1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

PHẾ PHỤ LIỆU TRONG CNSX ĐƯỜNG HOÀN CHỈNH 1

49 10 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Tận Dụng Và Xử Lý Phế Phụ Liệu Trong Công Nghệ Sản Xuất Đường Từ Mía
Người hướng dẫn ThS. Đỗ Viết Phương
Trường học Đại học Công nghiệp thành phố Hồ Chí Minh
Thể loại tiểu luận
Thành phố Thành phố Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 49
Dung lượng 4,61 MB

Cấu trúc

  • Chương 1: Tổng quan về nghuyên liệu và phế phụ liệu (4)
    • 1.1 Tổng quan về nguyên liệu (4)
    • 1.2 Phế phụ liệu (8)
  • Chương 2: Phân tích hướng tận dụng (15)
    • 2.1 Quy trình sản xuất đường (15)
    • 2.2 Hướng tận dụng của phế thụ liệu (16)
    • 2.3 Giới thiệu từng sản phẩm (16)
  • Chương 3: Quy trình sản xuất của phế phụ liệu (20)
    • 3.1 Quy trình sản xuất cồn etylic (20)
    • 3.2 Quy trình sản xuất axit citric (26)
    • 3.3 Quy trình sản xuất rượu gum (29)
    • 3.4 Quy trình sản xuất phân bón (35)
  • Chương 4: Hướng tận dụng mới (40)
  • Chương 5: Kết luận (46)
  • Chương 6 Tài liệu tham khảo (47)

Nội dung

Mục lục Chương 1 Tổng quan về nghuyên liệu và phế phụ liệu 2 1 1 Tổng quan về nguyên liệu 2 1 2 Phế phụ liệu 6 Chương 2 Phân tích hướng tận dụng 11 2 1 Quy trình sản xuất đường 11 2 2 Hướng tận dụng của phế thụ liệu 13 2 3 Giới thiệu từng sản phẩm 13 Chương 3 Quy trình sản xuất của phế phụ liệu 17 3 1 Quy trình sản xuất cồn etylic 17 3 2 Quy trình sản xuất axit citric 23 3 3 Quy trình sản xuất rượu gum 26 3 4 Quy trình sản xuất phân bón 32 Chương 4 Hướng tận dụng mới 37 Chương 5 Kết luận 41 Chươ.

Tổng quan về nghuyên liệu và phế phụ liệu

Tổng quan về nguyên liệu

Việt Nam có khí hậu nhiệt đới thuận lợi cho việc trồng mía, đặc biệt là ở các tỉnh ven biển miền Trung và Đông Nam Bộ Điều này tạo ra tiềm năng lớn cho ngành sản xuất đường mía trong nước.

Hình 1: Năng suất mía của Việt Nam vẫn thấp so với bình quân chung thế giới.

Tổng diện tích trồng mía nguyên liệu là 300.000ha (hơn 280.000ha là vùng nguyên liệu tập trung); năng suất mía bình quân 68 - 70 tấn/ha (phấn đấu đến 2030 đạt

Đến năm 2030, mục tiêu sản xuất mía đạt 24 triệu tấn với năng suất bình quân 75 - 80 tấn/ha và chữ đường 12 - 13 CCS Sản lượng đường dự kiến sẽ tăng lên 2,5 triệu tấn, trong khi năng suất đường trên mỗi đơn vị diện tích đạt 8,5 tấn/ha Đồng thời, điện sinh khối từ bã mía sẽ đạt khoảng 1,1 triệu MWh/năm.

Sản xuất đường mía đóng góp khoảng 20-30% vào lưới điện quốc gia và tạo ra 42.500 tấn cồn 100% mỗi năm, cùng với 600.000 tấn phân hữu cơ và 350.000 tấn phân vi sinh từ bã mía Tuy nhiên, quá trình này tiêu tốn một lượng lớn nước và thải ra nước thải chứa nhiều chất hữu cơ dễ chuyển hóa, dẫn đến ô nhiễm môi trường, đặc biệt là ô nhiễm nước Việc phát triển sản xuất đường mía cần được thực hiện một cách bền vững để giảm thiểu tác động tiêu cực đến môi trường.

Hình 1.2: Chất thải mía đường.

Mặc dù đã có một số nghiên cứu về xử lý nước thải và tái sử dụng chất thải trong sản xuất đường, nhưng việc áp dụng và triển khai hiệu quả vẫn gặp nhiều hạn chế Hệ thống xử lý nước thải hiện nay thường không đạt hiệu quả như mong đợi, với nhiều hệ thống đầu tư lớn nhưng lại không hoạt động hoặc hoạt động kém, gây lãng phí và làm nản lòng các nhà sản xuất Do đó, việc đầu tư nghiên cứu để phát triển và lựa chọn quy trình công nghệ xử lý khả thi là vô cùng cần thiết.

Bảng 1 Thành phần hóa học của chất thải rắn từ sản xuất đường

Mật rỉ Bùn lọc Bã mía

Nước 26 Nước 75 Nước 50,0 Đường 51 Sáp, chất béo

Acid hữu cơ 5,6 Protein 3,0 Sáp,

Công suất thực của 40 nhà máy đường đạt 7,2 triệu tấn, tạo ra khoảng 324.000 tấn mật rỉ Việc xử lý và sử dụng mật rỉ đường là cần thiết cho các nhà máy sản xuất đường Hiện nay, mật rỉ có thể được sử dụng để sản xuất cồn, mang lại giá trị kinh tế cao hơn cho ngành công nghiệp đường.

Mật rỉ hiện được sử dụng cho sản xuất mì chính và sản xuất cồn Tiêu hao mật rỉ cho sản xuất cồn là 3,4 - 4 kg/1 lít cồn.

Theo báo cáo tổng kết vụ mía đường 2000 - 2001, các nhà máy đường sản xuất cồn đã đạt công suất tối đa 11 triệu lít/năm, cho thấy sản xuất cồn mang lại lợi nhuận Trong vụ 2001 - 2002, với các dự án đã được đầu tư, tổng công suất cồn dự kiến tăng lên 46,05 triệu lít/năm, và lượng mật rỉ được sử dụng trong ngành đạt 156,57 triệu lít.

Mật rỉ đạt 184,2 ngàn tấn, chiếm 56,85% tổng lượng mật rỉ, và có thể được ứng dụng trong nhiều ngành công nghiệp khác nhau như sản xuất cồn, mì chính, rượu gum, cũng như tạo môi trường nuôi cấy vi sinh vật.

Tình hình sản xuất và tiêu thụ tại Việt Nam

Việt Nam có nhiều vùng trồng mía tốt, đặc biệt là ở miền Bắc tại các tỉnh dọc sông Hồng, sông Đáy, sông Mã và sông Lambda, trong khi miền Nam nổi bật với các tỉnh như Quảng Nam, Quảng Ngãi, Phú Yên, Khánh Hòa và Tây Ninh Nước ta sở hữu một số nhà máy đường hiện đại như nhà máy đường Việt Trì (Phú Thọ), sông Lambda (Nghệ An), Lam Sơn (Thanh Hóa) cùng với các nhà máy khác ở Quảng Ngãi, Phú Yên, Đồng Nai, Bình Dương và Đồng Tháp Để đáp ứng nhu cầu sản xuất đường, hàng năm Việt Nam cần trồng từ 10 đến 12 triệu tấn mía trên diện tích canh tác từ 250.000 đến 300.000 ha, chủ yếu trên đất bạc màu và vùng nhiễm phèn nặng Việc chế biến 10 triệu tấn mía sẽ tạo ra khoảng 250.000 tấn mật rỉ.

Hằng năm, nhà máy đường Sông Con sản xuất từ 19.000 đến 20.000 tấn đường và 7.600 đến 8.000 tấn mật rỉ, trong khi nhà máy đường liên doanh sản xuất từ 110.000 đến 120.000 tấn đường và 44.000 đến 48.000 tấn mật rỉ, đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp nguyên liệu chính cho sản xuất cồn.

Lượng mật rỉ trong nước chiếm 40-50% sản lượng đường, nhưng nhu cầu từ các ngành công nghiệp chế biến như hóa chất, cồn, phân bón và thức ăn chăn nuôi đang tăng cao.

Trước đây, mật rỉ đường được coi là chất thải và có giá rất rẻ, nhưng trong những năm gần đây, giá của nó đã tăng mạnh Trong vụ ép chính, các nhà máy đường thu được giá từ 600 đến 700 đồng/kg mật rỉ Từ đầu năm 2008, giá mật rỉ đường tại thị trường miền Trung liên tục tăng, hiện đã đạt mức kỷ lục từ 1.500 đến 1.600 đồng/kg, thậm chí có nơi lên tới 1.900 đồng/kg, trong khi năm trước giá chỉ dao động ở mức 250 đến 300 đồng/kg.

Nhà máy đường Cam Ranh và Ninh Hòa chủ yếu cung cấp lượng rỉ đường cho Nhà máy sản xuất bột ngọt Vedan Do chi phí vận chuyển đường bộ cao, giá rỉ đường tại khu vực phía Nam là 500 đồng/kg, trong khi tại Khánh Hòa chỉ 380 đồng/kg Năm 2003, Vedan đã nhập khẩu 2 tàu rỉ đường từ các nước trong khu vực bằng hình thức vận chuyển đường thủy Công ty Vedan hàng năm cần tới 500.000 tấn rỉ đường cho sản xuất.

1 1.1 Tình hình sản xuất và tiêu thụ rỉ đường trên thế giới

Ngành công nghiệp sản xuất đường ngày càng phát triển, dẫn đến lượng rỉ đường thải ra ngày càng nhiều, ước tính khoảng 30 triệu tấn mỗi năm trên toàn cầu Tuy nhiên, hầu hết các công ty không chú trọng đầu tư vào việc chế biến rỉ đường Tại một số nơi, rỉ đường được bán với giá rẻ cho các ngành công nghiệp như sản xuất cồn, mì chính, nấm men công nghiệp, và thức ăn chăn nuôi, trong khi ở nhiều nơi khác, nó còn bị bỏ đi không sử dụng.

Brazil là quốc gia sản xuất đường lớn nhất thế giới, theo sau là Pakistan, Trung Quốc và Thái Lan Tính đến ngày 31/7/2008, khu vực Trung-Nam Brazil đã thu hoạch được 214,3 triệu tấn mía, tăng 11,6% so với 192 triệu tấn cùng kỳ năm trước Trong hai tuần cuối tháng 7/2008, sản lượng thu hoạch đạt khoảng 38 triệu tấn mía Lượng rỉ đường sản xuất ra rất lớn, và các nhà máy đường tiếp tục ưu tiên sử dụng rỉ đường để sản xuất ethanol, với khoảng 60% sản lượng mía thu hoạch được dùng cho nhiên liệu ethanol thay vì đường.

Sản lượng mì chính toàn cầu dự kiến đạt khoảng 1,25 triệu tấn mỗi năm, chủ yếu được sản xuất thông qua phương pháp lên men Nguyên liệu chính cho quá trình sản xuất mì chính là rỉ đường, với tỷ lệ khoảng 4 tấn rỉ đường cần thiết để sản xuất 1 tấn mì chính Do đó, việc cung cấp rỉ đường là rất quan trọng cho sự phát triển của ngành công nghiệp này.

Phế phụ liệu

Sơ lược về rỉ đường và vai trò của rỉ đường.

1.2.1 Giới thiệu chung về rỉ đường

Rỉ đường là sản phẩm phụ từ quá trình sản xuất đường, được hình thành sau khi đường được kết tinh Có hai loại rỉ đường chính: rỉ đường củ cải và rỉ đường mía, tùy thuộc vào nguyên liệu của nhà máy Cả hai loại rỉ đường này đều ở dạng lỏng, có màu nâu sẫm do quá trình nấu và cô đặc nhiều lần, dẫn đến sự hình thành của caramen và melanoidin.

1.2.2 Thành phần rỉ đường mía

Rỉ đường chiếm khoảng 3-3.5% trọng lượng của mía đường ép, với 100 tấn mía có thể sản xuất từ 3-4 tấn rỉ đường Ngoài việc chứa hàm lượng cao đường saccharose, rỉ đường còn cung cấp một lượng đáng kể nitrogen, vitamin và các muối vi lượng thiết yếu.

Thành phần rỉ đường phụ thuộc vào giống mía, điều kiện trồng trọt, phương pháp sản xuất đường, điều kiện vận chuyển bảo quản rỉ đường.

Rỉ đường thường chứa từ 80 - 85% chất khô, bao gồm 46 - 54% đường saccharose (C12), 15 - 20% đường khử (bao gồm fructose), 1 - 2% raffinose, 0,45 - 2,88% nitơ tổng và 3 - 4% chất khoáng Ngoài ra, trong rỉ đường còn có các hợp chất hữu cơ như acid, rượu, acid amin, purine và vitamin.

Bảng 2: Thành phần hoá học và giá trị dinh dưỡng của rỉ đường

Chất màu của rỉ đường bao gồm caramen, melanoid, melanin và phức phenol-Fe 3+, với cường độ màu tăng gấp 3 lần Khi nhiệt độ tăng 10°C, chất màu có thể được phân chia thành nhiều nhóm khác nhau.

Chất caramen được hình thành từ quá trình nhiệt phân saccharose, trong đó nước được loại bỏ và không có sự hiện diện của nitơ Tốc độ tạo ra chất caramen tỷ lệ thuận với nhiệt độ phản ứng khi pH được giữ ổn định.

+ Phức chất polyphenol- Fe 3+ : Là Fe 3+ - brenzcatechin có màu vàng xanh không thể loại hết ở giai đoạn làm sạch nước mía và đi vào rỉ đường.

Melanoidin là sản phẩm ngưng tụ của đường khử và axit amin, chủ yếu là axit aspartic Một trong những sản phẩm ngưng tụ nổi bật nhất là axit Furcazinic, đóng vai trò quan trọng trong việc tăng cường độ màu của rỉ đường.

+ Melanin: Hình thành nhờ phản ứng oxy hoá khử các axit amin thơm nhờ xúc tác của enzyme polyphenol oxidase khi có mặt của O 2 và Cu 2+

Bảng 3: Thành phần tro so với chất khô của rỉ đường mía và củ cải đường

Thành phần Rỉ đường mía Rỉ đường củ cải

Các chất phi đường vô cơ chủ yếu là các loại muối có mặt trong thành phần tro của rỉ đường Đặc biệt, độ tro của rỉ đường mía thấp hơn so với độ tro của rỉ đường củ cải.

Muối Kali có mặt phổ biến trong rỉ đường, tiếp theo là canxi và dư lượng SO2 Điều này xảy ra vì muối Kali được sử dụng để bón cho mía, trong khi muối canxi và gốc sunfat được thêm vào trong quá trình xử lý nước mía và tinh chế đường.

1.2.3 Thành phần các chất sinh trưởng

Ngoài các nguyên tố kim loại và á kim đã đề cập, rỉ đường CNF còn chứa nhiều nguyên tố khác với lượng rất nhỏ, chỉ có thể đo được bằng mg/kg.

Fe= 115(mg/kg); Zn4 (mg/kg); Mn (mg/kg); Cu= 4.9 (mg/kg); b=3 (mg/kg); Co= 0.59 (mg/kg); Mg = 0.2 (mg/kg).

Bảng 4: Thành phần một số chất sinh trưởng của rỉ đường mía

Loại chất sinh trưởng Rỉ đường mía

Rỉ đường mía rất giàu các chất sinh trưởng như: patotenic, nicotinic, folic, B1 , B 2 đặc biệt là biotin.

1.1.3 Vi sinh vật trong rỉ đường mía

Rỉ đường mía chứa nhiều vi sinh vật, chủ yếu từ nguyên liệu, trong khi một số ít xuất phát từ không khí, nước và đất Những vi sinh vật có khả năng chịu nhiệt và hóa chất sẽ tồn tại lâu dài Dựa vào số lượng vi sinh vật nhiễm bẩn, rỉ đường được phân loại thành ba loại khác nhau.

Bảng 5: Phân loại rỉ đường theo số lượng vi sinh vật tạp nhiễm

Số lượng VSV trong 1g đường Đánh giá và xử lý

I 100000 Rất tốt, không cần xử lý

II 100000- 1000000 Trung binh, cần thanh trùng

III 1000000- 5000000 Nhiễm nặng cần xử lý nghiêm ngặt

Phân tích hướng tận dụng

Giới thiệu từng sản phẩm

Ethanol ngày càng trở nên quan trọng trong sản xuất thuốc, nhiên liệu sinh học, dung môi và nguyên liệu cho nhiều ngành công nghiệp khác Biến đổi khí hậu toàn cầu đã tạo ra thách thức lớn cho ngành công nghiệp sản xuất ethanol, đòi hỏi việc sử dụng các vi sinh vật chịu nhiệt và lên men mạnh Phát triển vi sinh vật chịu nhiệt cho công nghệ sản xuất ethanol được dự báo sẽ mang lại tiềm năng tăng trưởng cao trong tương lai.

Acid citric, có nhiều trong các loại họ citrus, thường đi kèm với acid malic và có vị ngọt dịu, được sử dụng để điều vị trong sản phẩm rau quả và bánh kẹo Trước đây, acid citric được sản xuất từ chanh, nhưng hiện nay, nó được sản xuất từ rỉ đường qua phương pháp lên men Acid citric có ứng dụng rộng rãi trong ngành thực phẩm như nước giải khát, bánh, kẹo, mứt, sữa, cũng như trong công nghiệp hóa chất, nhuộm và luyện kim.

Giá trị sản phẩm: sản phẩm hiện đang bán trên thị trường với mức giá 70.000- 130.000 đồng/ kg [27] ứng dụng của Rượu rum

Rượu rum là một loại đồ uống có cồn được chưng cất từ các sản phẩm phụ của mía, như mật mía hoặc trực tiếp từ nước mía Quá trình sản xuất rum bao gồm lên men và chưng cất, tạo ra một chất lỏng trong suốt Sau đó, rum thường được ủ trong các thùng gỗ sồi để phát triển hương vị.

Rượu rum được sản xuất với nhiều nồng độ khác nhau, trong đó rum nhẹ thường được sử dụng trong cocktail, trong khi rum "vàng" và "dark" thường được thưởng thức trực tiếp, trên đá, hoặc trong nấu ăn Hiện nay, các loại rum này thường được trộn (blend) trước khi sử dụng Ngoài ra, cũng có các loại rum Premium, được thiết kế để uống trực tiếp hoặc với đá.

Rum là một phần quan trọng trong văn hóa của hầu hết các hòn đảo ở Tây Ấn, Maritime và Newfoundland Thức uống này nổi tiếng gắn liền với Hải quân Hoàng gia, nơi nó được pha với nước hoặc bia để tạo ra grog, và với cướp biển, nơi nó được tiêu thụ như bumbo Ngoài ra, rum còn từng là phương tiện trao đổi kinh tế phổ biến, hỗ trợ cho các hoạt động buôn bán nô lệ, tội phạm có tổ chức và các cuộc nổi dậy quân sự như Cách mạng Mỹ và Cuộc nổi dậy Rum của Úc.

Giá trị sản phẩm: sản phẩm hiện đang bán trên thị trường với mức giá 300.000- 3.000.000đồng/ chai 350 ml Ứng dụng của phân bón

Phân hữu cơ sinh học có đặc điểm chung của phân bón hữu cơ, cung cấp đầy đủ các dưỡng chất đa, trung và vi lượng cho cây trồng Sản phẩm này giúp cải thiện và cân bằng chất lượng đất một cách hiệu quả.

Phân bón hữu cơ sinh học được coi là giải pháp thân thiện với môi trường, với ưu điểm ít độc hại và không gây ô nhiễm Loại phân bón này tiết kiệm nguyên liệu từ nguồn có sẵn, đồng thời giúp giảm thiểu chi phí đầu tư cho người nông dân.

- Cung cấp dưỡng chất cần thiết giúp cây trồng phát triển [15]

- Có khả năng thúc đẩy các vi sinh vật trong đất mạnh mẽ, chuyển đổi nitơ trong không khí sang dạng cây trồng hấp thu được.

- Phân giải các chất khó hấp thu sang chất dễ hấp thu, sản sinh một số chất có khả năng kích thích sự sinh trưởng của cây trồng.

- Phân giải các độc tố tích tụ trong đất lâu năm, …

Giúp cân bằng pH và duy trì độ phì nhiêu cho đất bằng cách giữ nguyên thủy và tăng cường cấu trúc đất Bổ sung một lượng mùn lớn cho đất không chỉ làm giàu dinh dưỡng mà còn cung cấp thức ăn cho các vi sinh vật trong đất.

Việc ức chế và tiêu diệt các mầm bệnh trong đất không chỉ giúp bảo vệ cây trồng mà còn cung cấp các chất kháng sinh kích thích miễn dịch cho cây, từ đó khắc chế sâu bệnh gây hại Điều này góp phần bảo vệ môi trường sống bằng cách giảm lượng thuốc bảo vệ thực vật cần sử dụng.

Phân bón sinh học không chỉ làm tăng năng suất và chất lượng cây trồng mà còn đảm bảo sức khỏe cho con người và môi trường Sản phẩm này giúp cân bằng hệ sinh thái, cải thiện độ phì nhiêu của đất mà không gây thoái hóa Ngoài ra, phân bón sinh học còn đồng hóa các chất dinh dưỡng, nâng cao năng suất nông sản và tiêu diệt vi sinh vật gây hại, từ đó giảm thiểu bệnh tật và tăng khả năng đề kháng cho cây trồng.

Giá trị sản phẩm: sản phẩm hiện đang bán trên thị trường với mức giá 10.000-50.0000 đồng/lí

Quy trình sản xuất của phế phụ liệu

Quy trình sản xuất cồn etylic

- Rỉ đường: Nguyên liệu chính quyết định chất lượng cồn và hiệu suất thu hồi có hàm lượng saccharose 30-33%, đường khử 16-18%, các chất hữu cơ 6-7%, vô cơ 7- 9%.

- Rỉ đường sau khi pha loãng xuống nồng độ theo yêu cầu, ta cho thêm acid

H2SO4 vào với tỷ lệ xác định Lượng acid cho vào phụ thuộc tính acid của rỉ đường.

Sau khi pha loãng và acid hóa, cần bổ sung các chất dinh dưỡng thiết yếu để hỗ trợ sự sinh trưởng và phát triển của nấm men trong quá trình lên men.

Mật mía được lên men với sự tham gia của nấm men Saccharomyces cerevisiae, trong đó các yếu tố như pH, nhiệt độ, nồng độ đường và nồng độ nấm men được nghiên cứu Độ pH của dung dịch thay đổi từ 1 đến 8, trong khi nhiệt độ cũng được điều chỉnh để tối ưu hóa quá trình lên men.

Nhiệt độ lý tưởng cho dung dịch là từ 25 đến 45 độ C, với nồng độ đường dao động từ 50 đến 400 g mỗi lít Lượng men bổ sung nên nằm trong khoảng từ 1 đến 8 g mỗi lít, trong khi pH tối ưu được xác định là 4 Nhiệt độ dung dịch ban đầu tối ưu là 35 độ C, với nồng độ đường và nồng độ nấm men lý tưởng lần lượt là 300 g và 2 g mỗi lít.

Trong quá trình lên men, đường được làm lạnh ở nhiệt độ 28 đến 32 độ C và đưa vào thùng lên men cùng với 10% men giống Tại đây, nấm men phát triển, biến đổi đường thành rượu, khí cacbonic và nhiều sản phẩm trung gian khác Đồng thời, amylaza giúp dextrin chuyển hóa thành đường, dẫn đến việc hình thành glucoza và maltoza Kết quả cuối cùng sau khi lên men là hỗn hợp rượu-nước-bã, thường được gọi là giấm chín.

Quá trình lên men có thể diễn ra theo hai phương pháp: gián đoạn và liên tục Trong phương pháp lên men gián đoạn, men giống và dịch đường được bơm vào thùng lên men một cách song song, với lượng men giống chiếm khoảng 10% thể tích thùng Tuy nhiên, dịch đường không được bơm đầy ngay lập tức mà quá trình này kéo dài trong 68 giờ để hạn chế sự phát triển của tạp khuẩn Thời gian lên men tổng cộng là 3 ngày Mặc dù phương pháp này dễ thực hiện và dễ xử lý khi gặp tạp khuẩn, nhưng năng suất thu được từ 1m3 thiết bị lại thấp.

Quá trình lên men liên tục đặc trưng bởi việc đưa dịch đường và men vào thùng lên men chính, nơi chứa một lượng lớn tế bào trong 1ml dịch Khi thùng chính đầy, dịch lên men sẽ chuyển sang các thùng bên cạnh và cuối cùng là thùng chứa giấm chín Quá trình này bắt đầu bằng việc phát triển men giống, sau đó chuyển vào thùng lên men cấp I, rồi đến thùng lên men cấp II, và cuối cùng là thùng lên men chính trước khi chuyển sang thùng lên men phụ Một yếu tố quan trọng trong quá trình lên men liên tục là kiểm soát số tế bào trong thùng lên men chính ở mức 100 đến 120 triệu/ml và đảm bảo điều kiện vô trùng.

Sơ đồ lên men liên tục có nhiều ưu điểm nổi bật, bao gồm việc sử dụng một lượng lớn men giống trong thùng lên men chính, giúp quá trình lên men diễn ra nhanh chóng và hạn chế sự phát triển của tạp khuẩn Sự hiện diện của nhiều men giống không chỉ áp đảo tạp khuẩn mà còn tạo ra rượu nhanh chóng, đồng thời ngăn chặn sự phát triển của chúng Hơn nữa, độ chua cao và pH thấp của dịch đường cũng tạo ra môi trường không thuận lợi cho vi khuẩn và nấm men hoang dại Sau 24 giờ, đã có tới 78% đường được lên men, trong khi ở phương pháp lên men gián đoạn chỉ đạt 42%.

Khi thực hiện quá trình lên men liên tục, việc tính toán và áp dụng công nghệ phù hợp là rất quan trọng Nếu không, có thể dẫn đến tình trạng nhiễm khuẩn nghiêm trọng, gây tốn kém trong việc xử lý và làm giảm hiệu suất sản xuất.

– Nhiệt độ lên men khống chế như sau : Đối với thùng lên men chính nên giữ ở 25 - 27

Trong quá trình lên men, nhiệt độ lý tưởng cho thùng lên men phụ là từ 27 - 30℃, trong khi các thùng khác duy trì ở mức 27 - 28℃ Với điều kiện này, quá trình lên men sẽ hoàn tất sau 60 đến 62 giờ, ngắn hơn so với phương pháp lên men gián đoạn kéo dài 72 giờ.

Sau quá trình lên men nhiệt độ dấm 34 đến 35℃

+ Nồng độ rượu đạt 5 đến 8%V

+ Nồng độ đường sót 3 đến 5g/l

- Quá trình chưng cất và tinh chế:

Chưng cất là quá trình tách rượu cùng các tạp chất dễ bay hơi ra khỏi dấm chín, kết thúc quá trình ta thu được cồn thô.

Tinh chế là quá trình tách các tạp chất ra khỏi cồn thô và nâng cao nồng độ, kết thúc quá trình ta thu được cồn tinh chế.

Hệ thống chưng cất và tinh chế gồm 3 tháp và các thùng làm lạnh ngưng tụ cồn, trong đó gồm 3 tháp chính:

Tháp thô: có tác dụng tách rượu khỏi dấm chín để thu cồn thô.

Tháp trung gian có chức năng chính là tách andehit ra khỏi cồn thô và thu hồi một phần cồn đầu Trong khi đó, tháp tinh chế tập trung vào việc loại bỏ các tạp chất còn lại và nâng cao độ cồn để đạt tiêu chuẩn.

Sơ đồ hệ thống chưng luyện bán liên tục

1-Thùng chưng cất thô;

2-Thùng ngưng tụ cồn thô

3-Thùng tạp chứa cồn thô

Để tách cồn thô khỏi giấm và tinh chế thành cồn tinh khiết chất lượng cao, có thể áp dụng các phương pháp như gián đoạn, bán liên tục và liên tục Trong đó, phương pháp bán liên tục và liên tục được ưu tiên do tính hiệu quả kinh tế cao trong sản xuất công nghiệp, trong khi phương pháp gián đoạn không đáp ứng được yêu cầu này Đây cũng là những phương pháp chủ yếu đang được sử dụng trên toàn thế giới.

Quá trình lên men rượu là một quy trình vô trùng, giúp giảm thiểu ô nhiễm vi sinh vật trong không khí và kéo dài thời gian sử dụng sản phẩm Nồi lên men được thiết kế với hệ thống vô trùng, đảm bảo chất lượng sản phẩm Các nồi lên men có dung tích từ 100L đến 15000L, được chia thành nhiều loại như nồi lên men vi sinh vật, nồi lên men bia và nồi lên men rượu, với trang bị bàn và túi cặp để gia nhiệt và làm nguội hiệu quả.

Bảng phân loại cồn theo TCVN – 71

Chỉ tiêu chất lượng Cồn loại I Cồn loại

Hàm lượng aldehyt tính theo

Hàm lượng este tính theo Axetat etyl, mg/l ≤ 30 50

Hàm lượng dầu fusel tính theo alcol izoamylic và izobutylic với hỗn hợp 3:1, mg/l 30 60

Hàm lượng axit tính theo axit axetic, mg/l 9 18

Hàm lượng furfurol Không được có

Thời gian oxy hoá, phút 25 20

Màu sắc Trong suốt, không màu

Quy trình sản xuất axit citric

Quy trình sản xuất gồm 3 phân đoạn chính.

Chuẩn bị dịch lên men

Để vi khuẩn phát triển và tạo axit trong môi trường lên men, cần có 0,07% Nitơ và 0,016-0,021% P2O5, cùng với một lượng rất nhỏ các ion K, Mg, Zn và các nguyên tố khác K, Mg, S, F và Nitơ đã có sẵn trong rỉ đường, nên chỉ cần bổ sung KH2PO4 và một lượng nhỏ ZnSO4 để kích thích quá trình tạo thành mixen và tổng hợp axit lactic Trước khi chuẩn bị dịch lên men, rỉ đường cần được xử lý, làm sạch, lọc trong và tiệt trùng, sau đó được chứa trong thùng cao vị với nồng độ 25-28% và được axit hóa bằng HCl.

Thùng chứa các chất dinh dưỡng cần bổ sung cũng cần được đặt ở vị trí cao, tất cả đều phải được tiệt trùng.

Chuẩn bị dịch nấm giống và lên men:

Để chuẩn bị dịch nấm giống, cần sử dụng các dịch vô trùng và tạo ra dịch lên men với nồng độ đường từ 3-4% Tiếp theo, tiến hành hoạt hóa giống bằng cách cho vào dung dịch với tỷ lệ 1g bào tử trên 1 lít canh trường trong thời gian 5 giờ.

Tùy thuộc vào loại thùng gây giống, cần cho dịch bào tử vào và thực hiện cánh khuấy liên tục cùng với việc sục khí vô trùng trong khoảng thời gian 28-36 giờ, với nhiệt độ duy trì từ 34-35 độ C Trong giai đoạn đầu, lượng không khí sục cần thiết là 9-10m³/giờ đối với thùng có dung tích 50m³.

Chất lượng nấm giống cần được kiểm tra thường xuyên sau 12, 24 và 36 giờ kể từ khi cấy Sau 36 giờ, sử dụng áp suất không khí vô trùng để đưa nấm vào thùng lên men, với lượng nấm giống chiếm khoảng 10-12% thể tích thùng Dịch lên men cũng cần được chuẩn bị tương tự, với tỷ lệ 3-4% Trong quá trình phát triển, nồng độ đường sẽ giảm, vì vậy cần bổ sung dịch đường đặc với tốc độ 0,5-0,8 m³/giờ Để sản xuất axit, nhiệt độ cần được kiểm soát ở mức 31-32°C Lượng không khí trong những giờ đầu vào khoảng 100 m³, tăng dần sau 2 giờ lên 800-1000 m³/giờ và duy trì ở mức này trong thời gian lên men cho thùng có dung tích 50 m³ Áp suất trong thùng duy trì ở khoảng 0,1-0,2 kg/cm².

Quá trình lên men được coi là hoàn tất khi độ chua không thay đổi trong khoảng 4-6 giờ cuối Thời gian lên men có thể kéo dài từ 5-10 ngày, tùy thuộc vào hoạt động và khả năng lên men của nấm mốc Để đạt được hiệu quả, lượng axit thu được trong 1m³ canh trường phải đạt từ 7,5 kg trở lên, trong khi pH sẽ giảm từ 3-4 xuống còn 2,2.

Lên men xong ta tăng nhiệt độ dịch lên men tới 60-65 o C, lọc để bỏ mixen, rửa nước và tập trung vào thùng chứa [18]

Xử lý dịch lên men:

Lên men xong trong dịch chứa hỗn hợp các axit: citric, oxalic, gluanic và đường sót lại.

Trong giai đoạn đầu tiên, cần tách axit ra khỏi dịch lên men bằng cách trung hòa với nước vôi cho đến khi pH đạt từ 6,8 đến 7,5 Các phản ứng sẽ diễn ra trong quá trình trung hòa này.

Citrat canxi và oxalate canxi sẽ kết tủa, trong khi gluconat canxi cùng với các axit và muối khoáng khác sẽ vẫn ở lại trong dung dịch Bằng cách lọc và rửa bã, ta có thể thu được các muối canxi kết tủa.

Giai đoạn hai là hoà tan citrat canxi ở nhiệt độ 60-65 o C theo phản ứng:

Trong điều kiện kiện dư axit sunfuric thì Oxalat canxi sẽ hoà tan, khi đó nó sẽ bị loại bỏ khi lọc.

Sau khi sử dụng hóa chất phù hợp để loại bỏ sắt và các kim loại khác, ta tiếp tục dùng than hoạt tính để khử màu Tiếp theo, tiến hành lọc để loại bỏ kết tủa và rửa để thu vào thùng cô đặc Nồng độ axit trong dung dịch đạt khoảng 16%.

Quá trình cô đặc diễn ra trong hai thiết bị: Thiết bị đầu tiên cô đặc đến tỷ trọng 1,24-1,26 và sau đó lọc để loại bỏ CaSO4 Tiếp theo, thiết bị thứ hai tiếp tục cô đặc đến tỷ trọng 1,35-1,36, tương đương với 80% axit citric.

Giai đoạn cuối của xử lý là kết tinh axit Kết tinh được tiến hành ở nhiệt độ 8-

10 o C trong 12-48 giờ Kết tinh xong đem đi ly tâm để tách nước và cái Tinh thể nhận được đem sấy khô ở nhiệt độ 35 o C, sau đó đóng vào bao bì.

Nước cái còn lại chứa nhiều axit, được xử lý, cô đặc và kết tinh lại Axit citric phải có độ kết tinh 99,5% trở lên [19]

Quy trình sản xuất rượu gum

Mục đích của quá trình xử lý môi trường rỉ là nhằm tạo ra một môi trường sạch hơn với độ thuần khiết cao, đồng thời loại bỏ phần lớn vi sinh vật có sẵn Quá trình này bao gồm việc lọc bỏ hầu hết vi sinh vật trong mật rỉ và có thể bổ sung thêm các chất trợ lọc để nâng cao hiệu quả.

Thiết bị lọc ly tâm

Chuẩn bị dịch lên men là bước quan trọng để phát triển nấm men, tạo điều kiện tối ưu cho quá trình lên men Việc làm giàu môi trường bằng các chất dinh dưỡng cần thiết, đặc biệt sau khi lọc, sẽ giúp bổ sung những yếu tố còn thiếu trong môi trường mật rỉ, từ đó đảm bảo nấm men hoạt động hiệu quả.

Dịch sau quá trình đạt 15-16% chất khô trong đó phải có từ 12-14% chất đường lên men được, pH trong khoảng 5.5-5.8% [8]

Thiết bị sử dụng thùng có cánh khuấy với tốc độ 150-200 vòng/phút.

Quá trình lên men rum bắt đầu bằng việc trộn rỉ đường với nước và nấm men trong khoảng 4-5 ngày Trong điều kiện môi trường kỵ khí và nhiệt độ từ 25-27 độ C, đường sẽ được chuyển hóa thành CO₂, cồn và nước.

Khi kết thúc quá trình độ cồn đạt 6-7%V Lưu ý ta cần tách hết xác nấm men ra khỏi dịch trước khi chưng cất [9]

Chưng cất gián đoạn là quá trình chưng cất dịch lên men rum, trong đó sản phẩm được chưng cất hai lần Lần chưng cất đầu tiên thu được sản phẩm giữa, và sản phẩm đầu cùng sản phẩm cuối sẽ được trộn lẫn, tạo ra dung dịch có khoảng 20% thể tích etanol.

Tiếp tục quá trình chưng cất gián đoạn lần hai, chúng ta thu được sản phẩm giữa và kết hợp với sản phẩm giữa ở lần đầu để tạo ra cồn Rum với nồng độ 50-62%V Sản phẩm đầu và cuối ở lần này cần phải loại bỏ Tiếp theo, rum được ủ trong thùng gỗ sồi nhằm làm hương thơm dịu hơn và giúp rum "chín kỹ" hơn, từ đó nâng cao chất lượng rượu Quá trình này diễn ra trong thùng gỗ sồi có tuổi thọ từ 40-50 năm, giúp rượu hấp thụ các chất từ gỗ, tạo nên hương vị đậm đà, dịu nhẹ và thơm ngon Mỗi thùng gỗ có thể tích từ 150-200 lít, với nhiệt độ ủ từ 20-30 độ C và độ ẩm không khí từ 75-80% Thời gian ủ kéo dài từ 4-5 năm, càng lâu thì hương vị càng trở nên phong phú hơn.

 Phối chế: Bổ sung thêm nước mềm và caramel để đưa về 40-45% V, sục thêm oxi từ 2-3 ngày Mục đích để rượu đỡ sốc nồng.

 Lọc trong: Tách bỏ các cấu tử dạng rắn lơ lửng ra khỏi pha Tăng giá trị cảm quan kéo dài thời gian bảo quản.

Chai thủy tinh được tiệt trùng trước khi chuyển đến khu vực vô chai, với quy trình thực hiện ở áp suất khí quyển Quá trình chiết rót, đóng chai và dán nhãn được tự động hóa, giúp kéo dài thời gian bảo quản và hoàn thiện quy trình sản xuất.

Quy trình sản xuất phân bón

Mật rỉ đường là một nguyên liệu phổ biến trong ủ phân vi sinh nhờ vào hàm lượng dinh dưỡng cao, cung cấp nguồn thức ăn lý tưởng cho vi sinh vật phát triển Việc sử dụng mật rỉ đường giúp rút ngắn thời gian ủ phân, tối ưu hóa việc tận dụng các phế phẩm hữu cơ và tạo ra nguồn phân bón an toàn cho cây trồng.

Rỉ đường không chỉ cung cấp dinh dưỡng cho cây trồng mà còn hỗ trợ sự phát triển và nâng cao năng suất, đồng thời giúp tiết kiệm chi phí sản xuất.

 Nguyên liệu. Để sản xuất 1 tấn phân hữu cơ vi sinh, trước khi ủ cần chuẩn bị đủ các nguyên liệu cần thiết sau:

+ Phế phụ phẩm có nguồn gốc từ cây xanh: 6-8 tạ.

+ Chế phẩm sinh học: Đủ cho ủ 1 tấn phân.

+ Nước gỉ đường hoặc mật mía: 2-3 kg.

Khi sản xuất phân hữu cơ vi sinh, cần lưu ý không nên thêm phân vô cơ hoặc vôi vào chế phẩm, vì điều này có thể tiêu diệt vi sinh vật có ích trong quá trình phân hủy Tuy nhiên, một số chế phẩm như BioEM cho phép thêm phân vô cơ hoặc vôi mà không ảnh hưởng đến hệ vi sinh vật, đồng thời còn tăng cường quá trình phân hủy chất hữu cơ Cụ thể, lượng vôi sử dụng cho 1 tấn phân ủ là từ 10-15kg, phân NPK từ 5-10kg, đạm từ 1-2kg và lân từ 5-10kg.

Để chuẩn bị nguyên liệu ủ, bước đầu tiên là trộn chế phẩm vi sinh với nước rỉ mật Bạn cần chia đều chế phẩm và nước rỉ mật thành 5 phần, sau đó cho một phần chế phẩm cùng với nước rỉ mật vào ô doa nước và khuấy đều.

Nếu không có nước rỉ mật hoặc mật mía, bạn có thể sử dụng các phụ phẩm như vỏ quả chín, quả chuối chín nẫu để ngâm vào nước Hãy ngâm các phụ phẩm này trước khi ủ phân trong khoảng 2-3 ngày để đạt hiệu quả tốt nhất.

Để thực hiện quá trình ủ phân, đầu tiên, rải các nguyên liệu khó phân huỷ như mùn cưa, trấu, lá khô, thân lá cây ngô và rơm rạ xuống dưới cùng với kích thước khoảng 1,5m chiều rộng và 0,3-0,4m chiều dày, chiếm 20% tổng lượng phế phụ phẩm Tiếp theo, rải một lớp phân chuồng (30% tổng lượng phân chuồng để ủ) hoặc nước phân đặc lên trên, sau đó tưới đều dung dịch chế phẩm và nước rỉ mật Để cung cấp dinh dưỡng cho vi sinh vật, rắc thêm vài nắm cám gạo hoặc bột sắn Tiếp tục rải các loại phế phụ phẩm với lớp dày 40cm, sau đó lại rải một lớp phân chuồng và tưới dung dịch chế phẩm và mật mía Lặp lại quy trình này cho đến khi hoàn thành, sẽ thu được đống phân ủ cao khoảng 1,5m.

Khi ủ nguyên liệu khô, cần lưu ý rằng sau mỗi lớp ủ, bạn nên tưới thêm nước để đảm bảo độ ẩm Lượng nước cần tưới, bao gồm cả nước dùng để hòa chế phẩm, khoảng từ 1/2 ô doa đến 2 ô doa, tùy thuộc vào mức độ khô của nguyên liệu.

Sau khi ủ xong, cần che đậy đống ủ bằng bạt, bao tải dừa hoặc nilon để bảo vệ và tránh ánh sáng chiếu trực tiếp Để tăng cường hiệu quả, nên sử dụng thêm tấm che bằng lá hoặc mái lợp Trong mùa đông, việc che đậy kỹ càng là rất quan trọng để duy trì nhiệt độ của đống ủ ở mức 40 độ.

 Bước 3: Đảo đống ủ và bảo quản.

Sau khi ủ nguyên liệu trong vài ngày, nhiệt độ sẽ tăng lên khoảng 40-50 độ C, giúp làm khô nguyên liệu và giảm lượng oxy cần thiết cho vi sinh vật Do đó, sau 7-10 ngày, cần kiểm tra và đảo trộn đống ủ; nếu nguyên liệu khô, hãy bổ sung nước một cách hợp lý, còn nếu quá ướt, nên sử dụng cây hoặc dụng cụ để thoáng khí, giúp hơi ẩm thoát nhanh.

Để kiểm tra nhiệt độ của đống phân ủ, sau khoảng 7-10 ngày ủ, bạn hãy dùng gậy tre nhọn chọc vào giữa đống phân Sau 10 phút, rút gậy ra và kiểm tra nhiệt độ bằng cách cầm gậy; nếu thấy nóng tay, quá trình ủ đã đạt yêu cầu Nếu gậy không đủ nóng, có thể nguyên liệu ủ quá khô hoặc quá ướt.

Để kiểm tra độ ẩm của đống ủ, bạn cần quan sát xem nước có ngấm đều trong rác thải và phế thải hay không; nếu cảm thấy mềm thì độ ẩm đã đạt yêu cầu Đối với các loại vật liệu như than bùn, mùn cưa và mùn mía, nếu khi bóp chặt thấy nước rịn qua kẽ tay thì độ ẩm khoảng 50% Ngược lại, nếu nước chảy ra có nghĩa là quá ẩm, còn nếu xòe tay ra thấy vỡ thì đó là dấu hiệu quá khô.

Sau ủ 15-20 ngày nên đảo đống phân ủ Đối với các loại nguyên liệu khó phân hủy như thân cây ngô, rơm rạ cứ sau 20 ngày đảo 1 lần [14]

 Các chỉ tiêu kỹ thuật đối với phân hữu cơ vi sinh vật: [26]

Bảng 1 - Chỉ tiêu kỹ thuật

Tên chỉ tiêu Mức Phương pháp thử / điều

1 Độ chín (hoại) cần thiết Tốt 7.2

2 Kích thước hạt Đồng đều

3 Độ ẩm, %, không lớn hơn 35 TCVN 5815 : 2000

5 Mật độ vi sinh vật tuyển chọn, CFU/gam mẫu, không nhỏ hơn

6 Hàm lượng chất hữu cơ tổng số, %, không nhỏ hơn

7 Hàm lượng nitơ tổng số, %, không nhỏ hơn 2,5 TCVN 5815 : 2001

8 Hàm lượng lân hữu hiệu, %, không nhỏ hơn 2,5 TCVN 5815 : 2001

9 Hàm lượng kali hữu hiệu, %, không nhỏ hơn 1,5 TCVN 5815 : 2001

10 Mật độ Salmonella trong 25 gam mẫu, CFU 0 TCVN 4829 : 2001

11 Hàm lượng chì, mg/kg khối lượng khô, không lớn hơn

12 Hàm lượng cadimi, mg/kg khối lượng khô, không lớn hơn

13 Hàm lượng crom, mg/kg khối lượng khô, không lớn hơn

14 Hàm lượng niken, mg/kg khối lượng khô, không lớn hơn

15 Hàm lượng thủy ngân, mg/kg khối lượng khô, không lớn hơn

Chú thích - CFU (colony forming unit): đơn vị hình thành khuẩn lạc

Máy ép viên phân bón là thiết bị cuối cùng trong dây chuyền sản xuất, có chức năng ép phân tơi xốp thành viên nén chặt, giúp điều chỉnh theo nhu cầu sử dụng.

Hướng tận dụng mới

Bã mía là nguồn nguyên liệu tiềm năng cho tương lai, không chỉ trong sản xuất giấy mà còn trong việc tạo ra túi giấy, ly giấy và hộp giấy, giúp giảm thiểu sử dụng đồ nhựa một lần So với việc sản xuất bột giấy từ gỗ, phương pháp phi gỗ được đánh giá cao vì tận dụng được nguyên liệu sẵn có của Việt Nam Nguyên liệu này có sẵn nhờ vào việc trồng canh tác ngắn ngày, và việc không phải phá rừng để lấy nguyên liệu giúp công nghệ sản xuất bột giấy phi gỗ trở thành giải pháp hiệu quả, hạn chế ô nhiễm môi trường.

Quy trình sản xuất giấy từ bả mía

Để đảm bảo bả mía không bị lẫn cỏ và không bị mốc, cần phải phơi khô và làm sạch trước Sau đó, cắt bả mía thành từng đoạn dài khoảng 2 - 5cm, với khuyến cáo nên cắt dài 3cm.

Để hòa tan NaOH (loại hạt) trong quá trình xử lý bã mía, cần cho NaOH và nước vào máy nghiền thô và vận hành máy Tỷ lệ phối trộn được khuyến cáo là 6m3 nước và 12kg NaOH cho mỗi tấn bã mía, trong khoảng từ 4 – 7 m3 nước và 10 – 14 kg NaOH cho 1 tấn bã mía.

Cho bã mía vào máy nghiền thô theo tỷ lệ phối trộn đã chỉ định, sau đó nghiền cùng dung dịch NaOH trong khoảng thời gian 10-15 phút, với khuyến cáo là 10 phút để đạt hiệu quả tối ưu.

Cho từ từ dung dịch HCl 32% vào hỗn hợp trong máy nghiền thô và nghiền trong 35 - 60 phút, thời gian khuyến cáo là 40 phút.

Tỷ lệ phối trộn nguyên liệu là 2,5 - 4,5 lít HCl nói trên cho 1 tấn bã mía, khuyến cáo là

3 lít HCl cho 1 tấn bã mía Việc cho dung dịch HCl vào máy có thể được thực hiện khi máy đang chạy hoặc cho máy ngừng hoạt động.

Hỗn hợp thu được từ công đoạn (d) cần được nghiền trong máy nghiền tinh trong thời gian 25 - 30 phút, với khuyến cáo là 30 phút Tỷ lệ phối trộn được khuyến cáo là 24 kg Ca(OH)2 cho mỗi tấn bã mía, trong khoảng từ 20 – 26 kg Ca(OH)2 Sau khi nghiền, xơ xenluloza có chiều dài từ 0,5 mm đến 0,8 mm.

Bổ sung 30% dung dịch H2O2 vào hỗn hợp trong máy nghiền tinh và nghiền trong 10 - 30 phút, với khuyến cáo 15 phút Tỷ lệ phối trộn lý tưởng là 60 lít dung dịch H2O2 cho 1 tấn bã mía, trong khoảng từ 50 - 70 lít.

H202 cho 1 bã mía Lúc này, bột đã đạt yêu cầu về độ phân tơ chổi hóa.

Chuyển toàn bộ hỗn hợp thu được từ công đoạn (g) sang máy khuấy, khuấy từ từ trong thời gian 2-3 giờ.

Loại nước của huyền phù thu được từ công đoạn (h) đến khi thu được bột giấy có độ ngậm nước 20 - 25%.

Rửa bột giấy bằng nước.

Bột giấy được xử lý đến khi độ ẩm còn lại là 20-25%, tạo ra bột giấy ướt với độ trắng khoảng 70° (trong khi độ trắng 100° là của magie cacbonat - MgCO3) Bột giấy ướt này có thể được chuyển ngay sang máy xeo giấy để sản xuất Tuy nhiên, nếu cần sản xuất bột giấy khô, bột giấy ướt sẽ được đưa vào máy sấy và sấy ở nhiệt độ 80°C cho đến khi độ ẩm giảm xuống còn 0,5 - 1%.

Để xử lý bã mía, cho bột giấy vào máy khuấy với tỷ lệ 3 m³ nước cho 1 tấn bã mía, khuấy cho bột tan đều Tiếp theo, bổ sung dung dịch H2O2 30% theo khối lượng vào huyền phù trong máy khuấy Thời gian khuấy phụ thuộc vào nhiệt độ môi trường: ở 12°C khuấy trong 180 phút, từ 17° - 20°C khuấy 150 phút, và từ 22°C trở lên khuấy 120 phút Tỷ lệ phối trộn là 30 lít H2O2 cho 1 tấn bã mía.

Quy trình sản xuất ốp lưng điện thoại, máy tính và name card từ bã mía

Bột mía là một loại bột giấy được sản xuất từ bã mía, thông qua quá trình nghiền thủy lực và khử trùng ở nhiệt độ cao Quá trình này sử dụng bột xốp và máy đập tuabin thủy lực để tách sợi, cải thiện khả năng liên kết và chống ẩm cho sản phẩm Sau khi điều chỉnh độ đặc của bột thô, bột giấy được định hình trên khuôn kim loại để tạo ra nguyên mẫu bột giấy ướt, trong đó khoảng 95% nước được loại bỏ Máy đúc đặc biệt được sử dụng để giảm chi phí sấy khô và tăng cường lực liên kết giữa các sợi Cuối cùng, quá trình sấy khô giúp loại bỏ nước còn lại và khử trùng sản phẩm, đảm bảo an toàn và chất lượng cho bột đồ ăn bột giấy.

Quá trình này áp dụng áp lực nóng và nung để loại bỏ các dấu lưới do mạng giấy để lại, giúp bề mặt bên trong và bên ngoài trở nên mịn màng và hoàn thiện hơn.

Ngày đăng: 24/05/2022, 20:26

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Hình 1: Năng suất mía của Việt Nam vẫn thấp so với bình quân chung thế giới. - PHẾ PHỤ LIỆU TRONG CNSX ĐƯỜNG HOÀN CHỈNH 1
Hình 1 Năng suất mía của Việt Nam vẫn thấp so với bình quân chung thế giới (Trang 4)
Hình 1.2: Chất thải mía đường. - PHẾ PHỤ LIỆU TRONG CNSX ĐƯỜNG HOÀN CHỈNH 1
Hình 1.2 Chất thải mía đường (Trang 5)
Bảng 1. Thành phần hóa học của chất thải rắn từ sản xuất đường - PHẾ PHỤ LIỆU TRONG CNSX ĐƯỜNG HOÀN CHỈNH 1
Bảng 1. Thành phần hóa học của chất thải rắn từ sản xuất đường (Trang 6)
Bảng 2: Thành phần hoá học và giá trị dinh dưỡng của rỉ đường - PHẾ PHỤ LIỆU TRONG CNSX ĐƯỜNG HOÀN CHỈNH 1
Bảng 2 Thành phần hoá học và giá trị dinh dưỡng của rỉ đường (Trang 9)
Bảng 3: Thành phần tro so với chất khô của rỉ đường mía và củ cải đường - PHẾ PHỤ LIỆU TRONG CNSX ĐƯỜNG HOÀN CHỈNH 1
Bảng 3 Thành phần tro so với chất khô của rỉ đường mía và củ cải đường (Trang 12)
Bảng 4: Thành phần một số chất sinh trưởng của rỉ đường mía. - PHẾ PHỤ LIỆU TRONG CNSX ĐƯỜNG HOÀN CHỈNH 1
Bảng 4 Thành phần một số chất sinh trưởng của rỉ đường mía (Trang 13)
Sơ đồ hệ thống chưng luyện bán liên tục. - PHẾ PHỤ LIỆU TRONG CNSX ĐƯỜNG HOÀN CHỈNH 1
Sơ đồ h ệ thống chưng luyện bán liên tục (Trang 23)
Bảng phân loại cồn theo TCVN – 71 - PHẾ PHỤ LIỆU TRONG CNSX ĐƯỜNG HOÀN CHỈNH 1
Bảng ph ân loại cồn theo TCVN – 71 (Trang 24)
Bảng 1 - Chỉ tiêu kỹ thuật - PHẾ PHỤ LIỆU TRONG CNSX ĐƯỜNG HOÀN CHỈNH 1
Bảng 1 Chỉ tiêu kỹ thuật (Trang 38)

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

w