1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Thực trạng sử dụng đòn bẩy tài chính đối với một số ngành trong các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh tại Việt Nam trước và trong đại dịch Covid19.

154 5 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Thực Trạng Về Đòn Bẩy Tài Chính Của Các Doanh Nghiệp Sản Xuất - Kinh Doanh Tại Việt Nam Trước Và Trong Đại Dịch Covid-19
Tác giả Võ Đức Hưng
Người hướng dẫn TS. Nguyễn Quỳnh Hương
Trường học Trường Đại Học Ngoại Thương
Chuyên ngành Quản Trị Kinh Doanh
Thể loại luận văn thạc sĩ
Năm xuất bản 2022
Thành phố Thành Phố Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 154
Dung lượng 25,41 MB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI (11)
    • 1.1. Tính cấp thiết của đề tài (11)
    • 1.2. Tổng quan về tình hình nghiên cứu (13)
      • 1.2.1. Tình hình nghiên cứu trong nước (13)
      • 1.2.2. Tình hình nghiên cứu ngoài nước (14)
      • 1.2.3. Đánh giá tình hình nghiên cứu (16)
    • 1.3. Mục tiêu nghiên cứu (17)
    • 1.4. Câu hỏi nghiên cứu (17)
    • 1.5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu (17)
      • 1.5.1. Đối tượng nghiên cứu (17)
      • 1.5.2. Phạm vi nghiên cứu (17)
    • 1.6. Phương pháp nghiên cứu (18)
      • 1.6.1. Cách chọn mẫu (18)
      • 1.6.2. Phương pháp phân tích (19)
    • 1.7. Ý nghĩa của nghiên cứu (19)
      • 1.7.1. Ý nghĩa khoa học (19)
      • 1.7.2. Ý nghĩa thực tiễn (19)
    • 1.8. Bố cục đề tài (20)
  • CHƯƠNG 2. CƠ SỞ LÝ LUẬN (22)
    • 2.1. Tổng quan lý thuyết về các doanh nghiệp SX-KD (22)
      • 2.1.1. Khái niệm doanh nghiệp SX-KD (22)
      • 2.1.2. Đặc điểm chung của các DNSX (22)
    • 2.2. Tổng quan lý thuyết về đòn bẩy tài chính và các chỉ số liên quan (23)
      • 2.2.1. Khái niệm đòn bẩy tài chính (23)
      • 2.2.2. Các khái niệm cơ bản trong tài chính có liên quan đến nhóm chỉ số đòn bẩy tài chính (24)
      • 2.2.3. Các cách tính nhóm chỉ số đòn bẩy tài chính và ý nghĩa của nó (25)
      • 2.2.4. Lợi ích và rủi ro khi sử dụng ĐBTC (27)
      • 2.2.5. Giải thích một số thuật ngữ được sử dụng trong bảng thống kê mô tả (28)
  • CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG SỬ DỤNG ĐÒN BẨY TÀI CHÍNH CỦA TỔNG (30)
    • 3.1. Tổng quan về bối cảnh và phân loại đối tượng nghiên cứu (30)
      • 3.1.1. Tổng quan về nền kinh tế Việt Nam trong bối cảnh Covid-19 (30)
      • 3.1.2. Phân loại các doanh nghiệp sản xuất được sử dụng trong bài nghiên cứu (31)
    • 3.2. Thực trạng sử dụng đòn bẩy tài chính của doanh nghiệp SX-KD và cụ thể từng nhóm ngành trước và trong đại dịch Covid-19 (31)
      • 3.2.1. Thực trạng sử dụng đòn bẩy tài chính của DNSXKD (31)
  • CHƯƠNG 4: KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ (75)
    • 4.1. Kết luận (75)
    • 4.2. Một số khuyến nghị (79)
      • 4.2.1. Đối với chủ doanh nghiệp và các quản lý doanh nghiệp (79)
    • 4.3. Hạn chế của đề tài và hướng nghiên cứu tiếp theo (81)
      • 4.3.1. Hạn chế của đề tài (81)
      • 4.3.2. Hướng nghiên cứu tiếp theo (82)
  • TÀI LIỆU THAM KHẢO (83)

Nội dung

Thực trạng sử dụng đòn bẩy tài chính đối với một số ngành trong các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh tại Việt Nam trước và trong đại dịch Covid19.Thực trạng sử dụng đòn bẩy tài chính đối với một số ngành trong các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh tại Việt Nam trước và trong đại dịch Covid19.Thực trạng sử dụng đòn bẩy tài chính đối với một số ngành trong các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh tại Việt Nam trước và trong đại dịch Covid19.Thực trạng sử dụng đòn bẩy tài chính đối với một số ngành trong các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh tại Việt Nam trước và trong đại dịch Covid19.Thực trạng sử dụng đòn bẩy tài chính đối với một số ngành trong các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh tại Việt Nam trước và trong đại dịch Covid19.Thực trạng sử dụng đòn bẩy tài chính đối với một số ngành trong các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh tại Việt Nam trước và trong đại dịch Covid19.

GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI

Tính cấp thiết của đề tài

Việt Nam đang tích cực hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, mở rộng thị trường và tạo ra nhiều cơ hội phát triển Những cải cách kinh tế mạnh mẽ trong gần ba thập kỷ qua đã mang lại thành quả đáng khích lệ cho đất nước Quản lý nguồn vốn hiệu quả trong các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh đã tạo ra một môi trường cạnh tranh và năng động, quyết định sự ra đời và phát triển của doanh nghiệp Tuy nhiên, doanh nghiệp vẫn phải đối mặt với nhiều thách thức, đặc biệt trong bối cảnh hậu quả nặng nề từ đại dịch Covid-19 Hai giai đoạn quan trọng trong tình trạng hoạt động của doanh nghiệp sẽ được phân tích rõ hơn.

Giai đoạn 2015 - 2018, nền kinh tế Việt Nam có nhiều khởi sắc, nhưng vẫn gặp phải những hạn chế đáng kể, khi nhiều doanh nghiệp rơi vào tình trạng khó khăn và thậm chí phải giải thể Theo số liệu từ Tổng cục Thống kê Việt Nam năm 2015, tình hình kinh tế vẫn còn nhiều thách thức cần khắc phục.

Theo báo cáo của Tổng cục Thống kê năm 2015, Việt Nam có hơn 9.400 doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, giảm 0.4% so với năm trước Tuy nhiên, con số này đã tăng lên trong những năm tiếp theo, với 12.478 doanh nghiệp vào năm 2016 và 12.802 doanh nghiệp vào năm 2017 Đặc biệt, năm 2018 ghi nhận 16.314 doanh nghiệp giải thể, tăng 34.7% so với năm 2017 Nguyên nhân chủ yếu là do các doanh nghiệp gặp khó khăn về tài chính, đặc biệt là trong việc tiếp cận nguồn vốn vay với lãi suất cao Việc mở rộng quy mô và thị phần quá nhanh, cùng với việc đầu tư không đúng hướng, đã dẫn đến tình trạng mất khả năng kiểm soát tài chính của nhiều doanh nghiệp.

Giai đoạn 2019 – 2020 chứng kiến sự bùng phát của đại dịch Covid-19 tại Việt Nam, dẫn đến nhiều hoạt động kinh tế bị đình trệ, khiến các doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc huy động vốn, đặc biệt là vốn vay để thích ứng với biến động trong sản xuất kinh doanh Báo cáo của VCCI và Ngân hàng Thế giới chỉ ra rằng 87,2% doanh nghiệp chịu ảnh hưởng tiêu cực từ đại dịch, trong khi chỉ 11% không bị ảnh hưởng Một số ngành sản xuất như may mặc (97%), thiết bị điện (94%) và sản xuất xe có động cơ (93%) bị tác động nặng nề Đặc biệt, số lượng doanh nghiệp giải thể trong năm 2019 và 2020 tăng lên đáng kể, với 16.840 và 17.500 doanh nghiệp lần lượt.

Thực trạng quản lý nguồn vốn hiện nay cho thấy sự cần thiết của việc linh hoạt trong quản lý tài chính đối với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp sản xuất tại Việt Nam Để tận dụng tiềm năng phát triển, cần có sự phối hợp giữa Chính phủ, ngân hàng và doanh nghiệp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nguồn vốn Tập trung vào đòn bẩy tài chính là một giải pháp quan trọng, vì đây là yếu tố cấu thành nguồn vốn của doanh nghiệp Nghiên cứu về "Thực trạng sử dụng đòn bẩy tài chính trong các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh tại Việt Nam trước và trong đại dịch Covid-19" là cần thiết để kịp thời đổi mới chính sách, khắc phục hậu quả và nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, đặc biệt là trong lĩnh vực sản xuất.

Tổng quan về tình hình nghiên cứu

Nhận thức về tầm quan trọng của tính linh hoạt trong quản lý nguồn vốn, đặc biệt là nguồn vốn bên ngoài, đã gia tăng trong những năm gần đây Các công cụ đòn bẩy không chỉ ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động tài chính mà còn liên quan đến khả năng thanh khoản của doanh nghiệp Hiện nay, nhiều bài viết đã được công bố nhằm nâng cao hiệu quả quản lý tài chính và sử dụng công cụ đòn bẩy tài chính, với mục tiêu phân tích, đánh giá và đề xuất giải pháp hoàn thiện chính sách Dưới đây là một số công trình nghiên cứu tiêu biểu của các tác giả trong và ngoài nước.

1.2.1 Tình hình nghiên cứu trong nước

Theo Doãn Thị Thanh Thuỷ (2013), tác giả đã nghiên cứu lý thuyết cơ cấu vốn và đòn bẩy tài chính của 290 doanh nghiệp phi tài chính niêm yết từ 2008 đến 2011, đồng thời so sánh tình hình sử dụng nợ vay giữa Việt Nam và các nước phát triển, cũng như đang phát triển theo từng ngành Nghiên cứu cũng phân tích ảnh hưởng của việc sử dụng đòn bẩy tài chính đến khả năng thanh khoản và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp Kết quả nghiên cứu cung cấp cơ sở để đưa ra các kiến nghị chính sách nhằm hỗ trợ cải thiện khó khăn và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.

Theo Đặng Duy Tân (2017), tác giả đã áp dụng phương pháp nghiên cứu của Varouj A Aivazian và cộng sự (2005) kết hợp dữ liệu bảng cùng với ba phương pháp hồi quy: pooling, random effect và fixed effect để kiểm tra ảnh hưởng của đòn bẩy tài chính đến quyết định đầu tư của doanh nghiệp tại Việt Nam Nghiên cứu phân tích ba trường hợp: toàn bộ mẫu, công ty có cơ hội tăng trưởng cao và công ty có cơ hội tăng trưởng thấp Kết quả cho thấy đòn bẩy tài chính tác động ngược chiều đến đầu tư của các công ty có cơ hội tăng trưởng thấp, trong khi đó, đối với các công ty có cơ hội tăng trưởng cao, đòn bẩy lại có mối tương quan cùng chiều với quyết định đầu tư Điều này nhấn mạnh rằng nhà quản lý cần cân nhắc kỹ lưỡng trước khi đưa ra các chiến lược đầu tư cho công ty.

Theo nghiên cứu của Nguyễn Thị Bình Minh (2019), tác giả đã phân tích lý thuyết quản trị lợi nhuận và kiểm định tác động của đòn bẩy tài chính đến quản trị lợi nhuận tại 268 công ty phi tài chính niêm yết trên sàn HSX và HOSE Kết quả cho thấy, các nhà quản lý cần thực hiện nhiều hành vi quản trị lợi nhuận dồn tích, và các công ty Việt Nam có xu hướng gia tăng đòn bẩy tài chính thì quản trị lợi nhuận dồn tích cũng cao hơn so với các công ty có tỷ lệ đòn bẩy cao trước đó Nghiên cứu cung cấp bằng chứng thực nghiệm về ảnh hưởng của đòn bẩy tài chính đến quản trị lợi nhuận tại các công ty.

Theo nghiên cứu của Nguyễn Thị Trà My (2021), việc phân tích mối quan hệ giữa đầu tư và dòng tiền kết hợp với đòn bẩy tài chính cho thấy hai kết luận quan trọng Thứ nhất, các doanh nghiệp Việt Nam thường ưu tiên sử dụng nguồn vốn sẵn có, đặc biệt là lợi nhuận giữ lại, cho các hoạt động đầu tư Thứ hai, mức độ nhạy cảm của đầu tư đối với dòng tiền sẽ tăng lên khi doanh nghiệp sử dụng đòn bẩy tài chính cao hơn Điều này cho thấy rằng các doanh nghiệp có đòn bẩy tài chính cao sẽ có ảnh hưởng lớn đến sự nhạy cảm giữa đầu tư và dòng tiền Những kết luận này cung cấp cho nhà quản lý cái nhìn tổng quan hơn trong việc xây dựng chiến lược tài chính và đưa ra quyết định đầu tư hiệu quả cho doanh nghiệp.

1.2.2 Tình hình nghiên cứu ngoài nước

Theo nghiên cứu của Aldy Pelita Admi và cộng sự (2019), tỷ lệ đòn bẩy tài chính, tỷ số hoạt động, thanh khoản và lợi nhuận không ảnh hưởng đáng kể đến giá cổ phiếu của các doanh nghiệp sản xuất tại Indonesia và Malaysia trong giai đoạn 2015 - 2017 Kết quả cho thấy, việc sử dụng nợ cao hơn vốn tự có dẫn đến giảm giá trị doanh nghiệp, khiến nhà đầu tư tránh xa các công ty có tỷ lệ đòn bẩy cao Điều này xảy ra vì khi nợ cao, cổ tức chia cho cổ đông giảm do lợi nhuận phải dùng để trả nợ, làm giảm sức hấp dẫn của cổ phiếu và kéo theo sự sụt giảm giá cổ phiếu.

Nghiên cứu của Siti Aisjah và cộng sự (2020) về tốc độ điều chỉnh tỷ lệ đòn bẩy của các doanh nghiệp sản xuất tại Indonesia cho thấy rằng tốc độ này vẫn còn chậm do chi phí điều chỉnh và cách quản lý thời gian Các yếu tố như quy mô doanh nghiệp, khoảng cách giữa tỷ lệ đòn bẩy mục tiêu và thực tế, cùng hệ số nợ ngắn hạn trên tổng nợ có ảnh hưởng ngược chiều đến tốc độ điều chỉnh, trong khi sự phát triển doanh nghiệp lại có ảnh hưởng thuận chiều Đặc biệt, chỉ số lợi nhuận không có tác động đáng kể đến tốc độ điều chỉnh tỷ lệ đòn bẩy Các công ty thường không thực hiện điều chỉnh ngay lập tức vì phải cân nhắc các tác động tiêu cực có thể xảy ra.

Nghiên cứu của Võ Thuỳ Anh (2021) đã phân tích tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế do đại dịch COVID-19 lên tốc độ điều chỉnh tỷ lệ đòn bẩy mục tiêu của 37.190 doanh nghiệp niêm yết tại 81 quốc gia Mô hình nghiên cứu sử dụng các biến như quy mô doanh nghiệp, tài sản cố định, chỉ số lợi nhuận, và các yếu tố kinh tế như GDP và lạm phát Kết quả cho thấy COVID-19 đã thúc đẩy các doanh nghiệp tăng tốc điều chỉnh tỷ lệ đòn bẩy, đặc biệt là ở những khu vực kinh tế bị ảnh hưởng nặng nề Tất cả các tác động đều có ý nghĩa thống kê và kinh tế cao, góp phần nâng cao hiểu biết về động lực đòn bẩy trong bối cảnh khủng hoảng toàn cầu Nghiên cứu cũng xem xét những thay đổi tiềm ẩn trong chi phí vốn của các doanh nghiệp bị ảnh hưởng bởi đại dịch.

1.2.3 Đánh giá tình hình nghiên cứu Đề tài về đòn bẩy tài chính được nghiên cứu rất nhiều trong những nghiên cứu trong nước trước đây Ta có thể thấy, đề tài nghiên cứu về đòn bẩy tài chính được phát triển rõ rệt theo thời gian Đầu tiên là đánh giá thực trạng sử dụng đòn bẩy tài chính của doanh nghiệp năm 2013, sau đó là các nghiên cứu sâu hơn về tác động của đòn bẩy tài chính đến quyết định đầu tư (2017), tác động của đòn bẩy tài chính đến hành vi quản trị lợi nhuận (2019) và ảnh hưởng của đòn bẩy tài chính đến độ nhạy cảm của đầu tư và dòng tiền (2021) Tuy nhiên, số lượng bài nghiên cứu về đòn bẩy tài chính đã giảm nhiệt trong khoảng thời gian gần đây, do đó đề tài nghiên cứu về Thực trạng sử dụng đòn bẩy tài chính của DNSX tại Việt Nam trước và trong đại dịch Covid-19 sẽ là một điểm mới, một cơ sở mới cho các nghiên cứu khác về đòn bẩy tài chính phát triển lần nữa tại Việt Nam Đề tài nghiên cứu của tác giả tuy gần giống với đề tài Thực trạng sử dụng đòn bẩy tài chính của doanh nghiệp phi tài chính của tác giả Doãn Thị Thanh Thuỷ (2013), tuy nhiên điểm mới của đề tài này là đi sâu vào phân tích thực trạng sử dụng đòn bẩy tài chính của các nhóm ngành sản xuất và chỉ ra sự khác nhau về việc sử dụng đòn bẩy tài chính thời kỳ trước và trong đại dịch Covid-19.

Các nghiên cứu trước đây trên thế giới đã đóng góp cho việc hiểu rõ hơn về sử dụng đòn bẩy tài chính trong quản lý nguồn vốn của doanh nghiệp, đặc biệt là trong bối cảnh đại dịch Covid-19 Những nghiên cứu này chỉ ra cách thức điều chỉnh tỷ lệ đòn bẩy của các doanh nghiệp và đưa ra kết quả thực nghiệm về việc điều chỉnh này Tuy nhiên, thực trạng sử dụng đòn bẩy tài chính trong các doanh nghiệp sản xuất vẫn là một đề tài mới mẻ và cơ bản, chưa được nghiên cứu nhiều ở nước ngoài.

Mục tiêu nghiên cứu

Nghiên cứu này tập trung vào thực trạng sử dụng đòn bẩy tài chính của các doanh nghiệp sản xuất (DNSX) niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam Mục tiêu chính là đánh giá mức độ sử dụng vay nợ ngắn hạn của các DNSX thuộc các ngành nghề sản xuất khác nhau, so sánh giữa hai thời điểm trước và trong đại dịch Covid-19.

Câu hỏi nghiên cứu

Đề tài phân tích nhằm trả lời cho các câu hỏi nghiên cứu sau:

Trong giai đoạn 2015 – 2020, tình hình sử dụng đòn bẩy tài chính qua nợ vay ngắn hạn của các doanh nghiệp sản xuất (DNSX) tại Việt Nam đã cho thấy sự khác biệt rõ rệt giữa các ngành nghề Nghiên cứu chỉ ra rằng mức độ vay nợ và cách thức quản lý tài chính có sự biến đổi đáng kể, phản ánh đặc thù và yêu cầu của từng lĩnh vực sản xuất Các doanh nghiệp trong ngành có tính chất chu kỳ cao thường sử dụng nợ vay ngắn hạn nhiều hơn để duy trì hoạt động, trong khi các ngành khác có thể áp dụng chiến lược tài chính khác.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

1.5.1 Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu là các DNSX niêm yết không liên tục từ 2015 - 2020 trên ba sàn giao dịch chủ yếu hiện nay: Sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh (HOSE), Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội (HNX) và UPCOM (Unlisted Public Company Market) Sàn UPCOM được tổ chức tại Sở giao dịch chứng khoán

Hà Nội là trung tâm giao dịch cho các doanh nghiệp niêm yết trên sàn HOSE và HNX, hai sàn chứng khoán lớn và lâu đời tại Việt Nam, được thành lập vào tháng 7/2000 và tháng 6/2009 Cả HOSE và HNX đều yêu cầu các doanh nghiệp niêm yết phải công khai và minh bạch thông tin, đặc biệt là báo cáo tài chính, nhằm đảm bảo tính chính xác trong việc tính toán tỷ lệ đòn bẩy tài chính Trong khi đó, sàn UPCOM có điều kiện niêm yết dễ dàng hơn, với yêu cầu vốn điều lệ tối thiểu là 120 tỷ đồng.

Phạm vi nghiên cứu bao gồm phạm vi về không gian và thời gian:

Nghiên cứu này tập trung vào ba sàn giao dịch chứng khoán chính tại Việt Nam, bao gồm HOSE, HNX và UPCOM, với đối tượng là các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực sản xuất.

Nghiên cứu này sử dụng dữ liệu từ báo cáo tài chính của các doanh nghiệp sản xuất niêm yết trong khoảng thời gian từ năm 2014 đến 2020, nhằm phân tích tình trạng sử dụng đòn bẩy tài chính trước và trong đại dịch Covid-19 Để làm rõ hơn, nghiên cứu chia các doanh nghiệp thành hai giai đoạn: giai đoạn 2015 - 2018, trước khi đại dịch xảy ra, và giai đoạn 2019 - 2020, trong thời gian đại dịch Covid-19.

Phương pháp nghiên cứu

Mẫu nghiên cứu bao gồm các doanh nghiệp niêm yết không liên tục từ năm 2014 đến 2020, với khoảng thời gian khảo sát từ 2015 đến 2020 Việc chọn năm 2014 là cần thiết để có số liệu tính toán ĐBTC năm 2015 Tác giả nhận định rằng việc lựa chọn các doanh nghiệp không niêm yết liên tục sẽ giúp phản ánh rõ hơn thực trạng sử dụng đòn bẩy tài chính của các doanh nghiệp niêm yết Qua đó, nghiên cứu nhằm tìm ra sự khác biệt trong việc sử dụng đòn bẩy tài chính giữa hai giai đoạn: trước đại dịch và trong đại dịch Covid-19 của từng nhóm ngành.

Tác giả đã thu thập được khối lượng dữ liệu lớn từ các báo cáo tài chính của hơn

Tác giả đã nghiên cứu 700 DNSX trên các sàn giao dịch khác nhau, bao gồm HOSE, HNX và UPCOM, từ năm 2014 đến 2020, với dữ liệu tài chính đã được kiểm toán Qua quá trình lọc, tác giả thu được mẫu hơn 500 DNSX, cho thấy sự biến động về số lượng theo từng năm và theo từng ngành nghề cụ thể.

 Nhóm sản xuất công nghiệp: dao động từ 143 - 162 doanh nghiệp

 Nhóm sản xuất công nghệ: từ 16 - 21 doanh nghiệp

 Nhóm sản xuất dược phẩm y tế: từ 44 - 52 doanh nghiệp

 Nhóm sản xuất hàng tiêu dùng: từ 207 - 229 doanh nghiệp

 Nhóm sản xuất nguyên vật liệu: từ 109 - 125 doanh nghiệp

1.6.2 Phương pháp phân tích Đầu tiên, dữ liệu ban đầu được lọc và làm sạch bằng phần mềm Microsoft Excel 2019 Sau đó, tác giả sử dụng công cụ tính toán của Excel để thống kê số liệu về đòn bẩy tài chính và các hệ số nợ của doanh nghiệp.

Phương pháp phân tích chính được sử dụng trong nghiên cứu này là thống kê mô tả thông qua phần mềm SPSS 20 Mục tiêu của việc áp dụng thống kê mô tả và bảng biểu là để làm rõ thực trạng sử dụng đòn bẩy tài chính của các doanh nghiệp sản xuất (DNSX), đồng thời so sánh sự khác biệt trong việc sử dụng đòn bẩy tài chính giữa các doanh nghiệp thuộc các ngành nghề khác nhau Nghiên cứu cũng xem xét và đánh giá tỷ lệ đòn bẩy tài chính trung bình của các ngành này so với trung bình và trung vị của ngành sản xuất nói chung Qua đó, có thể quan sát được mức độ ảnh hưởng khác nhau của đại dịch Covid-19 đến từng ngành.

Ý nghĩa của nghiên cứu

1.7.1 Ý nghĩa khoa học Đề tài phân tích dựa trên nhiều tài liệu tham khảo đến từ nhiều quốc gia, với khung lý thuyết được chuẩn hoá từ những công thức tài chính được chọn lọc từ các giáo trình được sử dụng rộng rãi Do đó, những lập luận và phân tích số liệu của tác giả đều dựa trên cơ sở khoa học vững chắc. Đề tài nghiên cứu này sẽ là cơ sở cho các đề tài nghiên cứu khác sâu hơn về đòn bẩy tài chính ở Việt Nam Các nghiên cứu có thể lấy bối cảnh về thực trạng sử dụng đòn bẩy tài chính của các nhóm ngành thuộc ngành sản xuất từ nghiên cứu này, từ đó làm phần mở đầu và phát triển đề tài nghiên cứu của họ Ngoài ra, các bài nghiên cứu về sự khác nhau trong việc sử dụng đòn bẩy tài chính trước và trong đại dịch Covid- 19 cũng có thể lấy nghiên cứu này làm tài liệu tham khảo.

Bài nghiên cứu này có hai ý nghĩa thực tiễn:

Đề tài này giúp doanh nghiệp đánh giá tổng quan về tình hình sử dụng đòn bẩy tài chính trong ngành sản xuất, cũng như từng nhóm ngành cụ thể Qua đó, các doanh nghiệp có thể xác định hướng đi mới để giải quyết những khó khăn, đặc biệt là trong bối cảnh đại dịch Covid-19.

Đề tài này giúp các trung gian tài chính và chính phủ có thể triển khai các biện pháp hỗ trợ doanh nghiệp vượt qua khó khăn trong việc điều chỉnh tỷ lệ đòn bẩy tài chính do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19, từ đó ổn định cơ cấu vốn và hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.

Bố cục đề tài

Đề tài gồm có bốn chương:

Chương 1 Giới thiệu đề tài Trong chương này, tác giả trình bày tổng quan về sự phát triển của đề tài kể cả trong và ngoài nước theo thời gian, đồng thời làm rõ mục tiêu và câu hỏi nghiên cứu của đề tài; trình bày tổng quát về đối tượng, phạm vi và phương pháp nghiên cứu Bên cạnh đó, tác giả cũng nêu lên ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của đề tài.

Chương 2 Cơ sở lý luận về việc sử dụng đòn bẩy tài chính của doanh nghiệp sản xuất - kinh doanh Trong chương này, tác giả trình bày tổng quan lý thuyết bao gồm khái niệm và cơ cấu vốn của các doanh nghiệp; lý thuyết đòn bẩy tài chính, bao gồm nhiều cách tính và ý nghĩa của mỗi công thức ở góc độ tài chính.

Chương 3 Thực trạng sử dụng đòn bẩy tài chính của DNSX và cụ thể từng nhóm ngành Đối với chương này, tác giả trình bày thực trạng sử dụng đòn bẩy tài chính của tổng quan ngành sản xuất thông qua các DNSX Tiếp theo, bằng sự kết hợp giữa bảng biểu, thống kê mô tả và cập nhật tình hình kinh tế riêng của các ngành, tác giả đưa ra phân tích riêng cho từng ngành về việc sử dụng đòn bẩy tài chính trước và trong đại dịch.

Chương 4 Kết luận và khuyến nghị Từ thực trạng được trình bày ở chương

Trong Chương 4, tác giả kết luận hai điểm chính về thực trạng sử dụng đòn bẩy tài chính của các doanh nghiệp sản xuất (DNSX) và từng nhóm ngành cụ thể Từ những phân tích này, tác giả đề xuất các khuyến nghị cho chủ doanh nghiệp, ngân hàng và nhà nước về việc áp dụng đòn bẩy tài chính một cách hợp lý, nhằm định hướng phát triển bền vững cho các DNSX.

CƠ SỞ LÝ LUẬN

Tổng quan lý thuyết về các doanh nghiệp SX-KD

2.1.1 Khái niệm doanh nghiệp SX-KD

Sản xuất kinh doanh là quá trình tạo ra sản phẩm và dịch vụ nhằm phục vụ cho việc trao đổi trên thị trường Doanh nghiệp trong lĩnh vực này sử dụng nguồn lực và tư liệu sản xuất, kết hợp với công nghệ khoa học, để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của khách hàng.

Doanh nghiệp sản xuất đóng vai trò thiết yếu trong đời sống con người và nền kinh tế Chúng đáp ứng nhu cầu cơ bản về ăn mặc, tiêu dùng và y tế, đồng thời tạo ra nhiều cơ hội việc làm, góp phần giảm tỷ lệ thất nghiệp Trong bối cảnh kinh tế, doanh nghiệp sản xuất là yếu tố không thể thiếu, giúp duy trì sự sống còn và phát triển chất lượng cuộc sống, cho cả các quốc gia phát triển và đang phát triển.

2.1.2 Đặc điểm chung của các DNSX

Theo Đoàn Thục Quyên (2015), các DNSX có những đặc điểm sau:

Doanh nghiệp sản xuất thường đầu tư nhiều hơn vào tài sản cố định so với các lĩnh vực khác, do cần chi phí cho xây dựng nhà xưởng, máy móc và thiết bị sản xuất Việc đầu tư vào tài sản cố định không chỉ tạo ra năng lực sản xuất mà còn làm tăng tỷ trọng vốn cố định so với vốn lưu động Khi doanh nghiệp phân bổ nhiều vốn hơn cho tài sản cố định, năng lực sản xuất của họ sẽ được cải thiện đáng kể.

DNSX có chu kỳ kinh doanh dài và thời gian thu hồi vốn chậm, bắt đầu từ việc mua nguyên vật liệu, qua sản xuất và kiểm tra chất lượng, trước khi phân phối hàng hóa ra thị trường Mặc dù thời gian thu hồi vốn từ khách hàng kéo dài, nhưng do các doanh nghiệp này thường sản xuất hàng hóa thiết yếu cho cuộc sống, chu kỳ kinh doanh vẫn diễn ra liên tục với tần suất cao.

Sự phát triển của doanh nghiệp sản xuất (DNSX) gắn liền với tiến bộ khoa học công nghệ, trong đó tư liệu lao động như máy móc và dây chuyền công nghệ đóng vai trò quan trọng Chất lượng sản phẩm chịu ảnh hưởng từ tư liệu lao động, và doanh nghiệp nào đầu tư vào công nghệ hiện đại sẽ có lợi thế cạnh tranh rõ rệt Việc cập nhật tư liệu lao động không chỉ nâng cao chất lượng sản phẩm mà còn rút ngắn thời gian sản xuất, giúp doanh nghiệp tạo ra nhiều sản phẩm hơn và thu hồi vốn nhanh hơn trong mỗi chu kỳ sản xuất kinh doanh.

Thứ tư, DNSX khó thay đổi quy mô và mặt hàng kinh doanh nhanh chóng.

DNSX cần thận trọng trong việc lựa chọn sản phẩm sản xuất, vì việc này ảnh hưởng đến đầu tư cho máy móc, thiết bị và nhân công Yếu tố đầu vào phải tương thích với mục đích và sản phẩm kinh doanh ban đầu Nếu chuyển sang sản phẩm khác, họ cần xem xét tính phù hợp của sản phẩm mới với các yếu tố đầu vào đã chọn và chi phí liên quan.

Tổng quan lý thuyết về đòn bẩy tài chính và các chỉ số liên quan

2.2.1 Khái niệm đòn bẩy tài chính

Trong hai giáo trình tài chính trong và ngoài nước, đòn bẩy tài chính được định nghĩa như sau:

Đòn bẩy tài chính, theo Nguyễn Đình Kiệm (2008), là việc sử dụng vốn vay trong cấu trúc vốn của doanh nghiệp với mục tiêu tăng cường tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu hoặc thu nhập trên mỗi cổ phần.

Theo Berk và Dermazo (2016), đòn bẩy tài chính là chỉ số phản ánh mức độ phụ thuộc vào nợ vay của doanh nghiệp, đóng vai trò quan trọng trong việc phân tích báo cáo tài chính của doanh nghiệp.

Đòn bẩy tài chính là khái niệm quan trọng trong kinh tế học, thể hiện mức độ mà doanh nghiệp sử dụng vốn vay để gia tăng tỷ suất lợi nhuận Nó không chỉ ảnh hưởng đến lợi nhuận doanh nghiệp mà còn liên quan đến vốn chủ sở hữu và thu nhập trên mỗi cổ phần.

2.2.2 Các khái niệm cơ bản trong tài chính có liên quan đến nhóm chỉ số đòn bẩy tài chính

Tổng tài sản của doanh nghiệp bao gồm tài sản ngắn hạn và tài sản dài hạn, với tài sản ngắn hạn là tiền và các khoản tương đương tiền có thể sử dụng trong vòng một năm hoặc trong một chu kỳ kinh doanh, trong khi tài sản dài hạn là những tài sản có thời gian sử dụng trên 12 tháng Giá trị tổng tài sản phản ánh quy mô của doanh nghiệp, đặc biệt quan trọng đối với doanh nghiệp tư nhân và công ty hợp danh, vì trách nhiệm trả nợ của họ bao gồm cả tài sản cá nhân Ngược lại, công ty TNHH và công ty cổ phần chỉ chịu trách nhiệm trong phạm vi vốn góp Do đó, doanh nghiệp có tổng tài sản cao thường có lợi thế về quy mô và khả năng thanh toán nợ, tùy thuộc vào mức nợ vay.

Vốn chủ sở hữu (VCSH) là phần tài sản còn lại sau khi trừ đi nợ phải trả, bao gồm vốn góp, cổ phiếu ưu đãi, cổ phiếu quỹ, lợi nhuận giữ lại, lợi ích cổ đông không kiểm soát và các thu nhập khác Theo Kaplan Schweser (2022), VCSH phản ánh tổng số vốn mà chủ doanh nghiệp và cổ đông đầu tư vào hoạt động của công ty Sự liên kết giữa tổng tài sản và VCSH được thể hiện qua một công thức cụ thể, cho thấy tầm quan trọng của VCSH trong việc đánh giá sức khỏe tài chính của doanh nghiệp.

VCSH = Tài sản - Nợ phải trả

Mỗi doanh nghiệp không thể để nợ phải trả và vốn chủ sở hữu (VCSH) vượt quá tổng tài sản của mình, trừ trường hợp vỡ nợ Hiện tại, chưa có quy định cụ thể về tỷ lệ tối thiểu của VCSH so với tổng tài sản hoặc tỷ lệ nợ phải trả so với VCSH Do đó, việc sử dụng nợ vay và hiệu quả của nó phụ thuộc vào cơ cấu vốn của từng doanh nghiệp.

Nợ phải trả dài hạn là các nghĩa vụ tài chính trên bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp, dự kiến không được thanh toán trong vòng 1 năm, với thời hạn thanh toán từ 12 tháng trở lên hoặc theo chu kỳ sản xuất của doanh nghiệp Các khoản nợ này thường có giá trị lớn và bao gồm nợ vay dài hạn, trái phiếu phải trả và thuê vốn, có thể có hoặc không có tài sản đảm bảo Tuy nhiên, không phải doanh nghiệp nào cũng có khoản nợ dài hạn, điều này phụ thuộc vào cơ cấu vốn của từng doanh nghiệp.

● Nợ phải trả: Nợ phải trả của doanh nghiệp bao gồm nợ ngắn hạn và dài hạn.

Nợ ngắn hạn của doanh nghiệp, theo Kaplan Schweser (2022), là khoản nợ phải thanh toán trong vòng một năm hoặc trong một chu kỳ sản xuất Các khoản nợ ngắn hạn chủ yếu bao gồm các khoản phải trả cho người bán, khoản dồn tích, doanh thu chưa thực hiện và nợ dài hạn đến hạn trả Tất cả các doanh nghiệp sản xuất đều có tồn tại khoản nợ ngắn hạn này.

2.2.3 Các cách tính nhóm chỉ số đòn bẩy tài chính và ý nghĩa của nó

Nhóm chỉ số đòn bẩy tài chính, giống như các chỉ số thanh toán, thanh khoản, lợi nhuận và hiệu quả hoạt động, được đo lường qua nhiều công thức và phép tính liên quan đến hệ số nợ vay Mỗi công thức này cung cấp ý nghĩa tài chính riêng biệt trong việc phân tích doanh nghiệp Theo Kaplan Schweser (2022), các công thức về tỷ lệ đòn bẩy tài chính và hệ số nợ của doanh nghiệp được tính toán cụ thể.

Tính toán đòn bẩy tài chính cơ bản dựa trên tỷ số giữa tổng tài sản bình quân và tổng vốn chủ sở hữu (VCSH) bình quân Bài viết cũng trình bày các công thức tính tỷ số đòn bẩy và nhóm hệ số nợ của doanh nghiệp để phục vụ cho việc phân tích Việc sử dụng chỉ tiêu bình quân giúp phản ánh chính xác sự thay đổi thực chất của doanh nghiệp trong suốt một thời kỳ.

Tổng tài sản bình quân được tính bằng trung bình cộng tổng tài sản của năm nay và năm trước, trong khi VCSH bình quân cũng được tính tương tự Tỷ số này cho thấy mối quan hệ giữa tài sản và vốn chủ sở hữu; khi tỷ số lớn, nghĩa là tài sản vượt trội hơn vốn chủ sở hữu, cho thấy nợ phải trả cũng tăng lên do công thức Tài sản = Nợ phải trả + VCSH Ngược lại, tỷ số đòn bẩy thấp cho thấy doanh nghiệp chưa khai thác được nhiều lợi thế từ đòn bẩy tài chính.

Các công thức về hệ số nợ cũng thuộc nhóm tỷ số đòn bẩy, thể hiện được mức độ phụ thuộc của doanh nghiệp vào nợ vay, bao gồm:

Tổng tài sản của công ty bao gồm tài sản ngắn hạn và dài hạn, trong khi nợ phải trả được chia thành nợ dài hạn và ngắn hạn Hệ số nợ trên tài sản cho biết tỷ lệ phần trăm tài sản của công ty được tài trợ từ nợ Nếu hệ số này cao, khả năng trả nợ của doanh nghiệp sẽ giảm.

Hệ số nợ dài hạn cho biết tỷ lệ phần trăm nợ dài hạn trong tổng vốn của công ty Hệ số càng cao cho thấy công ty sử dụng nhiều nợ, dẫn đến khả năng thanh toán thấp Nếu hệ số lớn hơn 1, doanh nghiệp có vốn chủ sở hữu (VCSH) âm, với mức âm nhỏ hơn nợ dài hạn Ngược lại, nếu hệ số âm, VCSH cũng âm và mức âm lớn hơn nợ dài hạn Khi hệ số nhỏ hơn 1, doanh nghiệp vẫn quản lý nợ dài hạn hiệu quả, nợ chưa vượt quá tài sản và VCSH không có dấu hiệu bất thường.

Hệ số nợ được tính bằng cách lấy nợ phải trả dài hạn làm tử số, trong khi nợ phải trả của doanh nghiệp bao gồm cả nợ ngắn hạn và dài hạn Việc sử dụng công thức này nhằm phân tích vì nợ ngắn hạn chỉ mang tính tạm thời và không ảnh hưởng lớn đến khả năng trả nợ của doanh nghiệp Ngược lại, nợ dài hạn là mối nguy chính dẫn đến khả năng vỡ nợ, do nó tồn tại lâu dài mà doanh nghiệp vẫn chưa thanh toán Do đó, hệ số này phản ánh tiềm năng rủi ro trong khả năng trả nợ của doanh nghiệp.

Hệ số nợ trên VCSH cho biết tỷ lệ phần trăm nợ phải trả trong tổng vốn chủ sở hữu của công ty Nếu hệ số này lớn hơn 1, điều đó cho thấy doanh nghiệp chủ yếu được tài trợ bằng nợ thay vì vốn chủ sở hữu Ngược lại, nếu hệ số âm, điều này có nghĩa là nợ vay của doanh nghiệp vượt quá tổng tài sản, dẫn đến giá trị âm của vốn chủ sở hữu Hệ số nợ trên VCSH càng nhỏ, doanh nghiệp càng ít gặp khó khăn về tài chính.

2.2.4 Lợi ích và rủi ro khi sử dụng ĐBTC

THỰC TRẠNG SỬ DỤNG ĐÒN BẨY TÀI CHÍNH CỦA TỔNG

Tổng quan về bối cảnh và phân loại đối tượng nghiên cứu

3.1.1 Tổng quan về nền kinh tế Việt Nam trong bối cảnh Covid-19 Đại dịch Covid lần đầu tiên xuất hiện vào cuối tháng 12 năm 2019 tại Thành phố Vũ Hán (Trung Quốc), sau đó nhanh chóng lây lan ra các nước trên thế giới và Việt Nam cũng không ngoại lệ Kể từ khi xuất hiện ca nhiễm bệnh đầu tiên tại Việt Nam (ngày 23/1/2020) nền kinh tế nước ta bắt đầu có nhiều thay đổi trong hầu hết các lĩnh vực (đặc biệt là hoạt động sản xuất kinh doanh).

Việt Nam đã trải qua 4 đợt dịch Covid-19 và hiện đang dần kiểm soát tình hình nhờ nỗ lực của các tuyến đầu Tuy nhiên, trong hai năm qua, nền kinh tế nước ta đã đối mặt với nhiều thách thức Theo Tổng cục Thống kê, trong 6 tháng đầu năm 2020, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng giảm 0,8% so với cùng kỳ năm 2019 Một nghiên cứu từ Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam và Ngân hàng Thế giới cho thấy hơn 87% doanh nghiệp bị ảnh hưởng nặng nề từ Covid, đặc biệt trong các lĩnh vực như may mặc, du lịch và giáo dục Đồng thời, sự suy giảm kinh tế toàn cầu, đặc biệt từ các quốc gia lớn như Mỹ, Trung Quốc và Nhật Bản, đã làm giảm nhu cầu nhập khẩu hàng hóa từ Việt Nam, với mức giảm 1,1% so với năm 2019, mặc dù xuất khẩu từ khu vực kinh tế trong nước vẫn tăng trên 10% Sự phụ thuộc vào FDI và tác động tiêu cực của dịch bệnh đến đầu tư và chuỗi giá trị toàn cầu đã ảnh hưởng không nhỏ đến xuất khẩu của Việt Nam.

Theo Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, dịch Covid đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến hơn 70% doanh nghiệp, với nhiều công ty phải tạm ngưng hoạt động và doanh thu giảm từ 50% đến 90% so với trước dịch Đại dịch này mang lại cả cơ hội và thách thức cho nền kinh tế Việt Nam, yêu cầu sự phối hợp chặt chẽ giữa Chính phủ và doanh nghiệp để tối ưu hóa quản lý chiến lược kinh doanh và nguồn tài chính, nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động và khai thác tiềm năng phát triển.

3.1.2 Phân loại các doanh nghiệp sản xuất được sử dụng trong bài nghiên cứu

Các DNSX trong bài được phân loại theo hai cách phân tích: phân loại theo nhóm ngành và theo giai đoạn thời gian.

Phân loại theo nhóm ngành: các DNSX được chia theo nhóm ngành ICB cấp

1, bao gồm 5 ngành sản xuất công nghiệp, sản xuất công nghệ, sản xuất dược phẩm y tế, sản xuất hàng tiêu dùng và sản xuất nguyên vật liệu.

Phân loại doanh nghiệp sản xuất theo giai đoạn thời gian dựa trên sự xuất hiện của dịch bệnh Covid-19, cụ thể là từ năm 2015 trở về trước.

2018) và bắt đầu xuất hiện (từ năm 2019 đến 2020) nhằm thể hiện rõ hơn về sự khác nhau của tình trạng các doanh nghiệp giữa hai thời điểm đó.

Thực trạng sử dụng đòn bẩy tài chính của doanh nghiệp SX-KD và cụ thể từng nhóm ngành trước và trong đại dịch Covid-19

3.2.1 Thực trạng sử dụng đòn bẩy tài chính của DNSXKD

Trong những năm gần đây, số lượng doanh nghiệp sản xuất (DNSX) niêm yết trên thị trường Việt Nam đã tăng trưởng mạnh mẽ, với tổng kim ngạch xuất khẩu liên tục gia tăng qua từng năm, bất chấp ảnh hưởng của đại dịch Covid-19 Thống kê cho thấy sự phát triển này không chỉ thể hiện khả năng phục hồi của nền kinh tế mà còn khẳng định vị thế của Việt Nam trên thị trường quốc tế.

Theo số liệu từ Trade Map, tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam năm 2020 đạt 281.441.457 nghìn USD, tăng 6,36% so với năm 2019, trong khi tổng kim ngạch nhập khẩu cũng tăng 3,10% nhưng với tốc độ chậm hơn Điều này cho thấy ngành sản xuất kinh doanh vẫn duy trì được hoạt động, mặc dù trải qua giai đoạn giãn cách xã hội vào tháng 3/2020 do đại dịch Covid-19 Tuy nhiên, tác động của đại dịch lên từng nhóm ngành sản xuất là không đồng đều Để làm rõ sự khác biệt này, tác giả đã phân tích các bảng thống kê về tỷ số ĐBTC và hệ số nợ của các doanh nghiệp sản xuất niêm yết trên hai sàn HOSE và HNX từ năm 2014 đến nay.

Năm 2015, tác giả đã phân tích tình hình sử dụng nợ vay của các doanh nghiệp sản xuất (DNSX), đặc biệt là sự khác biệt giữa giai đoạn trước và trong đại dịch Các DNSX được nghiên cứu thuộc các nhóm ngành như công nghiệp, dược phẩm y tế, dịch vụ tiêu dùng, hàng tiêu dùng và nguyên vật liệu.

Hình 3.1 Số lượng DNSX của từng nhóm ngành giai đoạn 2015 – 2020

Các doanh nghiệp niêm yết trên sàn chứng khoán Việt Nam có hai đặc điểm chung: phần lớn doanh nghiệp thuộc sàn UPCOM, ngoại trừ ngành sản xuất công nghệ, và số lượng niêm yết của các doanh nghiệp này có sự biến động qua từng năm do điều kiện niêm yết dễ dàng hơn Trong khi đó, hai sàn HOSE và HNX có ít sự thay đổi về số lượng doanh nghiệp niêm yết, vì yêu cầu vốn điều lệ tối thiểu 120 tỷ đồng và hoạt động ổn định trong ít nhất 2 năm Điều này cho thấy các doanh nghiệp trên HOSE và HNX thường phát triển bền vững và có quy mô lớn hơn so với các doanh nghiệp trên UPCOM Để hiểu rõ hơn về số lượng doanh nghiệp sản xuất cho từng nhóm, tác giả sẽ tiến hành phân tích chi tiết.

Ngành sản xuất công nghiệp hiện có từ 143 đến 162 doanh nghiệp sản xuất, với khoảng một nửa trong số đó được niêm yết trên sàn UPCOM, trong khi phần còn lại chủ yếu niêm yết trên HNX Tuy nhiên, trong giai đoạn đại dịch Covid-19, số lượng doanh nghiệp trong ngành đã giảm từ 162.

Từ năm 2016 đến năm 2020, số lượng công ty trên sàn UPCOM đã giảm xuống còn 143, trong đó có 11 công ty rút lui, cho thấy tình hình hoạt động của các doanh nghiệp trên sàn này gặp nhiều khó khăn, đặc biệt trong bối cảnh đại dịch Sự gia tăng số lượng công ty niêm yết, với UPCOM chiếm đa số, có thể dẫn đến sự biến động mạnh mẽ về giá trị ĐBTC và các hệ số nợ, đồng thời làm thay đổi hình dạng phân phối liên tục.

Ngành sản xuất công nghệ là ngành có điểm đặc biệt so với các ngành còn lại.

Sàn UPCOM hiện chỉ có từ 4 đến 7 doanh nghiệp niêm yết, trong tổng số 16 đến 21 công ty, cho thấy sự thiếu hụt về số lượng doanh nghiệp trong ngành sản xuất công nghệ Điều này phản ánh rằng hầu hết các doanh nghiệp lớn trong lĩnh vực này có tính bền vững cao, ngay cả trong bối cảnh đại dịch Năm 2021, chỉ có một doanh nghiệp rời khỏi sàn UPCOM, cho thấy sự ổn định của các doanh nghiệp còn lại.

Ngành sản xuất dược phẩm ít bị ảnh hưởng bởi đại dịch Covid-19, với số lượng doanh nghiệp niêm yết dao động từ 44 đến 52 Sự gia tăng này diễn ra qua các năm, tương tự như ngành sản xuất công nghệ, khi vào năm 2020, số lượng doanh nghiệp trong lĩnh vực này chỉ có.

Hơn một nửa số doanh nghiệp rớt khỏi sàn UPCOM, tuy nhiên tổng số lượng doanh nghiệp không lớn Dù vậy, tình hình hoạt động của ngành sản xuất dược phẩm vẫn khả quan trong bối cảnh dịch bệnh, do đó tỷ lệ ĐBTC và nhóm hệ số nợ dự kiến sẽ không có nhiều biến động.

Ngành sản xuất hàng tiêu dùng hiện đang dẫn đầu về số lượng doanh nghiệp niêm yết, mặc dù đã giảm từ 229 doanh nghiệp vào năm 2019 xuống còn 207 vào năm 2020 Đáng chú ý, phần lớn các doanh nghiệp trong ngành này đến từ sàn UPCOM, chiếm hơn một nửa tổng số doanh nghiệp, trong khi hai sàn còn lại gần như không có sự thay đổi về số lượng Do đó, tác giả dự đoán rằng số liệu của nhóm ngành này sẽ có sự biến động mạnh mẽ tương tự như ngành công nghiệp.

Ngành sản xuất nguyên vật liệu đứng thứ ba về số lượng doanh nghiệp, nhưng tỷ trọng doanh nghiệp trên sàn UPCOM không cao bằng ngành sản xuất hàng tiêu dùng và công nghiệp Số lượng doanh nghiệp niêm yết trên UPCOM gần bằng với sàn HOSE, cho thấy tỷ lệ ĐBTC và hệ số nợ của doanh nghiệp trong ngành này có thể ổn định hơn Năm 2020, số lượng doanh nghiệp trong ngành giảm 16 công ty so với năm 2019, từ 125 xuống còn 109.

Hình 3.2 Trung bình tổng tài sản của tổng thể DNSX giai đoạn 2015 – 2020

Giá trị trung bình tổng tài sản của các doanh nghiệp sản xuất (DNSX) đã tăng qua từng năm, cho thấy sự tăng trưởng tích cực qua các giai đoạn Cụ thể, vào năm 2020, trung bình mỗi DNSX đạt tổng tài sản trên 2500 tỷ đồng, cao hơn 1000 tỷ so với năm 2015 Điều này cho thấy phần lớn các DNSX đã hoạt động lâu dài, dẫn đến mức tài sản trung bình cao như vậy.

Mặc dù đại dịch ảnh hưởng đến nhiều lĩnh vực, tổng tài sản trung bình vẫn gia tăng, với tốc độ tăng trưởng vượt trội so với giai đoạn trước đại dịch.

Hình 3.3 Trung bình vốn chủ sở hữu của tổng thể DNSX giai đoạn 2015 – 2020

Nhìn chung, trung bình VCSH của tổng thể các DNSX ngày càng tăng nhưng

Average of VCSH 2015 Average of VCSH 2016 Average of VCSH 2017 Average of VCSH 2018 Average of VCSH 2019 Average of VCSH 2020

Tốc độ tăng trưởng của tổng tài sản đạt 400.000.000.000,00, thấp hơn so với mức tăng trưởng trong bối cảnh đại dịch Covid Vốn chủ sở hữu (VCSH) trung bình của mỗi doanh nghiệp đã tăng từ gần 800 tỷ vào năm 2015 lên trên 1.200 tỷ vào năm 2020, vượt xa yêu cầu niêm yết tối thiểu 120 tỷ của các sàn chứng khoán Điều này cho thấy giá trị trung bình của tài sản lớn hơn VCSH, chỉ ra rằng hầu hết các doanh nghiệp sản xuất đều sử dụng đòn bẩy tài chính cao, dao động từ 2 đến 3.

Theo bảng thống kê mô tả 3.1, đòn bẩy tài chính trung bình của các doanh nghiệp sản xuất (DNSX) dao động từ 1.05 đến 3 trong giai đoạn 2015-2020, cho thấy mức độ phân tán cao Hệ số này chỉ ra rằng tổng tài sản trung bình gấp 1.05 đến 3 lần tổng vốn chủ sở hữu (VCSH), với hệ số đòn bẩy tài chính cao thể hiện sự phụ thuộc vào nợ vay Mặc dù giá trị trung bình có xu hướng tăng, nhưng không phản ánh chính xác thực trạng sử dụng đòn bẩy tài chính của hầu hết doanh nghiệp do ảnh hưởng của giá trị cực đại và cực tiểu Độ lệch cao với giá trị âm và dương cho thấy nhiều doanh nghiệp sử dụng đòn bẩy tài chính cao hơn mức trung bình đang chuyển hướng về phía thấp hơn Sự phân tán thấp và độ nhọn dương cho thấy ít giá trị dữ liệu quanh mức trung bình, trong khi giá trị nhỏ nhất năm nào cũng có giá trị âm, chủ yếu đến từ các doanh nghiệp niêm yết trên sàn UPCOM.

Bảng 3.1 Thống kê mô tả tỷ lệ ĐBTC của các DNSX niêm yết từ 2015 đến 2020

Kết quả phân tích từ SPSS

Ngày đăng: 20/05/2022, 21:14

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Doãn Thị Thanh Thuỷ, 2013, Đánh giá thực trạng sử dụng đòn bẩy tài chính của các doanh nghiệp phi tài chính niêm yết tại Việt Nam (Luận văn Thạc sĩ ngành:Chính sách công) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đánh giá thực trạng sử dụng đòn bẩy tài chính củacác doanh nghiệp phi tài chính niêm yết tại Việt Nam
2. Đoàn Thục Quyên, 2015, Các giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp sản xuất niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam (Luận án tiến sĩ kinh tế chuyên ngành: Tài chính - Ngân hàng) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Các giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh của cácdoanh nghiệp sản xuất niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam
3. Đặng Duy Tân, 2017, Tác động của đòn bẩy tài chính đến quyết định đầu tư của các công ty niêm yết - Bằng chứng thực nghiệm tại Việt Nam (Luận văn Thạc sĩ kinh tế ngành: Tài chính - Ngân hàng) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tác động của đòn bẩy tài chính đến quyết định đầu tư củacác công ty niêm yết - Bằng chứng thực nghiệm tại Việt Nam
4. Nguyễn Thị Bình Minh, 2019, Ảnh hưởng đòn bẩy tài chính đến hành vi quản trị lợi nhuận của các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam giai đoạn 2009-2017 (Luận văn Thạc sĩ ngành: Tài chính - ngân hàng) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Ảnh hưởng đòn bẩy tài chính đến hành vi quản trịlợi nhuận của các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam giai đoạn2009-2017
5. Nguyễn Thị Trà My, 2021, Tác động của đòn bẩy tài chính đến độ nhạy cảm của đầu tư và dòng tiền của các công ty niêm yết Việt Nam (Luận văn Thạc sĩ ngành:Tài chính - ngân hàng) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tác động của đòn bẩy tài chính đến độ nhạy cảm củađầu tư và dòng tiền của các công ty niêm yết Việt Nam
6. Nguyễn Thu Hiền và cộng sự, 2016, Quản trị công ty và quá trình điều chỉnh động cấu trúc vốn - Quan sát từ các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam, Tạp chí Khoa học Đại học Mở TP.HCM Sách, tạp chí
Tiêu đề: Quản trị công ty và quá trình điều chỉnhđộng cấu trúc vốn - Quan sát từ các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứngkhoán Việt Nam
7. PGS.TS Nguyễn Đình Kiệm, 2008, giáo trình Tài chính doanh nghiệp, NXB Tài ChínhTài liệu tham khảo Tiếng Anh Sách, tạp chí
Tiêu đề: giáo trình Tài chính doanh nghiệp
Nhà XB: NXB TàiChínhTài liệu tham khảo Tiếng Anh
1. Aldy Pelita Admi et al., 2019, The effect of liquidity, leverage ratio, activities and profitability on stock prices with dividend policy as intervening variables in manufacturing companies in Indonesia and Malaysia 2015-2017, International Journal of Public Budgeting, Accounting and Finance Sách, tạp chí
Tiêu đề: The effect of liquidity, leverage ratio, activitiesand profitability on stock prices with dividend policy as intervening variables inmanufacturing companies in Indonesia and Malaysia 2015-2017
3. Coles, Jeff, Naveen Daniel, and Lalitha Naveen, 2006, Managerial incentives and risk taking, Journal of Financial Economics 79, page 431–468 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Managerial incentivesand risk taking
5.Murray Z. Frank and Vidhan K. Goyal (2007), Corporate Leverage Adjustment: How Much Do Managers Really Matter?, University of Minnesota, page 1-5 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Corporate Leverage "Adjustment: How Much Do Managers Really Matter
Tác giả: Murray Z. Frank and Vidhan K. Goyal
Năm: 2007
6. Siti Aisjah et al., 2020, Target and Leverage Adjustment Speed: Evidence on Manufacturing Companies in Indonesia, 23rd Asian Forum of Business Education (AFBE 2019) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Target and Leverage Adjustment Speed: Evidence onManufacturing Companies in Indonesia
7. Murray J. Fisher and Andrea P. Marshall (2008), Understanding descriptive statistics, University of Sydney Sách, tạp chí
Tiêu đề: Understanding descriptivestatistics
Tác giả: Murray J. Fisher and Andrea P. Marshall
Năm: 2008
8. Võ Thuỳ Anh, 2021, The Impact of COVID-19 Economic Crisis on the Speed of Adjustment toward Target Leverage Ratio: An International Analysis, Finance Research Letters Sách, tạp chí
Tiêu đề: The Impact of COVID-19 Economic Crisis on the Speedof Adjustment toward Target Leverage Ratio: An International Analysis

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w