1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Các nhân tố hành vi ảnh hưởng đến quyết định đầu tư của nhà đầu tư cá nhân trên Sở Giao dịch chứng khoán TP. Hồ Chí Minh.

150 14 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Các Nhân Tố Hành Vi Ảnh Hưởng Đến Quyết Định Đầu Tư Của Nhà Đầu Tư Cá Nhân Trên Sở Giao Dịch Chứng Khoán TP. Hồ Chí Minh
Tác giả Nguyễn Tuấn Anh
Người hướng dẫn TS. Nguyễn Thị Hoàng Anh
Trường học Trường Đại Học Ngoại Thương
Chuyên ngành Quản Trị Kinh Doanh
Thể loại luận văn thạc sĩ
Năm xuất bản 2022
Thành phố Thành Phố Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 150
Dung lượng 27,78 MB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU (14)
    • 1.1. Tính cấp thiết của đề tài (14)
    • 1.2. Tổng quan nghiên cứu (17)
      • 1.2.1. Tình hình nghiên cứu ngoài nước (17)
      • 1.2.1. Tình hình nghiên cứu trong nước (19)
    • 1.3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu (22)
    • 1.4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu (23)
      • 1.4.1. Đối tượng nghiên cứu (23)
      • 1.4.2. Phạm vi nghiên cứu (23)
    • 1.5. Phương pháp nghiên cứu (23)
      • 1.5.1. Nguồn dữ liệu sử dụng (23)
      • 1.5.2. Phương pháp thực hiện (24)
    • 1.6. Đóng góp mới và ý nghĩa thực tiễn (24)
    • 1.7. Cấu trúc của luận văn (24)
  • CHƯƠNG 2: TỔNG QUAN CƠ SỞ LÝ THUYẾT (26)
    • 2.1. Tổng quan về thị trường chứng khoán (26)
      • 2.1.1. Khái niệm và các đặc điểm của thị trường chứng khoán (26)
      • 2.1.2. Các chủ thể tham gia trên thị trường chứng khoán (27)
      • 2.1.3. Chức năng và vai trò của thị trường chứng khoán (32)
        • 2.1.3.1. Chức năng của thị trường chứng khoán (32)
        • 2.1.3.2. Vai trò của thị trường chứng khoán (33)
    • 2.2. Các lý thuyết tài chính truyền thống và quyết định đầu tư của nhà đầu tư cá nhân (34)
      • 2.2.1 Lý thuyết hữu dụng kì vọng (35)
      • 2.2.2. Định giá tài sản, thị trường hiệu quả và lý thuyết đại diện (37)
    • 2.3. Các lý thuyết tài chính hành vi và quyết định đầu tư của các nhà đầu tư cá nhân (41)
      • 2.3.1. Lý thuyết triển vọng, mẫu hình tính toán bất hợp lý (41)
      • 2.3.2. Tác động của tự nghiệm và các lệch lạc đối với việc ra quyết định tài chính (45)
      • 2.3.3. Tâm lý quá tự tin (48)
      • 2.3.4. Cảm xúc và tác động (50)
      • 2.3.5. Ảnh hưởng xã hội (50)
      • 2.3.6. Một số các nghiên cứu liên quan về các nhân tố hành vi ảnh hưởng đến quyết định đầu tư của nhà đầu tư cá nhân trên Sở giao dịch chứng khoán (52)
    • 2.4. Mô hình nghiên cứu đề xuất và các giả thuyết nghiên cứu (53)
      • 2.4.1. Mô hình nghiên cứu đề xuất (53)
      • 2.4.2. Các giả thuyết nghiên cứu (54)
  • CHƯƠNG 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU (57)
    • 3.1. Quy trình nghiên cứu (57)
      • 3.1.1. Giai đoạn nghiên cứu sơ bộ (57)
      • 3.1.2. Giai đoạn nghiên cứu chính thức (60)
    • 3.2. Nghiên cứu chính thức (61)
      • 3.2.1. Thống kê mô tả (61)
      • 3.2.2. Phân tích hệ số Cronbach’s Alpha (62)
      • 3.2.3. Phân tích nhân tố khám phá EFA (63)
      • 3.2.4. Phân tích tương quan Pearson (64)
      • 3.2.5. Phân tích hồi quy tuyến tính bội (65)
    • 3.3. Thang đo sử dụng cho nghiên cứu (67)
      • 3.3.1. Thang đo thông tin cá nhân (67)
      • 3.3.2. Thang đo cho các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định đầu tư (68)
      • 3.3.3. Thang đo quyết định đầu tư (73)
  • CHƯƠNG 4: TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU LUẬN VĂN (74)
    • 4.1. Giới thiệu về thị trường chứng khoán Việt Nam (74)
      • 4.1.1. Tổng quan thị trường chứng khoán Việt Nam (74)
      • 4.1.2 Tổng quan về nhà đầu tư cá nhân (77)
    • 4.2. Kết quả nghiên cứu (80)
      • 4.2.1. Mô tả mẫu 65 4.3. Đánh giá thang đo (80)
      • 4.3.1. Phân tích độ tin cậy Cronbach Anpha (85)
      • 4.3.2. Phân tích nhân tố khám phá EFA (89)
        • 4.3.2.1. Thang đo các nhân tố hành vi ảnh hưởng đến quyết định đầu tư (89)
        • 4.3.2.2. Thang đo quyết định đầu tư (95)
    • 4.4. Kiểm định mô hình và giả thuyết nghiên cứu (97)
  • CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN (104)
    • 5.1. Các kết quả chính và đóng góp của nghiên cứu (104)
      • 5.1.1. Các kết quả chính của nghiên cứu (104)
      • 5.1.2. Đóng góp của nghiên cứu (104)
    • 5.2. Đề xuất hàm ý quản trị (104)
      • 5.2.1. Đối với nhà đầu tư cá nhân (104)
      • 5.2.2. Đối với các công ty chứng khoán (107)
    • 5.3. Hạn chế của đề tài và hướng nghiên cứu tiếp theo (108)
  • PHỤ LỤC (115)

Nội dung

Các nhân tố hành vi ảnh hưởng đến quyết định đầu tư của nhà đầu tư cá nhân trên Sở Giao dịch chứng khoán TP. Hồ Chí Minh.Các nhân tố hành vi ảnh hưởng đến quyết định đầu tư của nhà đầu tư cá nhân trên Sở Giao dịch chứng khoán TP. Hồ Chí Minh.Các nhân tố hành vi ảnh hưởng đến quyết định đầu tư của nhà đầu tư cá nhân trên Sở Giao dịch chứng khoán TP. Hồ Chí Minh.Các nhân tố hành vi ảnh hưởng đến quyết định đầu tư của nhà đầu tư cá nhân trên Sở Giao dịch chứng khoán TP. Hồ Chí Minh.Các nhân tố hành vi ảnh hưởng đến quyết định đầu tư của nhà đầu tư cá nhân trên Sở Giao dịch chứng khoán TP. Hồ Chí Minh.Các nhân tố hành vi ảnh hưởng đến quyết định đầu tư của nhà đầu tư cá nhân trên Sở Giao dịch chứng khoán TP. Hồ Chí Minh.

GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU

Tính cấp thiết của đề tài

Thị trường chứng khoán Việt Nam đã trải qua 25 năm phát triển từ 28/11/1996 đến 28/11/2021, đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế và cấu trúc hệ thống tài chính hiện đại Theo đánh giá của Dragon Capital, cổ phiếu là kênh đầu tư hấp dẫn nhất tại Việt Nam trong hai thập kỷ qua, với tỷ suất sinh lời bình quân khoảng 16% mỗi năm Hiệu suất này vượt trội hơn so với bất động sản chung cư (11,9%), vàng (9%), tiền gửi (8%) và đôla Mỹ (2,2%) trong cùng khoảng thời gian 21 năm.

Hình 1.1: Hiệu suất các kênh đầu tư tại Việt Nam trong hai thập kỷ gần nhất.

Năm 2021, kinh tế Việt Nam gặp nhiều khó khăn do đại dịch Covid-19, nhưng thị trường chứng khoán lại ghi nhận sự thăng hoa với nhiều kỷ lục mới Vốn hóa thị trường đạt hơn 7,5 triệu tỉ đồng, tăng trên 45% so với năm 2020, và VN-Index lần đầu tiên vượt mốc 1.500 điểm vào ngày 25/11 Số tài khoản mở mới cũng đạt kỷ lục với hơn 1,3 triệu tài khoản trong 11 tháng, nâng tổng số tài khoản nhà đầu tư trong nước lên trên 4 triệu, tương đương gần 4% dân số Thanh khoản thị trường tăng trưởng mạnh mẽ, đạt mức 1 tỷ USD thường xuyên và lập kỷ lục gần 2,3 tỷ USD trong phiên 23/12 VN-Index đã tăng 32,3% so với cuối năm 2020, trở thành năm tăng mạnh thứ hai kể từ năm 2010, chỉ sau mức tăng 48% vào năm 2017 Việt Nam cũng lọt vào top thị trường mang lại suất sinh lời cao nhất thế giới, đứng sau Mỹ, Ấn Độ và Đài Loan.

Trên thị trường chứng khoán Việt Nam, nhiều nhà đầu tư (NĐT) mới thường bị cuốn theo các nhóm trên mạng xã hội như Zalo, Facebook, và Telegram, dẫn đến việc họ chỉ dựa vào may rủi mà không tìm hiểu kỹ lưỡng về các mã chứng khoán Thực trạng này thể hiện rõ qua việc NĐT thường hùa theo ý kiến của những người có ảnh hưởng mà không nắm vững lý do đằng sau các quyết định mua bán Hiện tượng FOMO (Fear of missing out) cũng góp phần thúc đẩy NĐT đổ xô vào các tài sản, gây ra sự biến động lớn trên thị trường Việc tham gia đầu tư mà không có kiến thức và kinh nghiệm khiến NĐT F0 dễ bị thao túng và mất tiền, đặc biệt trong một môi trường đầu tư đầy rủi ro như TTCK Một ví dụ điển hình là sự biến động mạnh của cổ phiếu Licogi (LIC) cùng với nhiều mã khác như FLC, IDI, SJF, và TNI.

Trong lý thuyết tài chính truyền thống, nhà đầu tư cá nhân được cho là đưa ra quyết định dựa hoàn toàn vào lý trí, bỏ qua các yếu tố cảm tính Họ thường xem xét khả năng sinh lời và thua lỗ để tối đa hóa lợi ích, tuân theo nguyên tắc lợi nhuận tương ứng với mức rủi ro Tuy nhiên, thực tế cho thấy nhiều nhà đầu tư lại dựa vào cảm tính và hiệu ứng đám đông, dẫn đến việc ít người sử dụng lý trí trong quyết định đầu tư Vậy điều gì đã tạo ra hiện tượng này và những yếu tố hành vi nào ảnh hưởng đến quyết định của nhà đầu tư cá nhân? Chúng có tác động ra sao đến quá trình ra quyết định?

Việc xác định các nhân tố hành vi ảnh hưởng đến quyết định đầu tư của nhà đầu tư cá nhân là rất cần thiết, đặc biệt trong bối cảnh số lượng nhà đầu tư cá nhân tăng nhanh trong năm 2021 Do đó, tác giả thực hiện nghiên cứu về các yếu tố này trên Sở Giao dịch chứng khoán TP Hồ Chí Minh.

Tổng quan nghiên cứu

1.2.1 Tình hình nghiên cứu ngoài nước

Nhiều nghiên cứu đã được thực hiện để khám phá các nhân tố hành vi ảnh hưởng đến quyết định của nhà đầu tư cá nhân.

Nghiên cứu “Factors Influencing Individual Investor Behavior” (tạm dịch:

“Các nhân tố ảnh hưởng hành vi nhà đầu tư cá nhân”) tại thị trường chứng khoán

Nghiên cứu của Robert A Nagy và Robert W Obengerger (1994) đã chỉ ra rằng hành vi của nhà đầu tư cá nhân bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố, bao gồm nhận thức cá nhân, thông tin về cổ phiếu, thông tin thị trường và nhu cầu tài chính cá nhân.

Nghiên cứu "Các lệch lạc tâm lý của nhà đầu tư" của H Kent Baker và John R Nofsinger (2002) đã chỉ ra rằng các yếu tố tâm lý đóng vai trò quan trọng trong quyết định đầu tư của nhà đầu tư cá nhân Cụ thể, cách nghĩ, cảm nhận của nhà đầu tư và ảnh hưởng từ xã hội là những yếu tố chính tác động đến hành vi đầu tư của họ.

Nghiên cứu của Shu Chun Hsiao và Sun Pi-Chuan (2006) về “Sự ảnh hưởng của tâm lý nhà đầu tư đến hiệu ứng ngược vị thế” chỉ ra rằng tâm lý nhà đầu tư cá nhân bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố, bao gồm sự quá tự tin, cảm giác tiếc nuối, tính toán bất hợp lý và khả năng tự kiểm soát Những yếu tố này đóng vai trò quan trọng trong việc định hình quyết định đầu tư của họ.

Nghiên cứu “The Impact of Psychological Factors on Investors’ Decision

Nghiên cứu "Sự ảnh hưởng của các nhân tố tâm lý đến việc ra quyết định của nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán Malaysia" của Suzaida Bakar và Amelia Ng Chui Yi tập trung vào tác động của các yếu tố tâm lý đối với quyết định đầu tư của nhà đầu tư tại thị trường chứng khoán Malaysia, đặc biệt là ở Klang Valley và Pahang Nghiên cứu này chỉ ra rằng tâm lý nhà đầu tư có thể ảnh hưởng mạnh mẽ đến hành vi giao dịch và kết quả đầu tư, từ đó nhấn mạnh tầm quan trọng của việc hiểu rõ các yếu tố tâm lý trong môi trường đầu tư.

Nghiên cứu năm 2015 cho thấy sự quá tự tin có ảnh hưởng tích cực đến quyết định của nhà đầu tư, điều này được củng cố bởi các nghiên cứu trước đó của Qadri & Shabbir (2013), Lim (2012), và Qureshi cùng cộng sự (2012) Ngược lại, chủ nghĩa bảo thủ lại có tác động tiêu cực đến quyết định của nhà đầu tư, như được xác nhận bởi Lim (2012) và Kengatharan (2014) Hơn nữa, tâm lý bầy đàn không có ảnh hưởng đáng kể đến quyết định của nhà đầu tư, phù hợp với kết luận của Lim (2012) Cuối cùng, sự lệch lạc có sẵn lại có tác động tích cực đáng kể đến quyết định của nhà đầu tư, điều này cũng được xác nhận bởi Qureshi và cộng sự (2012), Lương & Thu Hà (2011), và Nofsingera & Varmab (2013).

Gần đây, nghiên cứu “Behavioural Finance: Investors Self Attribution and

Bài viết "Tài chính hành vi: Lệch lạc tự quy kết và Quá tự tin của nhà đầu tư" của Shashi Bhushan Mishra và Dr Richa Darshan (2018) chỉ ra rằng những hậu quả tiêu cực từ sự quá tự tin của nhà đầu tư thường nghiêm trọng hơn do lệch lạc tự quy kết Bên cạnh đó, các yếu tố như kiến thức, giáo dục, tình trạng kinh tế và giới tính cũng đóng vai trò quan trọng trong hành vi của nhà đầu tư Cuối cùng, sự lý trí, thói quen và tài chính hành vi có ảnh hưởng lớn đến quyết định đầu tư của họ.

Nghiên cứu về các nhân tố hành vi ảnh hưởng đến quyết định đầu tư của nhà đầu tư cá nhân đang thu hút sự chú ý của nhiều nhà nghiên cứu trên thế giới Kết quả nghiên cứu có thể thay đổi tùy thuộc vào mục tiêu và bối cảnh cụ thể Hơn nữa, các yếu tố hành vi cần được cập nhật thường xuyên để phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế toàn cầu và thị trường chứng khoán từng quốc gia Do đó, việc tiến hành các nghiên cứu mới về chủ đề này trong từng thị trường chứng khoán và khoảng thời gian nhất định là rất cần thiết.

1.2.1 Tình hình nghiên cứu trong nước

Nghiên cứu về tài chính hành vi đối với nhà đầu tư cá nhân tại Việt Nam đã phát triển mạnh mẽ, với nhiều đề tài đáng chú ý Một trong số đó là nghiên cứu của Hồ Quốc Tuấn (2007) về “Tài chính hành vi – Nghiên cứu ứng dụng tâm lý học vào tài chính”, cho thấy rằng khi thị trường có sự kết hợp của hành vi bất hợp lý, hiệu ứng hệ thống và giới hạn kinh doanh chênh lệch giá, các lý thuyết tài chính truyền thống trở nên kém hiệu quả, nhấn mạnh giá trị của tài chính hành vi Thêm vào đó, luận văn thạc sĩ của Man Thái Hưng (2007) tại Trường Đại học Bách Khoa TP HCM đã xác định rằng tâm lý nhà đầu tư, phân tích cơ bản và thông tin thị trường là những yếu tố ảnh hưởng đến quyết định đầu tư chứng khoán, mặc dù nghiên cứu này được thực hiện trong bối cảnh thị trường đang tăng trưởng và không đi sâu vào yếu tố tâm lý cụ thể.

Đề tài luận văn thạc sỹ kinh tế của học viên Đặng nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến xu hướng mua cổ phiếu của nhà đầu tư cá nhân trong năm 2007 Nghiên cứu này sẽ giúp hiểu rõ hơn về hành vi đầu tư của cá nhân và các yếu tố tác động đến quyết định mua cổ phiếu.

Thị Thúy Dung (Trường Đại học Bách Khoa TP HCM – năm 2007) đã nghiên cứu vào thời điểm thị trường chứng khoán đang tăng trưởng, xác định rằng niềm tin vào nhân viên môi giới, nhận thức về cổ phiếu, khả năng chấp nhận rủi ro và sự hài lòng với các quyết định mua trước đây là những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến quyết định của nhà đầu tư cá nhân.

Tác giả Nguyễn Thị Hoài Lê và Nguyễn Thị Xuân Anh (2010) trong đề tài

Tâm lý tài chính học đã chỉ ra rằng những hành vi bất thường và phi logic của nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán không thể giải thích bằng các lý thuyết tài chính truyền thống, dẫn đến sự phát triển của tài chính hành vi Ba điểm nổi bật về hành vi của nhà đầu tư trong các quyết định rủi ro bao gồm: đầu tiên, khi phải đưa ra quyết định trong điều kiện rủi ro, cá nhân thường tập trung vào lợi nhuận và thua lỗ một cách độc lập thay vì xem xét tổng thể tài sản của họ; thứ hai, con người có xu hướng sợ mất mát hơn là mong muốn lợi nhuận, nhưng khi đã thua lỗ, họ thường trở nên liều lĩnh hơn; và cuối cùng, cùng một phương án nhưng nếu được trình bày khác nhau, phản ứng của con người cũng sẽ khác nhau.

Luận án tiến sỹ kinh tế: “Hành vi của nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán

Việt Nam” của tác giả Nguyễn Đức Hiển (2012) cho thấy rằng NĐT cá nhân trên

Thị trường chứng khoán Việt Nam thể hiện sự không hợp lý của các nhà đầu tư, khiến cho các lý thuyết tài chính chuẩn tắc không thể giải thích đầy đủ những lệch lạc trong hành vi của họ Hơn nữa, hành vi của nhà đầu tư cá nhân tại đây tuân theo các nguyên tắc chủ yếu của lý thuyết triển vọng do Kahneman và Tversky phát triển Tác giả đã đề xuất một mô hình đo lường hành vi của nhà đầu tư cá nhân, bao gồm năm nhóm yếu tố chính.

19 thuộc tính: (1) nhóm yếu tố tâm lý quá lạc quan; (2) nhóm yếu tố tâm lý bầy đàn;

Nghiên cứu của Đặng Thị Thúy Hằng về "Các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định của nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán Việt Nam" đã chỉ ra ba nhóm yếu tố tâm lý quan trọng: (1) yếu tố tâm lý quá tự tin, (2) thái độ với rủi ro, và (3) tâm lý bi quan Những yếu tố này đóng vai trò quyết định trong việc hình thành quyết định đầu tư của các nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán.

Trần Thị Nam Thanh (2014) chỉ ra rằng nhiều yếu tố ảnh hưởng đến quyết định của nhà đầu tư, trong đó thông tin từ báo cáo tài chính là yếu tố quan trọng nhất Báo cáo tài chính được coi là nguồn tin chính thống và đáng tin cậy về tình hình nội tại của doanh nghiệp Mặc dù tâm lý đám đông không chi phối nhiều đến nhà đầu tư trong thời điểm này, nhưng nghiên cứu cũng cho thấy rằng "các đội lái" vẫn có ảnh hưởng lớn đến quyết định đầu tư của họ.

Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu

Mục tiêu của nghiên cứu là phân tích các yếu tố hành vi tác động đến quyết định đầu tư của nhà đầu tư cá nhân tại Sở Giao dịch chứng khoán TP Hồ Chí Minh Để đạt được mục tiêu này, luận văn sẽ thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể nhằm làm rõ các nhân tố ảnh hưởng đến hành vi đầu tư.

1 Tổng quan cơ sở lý luận và tình hình nghiên cứu trước đây về tài chính hành vi trong việc ra quyết định của NĐT cá nhân trên thị trường chứng khoán.

2 Xây dựng mô hình, chuẩn hóa thang đo biểu thị các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định đầu tư của NĐT cá nhân trên Sở Giao dịch chứng khoán TP Hồ Chí Minh.

3 Tiến hành thu thập, xử lí dữ liệu để phục vụ đề tài nghiên cứu Dựa vào đó kiểm định các giả thuyết nghiên cứu; đo lường, đánh giá các mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đến quyết định đầu tư của NĐT cá nhân trên Sở Giao dịch chứng khoán

4 Đề xuất các khuyến nghị cho các NĐT cá nhân và các nhà quản trị công ty chứng khoán.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Nghiên cứu này tập trung vào các nhà đầu tư cá nhân đang sở hữu tài khoản giao dịch chứng khoán, do giới hạn về thời gian nghiên cứu.

Sở Giao dịch Chứng khoán TP.HCM đang thu hút một lượng lớn người dân sinh sống và làm việc tại thành phố, tạo nên một nhóm đối tượng đông đảo và phát triển mạnh mẽ trong năm qua.

Nhóm đối tượng nghiên cứu trong năm 2021 bao gồm những người sử dụng thành thạo Internet và đã có kinh nghiệm đầu tư trên thị trường chứng khoán Việt Nam, giúp họ đưa ra những đánh giá khách quan Tuy nhiên, nghiên cứu này chưa mở rộng đối tượng là các nhà đầu tư tổ chức và phạm vi khảo sát trên toàn lãnh thổ Việt Nam.

Thị trường chứng khoán được nghiên cứu trong bài viết này là Sở Giao dịch Chứng khoán TP.HCM (HOSE), nơi quy tụ nhiều cổ phiếu vốn hóa lớn và là trung tâm giao dịch lớn nhất, nhộn nhịp nhất tại Việt Nam.

Nghiên cứu được thực hiện từ ngày 26/8/2021 đến 10/1/2021, sử dụng dữ liệu từ hai nguồn chính: dữ liệu thứ cấp và dữ liệu sơ cấp Dữ liệu thứ cấp được thu thập từ các báo cáo, tạp chí, nghiên cứu và trang web liên quan trong 21 năm qua, trong khi dữ liệu sơ cấp được tổng hợp từ khảo sát thực tế diễn ra từ 16/11/2021 đến 08/12/2021.

Phương pháp nghiên cứu

1.5.1 Nguồn dữ liệu sử dụng Đề tài sử dụng nguồn dữ liệu sơ cấp có được bằng phương pháp điều tra thăm dò.

1.5.2 Phương pháp thực hiện Đề tài được thực hiện bằng phương pháp nghiên cứu định lượng thông qua việc khảo sát thu thập dựa trên bảng câu hỏi được thiết kế sẵn Mẫu điều tra trong nghiên cứu chính thức được thực hiện bằng phương pháp lấy mẫu thuận tiện Dữ liệu thu thập được xử lý bằng phần mềm SPSS nhằm đánh giá sơ bộ các thang đo, phân tích nhân tố khám phá, phân tích tương quan, hồi quy để làm rõ hơn các vấn đề liên quan đến giả thiết nghiên cứu.

Đóng góp mới và ý nghĩa thực tiễn

Luận văn nghiên cứu sâu về tác động của các yếu tố hành vi đến quyết định đầu tư của nhà đầu tư cá nhân trên Sở Giao dịch Chứng khoán TP.HCM Nghiên cứu này đặc biệt quan trọng trong bối cảnh thị trường chứng khoán Việt Nam đang có sự tăng trưởng mạnh mẽ và sự gia tăng đáng kể số lượng nhà đầu tư mới tham gia.

Nghiên cứu cung cấp những khuyến nghị thiết thực nhằm giúp nhà đầu tư cá nhân nâng cao hiệu quả đầu tư, đồng thời cải thiện hoạt động của các công ty chứng khoán.

Cấu trúc của luận văn

Cấu trúc luận văn gồm năm chương, cụ thể như sau:

Chương 1: Giới thiệu đề tài nghiên cứu.

Bài viết này sẽ trình bày lý do lựa chọn đề tài nghiên cứu, xác định mục tiêu, phương pháp, đối tượng và phạm vi nghiên cứu cho luận văn Cuối cùng, chúng tôi sẽ nêu rõ ý nghĩa của nghiên cứu cũng như cấu trúc của luận văn.

Chương 2: Tổng quan cơ sở lý thuyết và mô hình nghiên cứu đề xuất.

Trong chương này, tác giả giới thiệu các nền tảng lý thuyết về thị trường chứng khoán (TTCK) và vai trò của nó trong sự phát triển kinh tế quốc gia Đồng thời, tác giả cũng phân tích sự phát triển của lý thuyết kinh tế học hành vi và ảnh hưởng của nó đến quyết định đầu tư của nhà đầu tư cá nhân Dựa trên những cơ sở lý thuyết này, tác giả đề xuất một mô hình nghiên cứu mới.

Chương 3: Phương pháp nghiên cứu.

Trình bày cách thức nghiên cứu, phương pháp thực hiện nghiên cứu, điều chỉnh thang đo, cách thức xây dựng mẫu.

Chương 4: Tổng quan về thị trường chứng khoán Việt Nam và kết quả nghiên cứu luận văn

Thị trường chứng khoán Việt Nam đang phát triển mạnh mẽ với nhiều đặc điểm nổi bật, thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư cá nhân Bài viết cung cấp thông tin tổng quan về thị trường, bao gồm dữ liệu khảo sát và kiểm định thang đo, nhằm đánh giá các giả thuyết nghiên cứu Phân tích kết quả cho thấy những xu hướng và yếu tố ảnh hưởng đến quyết định đầu tư của cá nhân, từ đó giúp nâng cao hiểu biết về hành vi đầu tư trong bối cảnh thị trường hiện nay.

Trong chương cuối, tác giả tổng kết kết quả nghiên cứu và đưa ra khuyến nghị cho nhà đầu tư cá nhân cũng như các nhà quản trị công ty chứng khoán Ngoài ra, tác giả cũng chỉ ra những hạn chế của nghiên cứu và đề xuất các hướng nghiên cứu tiếp theo.

TỔNG QUAN CƠ SỞ LÝ THUYẾT

Tổng quan về thị trường chứng khoán

Phần 2.1 của bài viết trình bày lý thuyết tổng quan về thị trường chứng khoán, được tổng hợp từ các tài liệu và giáo trình liên quan Tác giả chủ yếu dựa vào Giáo trình thị trường chứng khoán, 2009 của Bạch Đức Hiển để xây dựng nội dung này.

2.1.1 Khái niệm và các đặc điểm của thị trường chứng khoán

Thị trường chứng khoán (TTCK) là nơi diễn ra các hoạt động phát hành và giao dịch chứng khoán Giao dịch tại TTCK được chia thành hai loại: thị trường sơ cấp, nơi người mua mua chứng khoán lần đầu từ nhà phát hành, và thị trường thứ cấp, nơi diễn ra việc mua bán lại các chứng khoán đã được phát hành Những đặc điểm này tạo nên sự đa dạng và tính thanh khoản cho TTCK.

Hàng hoá trên thị trường chứng khoán bao gồm các loại chứng khoán như cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ đầu tư và chứng khoán phái sinh Khác với hàng hóa thông thường, chứng khoán không có tính năng riêng biệt mà chủ yếu là công cụ chuyển tải giá trị Do đó, trong quá trình phát hành và giao dịch chứng khoán, yếu tố hình thức không quan trọng bằng việc xác định tính xác thực, khả năng sinh lợi, rủi ro tiềm ẩn và tính thanh khoản của chúng.

Trên thị trường chứng khoán sơ cấp, việc chuyển giao vốn từ người cung sang người cầu chủ yếu diễn ra thông qua cơ chế tài chính trực tiếp, trong đó vốn hoặc các nguồn tài chính được chuyển giao trực tiếp giữa các bên.

Hoạt động mua bán trên thị trường chứng khoán (TTCK) chủ yếu diễn ra thông qua các nhà môi giới, với TTCK tập trung là bộ phận quan trọng Do hàng hóa của thị trường này là các công cụ chuyển tải giá trị, nhà đầu tư (NĐT) khó có thể xác định tính hợp pháp và chất lượng của chứng khoán chỉ bằng giác quan thông thường Để bảo vệ quyền lợi cho NĐT và đảm bảo TTCK hoạt động công bằng, minh bạch và hiệu quả, pháp luật thường yêu cầu các giao dịch chứng khoán phải thông qua các nhà môi giới chứng khoán đã được cấp phép NĐT không thể giao dịch trực tiếp trên thị trường mà phải đặt lệnh mua bán qua các nhà môi giới này.

Thị trường chứng khoán (TTCK) gần giống với thị trường cạnh tranh hoàn hảo, bao gồm nhiều bộ phận khác nhau, trong đó TTCK tập trung là phần trung tâm Tại đây, mọi người có quyền tự do mua và bán theo quy luật thị trường mà không bị áp đặt giá Giá chứng khoán được xác định dựa trên mối quan hệ cung cầu và phản ánh thông tin liên quan đến chứng khoán.

Thị trường chứng khoán (TTCK) là một thị trường liên tục, cho phép các chứng khoán được phát hành trên thị trường sơ cấp được giao dịch nhiều lần trên thị trường thứ cấp Điều này đảm bảo rằng các nhà đầu tư có thể dễ dàng chuyển đổi các chứng khoán nắm giữ thành tiền mặt bất cứ lúc nào họ mong muốn.

2.1.2 Các chủ thể tham gia trên thị trường chứng khoán

Tổ chức phát hành chứng khoán

Tổ chức phát hành chứng khoán là những đơn vị cần huy động vốn thông qua thị trường chứng khoán (TTCK) Họ đóng vai trò cung cấp hàng hóa cho thị trường và có trách nhiệm công bố thông tin liên quan đến chứng khoán Các tổ chức này bao gồm nhiều loại hình khác nhau, từ công ty cổ phần đến các tổ chức tài chính.

+ Chính phủ và các cấp chính quyền địa phương: phát hành trái phiếu chính phủ và trái phiếu địa phương.

Doanh nghiệp, bao gồm cả lĩnh vực tài chính ngân hàng và phi tài chính, có khả năng phát hành cổ phiếu và trái phiếu doanh nghiệp Theo quy định của nhiều quốc gia, chỉ có công ty cổ phần mới được phát hành cổ phiếu, trong khi trái phiếu có thể được phát hành bởi nhiều loại hình doanh nghiệp khác nhau, như công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn và doanh nghiệp nhà nước.

+ Công ty quản lý quỹ đầu tư: phát hành chứng chỉ quỹ đầu tư.

Nhà đầu tư chứng khoán

Nhà đầu tư chứng khoán là những cá nhân hoặc tổ chức đầu tư tiền vào thị trường chứng khoán với mục tiêu thu lợi nhuận Họ có thể được phân loại thành nhiều nhóm, bao gồm nhà đầu tư tổ chức, nhà đầu tư cá nhân, nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài.

Nhà đầu tư cá nhân: là những người tham gia mua bán chứng khoán trên

Đầu tư chứng khoán nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận, nhưng mỗi nhà đầu tư có khả năng tài chính và tâm lý khác nhau, dẫn đến thái độ khác nhau đối với rủi ro Các nhà đầu tư thận trọng thường tránh rủi ro, tìm kiếm lợi nhuận từ chứng khoán an toàn và đầu tư dài hạn Ngược lại, nhà đầu tư mạo hiểm chấp nhận rủi ro cao để tối đa hóa lợi nhuận, thường lựa chọn đầu tư ngắn hạn vào các chứng khoán có tiềm năng sinh lời lớn.

Nhà đầu tư tổ chức, hay còn gọi là nhà đầu tư chuyên nghiệp, là các tổ chức thực hiện giao dịch chứng khoán với khối lượng lớn và thường xuyên Những tổ chức này sở hữu các bộ phận chức năng với đội ngũ chuyên gia dày dạn kinh nghiệm, có nhiệm vụ nghiên cứu thị trường và đưa ra quyết định đầu tư chính xác.

Công ty đầu tư và quỹ tín thác đầu tư được thành lập để thu hút vốn từ các nhà đầu tư cá nhân nhằm đầu tư vào thị trường chứng khoán Hình thức đầu tư qua quỹ tín thác mang lại lợi ích nổi bật là khả năng đa dạng hóa danh mục đầu tư, đồng thời các quyết định đầu tư được thực hiện bởi các chuyên gia có kinh nghiệm, giúp tối ưu hóa lợi nhuận cho nhà đầu tư.

Công ty bảo hiểm chịu trách nhiệm quản lý phí bảo hiểm của người tham gia và đầu tư số tiền này qua các hình thức như gửi ngân hàng hoặc đầu tư vào chứng khoán Để đảm bảo khả năng thanh toán bảo hiểm, pháp luật của nhiều quốc gia thường quy định nghiêm ngặt về tỷ lệ các khoản đầu tư mà công ty bảo hiểm được phép thực hiện.

Quỹ hưu trí và quỹ bảo hiểm xã hội đều thu phí đóng góp định kỳ từ cá nhân, nhằm cung cấp lương hưu và các khoản trợ cấp trong tương lai Phí thu được chưa chi trả có thể được các nhà quản lý quỹ đầu tư vào các chứng khoán an toàn, chẳng hạn như trái phiếu chính phủ.

+ Các công ty tài chính, các ngân hàng thương mại,… cũng có thể trở thành nhà đầu tư chuyên nghiệp khi họ mua bán chứng khoán cho chính mình.

Người kinh doanh chứng khoán

Các lý thuyết tài chính truyền thống và quyết định đầu tư của nhà đầu tư cá nhân

Hành vi của nhà đầu tư cá nhân và thị trường đôi khi có thể không hợp lý, điều này đặt ra câu hỏi về ý nghĩa của sự "irrational" Để giải thích, tác giả sử dụng lý thuyết nền tảng của tài chính hiện đại nhằm làm rõ quá trình ra quyết định hợp lý Luận văn sẽ tập trung vào giả định của các lý thuyết liên quan đến nhà đầu tư cá nhân Phần 2.2 bắt đầu với các lý thuyết chuẩn tắc, phân tích cách mà cá nhân đưa ra quyết định trong bối cảnh không chắc chắn, sau đó chuyển sang các mô hình hóa dựa trên giả định về hành vi cá nhân và thị trường.

2.2.1Lý thuyết hữu dụng kì vọng

Kinh tế học tân cổ điển

Mô hình tài chính truyền thống, đặc biệt là kinh tế học tân cổ điển, cho rằng cá nhân và doanh nghiệp hành động vì lợi ích riêng và tối ưu hóa khả năng trong bối cảnh hạn chế nguồn lực Giá trị của tài sản được xác định bởi thị trường, biến đổi theo mối quan hệ cung – cầu Kinh tế học tân cổ điển cũng đưa ra những giả định cơ bản về hành vi con người.

1 Con người có sự ưa thích hợp lý với hai giả định Giả định quan trọng đầu tiên ở đây là sự ưa thích của con người là hoàn hảo Điều này có nghĩa là một người có thể so sánh tất cả các lựa chọn có thể có và đánh giá sự ưa thích hơn hoặc không có khác biệt nào Hầu hết mọi người biết họ thích gì và không thích cái gì Giả định thứ hai là tính bắc cầu Giả định này cho rằng các lựa chọn hợp lý có tính bắc cầu.

2 Con người tối đa hóa mức hữu dụng và doanh nghiệp tối đa hóa lợi nhuận.Trong đó, lý thuyết tối đa hóa mức hữu dụng được sử dụng để mô tả sự ưa thích của con người Sự ưa thích này được diễn tả bằng hàm hữu dụng và dùng các con số để hiện cho sự ưa thích ít hoặc nhiều Nhờ vào sự so sánh các con số này mà con người đưa ra các lựa chọn sao cho có được các mức hữu dụng tối ưu Ví dụ khi tài sản lớn lên, ảnh hưởng của việc gia tăng một khối lượng tài sản nhất định, chẳng hạn 100,000 USD sẽ giảm đi.Đối với một anh nông dân, thì 100,000 USD của trời cho sẽ giúp anh ta đổi đời Còn đối với Bill Gates, số tiền đó không làm ông phải bận tâm(Minh họa trong Hình 2.1)

Hình 2.1: Tính hữu dụng biên tế giảm dần của tài sản (Nguồn: Richard H Thaler)

3 Con người đưa ra những quyết định độc lập dựa trên tất cả thông tin liên quan Giả định này cho rằng con người tối đa hóa mức hữu dụng của bản thân bằng việc sử dụng tất cả các thông tin để đưa ra sự lựa chọn.

Lý thuyết hữu dụng kì vọng

Trong quyết định tài chính, sự không chắc chắn ảnh hưởng lớn đến kết quả, dẫn đến việc phát triển Lý thuyết Hữu dụng Kỳ vọng (Expected Utility Theory) bởi John Von Neumann và Oskar Morgenstern vào năm 1944 Lý thuyết này hướng dẫn cá nhân hành động hợp lý khi đối mặt với sự không chắc chắn, khuyến khích họ đưa ra quyết định quan trọng theo một phương pháp cụ thể Được coi là lý thuyết "có tính chuẩn tắc", nó mô tả cách mà con người duy lý nên hành xử, khác biệt với lý thuyết "thực chứng" miêu tả thực tế hành vi của con người.

Thái độ đối với rủi ro

Nhiều nghiên cứu cho thấy mọi người thường né tránh rủi ro nhưng sẵn sàng chấp nhận nếu có phần thưởng Hàm hữu dụng kỳ vọng giúp mô tả sự ưa thích rủi ro của cá nhân Người ngại rủi ro thường ưu tiên giá trị kỳ vọng hơn triển vọng, trong khi người tìm kiếm rủi ro lại thích triển vọng hơn giá trị kỳ vọng chắc chắn Người trung lập với rủi ro xem triển vọng và giá trị kỳ vọng là tương đương.

Nghịch lý Allais là một minh chứng cho sự vi phạm lý thuyết hữu dụng kỳ vọng Trong nghiên cứu của mình vào năm 1953, Allais đã chỉ ra rằng quyết định của cá nhân thường không tuân theo lý thuyết này, điều này được chứng minh qua các hành vi quan sát trong các thí nghiệm của ông.

2.2.2 Định giá tài sản, thị trường hiệu quả và lý thuyết đại diện

Lý thuyết danh mục đầu tư hiện đại

Lý thuyết danh mục đầu tư hiện đại (MPT) giúp các nhà đầu tư giảm thiểu rủi ro bằng cách tối ưu hóa danh mục đầu tư, nhằm tối đa hóa lợi nhuận kỳ vọng trong một mức độ rủi ro thị trường nhất định Để đạt được lợi nhuận cao hơn, nhà đầu tư cần chấp nhận mức rủi ro cao hơn cho các khoản đầu tư của mình.

Theo lý thuyết của Harry Markowitz, có thể xây dựng một "đường biên hiệu quả" cho danh mục đầu tư tối ưu, nhằm đạt được lợi nhuận kỳ vọng tối đa với một mức độ rủi ro nhất định Lý thuyết này được giới thiệu trong bài báo "Portfolio Selection", xuất bản năm 1952 trên tạp chí Journal of Finance, và đã mang lại cho ông giải thưởng Nobel nhờ vào sự phát triển của lý thuyết MPT.

MPT chỉ ra rằng việc xây dựng một danh mục đầu tư đa dạng giúp nhà đầu tư tối đa hóa lợi nhuận với mức độ rủi ro nhất định Đồng thời, nhà đầu tư cũng có thể tạo ra một danh mục đầu tư với rủi ro thấp nhất cho một mức lợi nhuận mong muốn Dựa trên các chỉ số thống kê như phương sai và hệ số tương quan, hiệu quả của một khoản đầu tư cần được đánh giá trong bối cảnh toàn bộ danh mục đầu tư, thay vì chỉ tập trung vào lợi tức đầu tư đơn lẻ.

Mô hình định giá tài sản vốn

Mô hình định giá tài sản vốn (CAPM) mô tả mối quan hệ giữa rủi ro hệ thống và lợi nhuận kỳ vọng của tài sản, đặc biệt là cổ phiếu Được phát triển bởi Wiliam Sharpe, người đoạt giải Nobel kinh tế năm 1990, mô hình này yêu cầu nhà đầu tư nghiên cứu tất cả các chứng khoán để thu thập dữ liệu đầu vào cần thiết, bao gồm tỷ suất sinh lợi mong đợi, phương sai và hệ số tương quan giữa các loại chứng khoán Chỉ khi có đủ thông tin, nhà đầu tư mới có thể lựa chọn danh mục đầu tư phù hợp.

CAPM chỉ ra rằng chỉ có rủi ro liên quan đến biến động của thị trường được định giá trên thị trường, với beta (β) là thước đo chính để đánh giá độ nhạy cảm của tài sản đối với thị trường Tuy nhiên, nghiên cứu cho thấy beta đơn độc không đủ để giải thích tỷ suất sinh lợi Quan trọng hơn, các nhà nghiên cứu đã phát hiện ra rằng có những yếu tố khác, bên cạnh tỷ suất sinh lợi thặng dư của thị trường, cũng đóng vai trò quan trọng trong việc giải thích sự khác biệt giữa tỷ suất sinh lợi mong đợi của các cổ phiếu.

Lý thuyết thị trường hiệu quả

Lý thuyết thị trường hiệu quả (EMH), được đề xuất bởi Eugene Fama vào năm 1970, mô tả một thị trường mà giá cả luôn phản ánh đầy đủ thông tin có sẵn Theo lý thuyết này, không thể kiếm lợi nhuận vượt trội từ việc dự đoán biến động giá cổ phiếu, vì mọi thông tin đã được tích hợp vào giá EMH chia thành ba dạng: yếu, trung bình và mạnh, mỗi dạng phản ánh mức độ thông tin được sử dụng trong việc định giá tài sản.

“phản ánh đầy đủ” mọi thông tin có sẵn được gọi là “hiệu quả” (efficient market).

Fama định nghĩa ba dạng của thị trường hiệu quả để làm rõ những gì sẽ xảy ra từ những thông tin sẵn có:

+ Thị trường hiệu quả dạng yếu (weak - form effiency): giá của chứng khoán phản ánh các thông tin có trong tỷ suất sinh lợi quá khứ.

Thị trường hiệu quả dạng vừa (semi-strong form efficiency) là khi giá chứng khoán phản ánh đầy đủ các thông tin công khai, bao gồm thông tin lịch sử, dự báo thu nhập, báo cáo tài chính công bố và các thông tin từ tạp chí kinh doanh cũng như các nguồn thông tin liên quan khác.

Các lý thuyết tài chính hành vi và quyết định đầu tư của các nhà đầu tư cá nhân

Khi thị trường hội tụ ba yếu tố: hành vi bất hợp lý của nhà đầu tư, hiệu ứng bất hợp lý mang tính hệ thống, và giới hạn kinh doanh chênh lệch giá, hiện tượng giá tài sản tài chính bị định giá sai sẽ trở nên rõ rệt và kéo dài Trong bối cảnh này, các lý thuyết tài chính truyền thống mất đi hiệu quả và không thể giải thích đầy đủ các quyết định của con người khi đối mặt với sự không chắc chắn Điều này dẫn đến sự ra đời của lý thuyết tài chính hành vi, kết hợp giữa kinh tế học và tâm lý học, nhằm nghiên cứu ảnh hưởng của tâm lý đối với quyết định tài chính của con người.

2.3.1 Lý thuyết triển vọng, mẫu hình tính toán bất hợp lý

Lý thuyết hữu dụng kì vọng chỉ ra cách thức mà con người nên hành động, trong khi đó, lý thuyết triển vọng (Prospect Theory) của Daniel Kahneman và Amos Tversky khám phá cách mà con người thực sự ra quyết định dưới rủi ro và không chắc chắn.

Năm 1979, Tversky đã chỉ ra cách thức hành động thực sự của con người, từ đó lý thuyết triển vọng trở thành một lựa chọn thực tế hơn so với các lý thuyết truyền thống trong việc giải thích sự lựa chọn của con người.

Lý thuyết triển vọng, do Kahneman và Tversky phát triển, đã thay đổi quan niệm truyền thống về lý thuyết hành vi con người, không chỉ đơn thuần thuộc về thể loại chuẩn tắc hay mô tả Thay vì cung cấp một cẩm nang cho sự lựa chọn hợp lý, lý thuyết này đưa ra những dự đoán chính xác về cách con người thực hiện các quyết định trong thực tế, phản ánh hành vi thực của con người.

Hình 2.2: Biểu đồ mô tả hàm số giá trị được đề xuất bởi Kahneman và Tversky

Biểu đồ hàm số giá trị của Kahneman và Tversky cho thấy rằng miền lãi có hình dạng giống như đồ thị hàm số hữu dụng của tài sản, với tính nhạy cảm giảm dần Điều này cũng đúng với thua lỗ, khi cảm nhận về sự khác biệt giữa thua lỗ 10 USD và 20 USD lớn hơn nhiều so với chênh lệch giữa 1,300 USD và 1,310 USD Khác với mô hình tiêu chuẩn, thua lỗ được thể hiện dọc dưới đường hữu dụng của tài sản, khiến mỗi mức thua lỗ tăng thêm gây ra nỗi đau lớn hơn Điều này cho thấy con người ít quan tâm đến việc gia tăng tài sản nhưng lại rất bận tâm đến sự sụt giảm của chúng, trải nghiệm cuộc sống qua những thay đổi, với nỗi đau mất mát lớn hơn niềm vui từ thắng lợi tương đương.

Lý thuyết triển vọng là một khái niệm quan trọng trong tài chính hành vi, giúp giải thích và tổng kết các hành vi tài chính của con người Nó bao gồm ba khía cạnh cơ bản, phản ánh cách mà người tiêu dùng đưa ra quyết định trong các tình huống khác nhau.

Con người thường có sự e ngại với rủi ro trong một số tình huống, nhưng cũng có thể tìm kiếm rủi ro trong những hoàn cảnh khác, điều này phụ thuộc vào bản chất của triển vọng mà họ đang đối mặt.

Việc đánh giá triển vọng của con người thường dựa vào những điều được và mất so với một điểm tham chiếu, thường là trạng thái hiện tại.

+ Khía cạnh 3: con người sợ mất mát (thua lỗ) vì các khoản lỗ nghiên trọng hơn so với các khoản lỗ.

Tính toán bất hợp lý

Theo Richard Thaler (1999), tính toán bất hợp lý là phương pháp mà con người áp dụng để quản lý quyết định Nó bao gồm ba thành phần chính: phân định tài khoản, đóng tài khoản và đánh giá tài khoản Phương pháp này dựa trên việc phân chia tài chính thành các tài khoản khác nhau, được hình thành từ sự tính toán trong tâm trí.

Sử dụng tính toán bất hợp lý và định nghĩa hẹp có thể lý giải nhiều hiện tượng như lựa chọn nghịch với sở thích, sợ thua lỗ, và hiệu ứng phân bổ tài khoản Một ví dụ điển hình là hiện tượng nhà đầu tư sẵn sàng thực hiện các lệnh mang lại lợi nhuận nhỏ nhưng lại trì hoãn việc thực hiện lệnh dừng lỗ khi gặp phải những khoản lỗ nhỏ Hiệu ứng này, còn được gọi là hiệu ứng ngược vị thế, thể hiện xu hướng của nhà đầu tư cá nhân trong việc bán các chứng khoán có lãi và giữ lại các chứng khoán thua lỗ.

2.3.2 Tác động của tự nghiệm và các lệch lạc đối với việc ra quyết định tài chính

Tự nghiệm, hay suy nghiệm, là quy tắc ra quyết định dựa trên một tập hợp con thông tin, giúp con người tiết kiệm chi phí và đưa ra quyết định nhanh chóng trong bối cảnh thông tin hạn chế Các tự nghiệm này được hình thành qua tiến hóa, cung cấp công cụ cho con người để duy trì sự tồn tại Mặc dù môi trường sống thay đổi theo thời gian, nhưng những tự nghiệm vẫn được sử dụng Nghiên cứu của Amos Tversky và Daniel Kahneman năm 1982 đã xác định ba loại tự nghiệm: tình huống điển hình, sự sẵn có và neo quyết định, có thể dẫn đến sự chệch hướng trong quyết định cá nhân.

Gerd Gigerenzer (1999) và các nhà nghiên cứu cùng tư tưởng đã giới thiệu khái niệm “tự nghiệm nhanh chóng và ít tốn kém”, nhấn mạnh rằng mục tiêu của tự nghiệm là giảm thiểu thời gian, kiến thức và tính toán để tạo ra các lựa chọn thích nghi trong thế giới thực Phương pháp này liên quan đến khái niệm sự hợp lý bị giới hạn, được Herbert Simon (1992) phát triển, cho rằng con người không thể xử lý các vấn đề tối ưu hóa phức tạp như các mô hình kinh tế truyền thống giả định Thay vào đó, con người thường “thỏa mãn” với những lựa chọn tốt nhất có thể trong hoàn cảnh của mình Suy nghĩ của chúng ta đã tiến hóa, dẫn đến việc chúng ta sở hữu nhiều bí quyết để đưa ra quyết định hợp lý trong các tình huống khác nhau.

Hành vi tài chính bắt nguồn từ sự quen thuộc

Mặc dù xu hướng đầu tư đang thay đổi, nhưng thực tế cho thấy nhà đầu tư trong nước vẫn chủ yếu nắm giữ cổ phiếu của các công ty trong nước Cụ thể, nhà đầu tư Mỹ thường nắm giữ phần lớn chứng khoán Mỹ, nhà đầu tư Nhật Bản nắm giữ hầu hết chứng khoán Nhật, và nhà đầu tư Anh chủ yếu đầu tư vào chứng khoán Anh Nghiên cứu của Kenneth French và James Poterba (1991) đã chỉ ra rằng nhà đầu tư nội địa thường định mức quá cao cho các chứng khoán trong nước, dẫn đến hiện tượng lệch lạc nội địa (home bias) Hành vi này thể hiện sự ưu tiên của nhà đầu tư đối với các công ty gần gũi về địa lý, xuất phát từ sự ưa thích ngôn ngữ và văn hóa của họ Có hai cách giải thích chính cho hiện tượng này.

Lệch lạc nội địa có thể được giải thích như một nhu cầu tìm kiếm sự an tâm và quen thuộc Hai thí nghiệm quan trọng của Chip Heath và Amos Tversky năm 1991 đã chỉ ra rằng con người có xu hướng ưa thích những điều quen thuộc Bên cạnh đó, thí nghiệm của Ellsberg năm 1961 cũng cho thấy sự e ngại mơ hồ là một đặc điểm nổi bật trong hành vi con người.

Lệch lạc nội địa có thể được giải thích qua khái niệm lợi thế thông tin, với bằng chứng cho thấy đầu tư địa phương mang lại hiệu quả cao, đặc biệt ở một số nhà quản lý quỹ và nhà đầu tư nhỏ lẻ Nghiên cứu của Joshua Coval và Tobias Moskowitz (1999) đã chỉ ra điều này khi phân tích việc quản lý quỹ tương hỗ.

Mô hình nghiên cứu đề xuất và các giả thuyết nghiên cứu

2.4.1 Mô hình nghiên cứu đề xuất

Luận văn này sẽ nghiên cứu mức độ ảnh hưởng của các yếu tố hành vi đến quyết định đầu tư của nhà đầu tư cá nhân trên Sở Giao dịch chứng khoán TP Hồ Chí Minh, dựa trên bốn nhóm nhân tố chính: tác động của tự nghiệm và các lệch lạc, ảnh hưởng của sự quá tự tin, tác động của cảm xúc, và ảnh hưởng của xã hội Nghiên cứu sẽ được thực hiện dựa trên lý thuyết và các nghiên cứu thực nghiệm trước đây, đồng thời xem xét điều kiện thực tế của thị trường chứng khoán Việt Nam.

Mô hình đề xuất được trình bày trong Hình 2.4 như sau:

(Nguồn: Tác giả tổng hợp)

Hình 2.4: Mô hình nghiên cứu đề xuất

Tác động của tự nghiệm và các lệch lạc H1 Ảnh hưởng của sự quá tự tin H2

Quyết định đầu tư của nhà đầu tư cá nhân

Tác động của cảm xúc H4 Ảnh hưởng của xã hội

2.4.2 Các giả thuyết nghiên cứu

Tác động của tự nghiệm và các lệch lạc

Cách thức tự nghiệm ảnh hưởng đến quyết định tài chính của nhà đầu tư (NĐT) bắt nguồn từ sự quen thuộc Nghiên cứu cho thấy rằng sự quen thuộc có thể định hình cách mà NĐT đưa ra quyết định, từ đó ảnh hưởng đến hiệu suất đầu tư của họ.

Khoảng cách địa lý, ngôn ngữ và văn hóa có tác động đáng kể đến quyết định đầu tư của các nhà quản lý quỹ và nhà đầu tư Nghiên cứu của Mark Grinblatt và Matti Keloharju chỉ ra rằng những yếu tố này ảnh hưởng đến cách mà các nhà đầu tư lựa chọn cổ phiếu và quản lý danh mục đầu tư của họ Sự khác biệt về ngôn ngữ có thể dẫn đến hiểu lầm thông tin tài chính, trong khi khoảng cách địa lý có thể làm giảm khả năng tiếp cận các cơ hội đầu tư Hơn nữa, văn hóa địa phương ảnh hưởng đến tâm lý và hành vi đầu tư, từ đó định hình chiến lược đầu tư của các nhà quản lý quỹ.

Nghiên cứu năm 2001 cho thấy sự ưa thích sự quen thuộc ảnh hưởng đến ngôn ngữ và văn hóa trong đầu tư Các nhà đầu tư Phần Lan có xu hướng ưa chuộng các công ty sử dụng tiếng Phần Lan trong thông báo, trong khi các nhà đầu tư Thụy Điển thích tiếng Thụy Điển Các công ty sử dụng song ngữ được đánh giá ở mức trung bình bởi cả hai nhóm Hơn nữa, nhà đầu tư cũng thiên về việc chọn CEO có quốc tịch tương đồng; người nói tiếng Phần Lan thích CEO người Phần Lan và người nói tiếng Thụy Điển thích CEO người Thụy Điển Điều này cho thấy rằng sự quen thuộc, ở mọi cấp độ, có sức hấp dẫn lớn đối với các khoản đầu tư.

Lệch lạc nội địa (home bias) là xu hướng đầu tư quá mức vào thị trường trong nước và địa phương, thường xuất phát từ lợi thế thông tin, nhưng không hoàn toàn giải thích được hiện tượng này Nhiều nhà đầu tư có xu hướng lựa chọn các công ty mà họ làm việc hoặc các thương hiệu quen thuộc Nghiên cứu của Laura Frieder và Avanidhar mang tên “Nhận thức về thương hiệu và thị trường cổ phiếu phổ thông” chỉ ra rằng các nhà đầu tư nhỏ lẻ có nhu cầu cao hơn đối với những công ty có thương hiệu dễ nhận biết, phản ánh mong muốn tìm kiếm sự an tâm và quen thuộc trong quyết định đầu tư của họ.

Liên quan đến lệch lạc nội địa, có một xu hướng đầu tư đáng chú ý là các nhà đầu tư thường chọn đầu tư vào những công ty mà họ làm việc hoặc có thông tin quen thuộc Nghiên cứu của Ackert và Church (2006) đã chỉ ra rằng sự quen thuộc này ảnh hưởng đến quyết định đầu tư của họ.

Hình ảnh tích cực của công ty có khả năng thu hút nhiều nhà đầu tư hơn so với hình ảnh tiêu cực Nghiên cứu đã chỉ ra rằng sự ấn tượng tốt về công ty sẽ ảnh hưởng tích cực đến quyết định đầu tư cá nhân.

A study by Brad Barber and Terrance Odean, titled "All that glitters: The effect of attention and news on the buying behavior of individual and institutional investors," reveals that inherent biases lead individual retail investors to focus on stocks with readily available information at no cost.

Nghiên cứu của Minh Man Cao, Nhu Ty Nguyen và Thanh Tuyen Tran (2020) chỉ ra rằng việc dự báo giá cổ phiếu tương lai của nhà đầu tư cá nhân thường bị lệch lạc do họ dựa vào các tín hiệu kinh tế hiện có Cụ thể, nhà đầu tư thường đánh giá giá trị hiện tại và phán đoán sự biến động của thị trường dựa trên thông tin quá khứ, điều này có ảnh hưởng rõ rệt đến quyết định đầu tư của họ.

Một khảo sát về "Các nhân tố hành vi ảnh hưởng quyết định đầu tư và hiệu quả đầu tư của NĐT cá nhân trên thị trường chứng khoán Việt Nam" đã chỉ ra rằng các yếu tố tự nghiệm như tính đại diện, quá tự tin, neo quyết định, ảo tưởng con bạc và lệch lạc khả năng có ảnh hưởng mạnh mẽ đến quyết định đầu tư của nhà đầu tư cá nhân Dựa trên những phân tích này, tác giả đã đưa ra giả thuyết liên quan đến các yếu tố này.

Tác động của tự nghiệm và các lệch lạc có quan hệ dương đối với quyết định đầu tư chứng khoán là một vấn đề quan trọng Sự quá tự tin có thể dẫn đến những quyết định sai lầm trong đầu tư, khi nhà đầu tư đánh giá quá cao khả năng dự đoán của mình Điều này không chỉ ảnh hưởng đến hiệu suất đầu tư mà còn có thể gây ra tổn thất tài chính nghiêm trọng Việc nhận thức đúng đắn về các yếu tố tâm lý như tự nghiệm và sự quá tự tin là cần thiết để cải thiện quá trình ra quyết định trong đầu tư chứng khoán.

Nghiên cứu “Các lệch lạc về hành vi trong việc ra quyết định đầu tư và vai trò điều tiết của các loại hình nhà đầu tư” do Saif Muhammad Ather và các cộng sự thực hiện vào năm 2020 chỉ ra rằng có mối tương quan dương đáng kể giữa yếu tố quá tự tin và quyết định đầu tư của nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán Từ kết quả này, tác giả đã đưa ra giả thuyết liên quan đến ảnh hưởng của sự tự tin đối với hành vi đầu tư.

Giả thuyết H2: Ảnh hưởng của sự quá tự tin có quan hệ dương đối với việc ra quyết định đầu tư chứng khoán.

Tác động của cảm xúc

Cảm xúc bao gồm các khía cạnh nhận thức, sinh học và tiến hóa, và khi ở trạng thái cân bằng, chúng hỗ trợ quá trình ra quyết định thay vì cản trở Nghiên cứu của Kahneman và Tversky (1979) về sự kiêu hãnh và sự hối tiếc trong bài viết "Lý thuyết triển vọng: Phân tích quyết định dưới rủi ro" cho thấy rằng hai cảm xúc này đóng vai trò quan trọng trong quyết định tài chính, với động cơ mạnh mẽ của con người là tránh cảm giác hối tiếc Từ đó, tác giả đưa ra giả thuyết về ảnh hưởng của cảm xúc đến quyết định.

Giả thuyết H3: Tác động của cảm xúc có quan hệ dương đối với việc ra quyết định đầu tư chứng khoán. Ảnh hưởng của xã hội

Trong nghiên cứu của tác giả Phạm Ngọc Toàn và Nguyễn Thành Long năm

Nghiên cứu năm 2018 về các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định đầu tư của nhà đầu tư cá nhân trên thị trường chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh cho thấy có mối tương quan dương giữa ý kiến của nhà tư vấn và hiệu ứng đám đông với quyết định đầu tư Nhiều nghiên cứu trước đó cũng chỉ ra rằng con người không hoàn toàn hành động vì lợi ích cá nhân, mà còn chịu ảnh hưởng từ nhiều áp lực xã hội trong các quyết định tài chính Điều này dẫn đến giả thuyết rằng các yếu tố xã hội có vai trò quan trọng trong việc định hình hành vi đầu tư của cá nhân.

Giả thuyết H4: Ảnh hưởng của xã hội có quan hệ dương đối với việc ra quyết định đầu tư chứng khoán.

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU LUẬN VĂN

Ngày đăng: 20/05/2022, 17:21

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Lucy F. Ackert, Richard Deaves, Tài chính hành vi – Tâm lý học, đưa ra quyết định, và thị trường, NXB Hồng Đức, 2018 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tài chính hành vi – Tâm lý học, đưa ra quyết định, và thị trường
Nhà XB: NXB Hồng Đức
2. Mark Douglas, Paula T. Webb, Tâm lý học trong đầu tư chứng khoán, NXB Thanh Niên, 2021 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tâm lý học trong đầu tư chứng khoán
Nhà XB: NXB Thanh Niên
5. James Montier, The little book – Tâm lý hành vi trong đầu tư chứng khoán, NXB Dân Trí, 2021 Sách, tạp chí
Tiêu đề: The little book – Tâm lý hành vi trong đầu tư chứng khoán
Nhà XB: NXB Dân Trí
6. Lê Hoài Ân, 20 năm lịch sử thị trường chứng khoán Việt Nam, NXB Lao động, 2021 Sách, tạp chí
Tiêu đề: 20 năm lịch sử thị trường chứng khoán Việt Nam
Nhà XB: NXB Laođộng
7. Indochina Research, Nghiên cứu về các nhà đầu tư cá nhân tại Việt Nam, 2021 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghiên cứu về các nhà đầu tư cá nhân tại Việt Nam
8. Đại học Kinh tế Quốc dân, Giáo trình Phân tích đầu tư chứng khoán, NXB Đại học Kinh tế Quốc dân, 2018 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giáo trình Phân tích đầu tư chứng khoán
Nhà XB: NXBĐại học Kinh tế Quốc dân
9. Daniel Kahneman, Tư duy nhanh và chậm – Nên hay không nên tin vào trực giác?, NXB Thế giới, 2021 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tư duy nhanh và chậm – Nên hay không nên tin vào trựcgiác
Nhà XB: NXB Thế giới
10. Richard H. Thaler, Misbehaving – The making of behavioral economics – Tất cả chúng ta đều hành xử cảm tính – Sự hình thành kinh tế học hành vi, NXB Trẻ, 2016 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Misbehaving – The making of behavioral economics –Tất cả chúng ta đều hành xử cảm tính – Sự hình thành kinh tế học hành vi
Nhà XB: NXB Trẻ
12. Burton G. Malkiel, A random walk down on Wall street – Bước đi ngẫu nhiên trên phố Wall, NXB Lao động, 2021 Sách, tạp chí
Tiêu đề: A random walk down on Wall street – Bước đi ngẫunhiên trên phố Wall
Nhà XB: NXB Lao động
14. Hà Nam Khánh Giao, Sách chuyên khảo – Tránh và khắc phục những sai sót trong việc thực hiện luận văn thạc sĩ kinh doanh và quản lý tại Việt Nam, NXB Tài chính, 2018 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Sách chuyên khảo – Tránh và khắc phục những saisót trong việc thực hiện luận văn thạc sĩ kinh doanh và quản lý tại Việt Nam
Nhà XB: NXB Tài chính
15. Hoàng Trọng và Chu Nguyễn Mộng Ngọc, Phân tích dữ liệu nghiên cứu với SPSS, NXB Hồng Đức, 2008 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Phân tích dữ liệu nghiên cứu vớiSPSS
Nhà XB: NXB Hồng Đức
16. Nguyễn Đình Thọ, Nguyễn Mai Trang, Nghiên cứu khoa học trong quản trị kinh doanh, NXB Thống Kê, 2009 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghiên cứu khoa học trong quản trịkinh doanh
Nhà XB: NXB Thống Kê
17. Võ Thị Hiếu, Bùi Hữu Phước, Bùi Nhất Vượng, Tác động của các yếu tố hành vi đến quyết định và hiệu quả đầu tư của nhà đầu tư cá nhân trên thị trường chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh, Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật, 31(3), 2020 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tác động của các yếu tốhành vi đến quyết định và hiệu quả đầu tư của nhà đầu tư cá nhân trên thịtrường chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh
18. Nguyễn Thị Kim Trâm, Các nhân tố hành vi ảnh hưởng đến quyết định đầu tư của nhà đầu tư cá nhân trên thị trường chứng khoán Việt Nam , Luận văn thạc sĩ, Trường đại học Kinh tế Tp. Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh, 2012 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Các nhân tố hành vi ảnh hưởng đến quyết định đầutư của nhà đầu tư cá nhân trên thị trường chứng khoán Việt Nam
19. Nguyễn Đức Hiển, Hành vi của nhà đầu tư cá nhân trên thị trường chứng khoán Việt Nam, Trường đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội, 2012 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hành vi của nhà đầu tư cá nhân trên thị trường chứngkhoán Việt Nam
20. Nguyễn Thị Ngọc Diệp, Các yếu tố tài chính ảnh hưởng đến quyết định của nhà đầu tư cá nhân tại sàn giao dịch Thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn thạc sĩ, Trường đại học Mở Tp. Hồ Chí Minh, Tp. Hồ Chí Minh, 2011 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Các yếu tố tài chính ảnh hưởng đến quyết định củanhà đầu tư cá nhân tại sàn giao dịch Thành phố Hồ Chí Minh
21. Nguyễn Thị Ngọc Linh, Các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định đầu tư chứng khoán của nhà đầu tư cá nhân tại Thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn thạc sĩ, Trường đại học Kinh tế Tp. Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh, 2013.Tiếng Anh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định đầu tư chứngkhoán của nhà đầu tư cá nhân tại Thành phố Hồ Chí Minh
22. Suzaida Bakar, Amelia Ng Chu Yi, The impact of psychological factors on investors’ decision making in Malaysian stock market: a case of Klang Valley and Pahang”. Procedia Economics and Finance No 35/2016 p. 319- 328 Sách, tạp chí
Tiêu đề: The impact of psychological factors oninvestors’ decision making in Malaysian stock market: a case of KlangValley and Pahang”
23. Minh Man Cao, Nhu Ty Nguyen, Thanh Tuyen Tran, Behavioral factors on individual investors’s decision making and investment performance: a survey from the Vietnam stock market. Journal of Asian Finance, Economics and Business Vol 8 No 3/2021 p. 0845 – 0853 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Behavioral factors onindividual investors’s decision making and investment performance: asurvey from the Vietnam stock market
49. E.R.Weintraub liệt kê những giả định của kinh tế học tân cổ điển,18/6/2008 tại: http://www.ecnolib.org/library/enc/NeoclassicalEconomics.html Link

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w