MỐI QUAN HỆ GIỮA NEO TỶ GIÁ VÀ LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM đề tài MỐI QUAN HỆ GIỮA NEO TỶ GIÁ VÀ LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM tiểu luận MỐI QUAN HỆ GIỮA NEO TỶ GIÁ VÀ LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM
TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN
Tổng quan nghiên cứu
In the research article "Exchange arrangements entering the 21st century: which anchor will hold?" by Ethan Ilzetzki, Carmen M Reinhart, and Kenneth S Rogoff (2017), the authors categorize exchange rate regimes into 15 distinct levels.
Phân loại neo thực tế Mã thể hiện neo tỷ giá
Không dùng đồng tiền bản địa 1 Neo cứng hoặc bản vị tiền tệ 2
Neo tỷ giá trong biên độ +/-2% 3
Neo tỷ giá thực tế 4
Neo tỷ giá điều chỉnh dần với biên độ thực
Neo tỷ giá với biên độ điều chỉnh trong khoảng +/-2% 6
Neo thực tế có điều chỉnh 7
Neo thực tế có điều chỉnh trong khoảng +/-
Neo tỷ giá với biên độ điều chỉnh lớn hơn +/-
Neo thực tế với biên độ có điều chỉnh trong khoảng +/-5% 10
Biên độ động trong khoảng +/-2% 11
Neo thực tế biên độ động trong khoảng +/- 5% hoặc thả nổi có điều tiết 12
Tỷ giá rơi tự do 14
Tỷ giá kép mà dữ liệu của 1 thị trường bị thiếu 15
Bảng 1.Phân loại neo tỷ giá theo Ethan Ilzetzki, Carmen M Reinhart và Kenneth S Rogoff (2017)
Các phân loại trên sẽ được tham khảo và đưa vào bài nghiên cứu này
Trong nghiên cứu “Hoạt động kinh tế và lạm phát dưới tỷ giá hối đoái cố định: trường hợp của Bờ Biển Ngà”, Lubin Doe và Mamadou Lamine Diallo (2015) đã chỉ ra rằng các biến bên ngoài như chênh lệch lãi suất và lạm phát tại Pháp là những yếu tố quyết định chính về lạm phát ở Bờ Biển Ngà Chi tiêu chính phủ cũng đóng vai trò quan trọng trong phương trình lạm phát Mặc dù tỷ lệ hối đoái thực không có hệ số đáng kể, nhưng nó cho thấy rằng các chính sách nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế sẽ giúp giảm áp lực lạm phát Do đó, Bờ Biển Ngà có thể kiểm soát lạm phát bằng cách hạn chế tăng chi tiêu vãng lai của chính phủ và cải thiện khả năng cạnh tranh xuất khẩu.
Trong một bài nghiên cứu khác tên “Exchange rate pass-through to domestic prices: Does the inflationary environment matter?” Ehsan U Choudhri, Dalia S Hakura
Nghiên cứu năm 2006 nhấn mạnh rằng sự phụ thuộc của tỷ giá hối đoái vào chế độ lạm phát là yếu tố quan trọng cần xem xét trong việc thiết kế chính sách tiền tệ Việc hiểu rõ mối liên hệ này sẽ giúp các quốc gia dễ dàng triển khai các chính sách nhằm mục tiêu duy trì tỷ lệ lạm phát ở mức thấp.
Trong nghiên cứu "Lạm phát, sự mở cửa và chế độ tỷ giá hối đoái: Tìm kiếm cam kết ngắn hạn", Laura Alfaro (2014) đã chỉ ra mối quan hệ nghịch mạnh mẽ giữa lạm phát và chế độ tỷ giá hối đoái cố định Điều này phù hợp với tài liệu cổ điển, cho rằng chế độ tỷ giá hối đoái cố định tạo ra "kỷ luật" cho từng quốc gia, đồng thời phản ánh khả năng quan sát cao hơn, trách nhiệm giải trình và tính minh bạch trong quản lý tỷ giá hối đoái Mối quan hệ này cũng nhất quán với các tài liệu về vấn đề không nhất quán động, cho thấy rằng việc không áp dụng chính sách tiền tệ hiệu quả có thể dẫn đến mức độ lạm phát cao.
Eduardo Levy-Yeyati and Federico Sturzenegger (2001) highlight a negative correlation between fixed exchange rate regimes and inflation Similarly, in their study "Exchange Rate Regimes and Inflation: Evidence from India," Biswajit Mohanty and N.R Bhanumurthy (2014) demonstrate that a regulated floating exchange rate regime leads to lower inflation rates compared to fixed exchange rate systems.
In their 2001 study "Exchange rate regimes, inflation and output volatility in developing countries," Michael Bleaney and David Fielding highlight that countries with a coordinated peg (CFA) experience significantly lower inflation rates compared to those with floating exchange rates and uncoordinated pegs.
Cơ sở lý luận
1.2.1 Khái niệm tỷ giá hối đoái và tác động của tỷ giá hối đoái
1.2.1.1 Khái niệm tỷ giá hối đoái
Trong chế độ bản vị vàng: Tỷ giá hối đoái là quan hệ so sánh 2 đồng tiền vàng của
2 nước với nhau hoặc là so sánh hàm lượng vàng của 2 đồng tiền 2 nước với nhau
Ví dụ: hàm lượng vàng của 1 Bảng Anh là 2,488281 gam, 1 USD là 0,888671 gam, do đó quan hệ so sánh giữa GBP và USD là:
Trong chế độ bản vị hối đoái, tỷ giá hối đoái được định nghĩa là giá trị của một đơn vị tiền tệ của một quốc gia so với tiền tệ của một quốc gia khác Điều này phản ánh mối quan hệ giá cả giữa hai đồng tiền của các nước khác nhau.
Theo cách yết giá trực tiếp, tỷ giá là giá của đồng ngoại tệ tính theo đơn vị nội tệ Ví dụ, vào ngày 27/07/2016, tỷ giá EUR/VND trên thị trường Việt Nam là 24.347 VND, nghĩa là 1 EUR được quy đổi trực tiếp sang VND.
Tỷ giá theo cách yết giá gián tiếp (nội tệ/ngoại tệ) thể hiện giá trị của đồng nội tệ so với ngoại tệ Chẳng hạn, tại London, tỷ giá được niêm yết là 1 GBP = 1,7618 USD Trong tỷ giá EUR/VND, EUR là tiền yết giá đứng trước, còn VND là tiền định giá đứng sau, với giá trị thay đổi tùy thuộc vào thời giá của tiền yết giá.
1.2.1.2 Phân loại tỷ giá hối đoái
Tỷ giá hối đoái được phân loại thành nhiều loại khác nhau dựa trên các tiêu chí cụ thể Một trong những cách phân loại quan trọng là căn cứ vào thời điểm thanh toán.
Tỷ giá giao ngay là tỷ giá áp dụng cho các giao dịch ngoại hối, trong đó việc thanh toán diễn ra ngay trong ngày hoặc không muộn hơn 2 ngày làm việc, không bao gồm ngày nghỉ cuối tuần và các ngày lễ của các quốc gia Hồi giáo.
Tỷ giá kỳ hạn là tỷ giá áp dụng cho các giao dịch kỳ hạn, với thời gian giữa ngày ký hợp đồng và ngày giao tiền thường kéo dài từ 1 tháng đến 1 năm Tỷ giá này được xác định dựa trên tính chất của nó.
Tỷ giá danh nghĩa (nominal exchange rate) là tỷ giá thể hiện giá trị của đồng tiền mà không phản ánh sức cạnh tranh của hàng hóa nội địa trong giao dịch thương mại quốc tế.
Tỷ giá thực tế là tỷ giá danh nghĩa đã được điều chỉnh theo mức giá tương đối giữa các quốc gia, phản ánh sức mua thực tế và khả năng cạnh tranh của hàng hóa.
Tỷ giá danh nghĩa được công bố hàng ngày trên các phương tiện truyền thông, trong khi tỷ giá thực tế cần được tính toán dựa trên tỷ giá danh nghĩa.
Tỷ giá thực tế = Tỷ giá danh nghĩa * Mức giá nước ngoài/Mức giá trong nước c Căn cứ vào phương tiện thanh toán
Tỷ giá điện hối: là tỷ giá chuyển ngoại hối bằng điện, là cơ sở xác định các loại tỷ giá khác
Tỷ giá thư hối là tỷ giá chuyển đổi ngoại hối thông qua hình thức thư Tại các nước kém phát triển, ngoài thị trường ngoại hối chính thức, còn tồn tại thị trường chợ đen, trong đó tỷ giá được phân chia thành tỷ giá chính thức do ngân hàng trung ương quy định và tỷ giá chợ đen do quan hệ cung cầu ngoại hối quyết định Ngoài ra, tỷ giá cũng được xác định dựa trên hoạt động thanh toán ngoại thương.
Tỷ giá xuất khẩu được xác định bằng cách lấy giá bán hàng xuất khẩu theo điều kiện F.O.B bằng ngoại tệ chia cho giá bán buôn xí nghiệp cộng với thuế xuất khẩu tính bằng nội tệ.
Tỷ giá nhập khẩu được xác định bằng tỷ số giữa giá bán buôn hàng nhập khẩu tại cảng bằng nội tệ và giá nhập khẩu bằng ngoại tệ Tỷ giá xuất khẩu và tỷ giá nhập khẩu phản ánh tỷ suất phí của hoạt động xuất khẩu và nhập khẩu Để doanh nghiệp xuất nhập khẩu đạt lợi nhuận, cần thỏa mãn bất đẳng thức: tỷ giá xuất khẩu < tỷ giá chính thức < tỷ giá nhập khẩu Điều này phụ thuộc vào chế độ tỷ giá hối đoái hiện hành.
Tỷ giá hối đoái cố định là mức tỷ giá do nhà nước quy định, giữ ổn định trong mối quan hệ giữa đồng nội tệ và ngoại tệ.
Tỷ giá thả nổi hoàn toàn (freely floating exchange rate): tỷ giá thả nổi hoàn toàn được xác lập hoàn toàn dựa trên cung cầu ngoại hối
Tỷ giá thả nổi có quản lý là loại tỷ giá phổ biến nhất, kết hợp ưu điểm của tỷ giá cố định và tỷ giá thả nổi, giúp khắc phục nhược điểm của cả hai hình thức này.
1.2.1.3 Các yếu tố tác động đến tỷ giá hối đoái a Các yếu tố dài hạn
1) Tương quan lạm phát giữa hai đồng tiền
Theo lý thuyết ngang giá sức mua, tỷ giá giữa hai đồng tiền phải biến động để phản ánh tương quan lạm phát giữa chúng theo công thức:
Trong đó E là tỷ lệ phần trăm thay đổi tỷ giá sau một năm [1, tr.397]
: Tỷ lệ lạm phát/năm trong nước
*: Tỷ lệ lạm phát/năm nước ngoài
Vì tỷ lệ lạm phát và * thường ít biến động trong ngắn hạn và chỉ thay đổi dần dần theo thời gian, nên mối quan hệ lạm phát giữa hai đồng tiền sẽ xác định xu hướng tỷ giá trong dài hạn.
DỮ LIỆU VÀ MÔ HÌNH
Dữ liệu
2.1.1 Phương pháp thu thập dữ liệu
Sử dụng dữ liệu thứ cấp bao gồm:
• Dữ liệu bilateral defactor regimes
2.1.2 Phương pháp xử lý dữ liệu
Lấy trung bình bilateral defactor regimes của Việt Nam với 10 nước có quan hệ xuất nhập khẩu lớn nhất.
Mô hình
Bài nghiên cứu sẽ áp dụng kiểm định Pearson để phân tích mối tương quan giữa neo tỷ giá thực và lạm phát Hệ số tương quan (Pearson correlation coefficient) sẽ được tính toán nhằm xác định mức độ liên kết giữa hai yếu tố này.
Hệ số tương quan pearson = cov(X,Y) σXσY
Công thức của kiểm định Pearson như sau: t = 𝑟√𝑛−2
• r: hệ số tương quan của mẫu
• n−2: bậc tự do của mô hình
Các giả thuyết kiểm định được đưa ra như sau:
H0: Hệ số tương quan bằng không (0)
Ha: Hệ số tương quan khác không (0)
Hệ số tương quan cho phép xác định mức p-value, từ đó kiểm định tính ý nghĩa của hệ số này Nếu p-value nhỏ hơn mức ý nghĩa đã đặt ra, giả thuyết H0 sẽ bị bác bỏ, chứng tỏ hệ số tương quan có ý nghĩa Ngược lại, nếu p-value lớn hơn mức ý nghĩa, giả thuyết H0 không bị bác bỏ, cho thấy hệ số tương quan không có ý nghĩa Trong nghiên cứu này, mức ý nghĩa được chọn là alpha.
KẾT QUẢ KIỂM ĐỊNH VÀ THẢO LUẬN
Kết quả kiểm định mô hình
Theo các tính toán và biện pháp trực quan hóa, kết quả cho thấy mối quan hệ giữa tỷ giá và lạm phát khi tính toán tỷ giá trung bình cho tất cả các quốc gia như trong bảng dưới đây.
Năm Neo tỷ giá thực tế trung bình CPI
Bảng 3 Lạm phát và neo tỷ giá trung bình với tất cả các nước của Việt Nam trong giai đoạn 1996-2016
Tỷ lệ lạm phát trung bình hàng năm ở Việt Nam là 6.6%, với những đột biến cao vào năm 2008 và 2011, đạt lần lượt 23.12% và 18.68% Trong khi đó, lạm phát có thể giảm xuống âm 1.7% và âm 0.4% vào năm 2000 và 2001 Thông thường, lạm phát dao động trong khoảng 4% đến 8% Đồ thị hộp dưới đây minh họa sự phân bố của chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tại Việt Nam từ năm 1996 đến 2006.
Hình 1 Lạm phát ở Việt Nam từ 1996 tới 2016
Tỷ giá thực tế trung bình của Việt Nam với các nước dao động từ 9.82 đến 10.45, trong khi tỷ lệ lạm phát thay đổi từ -1.71 đến 23.12 Mức neo tỷ giá có xu hướng giảm từ năm 1996 đến 2015, sau đó tăng trở lại trong năm 2015 và 2016 Điều này cho thấy Việt Nam đã kiểm soát tỷ giá chặt chẽ hơn trong giai đoạn 1996-2014 và thả lỏng hơn trong năm 2015-2016 Biến động của tỷ giá thực tế trung bình được thể hiện qua bảng số liệu.
Neo tỷ giá thực tế trung bình
Bảng 4.Thống kê mức neo tỷ giá trung bình với tất cả các quốc gia qua các năm
Dưới đây là đồ thị trực quan hóa dữ liệu neo tỷ giá thực tế trung bình và tỷ lệ lạm phát ở Việt Nam qua các năm 1996-2016
Hình 2 Lạm phát và neo tỷ giá trung bình với tất cả các nước của Việt Nam trong giai đoạn 1996-2016
Theo đồ thị, từ năm 1996 đến 2001, 2010-2011 và 2012-2014, tỷ lệ lạm phát và mức neo tỷ giá trung bình thực tế có sự biến động cùng chiều Ngược lại, trong các khoảng thời gian khác, hai biến số này lại có xu hướng vận động ngược chiều nhau Dưới đây là đồ thị thể hiện mối tương quan giữa neo tỷ giá thực trung bình và lạm phát.
Hình 3.Tương quan giữa neo tỷ giá tính trung bình tất cả các quốc gia và lạm phát ở Việt Nam trong giai đoạn 1996-2016
Theo đồ thị, mức neo tỷ giá thực trung bình có mối tương quan âm với tỷ lệ lạm phát Bài viết sẽ tiến hành tính hệ số tương quan Pearson để xác định mối liên hệ và kiểm định ý nghĩa của hệ số này.
Neo tỷ giá thực tế trung bình CPI
Neo tỷ giá thực tế trung bình 1.00 -0.46
Bảng 5.Tương quan giữa neo tỷ giá tính trung bình tất cả các quốc gia và lạm phát ở Việt Nam trong giai đoạn 1996-2016
Nghiên cứu cho thấy có mối tương quan âm đáng kể giữa neo tỷ giá thực tế trung bình và tỷ lệ lạm phát CPI tại Việt Nam trong giai đoạn 1996-2016, với p-value đạt 3.7%, có ý nghĩa ở mức 10% trong kiểm định hai phía Điều này chứng tỏ rằng sự biến động của neo tỷ giá thực tế trung bình có ảnh hưởng tiêu cực đến tỷ lệ lạm phát CPI trong khoảng thời gian khảo sát.
Việc loại bỏ các quốc gia có phân loại neo danh nghĩa ở mức 14 và 15 sẽ giúp cải thiện tình hình cho Việt Nam, nhất là trong những năm mà Việt Nam có nhiều nước thứ hai được xếp vào nhóm 14 và 15, dẫn đến dữ liệu bị thiếu Dưới đây là bảng thống kê số lượng các quốc gia khác trong nhóm 14 và 15 của Việt Nam qua các năm.
Bảng 6 Thống kê số nước có xếp loại neo tỷ giá thực tế song phương khác 14 và 15 với Việt Nam trong giai đoạn 1996-2016
Từ năm 1996 đến 1999, số lượng quốc gia được xếp loại 14 và 15 tăng đáng kể, dẫn đến việc số liệu tính toán trong giai đoạn này trở nên sai lệch và thiếu ý nghĩa Ngược lại, ở các nhóm năm khác, số lượng quốc gia không thuộc loại 14 và 15 lại nhiều hơn, cho phép chúng ta tham khảo và phân tích trường hợp trên một cách rõ ràng hơn.
Ta có bảng kết quả sau neo tỷ giá trung bình và lạm phát trong trường hợp bỏ đi các nước được xếp loại 14 và 15 như sau:
Năm Neo tỷ giá thực tế trung bình CPI
Bảng 7 Lạm phát và neo tỷ giá trung bình bỏ đi các nước xếp loại 14 và 15 của Việt Nam trong giai đoạn 1996-2016
Sau khi loại bỏ các quốc gia được phân loại 14 và 15, tỷ giá thực ở Việt Nam đã duy trì sự ổn định trong khoảng từ 9.78 đến 9.98 qua các năm Tuy nhiên, có thể nhận thấy một xu hướng giảm từ năm 1996 đến 2014, sau đó tỷ giá thực tăng trở lại trong các năm 2015 và 2016, tương tự như xu hướng trung bình của tỷ giá thực tế với tất cả các quốc gia khác.
Mức biến động của tỷ giá trung bình, sau khi loại bỏ các trường hợp không thuộc neo cứng, neo mềm hay thả nổi, cho thấy xu hướng thấp hơn so với việc tính toán trung bình với tất cả các quốc gia.
Neo tỷ giá thực tế trung bình
Bảng 8 Thống kê mức neo tỷ giá trung bình bỏ đi các quốc gia xếp loại 14 và 15 qua các năm
Hình 4 Lạm phát và neo tỷ giá trung bình bỏ đi các nước xếp loại 14 và 15 của Việt Nam trong giai đoạn 1996-2016
Hình 5 Tương quan giữa neo tỷ giá tính trung bình bỏ đi các quốc gia xếp loại 14 và 15 và lạm phát ở Việt Nam trong giai đoạn 1996-2016
Quan hệ giữa neo tỷ giá thực trung bình ở Việt Nam và lạm phát cho thấy một mối tương quan âm, đặc biệt rõ ràng trong giai đoạn 2003-2005 Tuy nhiên, mức độ tương quan âm này không còn mạnh khi so sánh với trung bình neo tỷ giá của 190 nước trong bộ dữ liệu Dưới đây là kết quả tính toán hệ số tương quan và kiểm định ý nghĩa của nó.
Neo tỷ giá thực tế trung bình CPI
Neo tỷ giá thực tế trung bình 1.00 -0.31
Bảng 9 Tương quan giữa neo tỷ giá tính trung bình bỏ đi các quốc gia xếp loại 14 và 15 và lạm phát ở Việt Nam trong giai đoạn 1996-2016
Trong trường hợp này, p-value được xác định là 17%, không có ý nghĩa khi so với mức ý nghĩa alpha = 10% Điều này cho thấy, khi loại bỏ các nước xếp hạng 14 và 15 (hạng khác) so với Việt Nam, mức độ tương quan âm đã giảm và không còn ý nghĩa ở mức 10%.
Khi xem xét 10 nước có tỷ trọng quan hệ thương mại lớn nhất với Việt Nam, chúng ta nhận được kết quả hoàn toàn khác biệt so với hai trường hợp trước đó.
Năm Neo tỷ giá thực tế trung bình CPI
Bảng 10 Lạm phát và neo tỷ giá trung bình với nhóm 10 nước của Việt Nam trong giai đoạn 1996-2016
Với trường hợp này, neo tỷ giá thực tế trung bình của Việt Nam rơi vào mức 9.38 đến 10.5 và có sự biến động cũng tương đối nhỏ
Neo tỷ giá thực tế trung bình
Bảng 11 Thống kê mức neo tỷ giá trung bình với nhóm 10 nước qua các năm
Biến động tỷ giá tại Việt Nam trong năm 1998 ghi nhận sự thay đổi lớn, khi tỷ giá trung bình neo ở mức 10.5 Sự gia tăng này chủ yếu do tỷ giá thực song phương giữa Việt Nam và một số quốc gia như Malaysia và Thái Lan tăng mạnh, với Việt Nam - Malaysia từ 8 lên 13 và Việt Nam - Thái Lan từ 7 lên 12 Năm 1998, Việt Nam đã nới lỏng neo tỷ giá với một số nước trong nhóm 10 nước Đồng thời, lạm phát tại Việt Nam cũng tăng đáng kể từ 3.21% năm 1997 lên 7.27%, cho thấy mối tương quan dương giữa tỷ giá neo và lạm phát.
Năm Quốc gia 1 Quốc gia 2 Neo tỷ giá thực song phương
1997 Vietnam United States of America 7
1998 Vietnam United States of America 7
Bảng 12 Mức neo tỷ giá thực song phương của Việt Nam với các nước trong nhóm 10 nước trong hai năm 1997 và 1998
Neo tỷ giá thực tế trung bình CPI
Neo tỷ giá thực tế trung bình 1.00 0.17
Bảng 13 Thống kê mức neo tỷ giá trung bình với nhóm 10 nước
Kết quả kiểm định cho thấy p-value đạt 46%, cho thấy mối quan hệ giữa mức neo tỷ giá thực tế trung bình và lạm phát gần như không có ý nghĩa.
Thảo luận kết quả
Từ năm 1996 đến 2014, tỷ giá thực trung bình của Việt Nam với các nước có tỷ trọng thương mại lớn giảm, cho thấy việc quản lý tỷ giá của Việt Nam trở nên chặt chẽ hơn trong giai đoạn này Trong giai đoạn 2014-2016, tỷ giá được thả nổi hơn, điều này được thể hiện qua các phân tích của ba trường hợp Dữ liệu sẽ được chia thành bốn phần: 1996-1999, 2000-2001, 2002-2014 và 2015-2016 để có cái nhìn sâu hơn Cách chia này dựa trên giá trị của tỷ giá thực tế trung bình và lạm phát trong các năm, với hai năm lạm phát âm được tách riêng, trong khi các nhóm năm còn lại sẽ được phân loại theo tỷ giá cao và thấp để quan sát.
Trong giai đoạn 1996 - 1999, lạm phát ở mức trung bình khoảng 4.9%, thấp hơn mức trung bình chung là 6.6% Tỷ giá thực tế trung bình trong giai đoạn này cũng tương đối cao, dao động từ 10.02 đến 10.45, với mức trung bình là 10.4, cao hơn mức trung bình chung 10.06 Nếu loại trừ các nước xếp hạng 14 và 15, tỷ giá thực tế trung bình giảm xuống còn 9.89, nhưng vẫn cao hơn mức trung bình chung 9.85 Đối với nhóm 10 nước, tỷ giá dao động từ 8.1 đến 10.5, với mức trung bình là 9.0, thấp hơn mức trung bình chung 9.38 Sự chênh lệch này có thể do ảnh hưởng của các quốc gia xếp hạng 14 và 15 Trong giai đoạn 2000-2001, tỷ lệ lạm phát đã chuyển sang âm vào năm 1999.
Trong hai năm đầu thế kỷ 21, tỷ lệ lạm phát tại Việt Nam rất thấp, với tốc độ tăng CPI chỉ ở mức một con số, thậm chí năm 2000 còn ghi nhận tình trạng giảm phát với tỷ lệ -1,71% Nguyên nhân chủ yếu là do giá lương thực và nông sản giảm mạnh trên thị trường thế giới, trong khi chính sách tiền tệ lại được nới lỏng Từ năm 2002 đến 2003, lạm phát tăng trở lại nhưng vẫn ở mức không quá cao, với tỷ giá thực tế trung bình cao hơn mức trung bình của tất cả các nước Cụ thể, trong hai năm này, tỷ giá thực tế trung bình lần lượt là 10.25 và 10.18, cao hơn mức trung bình 10.06, trong khi với các nước loại 14 và 15, tỷ lệ này là 9.90 và 9.87, cũng cao hơn trung bình 9.85 Tuy nhiên, chỉ số trung bình của 10 nước trong hai năm này lại thấp hơn mức trung bình chung.
Giai đoạn 1999-2003 chứng kiến lạm phát ở mức vừa phải, với tỷ lệ 4% vào năm 2002 và 3% vào năm 2003 Nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng này là do nguồn cung ổn định của các mặt hàng lương thực, thực phẩm và nông sản trên thị trường.
Từ năm 2002, lạm phát tại Việt Nam đã tăng cao, đạt đỉnh 23.12% vào năm 2008, do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế toàn cầu, sự mất giá của đồng USD, và giá dầu thô cũng như giá lương thực, nguyên liệu tăng vọt Giai đoạn 2004-2013 chứng kiến lạm phát duy trì ở mức cao, bộc lộ những yếu kém của nền kinh tế đang chuyển đổi Tuy nhiên, nhờ nỗ lực của Chính phủ, lạm phát đã được kiểm soát, giảm xuống còn 6.72% vào năm 2009, nhờ vào việc Ngân hàng Nhà nước mua ngoại tệ để ổn định tỷ giá và kiểm soát cung tiền Sự mất cân đối giữa tiền và hàng hóa do cung tiền quá lớn cũng đã góp phần vào tình trạng này, cùng với chính sách tài chính và tiền tệ nới lỏng kéo dài.
Năm 2007, tổng chi ngân sách nhà nước đạt 493,6 nghìn tỷ đồng, tăng 77% so với năm 2006, với bội chi ngân sách là 56,5 nghìn tỷ đồng, tương đương 4,95% GDP Thâm hụt cán cân thương mại lên tới 14,12 tỷ USD, chiếm 29% tổng kim ngạch xuất khẩu, tăng 2,5 lần so với năm trước Sự gia tăng chi tiêu công và tư đã làm tăng cầu, trong khi cung không theo kịp, dẫn đến lạm phát cầu kéo Các yếu tố như tăng lương, giá xăng dầu, điện nước và vận tải đều xuất phát từ phía người bán, kết hợp với quản lý giá chưa hiệu quả của nhà nước, đã làm tăng chi phí sản xuất và giá bán hàng hóa Việt Nam đã phải đối mặt với tình trạng nhập siêu kéo dài hơn 20 năm, với năng suất lao động thấp và khả năng tiêu hóa vốn nước ngoài kém Tình trạng này trở nên nghiêm trọng hơn vào đầu năm 2008, tạo điều kiện cho lạm phát chi phí đẩy gia tăng Sự phụ thuộc vào bên ngoài và nhập siêu lớn đã gây ra biến động giá cả trong nước, đặc biệt khi giá dầu thô và nguyên vật liệu tăng vọt vào đầu năm 2008 Giá dầu lửa đã tăng từ 53,4 USD/thùng vào tháng 1/2007 lên 125,96 USD/thùng vào tháng 5/2008 Trung bình lạm phát giai đoạn 2002-2014 đạt 8,9%, cao hơn mức trung bình 6,6%.
Từ năm 2014 đến 2016, tỷ lệ lạm phát tại Việt Nam duy trì ở mức thấp, lần lượt là 0.63% và 2.67%, đều dưới mức trung bình 20 năm là 6.6% Nguyên nhân chủ yếu là do mối quan hệ cung cầu được cải thiện, với tổng cung vượt tổng cầu Bên cạnh đó, giá cả hàng hóa nhập khẩu giảm cũng góp phần làm giảm lạm phát Về tỷ giá thực tế trung bình, con số cho tất cả các nước là 10.2, cao hơn mức trung bình chung Nếu loại trừ các nước xếp hạng 14 và 15, trung bình trong 2 năm là 9.9, vẫn cao hơn mức trung bình chung 9.85 Khi tính trung bình cho 10 nước, giá trị trung bình đạt 9.65, cũng cao hơn mức trung bình chung là 9.38.
Qua việc phân tích mối quan hệ giữa neo tỷ giá và chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tại Việt Nam, chúng ta nhận thấy sự tương quan ngược chiều giữa hai yếu tố này Kết quả kiểm định hệ số tương quan Pearson cho thấy mối liên hệ giữa neo tỷ giá và lạm phát khi tính trung bình cho tất cả các quốc gia.
Kiểm định với các nhóm nước khi loại bỏ các nước xếp loại 14 và 15 cho thấy tương quan âm, tuy nhiên p-value đạt khoảng 17%, điều này cho thấy kết quả không có ý nghĩa thống kê ở mức ý nghĩa đã chọn.
Khi tính toán trung bình với nhóm 10 nước, kết quả cho thấy mối tương quan âm, tuy nhiên, ý nghĩa của kết quả này gần như không đáng kể do p-value rất cao.
Việc chính phủ quyết định neo đồng tiền bản địa chặt hơn, kết hợp với luồng vốn di chuyển vào mạnh mẽ, như ở Việt Nam trong giai đoạn 2009, đã dẫn đến sự tăng giá của đồng tiền Việt Nam Để duy trì mức tỷ giá ổn định, chính phủ phải mua vào ngoại tệ, điều này làm tăng cung tiền và góp phần vào sự gia tăng lạm phát.
Ngoài tỷ giá, còn nhiều yếu tố cơ bản khác của nền kinh tế vĩ mô ảnh hưởng đến lạm phát như cung cầu hàng hóa, tiền tệ và chính sách tài khóa Tuy nhiên, bài viết này không đề cập đến những yếu tố này Hơn nữa, việc tính toán gặp khó khăn do dữ liệu hạn chế và nhiều thông tin bị thiếu Đây là những vấn đề cần cải thiện cho các nghiên cứu trong tương lai.
KHUYẾN NGHỊ CHÍNH SÁCH
Với sự phát triển và hội nhập của nền kinh tế toàn cầu, Việt Nam đang nỗ lực xây dựng một nền kinh tế công nghiệp bền vững Việc ổn định kinh tế vĩ mô là nhiệm vụ thường xuyên, trong khi duy trì các cân đối vĩ mô được xem là nhiệm vụ trung hạn Cơ cấu lại nền kinh tế là mục tiêu trung và dài hạn Để đạt được những mục tiêu này, các chính sách kinh tế vĩ mô, đặc biệt là chính sách tài chính và tiền tệ, cần được áp dụng một cách hài hòa.
Chính sách tỷ giá hối đoái đóng vai trò quan trọng trong việc ổn định và phát triển kinh tế trong hệ thống chính sách tiền tệ Để đạt được hiệu quả cao trong giai đoạn tới, cần điều hành chế độ neo tỷ giá một cách linh hoạt, phù hợp với thị trường và mối quan hệ lãi suất nội và ngoại tệ, nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Nhóm nghiên cứu sẽ đề xuất các khuyến nghị trong chương 4 để cải thiện tác động của chế độ neo tỷ giá, đảm bảo chính sách mục tiêu lạm phát của Việt Nam.
Cơ chế tỷ giá linh hoạt là điều kiện tiên quyết cho chính sách mục tiêu lạm phát, nhưng khả năng áp dụng tại Việt Nam còn hạn chế do thiếu sức mạnh can thiệp thị trường của NHNN và sự phát triển của thị trường bảo hiểm trạng thái ngoại hối Việc duy trì cơ chế tỷ giá linh hoạt đồng nghĩa với việc chấp nhận ảnh hưởng của tỷ giá pass-through lên giá cả nội địa, điều này khiến nền kinh tế phụ thuộc vào nhập khẩu như Việt Nam dễ chịu cú sốc từ tỷ giá Do đó, Việt Nam nên tiếp tục duy trì cơ chế tỷ giá hiện tại với biên độ giao động nới rộng hơn trước khi chuyển sang cơ chế tỷ giá linh hoạt không thông báo trước, đồng thời NHNN vẫn giữ quyền can thiệp khi tỷ giá biến động vượt biên độ cho phép, với yêu cầu giải trình xu hướng và lý do can thiệp cho công chúng.
Để đảm bảo sự linh hoạt trong cơ chế tỷ giá, NHNN cần xây dựng một cơ chế cung cấp thông tin minh bạch và chủ động nhằm định hướng thị trường Cơ chế này không chỉ xác định nội dung thông tin mà còn quy định các kênh cung cấp thông tin thường xuyên và giải thích các thay đổi chính sách khi cần thiết Mục tiêu là thiết lập mối liên hệ chặt chẽ giữa các nhà hoạch định chính sách và những đối tượng chịu sự giám sát, từ đó kiểm soát hiệu quả các xu hướng thị trường Để đạt được điều này, người đứng đầu cơ quan hoạch định chính sách cần thay đổi tư duy và cải thiện cách nhìn của công chúng về việc sử dụng các kênh thông tin chính thống.
Để thiết lập một cơ chế tỷ giá do thị trường quyết định, thị trường ngoại hối cần phải tích cực và có mức độ thanh khoản cao Mặc dù Ngân hàng Nhà nước đã thực hiện nhiều biện pháp kiểm soát ngoại tệ và hạn chế đô la hóa, nhưng vẫn tồn tại hai dấu hiệu cho thấy sự thiếu tích cực của thị trường: sự tồn tại của thị trường nợ ngoại tệ qua ngân hàng và lượng ngoại tệ lớn trong dân cư, ước tính lên tới hàng chục tỷ đô Số ngoại tệ này chủ yếu được sử dụng như công cụ tích lũy tài sản, không tham gia vào thị trường như một nguồn cung, mà chỉ tạo ra cầu ảo, làm sai lệch tỷ giá Do đó, cần tiếp tục triển khai các giải pháp giảm sức hấp dẫn của tiền gửi ngoại tệ, tiến tới chấm dứt việc cho phép gửi và vay ngoại tệ, cùng với việc kiểm soát đối tượng được vay ngoại tệ và phân biệt chế độ bảo hiểm tiền gửi giữa VND và ngoại tệ.
Không nên chỉ neo tỷ giá vào đồng USD, mặc dù đây là đồng tiền thống trị trong giao dịch quốc tế và được sử dụng rộng rãi trong xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và các quốc gia khác Thực tế cho thấy, ngoài USD, Việt Nam còn thực hiện nhiều giao dịch bằng các đồng tiền khác như EUR và Yen, chiếm khoảng 1/3 kim ngạch xuất - nhập khẩu Đồng Nhân dân tệ cũng đóng vai trò quan trọng trong giao dịch với Trung Quốc Hơn nữa, việc vay nợ bằng Euro và Yen cũng góp phần đáng kể vào tổng nợ nước ngoài của Việt Nam.
Cần thiết phải xây dựng công thức neo tỷ giá dựa trên rổ ngoại tệ chính như USD, Euro, Yen và Nhân dân tệ, với sự xem xét đến trọng số của từng ngoại tệ trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu và tổng nợ vay của đất nước.
Tránh đưa ra tuyên bố cứng về mức điều chỉnh tối đa của tỷ giá trong năm, vì điều này thể hiện quyết tâm của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước trong việc duy trì sự ổn định thị trường Tuyên bố này không chỉ khẳng định ý chí can thiệp khi cần thiết mà còn giúp doanh nghiệp yên tâm lập kế hoạch sản xuất, kinh doanh mà không lo lắng về biến động lớn của tỷ giá.
Việc thiết lập mức điều chỉnh tối đa cứng cho tỷ giá trong năm gặp khó khăn khi tỷ giá trên thị trường ngoại hối quốc tế biến động mạnh Từ tháng 6/2014 đến tháng 3/2015, USD đã tăng giá 24%, trong khi Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cam kết tỷ giá sẽ không điều chỉnh quá 2%/năm trong 2014 và 2015 Điều này tạo ra tình huống khó khăn cho NHNN; nếu tuân thủ cam kết, VND sẽ bị định giá quá cao, gây bất lợi cho doanh nghiệp và nền kinh tế Ngược lại, nếu điều chỉnh tỷ giá vượt quá 2%, NHNN sẽ bị chỉ trích vì không giữ đúng cam kết, làm giảm niềm tin vào các tuyên bố trong tương lai.
Việc không điều chỉnh tỷ giá USD kịp thời có thể dẫn đến những cú sốc lớn cho thị trường Khi NHNN giữ tỷ giá ổn định quá lâu trong bối cảnh USD tăng giá liên tục, việc điều chỉnh sau này sẽ cần phải thực hiện với biên độ lớn, gây ra bất ổn Do đó, cần điều chỉnh tỷ giá thường xuyên hơn, nhưng với biên độ nhỏ để giảm thiểu tác động tiêu cực đến thị trường.
Để đạt được mức độ linh hoạt cần thiết trong cơ chế tỷ giá của Việt Nam, cần có một lộ trình phù hợp trong bối cảnh áp dụng chính sách mục tiêu lạm phát Trước mắt, cần thiết lập các điều kiện cho thị trường ngoại hối hoạt động hiệu quả, giúp Ngân hàng Nhà nước kiểm soát cung cầu ngoại tệ và đảm bảo tỷ giá phản ánh chính xác mối quan hệ này Việc mở rộng biên độ giao động của tỷ giá và tiến tới áp dụng cơ chế tỷ giá linh hoạt có can thiệp sẽ được thực hiện song song với việc thiết lập mục tiêu lạm phát tương thích Kinh nghiệm từ các nước mới nổi cho thấy quá trình này thường mất từ 3-5 năm để đạt được sự tương thích cần thiết.