Nguyên nhân, diễn biến và các phản ứng chính sách sau một số cuộc khủng hoảng nợ nước ngoài trong lịch sử thế giới Hàm ý đối với Việt Nam Giảng viên hướng dẫn PGS TS Nguyễn Thị Kim Chi Sinh viên thực hiện Đỗ Ngọc Hân Lớp QH – 2018E KTQT CLC5 Ngành Kinh tế và kinh doanh quốc tế Chương trình đào tạo CTĐT Chất lượng cao
Tính cấp thiết của đề tài
Hội nhập và phát triển kinh tế đang trở thành xu thế toàn cầu, đặc biệt tại các quốc gia đang phát triển Những quốc gia này cần sự hỗ trợ từ nước ngoài, như vốn vay, để đạt được mục tiêu kinh tế Việc chuyển giao nguồn lực qua vay mượn, tài trợ và viện trợ là cần thiết, không chỉ để bổ sung nguồn vốn thiếu hụt mà còn giúp các quốc gia chuyển đổi nền kinh tế nhanh chóng, từ đó đạt được mức tăng trưởng cao hơn Điều này cũng dẫn đến việc nợ nước ngoài gia tăng ở nhiều quốc gia trong thời gian qua.
Việt Nam, một quốc gia đang phát triển, cần nguồn vốn lớn để xây dựng cơ sở hạ tầng và đầu tư cho phát triển kinh tế - xã hội Tuy nhiên, với thâm hụt ngân sách cao và tỷ lệ thu nhập cũng như tiết kiệm ngoại hối thấp, Việt Nam gặp khó khăn trong việc huy động nguồn lực đầu tư Do đó, vốn vay từ nước ngoài trở thành nguồn lực quan trọng để bù đắp sự thiếu hụt này, giúp đất nước tiến gần hơn với các quốc gia trong khu vực và thế giới Tuy nhiên, câu hỏi đặt ra là liệu việc vay nợ nước ngoài có thực sự thúc đẩy phát triển kinh tế hay lại tiềm ẩn nguy cơ khủng hoảng nợ như một số quốc gia ở Mỹ Latinh và châu Âu?
Mặc dù nợ nước ngoài của Việt Nam hiện vẫn trong ngưỡng an toàn, hiệu quả sử dụng vốn vay chưa cao đang tạo ra áp lực lớn trong việc trả nợ Ngân sách quốc gia thâm hụt kéo dài và chi tiêu của Chính phủ gia tăng làm quy mô nợ công ngày càng lớn, trong khi phần lớn chi phí hoạt động công phụ thuộc vào nguồn vay nước ngoài Do đó, mặc dù chưa có dấu hiệu khủng hoảng nợ nước ngoài ngay lập tức, Việt Nam có thể phải đối mặt với nguy cơ này trong tương lai nếu không cải thiện quản lý và sử dụng vốn vay hiệu quả hơn.
Trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu đang chịu áp lực lớn từ đại dịch Covid-19 và các cuộc khủng hoảng nợ, Việt Nam cần xem xét những bài học từ hai cuộc khủng hoảng nợ nước ngoài lớn nhất thế giới là Mỹ Latinh và châu Âu Việc rút ra kinh nghiệm từ những khủng hoảng này sẽ giúp Việt Nam hạn chế nguy cơ đối mặt với khủng hoảng nợ nước ngoài trong tương lai Câu hỏi này định hướng cho việc lựa chọn đề tài nghiên cứu và phát triển các giải pháp kinh tế bền vững.
“Nguyên nhân, diễn biến và các phản ứng chính sách sau một số cuộc khủng hoảng nợ nước ngoài trong lịch sử thế giới Hàm ý đối với Việt Nam.”.
Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu này nhằm phân tích nguyên nhân và diễn biến của các cuộc khủng hoảng nợ nước ngoài toàn cầu, đồng thời đánh giá các phản ứng chính sách của các quốc gia bị ảnh hưởng Qua đó, bài viết rút ra những bài học kinh nghiệm và biện pháp phòng ngừa để hạn chế nguy cơ Việt Nam gặp phải tình trạng khủng hoảng nợ nước ngoài trong tương lai.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Hệ thống hóa những vấn đề lý luận chung về nợ nước ngoài và khủng hoảng nợ nước ngoài
Bài viết này làm rõ nguyên nhân và diễn biến của một số cuộc khủng hoảng nợ nước ngoài trong lịch sử thế giới, đồng thời chỉ ra các phản ứng chính sách đã được áp dụng sau những cuộc khủng hoảng này Những cuộc khủng hoảng nợ thường xuất phát từ các yếu tố kinh tế, chính trị và xã hội phức tạp, dẫn đến những tác động nghiêm trọng đến nền kinh tế toàn cầu Sau khủng hoảng, các quốc gia thường phải thực hiện các biện pháp như tái cấu trúc nợ, cải cách chính sách tài chính và hợp tác quốc tế để phục hồi và ổn định nền kinh tế.
Rút ra bài học kinh nghiệm nhằm giảm khả năng xảy ra khủng hoảng nợ nước ngoài tại Việt Nam.
Câu hỏi nghiên cứu
Khủng hoảng nợ nước ngoài trên thế giới diễn ra như thế nào?
Các quốc gia gặp khủng hoảng đã có những phản ứng chính sách gì?
Giải pháp giúp Việt Nam giảm khả năng rơi vào khủng hoảng nợ nước ngoài là gì?
Phương pháp nghiên cứu
Bài nghiên cứu sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính, cụ thể qua:
Phương pháp thu thập dữ liệu thứ cấp:
Quy mô nợ nước ngoài bao gồm nợ ngắn hạn, nợ trung và dài hạn, cũng như nợ của khu vực công và tư nhân Các yếu tố quan trọng liên quan đến nợ nước ngoài bao gồm quy mô trả nợ, lãi suất vay, GDP, số lượng lao động, tăng trưởng xuất khẩu, cán cân thanh toán và thâm hụt ngân sách nhà nước Ngoài ra, tiết kiệm và đầu tư trong nước cũng đóng vai trò quan trọng trong việc quản lý nợ nước ngoài.
Nguồn dữ liệu cho bài viết này bao gồm các tài liệu từ Niên giám thống kê, Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Lao động - Thương binh - Xã hội, Tổng cục Hải quan, Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB), Ngân hàng Thế giới (WB) và Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) Ngoài ra, các tạp chí như Tạp chí Kinh tế Phát triển, Tạp chí Ngân hàng, Tạp chí Tài chính, Tạp chí Kinh tế Sài Gòn, Tạp chí Nghiên cứu và Trao đổi cũng được tham khảo Các trang web như Google, Dbvista, và Sciencedirect, cùng với bộ số liệu từ các nghiên cứu trước liên quan đến đề tài, cũng đóng góp vào nguồn thông tin Cuối cùng, các văn bản pháp luật liên quan đến quản lý nợ nước ngoài như Nghị định, Thông tư, và Quyết định của Chính phủ và các cơ quan liên quan cũng được sử dụng để làm cơ sở cho nghiên cứu này.
Phương pháp thu thập: Tìm kiếm, tra cứu theo từ khóa, kế thừa bộ số liệu của các công trình nghiên cứu trước
Phương pháp so sánh là công cụ hữu ích để đánh giá sự cải thiện trong quản lý nợ nước ngoài qua các giai đoạn thời gian khác nhau Đồng thời, việc áp dụng phương pháp so sánh chéo giúp phân tích hiệu quả của nợ nước ngoài tại Việt Nam trong bối cảnh quốc tế, từ đó cung cấp cái nhìn tổng quan về tình hình nợ và quản lý tài chính.
Phương pháp xử lý số liệu
Phương pháp phân tích và tổng hợp được áp dụng để đánh giá các nghiên cứu hiện có cả trong và ngoài nước, nhằm rút ra những vấn đề lý luận liên quan đến nợ nước ngoài, quản lý nợ nước ngoài và hiệu quả của việc quản lý nợ nước ngoài.
Dự kiến đóng góp của nghiên cứu
Hệ thống hóa những vấn đề lý luận và thực tiễn về nợ nước ngoài và khủng hoảng nợ nước ngoài
Phân tích, tìm hiểu thực trạng nợ nước ngoài ở Mỹ Latinh và châu Âu; nguyên nhân của cuộc khủng hoảng nợ nước ngoài tại cả hai khu vực
Phân tích những biện pháp mà Mỹ Latinh và châu Âu đã sử dụng để ứng phó với khủng hoảng nợ nước ngoài trong quá khứ
Rút ra bài học kinh nghiệm nhằm giảm rủi ro tiềm ẩn nợ nước ngoài ở Việt Nam.
Kết cấu bài nghiên cứu
CHƯƠNG 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu Cơ sở lý luận về nợ nước ngoài và khủng hoảng nợ nước ngoài
CHƯƠNG 2: Nguyên nhân, diễn biến và các phản ứng chính sách sau một số cuộc khủng hoảng nợ nước ngoài trong lịch sử thế giới
CHƯƠNG 3: Thực trạng nợ nước ngoài tại Việt Nam và một số vấn đề rút ra từ các cuộc khủng hoảng nợ nước ngoài trong lịch sử thế giới.
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NỢ NƯỚC NGOÀI VÀ KHỦNG HOẢNG NỢ NƯỚC NGOÀI
Tổng quan tình hình nghiên cứu về nợ nước ngoài và khủng hoảng nợ nước ngoài
1.1.1 Tình hình nghiên cứu nợ nước ngoài ở trong nước:
Nguyễn Hữu Tuấn (2012) trong bài viết “Mối quan hệ nợ nước ngoài và tăng trưởng kinh tế Việt Nam" đã phân tích tác động của nợ nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn 1990-2011, dựa trên nghiên cứu của Osinubi Tokunbo và cộng sự (2007) Nghiên cứu chỉ ra rằng nợ nước ngoài và độ mở nền kinh tế có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế Tuy nhiên, sự tồn tại ngưỡng nợ nước ngoài cho thấy nếu nợ vay vượt quá mức này, sẽ gây ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng Do đó, cần chú trọng quản lý nợ để đảm bảo tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế, đặc biệt khi tỷ lệ nợ tăng cao, chính phủ cần giảm nợ vay nước ngoài bằng cách giải quyết thâm hụt ngân sách nhà nước và thâm hụt thương mại.
Nguyễn Ngọc Thạch và Trần Thị Kim Oanh (2016) đã thực hiện nghiên cứu "Nợ nước ngoài và tăng trưởng kinh tế - Góc nhìn từ các nước khu vực Đông Nam Á", phân tích mối quan hệ giữa nợ nước ngoài và tăng trưởng kinh tế tại mười nước Đông Nam Á trong giai đoạn 2006-2014 bằng các mô hình FEM, REM và GMM Nghiên cứu sử dụng các biến như tăng trưởng GDP thực, nợ nước ngoài trên GDP, nghĩa vụ nợ trên xuất khẩu, tổng đầu tư trên GDP, và cân đối ngân sách trên GDP Kết quả cho thấy hầu hết các biến đều có ý nghĩa thống kê, ngoại trừ chỉ số thương mại và độ mở nền kinh tế Đặc biệt, nghiên cứu chỉ ra rằng có mối quan hệ phi tuyến giữa nợ nước ngoài và tăng trưởng kinh tế, với ngưỡng nợ là 50.76% GDP.
Hoàng Khắc Lịch và Dương Cẩm Tú (2017) đã nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến nợ nước ngoài của khu vực công ở các nước đang phát triển, sử dụng phương pháp hồi quy mô hình tác động cố định với dữ liệu của 50 quốc gia trong giai đoạn 1996-2015 Kết quả cho thấy nợ nước ngoài của Chính phủ gia tăng do nợ cũ chưa trả và mở rộng đầu tư công, trong khi tăng trưởng GDP, lạm phát và xuất khẩu ròng lại giúp giảm nợ Võ Thị Thùy Vân (2017) cũng nghiên cứu tác động của quản trị công lên nợ nước ngoài ở 65 quốc gia giai đoạn 2000-2014 bằng phương pháp ước lượng GMM, chỉ ra rằng quản trị công làm tăng nợ nước ngoài ở cả nhóm thu nhập trung bình thấp và cao Các yếu tố như nguồn thu thuế, lao động, độ mở thương mại, lạm phát và cơ sở hạ tầng cũng ảnh hưởng đến nợ nước ngoài, từ đó đề xuất cải cách môi trường thể chế cho chính phủ các nước đang phát triển nhằm kiểm soát và quản lý nợ hiệu quả.
Nguyễn Thị Liên Hương (2019) đã phân tích thực trạng nợ công tại Việt Nam giai đoạn 2014-2018 và đề xuất chính sách quản lý hiệu quả nợ công Nghiên cứu cho thấy tỷ trọng dư nợ công và nợ vay nước ngoài so với GDP vẫn trong giới hạn cho phép của Quốc hội, với sự giảm rõ rệt Tuy nhiên, nợ công vẫn ở mức cao Tác giả đưa ra ba giải pháp chính để nâng cao hiệu quả quản lý nợ công, bao gồm việc thể chế hóa và thi hành giám sát chi tiêu của Chính phủ nhằm tránh chi tiêu không đúng mục đích và vượt mức cho phép, cũng như kiểm soát chặt chẽ các khoản nợ bảo lãnh.
Chính phủ đang thực hiện giảm bảo lãnh đối với các dự án của doanh nghiệp nước ngoài, đồng thời tăng cường quản lý nợ và cơ cấu lại vốn vay Mục tiêu là hạn chế tối đa các khoản vay từ nước ngoài, từng bước thay thế bằng nợ trong nước, nhằm giảm thiểu rủi ro vỡ nợ và đảm bảo an toàn tài chính quốc gia.
1.1.2 Tình hình nghiên cứu nợ nước ngoài ở ngoài nước:
Nghiên cứu của Clements và cộng sự (2003) chỉ ra rằng nợ nước ngoài ảnh hưởng đáng kể đến tăng trưởng kinh tế của 55 quốc gia thu nhập thấp trong giai đoạn 1970-1999, với kết quả cho thấy việc giảm nợ nước ngoài có thể thúc đẩy tăng trưởng thu nhập bình quân đầu người Họ xác định ngưỡng nợ cho các quốc gia này là khoảng 50% GDP theo mệnh giá và 20-25% GDP theo giá trị hiện tại; vượt qua ngưỡng này sẽ dẫn đến giảm thu nhập bình quân đầu người Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng giảm nghĩa vụ nợ khoảng 6% GDP có thể tăng đầu tư công lên 0.75-1% GDP, từ đó gián tiếp làm tăng GDP khoảng 0.2% Để giảm nghĩa vụ nợ, các quốc gia cần giảm nợ nước ngoài thông qua cắt giảm thâm hụt ngân sách, tăng thu nội địa và nhận viện trợ không hoàn lại.
Adegbite và cộng sự (2008) nghiên cứu nợ nước ngoài ở Nigeria giai đoạn 1975- 2005 cho thấy nợ nước ngoài có tác động tiêu cực đến thu nhập quốc gia
Mô hình nghiên cứu định lượng được xây dựng dựa trên hai mô hình tuyến tính và phi tuyến Trong mô hình tuyến tính, các biến độc lập được xem xét bao gồm tăng trưởng xuất khẩu (EXPGRO), tỷ lệ tổng vốn đầu tư trên GDP (CAP/GDP), tỷ lệ nghĩa vụ nợ trên GDP (DSERV/GDP), tỷ lệ nợ nước ngoài trên GDP (EXDEBT/GDP), tỷ lệ tiết kiệm (SAV) và tỷ giá hối đoái (EXR) Kết quả cho thấy tăng trưởng xuất khẩu, tỷ lệ nợ nước ngoài trên GDP, tỷ lệ đầu tư trên GDP và tỷ lệ tiết kiệm đều có ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế của Nigeria trong giai đoạn nghiên cứu, trong đó tăng trưởng xuất khẩu và nợ nước ngoài có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế.
Sulaiman và Azeez (2012) cũng nghiên cứu vấn đề này ở Nigeria trong giai đoạn 1970-2010 cũng cho kết quả tương tự như trong nghiên cứu Tokunbo
Nghiên cứu năm 2010 sử dụng mô hình VECM để phân tích tác động của nợ nước ngoài, tỷ lệ nợ nước ngoài trên xuất khẩu, tỷ lệ lạm phát và tỷ giá hối đoái đến tăng trưởng kinh tế Kết quả cho thấy có hai mối quan hệ đồng liên kết giữa các biến trong mô hình, với các yếu tố này tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế trong dài hạn, ngoại trừ nợ nước ngoài Ngược lại, trong ngắn hạn, nợ nước ngoài có tác động tiêu cực đến tăng trưởng Để ổn định nợ nước ngoài, cần chú trọng đến việc duy trì ổn định kinh tế vĩ mô và chính trị, đa dạng hóa hàng hóa xuất khẩu, phát triển ngành công nghiệp nội địa, cũng như kiểm soát lạm phát và tỷ giá hối đoái.
Nghiên cứu của Pekkas (2018) về tác động của nợ chính phủ đến tăng trưởng kinh tế Hy Lạp giai đoạn 1970-2016 sử dụng mô hình ARDL và VAR, cho thấy nợ nước ngoài có ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế trong trung hạn, nhưng lại tác động tích cực đến vay trong nước, đầu tư công và tiêu dùng trong dài hạn Các biến như đầu tư, tiêu dùng tư nhân, tiêu dùng của Nhà nước, độ mở nền kinh tế và tăng trưởng dân số đều có tác động tích cực đến tăng trưởng, ngoại trừ nợ chính phủ và tăng trưởng dân số Nghiên cứu chỉ ra ngưỡng nợ của Hy Lạp là 105% GDP, nhấn mạnh cần giảm nợ nước ngoài để cải thiện tăng trưởng kinh tế thông qua tối ưu hóa nguồn lực trong nước và giảm thâm hụt ngân sách Giai đoạn 2000-2006, nợ chính phủ đã có tác động tiêu cực rõ rệt đến tăng trưởng, dẫn đến khủng hoảng nợ Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng khủng hoảng nợ ảnh hưởng đến tỷ giá và lãi suất, trong đó lãi suất tác động đến đầu tư, còn tỷ giá ảnh hưởng đến xuất nhập khẩu và tăng trưởng kinh tế.
Cơ sở lý luận về nợ nước ngoài và khủng hoảng nợ nước ngoài
1.2.1.1 Khái niệm nợ nước ngoài:
Nợ nước ngoài là khoản nợ mà người cư trú tại một quốc gia phải trả cho người không cư trú Theo hệ thống Thống kê Tài khoản Quốc gia (SNA), cư dân được định nghĩa là những cá nhân, hộ gia đình hoặc doanh nghiệp có kế hoạch cư trú lâu dài và chịu sự kiểm soát của luật pháp quốc gia đó Thời gian cư trú tối thiểu để được coi là thường trú nhân thường là từ 1 năm trở lên, nhưng ở Việt Nam, người cư trú là những người đã sống tại đây từ 183 ngày trong năm dương lịch hoặc 12 tháng liên tục Điều này bao gồm cả những người có nơi cư trú cố định hoặc hợp đồng thuê nhà tại Việt Nam Vì vậy, mọi khoản nợ mà người cư trú phải trả cho người không cư trú, bao gồm cả người Việt Nam, đều được coi là nợ nước ngoài, không phân biệt nguồn gốc phát sinh của khoản nợ.
Theo UNTACD - Hội nghị Liên Hiệp Quốc về Thương mại và Phát triển :
Nợ nước ngoài của một quốc gia tại một thời điểm cụ thể là tổng số nợ theo hợp đồng chưa thanh toán mà cư dân của quốc gia đó phải trả cho người không cư trú Nợ này bao gồm việc hoàn trả nợ gốc kèm hoặc không kèm lãi suất, hoặc trả lãi suất kèm hoặc không kèm nợ gốc.
Theo Điều 3 Luật Quản lí nợ công 2009 :
Nợ nước ngoài của quốc gia bao gồm tổng các khoản nợ mà Chính phủ, các doanh nghiệp và tổ chức khác vay từ nước ngoài, trong đó có nợ Chính phủ bảo lãnh và nợ tự vay, tự trả theo quy định của pháp luật Việt Nam.
Theo Ngân hàng thế giới (WB), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng tái thiết quốc tế (BIS), Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) :
Tổng vay nợ nước ngoài là tổng số nghĩa vụ nợ đã được giải ngân và chưa được hoàn trả tại một thời điểm nhất định Điều này được xác định thông qua hợp đồng giữa bên vay và bên cho vay, liên quan đến việc hoàn trả các khoản gốc và lãi hoặc chỉ lãi mà không kèm theo gốc.
Theo quy định tại Khoản 1, Điều 1 của Quy chế vay và trả nợ nước ngoài, được ban hành kèm theo Nghị định 90/1988/NĐ-CP ngày 7/11/1988 của Chính phủ Việt Nam, các quy tắc về vay và trả nợ nước ngoài được xác định rõ ràng nhằm đảm bảo tính minh bạch và hiệu quả trong quản lý tài chính quốc gia.
Vay nợ nước ngoài là khoản vay ngắn hạn, trung hạn hoặc dài hạn do Nhà nước, Chính phủ hoặc doanh nghiệp Việt Nam phát hành, có thể có lãi suất hoặc không Người cho vay nước ngoài bao gồm các tổ chức, chính phủ, ngân hàng và cá nhân nước ngoài Các khoản vay nước ngoài bao gồm vay hỗ trợ phát triển chính thức, tín dụng thương mại từ tổ chức tài chính quốc tế, và phát hành trái phiếu Chính phủ Việt Nam trên thị trường vốn quốc tế.
Theo quy định tại "Quy chế quản lý vay và trả nợ nước ngoài" (ban hành kèm Nghị định số 134/2005/NĐ-CP ngày 01/11/2005 của Chính Phủ), các khoản vay từ nước ngoài không được coi là nợ mà được gọi là vay nước ngoài.
Vay nước ngoài là các khoản cho vay ngắn hạn có lãi suất hoặc không lãi suất do Nhà nước và Chính phủ phát hành, với thời gian cho vay lên đến một năm Ngoài ra, còn có các khoản vay trung và dài hạn, kéo dài trên một năm Tại Việt Nam, người cư trú có thể nhận khoản vay từ các tổ chức tài chính quốc tế, chính phủ nước ngoài, cũng như từ các tổ chức và cá nhân không phải là người cư trú.
Nợ nước ngoài của một quốc gia được định nghĩa là các khoản vay từ cả cư dân và không cư dân, bao gồm cả pháp nhân và cá nhân, với nghĩa vụ hoàn trả theo quy định của pháp luật hiện hành.
1.2.1.2 Phân loại nợ nước ngoài:
Căn cứ vào chủ thể cho vay:
Theo tiêu chí phân loại này, nợ nước ngoài được phân loại thành nợ đa phương và nợ song phương Trong đó:
Nợ đa phương là các khoản vay mà chủ nợ thường bao gồm các tổ chức quốc tế như Liên hợp quốc, Ngân hàng Thế giới, Quỹ Tiền tệ Quốc tế, cùng với các ngân hàng phát triển khu vực và các cơ quan đa phương như OPEC và liên chính phủ.
- Nợ song phương là các khoản nợ mà chủ nợ là Chính phủ của một nước hoặc một tổ chức quốc tế nhân danh một chính phủ duy nhất
Căn cứ vào chủ thể vay nợ:
Xét theo tiêu chí chủ thể vay nợ, nợ nước ngoài sẽ được phân chia thành nợ nước ngoài của khu vực công và khu vực tư nhân:
Nợ công là các nghĩa vụ nợ của khu vực công, bao gồm Chính phủ, các bộ, ban ngành, và các cơ quan chính trị cấp dưới như tỉnh, huyện, thành phố Nó cũng bao gồm Ngân hàng Trung ương, các thể chế tự quản như doanh nghiệp tài chính và phi tài chính, cùng với các ngân hàng thương mại và ngân hàng phát triển Để được coi là nợ công, ngân sách của tổ chức phải được Chính phủ phê duyệt hoặc Nhà nước sở hữu trên 50% cổ phần có quyền biểu quyết Nếu tổ chức gặp khó khăn tài chính, Nhà nước sẽ chịu trách nhiệm về khoản nợ đó Những tổ chức không đáp ứng các điều kiện trên sẽ được phân loại là nợ tư nhân.
Nợ nước ngoài của khu vực tư nhân được công quyền bảo lãnh là các khoản nợ mà việc trả nợ được đảm bảo bởi các tổ chức công tại Việt Nam Những khoản nợ này được phân loại rõ ràng nhằm quản lý hiệu quả trong nền kinh tế.
Nợ Chính phủ là khoản nợ phát sinh từ các khoản vay trong nước và nước ngoài, được ký kết và phát hành nhân danh Nhà nước hoặc Chính phủ, bao gồm các khoản vay do Bộ Tài chính ký kết và phát hành theo quy định pháp luật Tuy nhiên, nợ Chính phủ không bao gồm các khoản nợ phát hành bởi Ngân hàng Nhà nước Việt Nam nhằm thực hiện chính sách tiền tệ trong từng giai đoạn.
Nợ khu vực tư nhân bao gồm cả nợ nước ngoài mà khu vực tư nhân phải chịu, không được đảm bảo bởi khu vực công trong cùng một nền kinh tế theo hợp đồng.
Nợ tư nhân là khoản nợ do khu vực tư nhân tự chịu trách nhiệm, trong đó nợ nước ngoài được bảo lãnh bởi cơ quan nhà nước trong cùng một nền kinh tế Khoản nợ này được phân loại thành nợ nước ngoài có bảo đảm, với phần giá trị hiện tại của các khoản thanh toán được đảm bảo, và nợ nước ngoài không có bảo đảm, bao gồm các khoản thanh toán không được bảo đảm.
Căn cứ vào thời hạn vay: