quan điểm của Đảng đã được thể chế hóa nhằm phục vụ đời sống nhân dân; tuy nhiên, khái niệm kinh tế thị trường vẫn chưa được đề cập.
2 Tổng kết giai đoạn 1 Đại hội VI của Đảng (1986) đã kiên quyết xóa bỏ cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp, chuyển hẳn sang hạch toán kinh tế, kinh doanh xã hội chủ nghĩa, thừa nhận sự tồn tại khách quan của sản xuất hàng hoá và vai trò của thị trường Đến Đại hội VII
Năm 1991, Đảng đã bổ sung tư duy khoa học về kinh tế hàng hóa, nhấn mạnh phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, hoạt động dưới cơ chế thị trường với sự quản lý của Nhà nước Tại Đại hội VIII năm 1996, Đảng đã đưa ra quan niệm mới quan trọng về kinh tế hàng hóa và chủ nghĩa xã hội, khẳng định rằng sản xuất hàng hóa không đối lập với chủ nghĩa xã hội mà là thành tựu phát triển cần thiết cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, ngay cả khi chủ nghĩa xã hội đã được thiết lập Tuy nhiên, vào thời điểm đó, khái niệm kinh tế thị trường vẫn chưa được sử dụng.
Từ Đại hội VI (1986) đến hết nhiệm kỳ Đại hội VIII (2001) là giai đoạn đổi mới toàn diện nền kinh tế Việt Nam, với sự thay đổi về cấu trúc và cơ chế vận hành Thời kỳ này đánh dấu sự nhận thức đúng đắn hơn về kế hoạch hóa, phát triển kinh tế đa thành phần, hoạt động theo cơ chế thị trường và có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Giai đoạn thứ hai (Từ Đại hội IX đến Đại hội XI)
1 Đại hội IX Đến Đại hội IX, lần đầu tiên cụm từ “nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” chính thức được đề cập tới: “Thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa - đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa" Như vậy, lần đầu tiên sau 15 năm đổi mới, Đảng đã trình bày một cách sáng rõ và có hệ thống về cấu trúc tổng thể của mô hình kinh tế nước ta - đó là nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa với tính hướng đích, chế độ sở hữu, vai trò của các thành phần kinh tế, chế độ quản lý, chế độ phân phối, vai trò của Nhà nước Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực hiện phân phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, đồng thời phân phối theo mức
Đại hội IX nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất, kinh doanh, đồng thời chú trọng đến phúc lợi xã hội Tăng trưởng kinh tế cần gắn liền với việc đảm bảo tiến bộ và công bằng xã hội trong từng giai đoạn phát triển Bên cạnh đó, đại hội cũng đã đề ra các chủ trương đổi mới kinh tế toàn diện để thúc đẩy sự phát triển bền vững.
Tiếp tục cải cách và phát triển doanh nghiệp nhà nước nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động, tạo ra bước tiến mới trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế.
Để phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể, cần thống nhất nhận thức về tầm quan trọng của nó Cần thiết lập một môi trường thể chế và tâm lý xã hội thuận lợi, đồng thời sửa đổi và bổ sung các cơ chế, chính sách hiện hành Việc nâng cao vai trò quản lý của nhà nước và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng là rất quan trọng Ngoài ra, cần phát huy vai trò của Liên minh hợp tác xã Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trong việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế tập thể.
Ba là, cần tiếp tục đổi mới cơ chế chính sách nhằm khuyến khích và tạo điều kiện cho sự phát triển của kinh tế tư nhân, coi đây là một bộ phận cấu thành quan trọng trong nền kinh tế quốc dân Phát triển kinh tế tư nhân không chỉ là một vấn đề chiến lược lâu dài mà còn góp phần quan trọng vào việc thực hiện nhiệm vụ trung tâm là phát triển kinh tế, công nghiệp hóa, hiện đại hóa và nâng cao nội lực của đất nước trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.
Chính sách và pháp luật về đất đai đang được đổi mới để phù hợp với thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước Đất đai được coi là tài nguyên quốc gia vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt và nguồn nội lực to lớn của đất nước Quyền sử dụng đất là một loại hàng hóa đặc biệt, thuộc sở hữu toàn dân và do Nhà nước đại diện chủ sở hữu, thống nhất quản lý Nhà nước giao đất, cho thuê đất cho các tổ chức, hộ gia đình và cá nhân sử dụng ổn định lâu dài hoặc có thời hạn theo quy định của pháp luật, đồng thời không công nhận việc đòi lại đất đã được Nhà nước giao cho cá nhân.
Đại hội IX đánh dấu một bước chuyển biến quan trọng trong nhận thức của Đảng, chuyển từ việc coi kinh tế thị trường là công cụ quản lý sang việc nhìn nhận nó như một chỉnh thể, là nền tảng kinh tế cho sự phát triển.
Chủ trương xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát của Việt Nam trong giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội Mô hình này nhằm phát triển kinh tế theo hướng xã hội chủ nghĩa, đảm bảo sự công bằng và bền vững trong quá trình phát triển.
Đại hội X đã tiếp tục kế thừa tư duy từ Đại hội IX, làm rõ nội dung cơ bản của Định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam, với bốn tiêu chí chính.
Mục đích phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là nhằm thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” Điều này bao gồm việc giải phóng mạnh mẽ lực lượng sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân, đẩy mạnh xóa đói giảm nghèo và khuyến khích mọi người vươn lên làm giàu chính đáng Mục tiêu này thể hiện rõ sự phát triển kinh tế vì con người, đảm bảo mọi người đều được hưởng thành quả phát triển và từng bước nâng cao chất lượng cuộc sống.
Phương hướng phát triển kinh tế hiện nay tập trung vào việc phát triển các thành phần kinh tế, trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo và kết hợp với kinh tế tập thể tạo thành nền tảng vững chắc cho nền kinh tế quốc dân Để giải phóng tiềm năng phát triển, cần đa dạng hóa hình thức sở hữu và các thành phần kinh tế, từ kinh tế Nhà nước, kinh tế tập thể đến kinh tế tư nhân và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài Đại hội X đã khẳng định kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng, được khuyến khích phát triển Đây là lần đầu tiên Đảng xác định chính thức vai trò của kinh tế tư nhân và yêu cầu đảng viên tham gia vào lĩnh vực này phải gương mẫu chấp hành pháp luật và chính sách.
Đảng ta nghiêm chỉnh chấp hành Điều lệ và quy định của Ban Chấp hành Trung ương, cho thấy sự thận trọng trong việc mở đường cho đảng viên kinh doanh hợp pháp Việc cho phép đảng viên tham gia vào kinh tế tư nhân không chỉ huy động tiềm năng của mọi người dân mà còn tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
Định hướng xã hội và phân phối trong phát triển kinh tế tập trung vào việc thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội qua từng bước đi và chính sách phát triển Tăng trưởng kinh tế cần gắn kết chặt chẽ với phát triển xã hội, văn hóa, giáo dục và đào tạo, nhằm giải quyết hiệu quả các vấn đề xã hội và phát triển con người Việc giải quyết các vấn đề xã hội không chỉ đảm bảo sự phát triển bền vững mà còn thể hiện rõ định hướng xã hội chủ nghĩa, giảm thiểu tác động tiêu cực từ kinh tế thị trường Trong lĩnh vực phân phối, định hướng xã hội chủ nghĩa được thực hiện thông qua chế độ phân phối dựa trên kết quả lao động, hiệu quả kinh tế và phúc lợi xã hội, đồng thời huy động mọi nguồn lực kinh tế theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác.
Quản lý kinh tế trong xã hội chủ nghĩa nhằm phát huy vai trò làm chủ của nhân dân và đảm bảo sự điều tiết của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng Điều này thể hiện rõ định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo sự khác biệt với kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa Nhà nước xã hội chủ nghĩa sử dụng pháp luật để quản lý và điều tiết nền kinh tế, nhằm đạt được mục tiêu phát triển kinh tế, bảo vệ chế độ sở hữu và phân phối theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đồng thời phát huy những mặt tích cực và hạn chế những tiêu cực của kinh tế thị trường, bảo đảm quyền lợi chính đáng cho mọi người.
Khác với Đại hội IX, Đại hội X của Đảng khẳng định rõ ràng vai trò của kinh tế tư nhân trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần Đảng nhấn mạnh rằng trên cơ sở ba chế độ sở hữu (toàn dân, tập thể, tư nhân), sẽ hình thành nhiều hình thức sở hữu và nhiều thành phần kinh tế, bao gồm kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân), kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài Kinh tế tư nhân được xác định là một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế, đánh dấu sự công nhận chính thức vai trò của nó trong phát triển kinh tế đất nước.
Giai đoạn thứ ba (Từ Đại hội XII đến Đại hội XIII)
● Đại hội XII (2016-2018): Chủ trương tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN với quan điểm chỉ đạo
Xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN là nhiệm vụ chiến lược, đóng vai trò then chốt trong việc phát triển nhanh và bền vững Điều này giúp đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, và thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện đại hoá Đồng thời, cần xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, và hội nhập quốc tế, nhằm thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
Để phát triển bền vững, cần nhận thức đầy đủ và tôn trọng các quy luật khách quan của kinh tế thị trường và thông lệ quốc tế, đồng thời đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước Việc gắn kết hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội, phát triển văn hóa, bảo vệ môi trường, và đảm bảo quốc phòng, an ninh là điều thiết yếu.
Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một quá trình phát triển liên tục, kết hợp giữa việc kế thừa có chọn lọc những thành tựu của kinh tế thị trường toàn cầu và rút ra bài học từ thực tiễn đổi mới tại Việt Nam.
Hoàn thiện thể chế kinh tế cần gắn liền với việc cải cách thể chế chính trị, tập trung vào đổi mới và nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ.
Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ quan trọng, vừa cấp bách vừa lâu dài của hệ thống chính trị Cần đổi mới phương thức và nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, đồng thời cải thiện hiệu lực và hiệu quả quản lý của Nhà nước Việc phát huy sức mạnh của toàn bộ hệ thống chính trị và xã hội là cần thiết trong quá trình này.
Văn kiện Đại hội XII của Đảng nhấn mạnh sự thống nhất trong nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đồng thời khẳng định vai trò quan trọng của các Đại hội ở giai đoạn 2 trong việc phát triển và hoàn thiện mô hình kinh tế này.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam hoạt động đồng bộ theo các quy luật kinh tế thị trường, đồng thời đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước Đây là nền kinh tế hiện đại, hội nhập quốc tế, được quản lý bởi Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, với mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Đại hội XIII (2018-2020) tập trung vào việc hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhằm thúc đẩy tăng trưởng nhanh và bền vững Mục tiêu chính là duy trì ổn định kinh tế vĩ mô, với quan điểm chỉ đạo rõ ràng.
Tiếp tục hoàn thiện và đồng bộ hóa thể chế phát triển, đặc biệt là thể chế cho nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Cần phát triển các quy định về sở hữu, các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp, cũng như các mô hình kinh tế hợp tác và hợp tác xã, nhằm tối ưu hóa các yếu tố và loại thị trường.
Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hiện đại và hội nhập quốc tế, tập trung vào thị trường các yếu tố sản xuất như quyền sử dụng đất, lao động, khoa học và công nghệ Huy động và sử dụng nguồn lực theo cơ chế thị trường, với mô hình tăng trưởng mới dựa trên tiến bộ khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo Khuyến khích khởi nghiệp sáng tạo và phát triển các doanh nghiệp thông qua ứng dụng mạnh mẽ thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư Đặc biệt, cần cơ cấu lại hệ thống doanh nghiệp để phát triển lực lượng doanh nghiệp Việt Nam mạnh mẽ và tăng cường liên kết giữa doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp trong nước.
Đại hội XII và XIII đã làm rõ và phát triển những vấn đề cốt lõi về bản chất của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, nhấn mạnh rằng nền kinh tế này không khác biệt mà vẫn mang đầy đủ các đặc trưng phổ biến của kinh tế thị trường, bao gồm tự do kinh doanh và các yếu tố khác.
Cạnh tranh là yếu tố quan trọng trong việc phát triển kinh tế, mở cửa và hướng tới tự do hóa, đồng thời đa dạng hóa các hình thức sở hữu Giá cả được xác định dựa trên quy luật giá trị và quan hệ cung cầu, trong khi cạnh tranh được coi là động lực chính thúc đẩy sự phát triển Hệ thống vận hành với các cơ chế rõ ràng nhằm đảm bảo sự phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường, đồng thời bảo vệ công bằng xã hội và phát huy vai trò tích cực của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong hỗ trợ phát triển.