1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

BUỔI THẢO LUẬN THỨ tư bảo đảm THỰC HIỆN NGHĨA vụ bộ môn pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng

33 30 0
Tài liệu đã được kiểm tra trùng lặp

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Buổi Thảo Luận Thứ Tư Bảo Đảm Thực Hiện Nghĩa Vụ Bộ Môn Pháp Luật Về Hợp Đồng Và Bồi Thường Thiệt Hại Ngoài Hợp Đồng
Tác giả Lê Thị Phương Hiền, Trương Bảo Ngân, Nguyễn Minh Hiền, Đào Phương Linh, Lê Thị Tuyết Nga, Dương Tiểu Ngọc, Huỳnh Lê Anh Khoa, Hoàng Lê Minh Ngọc
Người hướng dẫn Giảng viên: Hoàng Vũ Cường
Trường học Khoa Luật Quốc tế
Chuyên ngành Luật Thương mại quốc tế
Thể loại thảo luận
Năm xuất bản 2021
Thành phố Thành phố Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 33
Dung lượng 124,08 KB

Cấu trúc

  • 1.2 Đoạn nào của bản án số 208 cho thấy bên vay dùng giấy chứng nhận sạp để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả tiền vay? (9)
  • 1.3 Giấy chứng nhận sạp có là tài sản không? Vì sao? (9)
  • 1.4 Việc dùng giấy chứng nhận sạp để bảo đảm nghĩa vụ dân sự có được Tòa án chấp nhận không? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời? (9)
  • 1.5 Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết và cơ sở pháp lý của Tòa án đối với việc dùng giấy chứng nhận sạp để bảo đảm nghĩa vụ (10)
  • 1.6 Đoạn nào của Quyết định số 02 cho thấy các bên đã dùng quyền sử dụng đất để cầm cố? (10)
  • 1.7 Văn bản hiện hành có cho phép dùng quyền sử dụng đất để cầm cố không? Nêu cơ sở văn bản khi trả lời? (10)
  • 1.8 Trong Quyết định trên, Tòa án có chấp nhận cho phép dùng quyền sử dụng đất để cầm cố không? Đoạn nào của Quyết định cho câu trả lời? (11)
  • 1.9 Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án trong Quyết định số 02. 6 (11)
  • 1.10 Trong Quyết định số 27, thế chấp được sử dụng để bảo đảm cho nghĩa vụ nào? Vì sao? (12)
  • 1.11 Đoạn nào trong Quyết định số 27 cho thấy Toà án xác định hợp đồng thế chấp đã chấm dứt? (12)
  • 1.12 Vì sao Toà án xác định hợp đồng thế chấp nêu trên đã chấm dứt? (12)
  • 1.13 Việc Toà án xác định hợp đồng thế chấp nêu trên đã chấm dứt có thuyết phục không? Vì sao? (13)
  • 2.1 Điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về đăng ký giao dịch bảo đảm (15)
  • 2.2 Hợp đồng thế chấp số 1013.2009/HĐTC ngày 07/9/2009 có thuộc trường hợp phải đăng ký không? Vì sao? (16)
  • 2.3 Hợp đồng thế chấp số 07/9/2009 đã được đăng ký phù hợp với quy định không? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời? (16)
  • 2.5 Hướng của Toà án như trong câu hỏi trên có thuyết phục không? Vì sao? (17)
  • 3.1 Khác biệt cơ bản giữa đặt cọc và cầm cố, đặt cọc và thế chấp (20)
  • 3.2 Thay đổi giữa BLDS 2015 và BLDS 2005 về đặt cọc (24)
  • 3.3 Theo BLDS, khi nào bên đặt cọc mất cọc, bên nhận cọc bị phạt cọc? (25)
  • 3.4 Nếu hợp đồng được đặt cọc không được giao kết, thực hiện vì lý do khách quan, bên nhận cọc có nghĩa vụ trả lại tài sản đặt cọc cho bên đặt cọc không? Vì sao? (25)
  • 3.5 Theo Quyết định được bình luận, bên đặt cọc đã chuyển tài sản đặt cọc cho bên nhận cọc như thế nào? (25)
  • 3.6 Theo Toà giám đốc thẩm trong Quyết định được bình luận, tài sản đặt cọc còn thuộc sở hữu của bên đặt cọc không? Vì sao? (25)
  • 3.7 Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Toà giám đốc thẩm liên (26)
  • 3.8 Đoạn nào cho thấy Toà án đã áp dụng Án lệ số 25/2018/AL? (26)
  • 3.9 Việc Toà án áp dụng Án lệ số 25/2018/AL vào hoàn cảnh trong vụ việc này có thuyết phục không? Vì sao? (26)
  • 3.10 Việc Toà án “không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông P, về việc yêu cầu ông I phải trả số tiền phạt cọc là 450.000.000đ” có phù hợp với Án lệ số 25/2018/AL không? Vì sao? (27)
  • 4.1 Những đặc trưng của bảo lãnh (29)
  • 4.2 Những thay đổi giữa BLDS 2015 và BLDS 2005 về bảo lãnh (29)
  • 4.3 Đoạn nào cho thấy Tòa án xác định quan hệ giữa ông Miễn, bà Cà với Quỹ tín dụng là quan hệ bảo lãnh? (31)
  • 4.4 Suy nghĩ của anh/chị về việc xác định trên của Hội đồng thẩm phán (31)
  • 4.5 Theo Tòa án, quyền sử dụng đất của ông Miễn, bà Cà được sử dụng để bảo đảm cho nghĩa vụ nào? Vì sao? (32)
  • 4.6 Theo BLDS, khi nào người bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh? (32)
  • 4.7 Đoạn nào cho thấy Tòa án địa phương đã theo hướng người bảo lãnh và người được bảo lãnh liên đới thực hiện nghĩa vụ cho người có quyền? (32)
  • 4.10 Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa giám đốc thẩm liên (33)
  • 4.11 Theo Quyết định, khi nào người bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh?26 (33)
  • 4.12 Có bản án, quyết định nào theo hướng giải quyết trên về thời điểm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh chưa? Nêu rõ bản án, quyết định mà anh/chị biết (33)
  • 4.13 Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa giám đốc thẩm? (34)

Nội dung

Đoạn nào của bản án số 208 cho thấy bên vay dùng giấy chứng nhận sạp để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả tiền vay?

Bản án chỉ rõ rằng bên vay đã sử dụng giấy chứng nhận sạp D2-9 tại chợ Tân Hương làm tài sản thế chấp để đảm bảo nghĩa vụ trả nợ Cụ thể, bà Bùi Thị Khen và ông Nguyễn Khắc Thảo xác nhận đã thế chấp giấy tờ này để vay 60 triệu đồng từ ông Phạm Bá Minh, với lãi suất 3% mỗi tháng cho dịch vụ cầm đồ.

Giấy chứng nhận sạp có là tài sản không? Vì sao?

Giấy chứng nhận sạp không phải là tài sản sở hữu, mà chỉ là quyền sử dụng Bản án cho thấy giấy sử dụng sạp D2 - 9 tại chợ Tân Hương của bà Bùi Thị Khen và ông Nguyễn Khắc Thảo chứng minh rõ ràng rằng sạp này không thuộc quyền sở hữu của họ.

Theo Điều 105 Bộ luật Dân sự 2015, tài sản được định nghĩa là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản Do đó, giấy chứng nhận sạp không thuộc các loại hình tài sản này và không được coi là tài sản hợp pháp.

Việc dùng giấy chứng nhận sạp để bảo đảm nghĩa vụ dân sự có được Tòa án chấp nhận không? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời?

- Việc dùng giấy chứng nhận sạp để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ dân sự không được tòa án chấp nhận.

- Đoạn của bản án cho câu trả lời nằm ở phần Xét thấy, cụ thể như sau:

Sạp thịt heo mang tên bà Khen tại chợ Tân Hương, cụ thể là sạp D2-9, chỉ là giấy đăng ký sử dụng sạp, không phải là quyền sở hữu.

Bộ Tư pháp (2017) đã trình bày những điểm mới cơ bản của Bộ luật Dân sự 2015 trong tài liệu xuất bản bởi NXB Lao động tại Hà Nội, trang 1501-152 Theo đó, giấy chứng nhận mà bà Khen sở hữu không đủ cơ sở pháp lý để thực hiện việc thi hành án trả tiền trong trường hợp của Minh.

Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết và cơ sở pháp lý của Tòa án đối với việc dùng giấy chứng nhận sạp để bảo đảm nghĩa vụ

- Theo nhóm, hướng giải quyết và cơ sở pháp lý của Tòa án đối với việc dùng giấy chứng nhận sạp để bảo đảm nghĩa vụ là hợp lý.

Tòa án nhận định rằng sạp thịt heo do bà Khen đứng tên và cầm cố chỉ có giấy chứng nhận sử dụng sạp D2-9 tại chợ Tân Hương, mà không phải là quyền sở hữu Do đó, giấy chứng nhận này không đủ cơ sở pháp lý để bà Khen thực hiện nghĩa vụ thi hành án trả tiền cho ông Minh.

Theo Khoản 1, Điều 295 Bộ luật Dân sự 2015, tài sản đảm bảo thực hiện nghĩa vụ dân sự phải thuộc quyền sở hữu của bên bảo đảm, ngoại trừ trường hợp cầm giữ tài sản hoặc bảo lưu quyền sở hữu.

Tòa án đã đưa ra hướng giải quyết hợp lý, theo đó, nếu tài sản cầm cố không thuộc quyền sở hữu của bà Khen, bà chỉ có quyền sử dụng tài sản đó mà không có quyền định đoạt trong giao dịch cầm cố sạp để trả nợ.

Đoạn nào của Quyết định số 02 cho thấy các bên đã dùng quyền sử dụng đất để cầm cố?

- Trong Quyết định số 02/2014/QĐ-UBTP ngày 28/02/2014 có các đoạn như sau cho thấy các bên đã dùng quyền sử dụng đất để cầm cố :

- Trong phần “ Nhận thấy ” của Quyết định số 02 có đoạn: “ Vào ngày 30/08/1995

Ông Ôn, bà Xanh và ông Rành đã ký kết giao dịch "thục đất làm ruộng", trong đó ông Ôn, bà Xanh sở hữu quyền sử dụng đất hợp pháp, còn ông Rành sở hữu 30 chỉ vàng Theo thỏa thuận, ông Ôn, bà Xanh đã chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông Rành để canh tác, đổi lại ông Rành sẽ giao cho họ 30 chỉ vàng 24k Hai bên đồng ý rằng nếu sau 03 năm ông Ôn, bà Xanh không chuộc lại đất bằng số vàng tương đương, ông Rành sẽ có quyền canh tác trên mảnh đất này vĩnh viễn.

Trong Quyết định số 02, phần “Xét thấy” nêu rõ rằng vào ngày 30/8/1995, ông Võ Văn Ôn và Lê Thị Xanh đã cùng ông Nguyễn Văn Rành thỏa thuận về việc thục đất Hai bên đã lập “Giấy thục đất làm ruộng”, nội dung của giấy này tương tự như việc cầm cố tài sản.

Văn bản hiện hành có cho phép dùng quyền sử dụng đất để cầm cố không? Nêu cơ sở văn bản khi trả lời?

Nêu cơ sở văn bản khi trả lời?

Theo Điều 105 và Điều 115 Bộ luật Dân sự 2015, tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản, trong đó quyền sử dụng đất được công nhận là quyền tài sản và thuộc sở hữu của người sử dụng đất Điều 310 Bộ luật Dân sự 2015 cho phép cầm cố bất động sản, và Điều 167 Luật Đất đai 2013 quy định người sử dụng đất có quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế, tặng cho, thế chấp và góp vốn quyền sử dụng đất Do đó, người sử dụng đất có quyền cầm cố quyền sử dụng đất theo quy định của Bộ luật Dân sự 2015.

Trong Quyết định trên, Tòa án có chấp nhận cho phép dùng quyền sử dụng đất để cầm cố không? Đoạn nào của Quyết định cho câu trả lời?

để cầm cố không? Đoạn nào của Quyết định cho câu trả lời?

Tòa án đã chấp nhận việc sử dụng quyền sử dụng đất để cầm cố, thể hiện rõ trong bản án Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tiền Giang đã khẳng định rằng mặc dù pháp luật dân sự không quy định cụ thể về quyền cầm cố quyền sử dụng đất, nhưng bản chất của giao dịch cho thấy các bên đã thực hiện một giao dịch cầm cố tài sản theo đúng quy định của pháp luật.

Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án trong Quyết định số 02 6

- Hướng giải quyết của Tòa án cho rằng được phép dùng quyền sử dụng đất để cầm cố là hợp lý.

Trong quan hệ dân sự, cầm cố đất hay cầm cố quyền sử dụng đất đã tồn tại từ lâu với nhiều tên gọi khác nhau Theo Khoản 1 Điều 167 Luật Đất đai 2013, người sử dụng đất có quyền thực hiện các giao dịch như chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế, tặng cho, thế chấp và góp vốn quyền sử dụng đất Mặc dù Luật Đất 2013 không quy định rõ về quyền cầm cố quyền sử dụng đất, nhưng cũng không cấm hành vi này.

Theo Khoản 2 Điều 310 Bộ luật Dân sự 2015, việc cầm cố bất động sản sẽ có hiệu lực đối kháng với người thứ ba kể từ thời điểm đăng ký, nếu bất động sản đó là đối tượng cầm cố theo quy định của pháp luật Điều này khẳng định rằng Bộ luật Dân sự 2015 đã công nhận quyền cầm cố bất động sản khi được luật cho phép.

Quyền sử dụng đất, mặc dù không được xác định cụ thể là bất động sản theo quy định, nhưng theo Bộ luật Dân sự 2015, đất đai được xem là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân Tuy nhiên, Luật Kinh doanh bất động sản đã đưa ra nhiều điều khoản khẳng định quyền sử dụng đất cũng được coi là bất động sản.

Một trong những nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự theo Bộ luật Dân sự 2015 là các bên tham gia vào quan hệ dân sự phải tự do, tự nguyện trong việc xác lập, thực hiện và chấm dứt quyền và nghĩa vụ của mình thông qua các cam kết và thỏa thuận.

Bất động sản bao gồm các thành phần chính như đất đai, nhà ở và các công trình xây dựng gắn liền với đất, cùng với những tài sản khác liên quan đến đất đai và công trình Ngoài ra, còn có những tài sản khác được quy định theo pháp luật.

Tài sản thuộc sở hữu toàn dân bao gồm đất đai, tài nguyên nước, khoáng sản, nguồn lợi biển, vùng trời và các tài nguyên thiên nhiên khác, cùng với tài sản do Nhà nước đầu tư và quản lý Những tài sản này được Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý Mọi cam kết và thỏa thuận liên quan đến tài sản công phải tuân thủ pháp luật và đạo đức xã hội, đồng thời có hiệu lực thực hiện đối với các bên liên quan.

Theo quy định của Bộ luật Dân sự 2015 và Luật Đất đai 2013, việc cầm cố quyền sử dụng đất hoàn toàn hợp pháp miễn là không vi phạm các điều cấm của pháp luật và không trái với đạo đức xã hội Bộ luật Dân sự 2015 cũng đã cho phép cầm cố bất động sản, tạo điều kiện thuận lợi cho các giao dịch tài chính liên quan đến đất đai.

Luật Đất đai 2013 không cấm cầm cố quyền sử dụng đất.

Trong Quyết định số 27, thế chấp được sử dụng để bảo đảm cho nghĩa vụ nào? Vì sao?

Theo Quyết định số 27, tài sản thế chấp được sử dụng để đảm bảo nghĩa vụ thanh toán các khoản vay của công ty PT Cụ thể, bên thế chấp cam kết sử dụng toàn bộ tài sản được mô tả trong Hợp đồng để bảo đảm thực hiện các nghĩa vụ hiện tại và tương lai liên quan đến các Hợp đồng tín dụng đã ký với Ngân hàng, với giá trị tối đa bằng giá trị tài sản thế chấp Các nghĩa vụ này bao gồm nợ gốc, nợ lãi, lãi phạt quá hạn, phí, khoản phạt và bồi thường thiệt hại (nếu có) theo hợp đồng tín dụng và hợp đồng cấp bảo lãnh.

- Vì Hợp đồng thế chấp bất động sản số 63/2014/HĐTC giữa ông Trần T, bà

Trần Thị H cùng Ngân hàng V đã thực hiện các biện pháp nhằm bảo vệ quyền lợi của ngân hàng và đảm bảo nghĩa vụ thanh toán khoản vay từ công ty PT Để giảm thiểu rủi ro trong trường hợp công ty PT không thể thanh toán nợ, tài sản thế chấp sẽ được sử dụng để thanh toán các khoản nợ này.

Đoạn nào trong Quyết định số 27 cho thấy Toà án xác định hợp đồng thế chấp đã chấm dứt?

- Đoạn trong Quyết định số 27 cho thấy Tòa án xác định hợp đồng thế chấp đã chấm dứt là:

Công ty PT đã hoàn tất việc thanh toán tất cả các khoản nợ theo các hợp đồng tín dụng đã ký kết, và Ngân hàng xác nhận đã tất toán các hợp đồng này vào ngày 25/11/2014.

Vào ngày 17/6/2014 và 23/4/2015, Ngân hàng và Công ty PT đã ký kết Phụ lục 01 để sửa đổi, bổ sung hợp đồng tín dụng hạn mức số 60/2014/HĐTD và hợp đồng tín dụng hạn mức 091/2015/HĐTD Tuy nhiên, không có Phụ lục hợp đồng thế chấp nào được ký kết để điều chỉnh hợp đồng thế chấp số 63/2014/HĐTC.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 357 BLDS 2005, việc thế chấp tài sản sẽ chấm dứt khi nghĩa vụ được bảo đảm bằng thế chấp kết thúc Do đó, Hợp đồng thế chấp bất động sản số 63/2014/HĐTC, ký ngày 06/6/2014, đã chính thức chấm dứt và không còn hiệu lực kể từ ngày 25/11/2014.

Vì sao Toà án xác định hợp đồng thế chấp nêu trên đã chấm dứt?

Trong quá trình giải quyết vụ án, việc Ngân hàng V và Công ty PT ký hợp đồng nâng hạn mức vay tín dụng từ 1.500.000.000 đồng lên 10.000.000.000 đồng mà không có sự đồng ý của người thế chấp, ông Trần T và bà Trần Thị H, là vi phạm quy định pháp luật.

- Mặt khác, việc Ngân hàng ký nâng hạn mức vay từ 1.500.000.000 đồng lên

10.000.000.000 đồng đã vượt quá giá trị tài sản thế chấp là điều bất hợp lý. download by : skknchat@gmail.com

Ngân hàng đã cung cấp "Bản cam kết thế chấp" để chứng minh ông T và bà H cam kết sử dụng tài sản đảm bảo nghĩa vụ trả nợ cho Công ty PT Tuy nhiên, chữ ký và chữ viết trong bản cam kết không phải là của ông T và bà H, gây nghi ngờ về tính xác thực của tài liệu này.

T, bà H không cam kết dùng tài sản của mình để đảm bảo nghĩa vụ trả nợ thay cho Công ty

PT đối với khoản nợ của Ngân hàng với hạn mức là 5.000.000.000 đồng.

Ngân hàng không có tài liệu hoặc chứng cứ nào chứng minh rằng ông T và bà H đã đồng ý ký kết để nâng hạn mức vay tín dụng lên 10.000.000.000 đồng.

- Theo đó, Toà xác nhận được nguyên đơn Ngân hàng Việt Nga thừa nhận Công ty

PT đã hoàn tất việc thanh toán các khoản vay theo Hợp đồng tín dụng số 60/2014/HĐTD vào các ngày 15/10/2014, 25/10/2014 và 12/11/2014 Do đó, việc thế chấp tài sản của ông T và bà H đã chấm dứt theo quy định tại khoản 1 Điều 357 Bộ luật dân sự.

2005 và khoản 1 Điều 327 Bộ luật dân sự năm 2015.

Việc Toà án xác định hợp đồng thế chấp nêu trên đã chấm dứt có thuyết phục không? Vì sao?

- Việc Toà án xác định hợp đồng thế chấp nêu trên đã chấm dứt là thuyết phục và phù hợp với quy định của pháp luật.

Theo Khoản 1 Điều 317 Bộ luật Dân sự năm 2015, thế chấp tài sản là hành động mà bên thế chấp sử dụng tài sản của mình để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ mà không chuyển giao tài sản cho bên nhận thế chấp Trong trường hợp cụ thể, để đảm bảo khoản vay 1.500.000.000 đồng theo Hợp đồng tín dụng số 60/2014/HĐTD, Ông T và bà H đã thế chấp quyền sử dụng đất 120,75m² và căn nhà 02 tầng với diện tích sử dụng 214,62m² thuộc thửa số 392, tờ bản đồ số 3, tại số 40, đường Đ, Phường 13, quận T, Thành phố H, do ông Trần T và bà Trần Thị H đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Theo khoản 2 Điều 1 của Hợp đồng thế chấp, hợp đồng này nhằm bảo đảm thực hiện toàn bộ nghĩa vụ theo các Hợp đồng tín dụng giữa Ngân hàng và Bên vay, với hạn mức tối đa bằng giá trị tài sản thế chấp Tuy nhiên, Ngân hàng đã tự ý nâng hạn mức vay từ 1.500.000.000 đồng lên 10.000.000.000 đồng mà không có sự đồng ý của ông Trần T và bà Trần Thị H, dẫn đến việc vượt quá giá trị tài sản thế chấp, vi phạm quy định đã thỏa thuận trong hợp đồng.

Công ty PT đã hoàn tất việc tất toán các khoản vay theo Hợp đồng tín dụng số 60/2014/HĐTD vào các ngày 15/10/2014, 25/10/2014 và 12/11/2014 Do đó, việc thế chấp tài sản của ông T và bà H đã chấm dứt theo quy định tại khoản 1 Điều 327 Bộ luật dân sự năm 2015.

Hợp đồng đã được chấm dứt theo quy định pháp luật, và Ngân hàng có nghĩa vụ hoàn trả Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở cùng quyền sử dụng đất ở cho ông T và bà H, căn cứ theo khoản 1 Điều 322 Bộ luật Dân sự 2015.

2 VẤN ĐỀ 2: ĐĂNG KÝ GIAO DỊCH BẢO ĐẢM

Tóm tắt Bản án 90/2019/KDTM-PT ngày 16/08/2019 về tranh chấp hợp đồng tín dụng

- Nguyên đơn: Ngân hàng N Đại diện theo pháp luật: Ông Trịnh Ngọc K Đại diện theo ủy quyền: Ông Âu Văn T Người nhận ủy quyền lại: bà Vương Thị Mai H

- Bị đơn: Công ty TNHH Xây dựng và Thương mại V Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Tử D

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập: Ông Đỗ Văn Q, Bà Phạm Thị V

Theo hợp đồng mua bán nợ giữa VAMC và Ngân hàng, VAMC đã mua lại toàn bộ khoản nợ của Công ty TNHH Xây dựng V, liên quan đến các hợp đồng tín dụng ký kết từ năm 2009 đến 2012 Trong quá trình thực hiện hợp đồng, Ngân hàng chưa giải ngân mà chỉ theo dõi dư nợ Do đó, VAMC có quyền khởi kiện Công ty V để yêu cầu thanh toán khoản nợ Sau khi ký hợp đồng mua bán nợ, Ngân hàng đã chuyển nhượng khoản nợ cho VAMC và ủy quyền cho Ngân hàng tham gia tố tụng Nếu Công ty TNHH V không thực hiện nghĩa vụ trả nợ, Ngân hàng có quyền yêu cầu thanh toán.

Cơ quan thi hành án dân sự có quyền xử lý tài sản bảo đảm, bao gồm quyền sử dụng đất và nhà ở, công trình xây dựng trên đất theo Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 0104110021 do UBND thành phố Hà Nội cấp ngày 16/7/1998 cho ông Đỗ Văn Q và bà Phạm Thị V Tài sản này nằm tại địa chỉ số 60 V, phường T, Quận H, Hà Nội, hiện trạng là nhà 04 tầng Trước khi thực hiện nghĩa vụ đảm bảo, cần thanh toán giá trị xây dựng tầng 3 và 4 cho vợ chồng ông Q và bà V.

Điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về đăng ký giao dịch bảo đảm

- Điều 323 BLDS 2005 về "Đăng ký giao dịch bảo đảm".

Giao dịch bảo đảm là một loại giao dịch dân sự mà các bên tham gia thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật để thực hiện các biện pháp bảo đảm được nêu tại khoản 1 Điều.

- Điều 298 BLDS 2015 về "Đăng ký biện pháp bảo đảm".

- Biện pháp bảo đảm được đăng ký theo thỏa thuận hoặc theo quy định của luật.

BLDS 2005 đề cập đến vấn đề "Đăng ký giao dịch bảo đảm" còn BLDS

Năm 2015, quy định về "Đăng ký biện pháp bảo đảm" đã được ban hành Theo các điều khoản đã nêu, "biện pháp bảo đảm" có thể được đăng ký theo thỏa thuận giữa các bên hoặc theo quy định của pháp luật Trong khi đó, "giao dịch bảo đảm" là giao dịch dân sự được thực hiện dựa trên sự thỏa thuận của các bên hoặc theo quy định của pháp luật liên quan đến việc thực hiện biện pháp bảo đảm.

Như vậy ta có thể nói rằng việc sử dụng thuật ngữ "Đăng ký biện pháp bảo đảm" là phù hợp hơn.

- Việc đăng ký là điều kiện để giao dịch bảo đảm có hiệu lực chỉ trong trường hợp pháp luật có quy định.

- Việc đăng ký là điều kiện để giao dịch bảo đảm có hiệu lực chỉ trong trường hợp luật có quy định.

BLDS 2015 đã thay thế thuật ngữ “pháp luật” bằng “luật”, làm cho phạm vi điều chỉnh của Luật trở nên hẹp hơn, chỉ tập trung vào một ngành hoặc lĩnh vực cụ thể Trong khi đó, Pháp luật bao hàm một hệ thống quy tắc toàn diện liên quan đến việc quản lý nhà nước Sự thay đổi này đồng nghĩa với việc hạn chế số lượng chủ thể có thẩm quyền trong việc quy định các giao dịch bảo đảm cũng như các điều kiện để những giao dịch này có hiệu lực.

Giao dịch bảo đảm được đăng ký theo quy định pháp luật sẽ có giá trị pháp lý đối với bên thứ ba kể từ thời điểm đăng ký.

- Trường hợp được đăng ký thì biện pháp bảo đảm phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba kể từ thời điểm đăng ký.

Theo Khoản 2 Điều 298, Bộ luật Dân sự 2015 đã thay thế cụm từ "giá trị pháp lý" bằng "hiệu lực đối kháng", điều này giúp hạn chế các ràng buộc pháp lý đối với bên thứ ba trong giao dịch đảm bảo tài sản "Hiệu lực đối kháng" chỉ phát sinh trong bốn trường hợp: cầm cố tài sản, thế chấp tài sản, bảo lưu quyền sở hữu và cầm giữ tài sản Sự điều chỉnh này cụ thể hóa quy định của luật, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho việc sử dụng và áp dụng pháp luật trong thực tiễn.

Hợp đồng thế chấp số 1013.2009/HĐTC ngày 07/9/2009 có thuộc trường hợp phải đăng ký không? Vì sao?

- Hợp đồng thế chấp số 1013.2009/HĐTC ngày 7/9/2009 thuộc trường hợp phải đăng ký vì:

Hợp đồng thế chấp giữa ông Q và bà V thể hiện sự tự nguyện của họ trong việc sử dụng tài sản sở hữu, cụ thể là nhà đất tại 60 V, phường T, quận H, Hà Nội, để đảm bảo cho các khoản vay của Công ty V tại Ngân hàng Hợp đồng này được xác định là hợp đồng thế chấp quyền sử dụng nhà đất, phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 502 BLDS năm 2015 về hình thức và thủ tục thực hiện hợp đồng quyền sử dụng đất.

Hợp đồng về quyền sử dụng đất cần được lập thành văn bản theo quy định của Bộ luật và pháp luật về đất đai Theo Điều 167 Luật Đất đai 2013, các hợp đồng chuyển nhượng, tặng cho, thế chấp hoặc góp vốn bằng quyền sử dụng đất phải được công chứng hoặc chứng thực, trừ một số trường hợp kinh doanh bất động sản Tương tự, Điều 122 Luật Nhà ở 2014 cũng yêu cầu công chứng, chứng thực đối với các giao dịch liên quan đến nhà ở như mua bán, tặng cho, đổi, hoặc thế chấp, ngoại trừ các trường hợp được quy định riêng.

Theo quy định tại khoản này, thời điểm có hiệu lực của hợp đồng trong các giao dịch được nêu là thời điểm khi hợp đồng được công chứng hoặc chứng thực.

Hợp đồng thế chấp số 07/9/2009 đã được đăng ký phù hợp với quy định không? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời?

không? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời?

- Hợp đồng thế chấp số 07/9/2009 đã được đăng ký phù hợp với quy định pháp luật.

Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất của bên thứ ba được ký kết vào ngày 07/9/2009 đã được công chứng viên thực hiện theo đúng trình tự pháp luật Các bên liên quan, bao gồm bên thế chấp, bên nhận thế chấp và bên vay, đã xác nhận việc ký tên trước mặt công chứng viên Công chứng viên xác nhận ông Q và bà V đã cung cấp đầy đủ giấy tờ như chứng minh thư, hộ khẩu và Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất Biên bản định giá tài sản có đầy đủ chữ ký của bên thế chấp và bên vay, thể hiện sự tuân thủ quy định pháp luật trong quá trình công chứng Do đó, hợp đồng này không vi phạm Điều 122 Bộ luật Dân sự 2005 và không thể bị tuyên bố vô hiệu.

Tại thời điểm 30/9/2009, chỉ cần một bên là bên thế chấp hoặc bên nhận thế chấp, bảo lãnh ký là đủ Theo yêu cầu đăng ký thế chấp vào ngày này, bên nhận thế chấp là Ngân hàng đã ký và đóng dấu vào đơn, do đó Đơn đăng ký vẫn đúng quy định và có hiệu lực.

2.4 Theo Toà án, nếu không được đăng ký, hợp đồng thế chấp số 07/9/2009 có vô hiệu không? Vì sao?

Theo Tòa án, hợp đồng thế chấp số 07/9/2009 không bị coi là vô hiệu dù không được đăng ký Tại thời điểm đăng ký thế chấp vào ngày 30/9/2009, Thông tư số 05/TTLB-BTP-BTNMT ngày 16/6/2005 đang có hiệu lực, quy định rằng người yêu cầu đăng ký phải là một bên trong hợp đồng thế chấp Đến ngày 01/3/2010, Thông tư số 06/2010/TTLT-BTP-BTNMT mới có quy định khác, yêu cầu cả hai bên ký khi đăng ký thế chấp mới, trong khi thay đổi, bổ sung chỉ cần một bên ký Do đó, vào ngày 30/9/2009, chỉ cần một bên ký là đủ để hợp lệ.

30/9/2009 thì bên nhận thế chấp là Ngân hàng có ký đóng dấu vào đơn này nên Đơn đăng ký vẫn đúng quy định và phát sinh hiệu lực.

Hướng của Toà án như trong câu hỏi trên có thuyết phục không? Vì sao?

Hướng của Tòa án trong trường hợp này là thuyết phục, vì hợp đồng thế chấp số 07/9/2009 không bị vô hiệu nếu không được đăng ký Theo Thông tư số 05/TTLB-BTP-BTNMT ngày 16/6/2005, chỉ cần một bên ký hợp đồng thế chấp là đủ để thực hiện giao dịch mà không cần phải đăng ký Điều này tạo điều kiện thuận lợi cho bên thế chấp, cho phép họ tiếp tục thực hiện hợp đồng mà không cần phát sinh tài sản thế chấp mới Do đó, việc Tòa án không công nhận hiệu lực của hợp đồng giữa Ngân hàng và Công ty cổ phần xây dựng Thương Mại V là hợp lý, đồng thời yêu cầu Ngân hàng trả lại bản gốc Giấy chứng nhận quyền sử dụng nhà và đất cho ông Đỗ Văn Q và bà Phạm Thị V.

Quyết định Giám đốc thẩm số 49/2018/KDTM-GĐT ngày 18/10/2018 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh đã giải quyết tranh chấp liên quan đến việc đòi lại tiền cọc do hủy hợp đồng mua bán cổ phần Quyết định này nêu rõ quyền lợi và nghĩa vụ của các bên liên quan, đồng thời xác định các căn cứ pháp lý để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của bên bị thiệt hại Tòa án đã nhấn mạnh tầm quan trọng của việc thực hiện đúng các quy định trong hợp đồng và trách nhiệm của các bên trong việc giải quyết tranh chấp.

- Nguyên đơn: Công ty Cổ phần TV-TM-DV Địa ốc Hoàng Quân (Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: ông Phan Hùng)

- Bị đơn: Công ty TNHH Thương mại và Xây dựng Sơn Long Thuận (Người đại diện hợp pháp của bị đơn: ông Đinh Ẩn)

- Người có quyền và nghĩa vụ liên quan:

+ Ngân hàng Thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam (Người đại diện hợp pháp là ông Nguyễn Tấn Viện)

+ Tổng Công ty Đầu tư và Kinh doanh Vốn Nhà nước (SCIC)

+ Ông Nguyễn Liêm - Nguyên Giám đốc Công ty Cổ phần du lịch Ninh Thuận

+ Ông Lê Văn Lợi - Nguyên Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty Cổ phần du lịch Ninh Thuận

Vào ngày 20/02/2008, Công ty Ninh Thuận và Công ty Hoàng Quân đã ký Biên bản thỏa thuận về việc chuyển nhượng 39.192 cổ phần của Tổng Công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn Nhà nước (SCIC) tại Công ty Ninh Thuận, với mệnh giá 100.000 đồng/cổ phiếu Ngày 22/02/2008, Công ty Hoàng Quân đã chuyển 1.000.000.000 đồng tiền đặt cọc cho Công ty Ninh Thuận qua Ngân Hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam Tuy nhiên, ngân hàng đã thực hiện việc cấn trừ số công nợ quá hạn và lãi suất từ số tiền này, điều này được cho là trái pháp luật vì số tiền chưa thuộc quyền sở hữu của Công ty Ninh Thuận khi Công ty Hoàng Quân gửi tiền đặt cọc.

Khi việc mua bán cổ phần thành công, số tiền phải được chuyển cho SCIC Hơn nữa, SCIC không ủy quyền cho ông Nguyễn Liêm thực hiện việc chuyển nhượng cổ phần, do đó hợp đồng thỏa thuận bán cổ phần này là trái pháp luật.

Ngân hàng đã chỉ đạo xử lý nợ của Công ty Ninh Thuận bằng cách bán toàn bộ nợ vay cho Công ty Sơn Long Thuận, nhưng hành động này được coi là trái pháp luật do không có văn bản bàn giao khoản nợ từ Công ty Hoàng Quân, chủ sở hữu số tiền 1 tỷ đồng Do đó, Tòa án đã quyết định buộc Ngân hàng có trách nhiệm hoàn trả cho nguyên đơn số tiền 1.000.000.000 đồng, dựa trên căn cứ của Tòa Sơ thẩm và Phúc thẩm.

Án lệ số 25/2018/AL, được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua vào ngày 17 tháng 10 năm 2018, quy định rằng bên bị phạt cọc sẽ không phải chịu trách nhiệm nếu có lý do khách quan dẫn đến việc không thực hiện nghĩa vụ hợp đồng Quy định này nhấn mạnh tầm quan trọng của việc xem xét các yếu tố bên ngoài có thể ảnh hưởng đến khả năng thực hiện hợp đồng, từ đó bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các bên trong giao dịch.

2018 và được công bố theo Quyết định số 269/QĐ-CA ngày 06 tháng 11 năm 2018 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao

- Nguyên đơn: ông Phan Thanh L.

- Bị đơn: bà Trương Hồng Ngọc H.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Lại Quang T. download by : skknchat@gmail.com

Ông Phan Thanh L đã đặt cọc 2.000.000.000 đồng cho bà Trương Hồng Ngọc để mua nhà, nhưng bà H không hoàn tất thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu trong thời hạn 30 ngày theo hợp đồng Do đó, ông L đã khởi kiện yêu cầu bà H trả lại tiền cọc và phạt cọc 2.000.000.000 đồng Bà H chỉ đồng ý hoàn trả tiền cọc cùng lãi suất ngân hàng, cho rằng nguyên nhân không thực hiện đúng cam kết là do cơ quan thi hành án dân sự chậm sang tên Tòa án cần xác minh xem lỗi là do bà H không liên hệ với cơ quan hay do sự chậm trễ từ phía cơ quan thi hành án.

Theo Điều 5 của hợp đồng đặt cọc, bà H có trách nhiệm hoàn tất thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu căn nhà trong vòng 30 ngày kể từ ngày ký hợp đồng Nếu không thực hiện đúng thời hạn, bà H sẽ bị phạt số tiền tương đương với tiền cọc là 2.000.000.000 đồng Do bà H không thực hiện cam kết trong thời hạn quy định, ông L đã khởi kiện yêu cầu bà H hoàn trả số tiền cọc 2.000.000.000 đồng và phạt cọc 2.000.000.000 đồng.

- …tại thời điểm ông L đặt cọc 2.000.000.000 đồng cho bà Trương Hồng Ngọc H, bà

H đã nhận nhà nhưng chưa thực hiện thủ tục sang tên vì cơ quan thi hành án Dân sự Thành phố Hồ Chí Minh đang quản lý toàn bộ giấy tờ liên quan đến căn nhà này.

Nếu có bằng chứng cho thấy cơ quan thi hành án dân sự chậm trễ trong việc chuyển nhượng quyền sở hữu cho bà H, thì sự chậm trễ này là nguyên nhân khiến bà H không thể thực hiện đúng cam kết với ông.

L thuộc về khách quan, và bà H không phải chịu phạt tiền cọc…”

Tóm tắt Bản án số 26/2019/DS-PT ngày 11/6/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh về Trang chấp hợp đồng đặt cọc

- Nguyên đơn: Ông Vũ Đình P

- Bị đơn: Ông Trần Xuân I

Vào ngày 26/8/2016, ông Vũ Đình P và ông Trần Xuân I đã ký hợp đồng đặt cọc, trong đó ông P đặt cọc 450.000.000 đồng để mua xe ô tô Hyundai Santafe 07 chỗ nhập khẩu từ Mỹ, sản xuất năm 2016 Thỏa thuận quy định thời gian giao xe trước Tết Dương lịch năm 2017, nhưng không ghi rõ giá xe Với mối quan hệ làm ăn từ năm 2008, ông P biết ông I có người thân ở Mỹ có khả năng mua xe ô tô nhập khẩu, vì vậy ông P đã nhờ ông I thực hiện giao dịch này.

Theo quy định pháp luật, việc kinh doanh mua bán xe ô tô nhập khẩu là hàng hóa kinh doanh có điều kiện, yêu cầu thương nhân phải đăng ký và có giấy phép kinh doanh từ cơ quan có thẩm quyền Ông P và ông I đã ký hợp đồng đặt cọc với tư cách cá nhân, tuy nhiên ông I không có giấy phép kinh doanh nhập khẩu ô tô, và Công ty Cổ phần P L do ông I làm chủ cũng chưa đăng ký kinh doanh nhập khẩu ô tô Do đó, hợp đồng đặt cọc giữa ông P và ông I vi phạm các quy định pháp luật về mua bán xe ô tô nhập khẩu, cụ thể là vi phạm Điều 117, Điều 122 và Điều 123.

Theo Bộ luật Dân sự năm 2015, hợp đồng đặt cọc giữa ông P và ông I được coi là vô hiệu, không phát sinh hay thay đổi quyền và nghĩa vụ dân sự của các bên Cả hai bên đều không xem xét các quy định pháp luật về điều kiện mua bán xe ô tô nhập khẩu, dẫn đến lỗi của cả hai trong giao dịch này Do đó, thiệt hại phát sinh từ giao dịch sẽ do các bên tự chịu, và yêu cầu phạt đặt cọc của ông P không có cơ sở pháp lý.

Khác biệt cơ bản giữa đặt cọc và cầm cố, đặt cọc và thế chấp

Đặt cọc Cầm cố Thế chấp

Cơ sở pháp Điều 328 BLDS 2015 Điều 309 đến Điều 316 Điều 317 đến Điều lý BLDS 2015 327 BLDS 2015

Đặt cọc là hành động mà một bên (bên đặt cọc) giao tài sản hoặc khoản tiền cho bên kia (bên nhận đặt cọc) nhằm đảm bảo thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng Trong khi đó, cầm cố là việc bên cầm cố giao tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho bên nhận cầm cố để bảo đảm cho một khoản vay hoặc nghĩa vụ tài chính Thế chấp là hình thức mà bên thế chấp dùng tài sản của mình để đảm bảo cho nghĩa vụ, thường liên quan đến các tài sản có giá trị như bất động sản hoặc tài sản quý giá khác Tất cả các hình thức này đều nhằm đảm bảo việc thực hiện các cam kết trong thời hạn đã thỏa thuận.

Chủ thể Bên đặt cọc và bên Bên cầm cố và Bên Bên thế chấp và nhận đặt cọc nhận cầm cố bên nhận thế chấp.

Có thể có bên thứ ba giữ tài sản thế chấp, bao gồm tiền, vật có giá trị và tài sản thuộc quyền sở hữu Tài sản thế chấp có thể là động sản, bất động sản, hoặc các giấy tờ có giá như trái phiếu, cổ phiếu Đặc biệt, tài sản đang cho thuê cũng có thể được sử dụng làm tài sản thế chấp, tuy nhiên, giá trị của tài sản này không bao gồm hoa lợi hoặc thu nhập từ việc cho thuê.

(nếu PL có quy định và các bên thỏa thuận) 5.TS thế chấp được bảo hiểm thì khoản tiền bảo hiểm cũng có thể được thế chấp

Bản chất của biện pháp bảo đảm là nhằm thực hiện nghĩa vụ dân sự liên quan đến tài sản, bảo vệ quyền lợi của bên nhận thế chấp Biện pháp này có thể bao gồm việc chuyển giao tài sản hoặc chỉ giao các giấy tờ liên quan đến tài sản, nhằm chứng minh quyền sở hữu Trong trường hợp này, hợp đồng bảo đảm cần được thiết lập một cách rõ ràng để đảm bảo quyền lợi của các bên tham gia.

Các trường hợp không có quy định rõ ràng về nghĩa vụ bảo đảm có thể dẫn đến việc chấm dứt hợp đồng cầm cố hoặc thế chấp Việc đặt cọc sẽ ảnh hưởng đến tính hợp lệ của các biện pháp bảo đảm, và nếu tài sản cầm cố hoặc thế chấp bị hủy bỏ, điều này có thể dẫn đến việc thay thế bằng các biện pháp khác.

Khi hợp đồng được đảm bảo bằng các biện pháp bảo thực hiện, tài sản cầm cố và tài sản đặt cọc sẽ được xử lý theo thỏa thuận của các bên Việc trả lại tài sản thế chấp hoặc trừ tiền cũng sẽ được thực hiện theo các thỏa thuận đã được thống nhất giữa các bên trong quá trình thực hiện nghĩa vụ.

2 Nếu bên đặt cọc từ chối giao kết, thực hiện hợp đồng thì tài sản đặt cọc thuộc về bên nhận đặt cọc.

Nếu bên nhận đặt cọc từ chối ký kết hợp đồng, họ phải hoàn trả lại tài sản đã đặt cọc cùng với số tiền tương đương, trừ khi có thỏa thuận khác đã được thống nhất.

Thay đổi giữa BLDS 2015 và BLDS 2005 về đặt cọc

Đặt cọc là hành động mà một bên chuyển giao cho bên kia một khoản tiền hoặc tài sản có giá trị như kim khí quý, đá quý nhằm đảm bảo việc giao kết hoặc thực hiện hợp đồng dân sự trong một khoảng thời gian nhất định.

Việc đặt cọc phải được lập thành văn bản.

Trong trường hợp hợp đồng dân sự được giao kết và thực hiện, tài sản đặt cọc sẽ được trả lại cho bên đặt cọc hoặc được trừ vào nghĩa vụ trả tiền Nếu bên đặt cọc từ chối giao kết, tài sản đặt cọc sẽ thuộc về bên nhận đặt cọc Ngược lại, nếu bên nhận đặt cọc từ chối giao kết, họ phải hoàn trả tài sản đặt cọc cùng một khoản tiền tương đương giá trị tài sản đó, trừ khi có thỏa thuận khác Đặt cọc nhằm đảm bảo việc giao kết hoặc thực hiện hợp đồng dân sự.

Việc đặt cọc phải được thành lập văn bản.

Đặt cọc là hành động mà một bên (bên đặt cọc) chuyển giao cho bên kia (bên nhận đặt cọc) một khoản tiền hoặc tài sản quý giá như kim khí, đá quý nhằm đảm bảo việc ký kết hoặc thực hiện hợp đồng trong một khoảng thời gian nhất định.

Khi hợp đồng được ký kết và thực hiện, tài sản đặt cọc sẽ được trả lại cho bên đặt cọc hoặc được trừ vào nghĩa vụ thanh toán Nếu bên đặt cọc từ chối ký kết hợp đồng, tài sản đặt cọc sẽ thuộc về bên nhận đặt cọc Ngược lại, nếu bên nhận đặt cọc từ chối giao kết hợp đồng, họ phải hoàn trả tài sản đặt cọc cùng với một khoản tiền tương đương giá trị tài sản, trừ khi có thỏa thuận khác Việc đặt cọc nhằm đảm bảo giao kết và thực hiện hợp đồng, nhưng không yêu cầu phải có văn bản chính thức.

- Căn bản là khi xét về nội dung thì chế định đặt cọc trong hai BLDS 2005 và BLDS

Luật Dân sự 2015 đã có sự thay đổi quan trọng về việc lập thành văn bản trong giao dịch đặt cọc Khác với Luật Dân sự 2005, điều này không còn bắt buộc, nhằm phù hợp với thực tiễn khi Tòa án đã công nhận rằng thỏa thuận đặt cọc vẫn có hiệu lực dù không có văn bản, miễn là có chứng minh qua thỏa thuận và giao dịch thực tế Sự thay đổi này phản ánh xu hướng không đặt nặng hình thức trong các giao dịch, khắc phục những bất cập trước đó.

BLDS 2015 đã rút gọn thuật ngữ hợp đồng dân sự từ BLDS 2005 và thay thế bằng thuật ngữ hợp đồng, cho thấy mong muốn của các nhà lập pháp trong việc mở rộng phạm vi điều chỉnh của chế định đặt cọc Điều này không chỉ giới hạn trong các loại hợp đồng dân sự mà còn mở rộng ra nhiều loại hợp đồng khác không thuộc danh mục hợp đồng dân sự.

Thuật ngữ hợp đồng bao gồm nhiều loại như hợp đồng thương mại và hợp đồng lao động Trong thực tiễn, hợp đồng đặt cọc giữa các bên không phải lúc nào cũng là hợp đồng dân sự, và nếu không được xác định rõ, có thể dẫn đến việc vô hiệu hóa hợp đồng, gây mất quyền lợi và lợi ích cho các bên tham gia ký kết.

Theo BLDS, khi nào bên đặt cọc mất cọc, bên nhận cọc bị phạt cọc?

- Nếu bên đặt cọc từ chối việc giao kết, thực hiện hợp đồng thì tài sản đặt cọc thuộc về bên nhận đặt cọc.

Nếu bên nhận đặt cọc từ chối thực hiện hợp đồng, họ phải hoàn trả tài sản đã đặt cọc cùng với một khoản tiền tương đương giá trị của tài sản đó, trừ khi có thỏa thuận khác giữa các bên.

Nếu hợp đồng được đặt cọc không được giao kết, thực hiện vì lý do khách quan, bên nhận cọc có nghĩa vụ trả lại tài sản đặt cọc cho bên đặt cọc không? Vì sao?

quan, bên nhận cọc có nghĩa vụ trả lại tài sản đặt cọc cho bên đặt cọc không?

Theo quan điểm của nhóm, nếu hợp đồng đặt cọc không được thực hiện do lý do khách quan, bên nhận cọc phải có trách nhiệm hoàn trả tài sản đã được đặt cọc cho bên đặt cọc.

Theo Nghị quyết số 01/2003 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, trong các trường hợp được nêu tại điểm a và c mục 1, nếu cả hai bên đều có lỗi hoặc xảy ra sự kiện bất khả kháng hay trở ngại khách quan, thì sẽ không áp dụng hình thức phạt cọc.

"Không phạt cọc" có nghĩa là bên đặt cọc sẽ được nhận lại tài sản đã đặt cọc, trong khi bên nhận bảo đảm phải hoàn trả tài sản đặt cọc mà không phải bồi thường một khoản tiền tương đương giá trị tài sản đó.

- Cơ sở pháp lý: Điểm d mục 1 Chương I Nghị quyết số 01/2003/NQ-HĐTP. Đối với Quyết định số 49

Theo Quyết định được bình luận, bên đặt cọc đã chuyển tài sản đặt cọc cho bên nhận cọc như thế nào?

bên nhận cọc như thế nào?

Công ty Hoàng Quân đã thực hiện việc chuyển tài sản đặt cọc vào tài khoản của Công ty Ninh Thuận tại Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh tỉnh Bình Thuận, theo ủy nhiệm chi đã được xác định.

Theo Toà giám đốc thẩm trong Quyết định được bình luận, tài sản đặt cọc còn thuộc sở hữu của bên đặt cọc không? Vì sao?

Theo Quyết định 49 của Tòa Giám đốc thẩm, tài sản đặt cọc 1 tỷ đồng vẫn thuộc sở hữu của Công ty Hoàng Quân Số tiền này chưa được chuyển giao cho Công ty Ninh Thuận, và trong quá trình mua bán nợ giữa Công ty Ninh Thuận và Công ty Sơn Long Thuận, không có bất kỳ văn bản nào xác nhận việc chuyển nhượng số tiền đặt cọc này để mua bán cổ phần từ Công ty Hoàng Quân.

Theo Điều 328 BLDS 2015, đặt cọc là việc bên đặt cọc giao cho bên nhận đặt cọc một khoản tiền hoặc tài sản có giá trị trong thời hạn nhất định để đảm bảo hợp đồng Khi Công ty Hoàng Quân chuyển khoản với nội dung tiền đặt cọc mua cổ phần, số tiền này vẫn thuộc sở hữu của Công ty Hoàng Quân và có thể được chuyển cho SCIC khi giao dịch mua bán cổ phần thành công.

Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Toà giám đốc thẩm liên

quan đến quyền sở hữu tài sản đặt cọc

- Hướng giải quyết của Tòa giám đốc thẩm liên quan đến quyền sở hữu tài sản đặt cọc là hoàn toàn hợp lý

Công ty Hoàng Quân đã chuyển 1.000.000.000 đồng đặt cọc vào tài khoản của Công ty Ninh Thuận tại Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam theo ủy nhiệm chi ngày 22-02-2008 Tuy nhiên, Ngân hàng đã vi phạm pháp luật khi tự ý trích tiền từ tài khoản của Công ty Ninh Thuận để thanh toán công nợ và lãi suất, mặc dù số tiền đặt cọc chưa thuộc quyền sở hữu của Công ty Ninh Thuận theo quy định tại khoản 1 Điều 328 BLDS 2015 Công ty Hoàng Quân đã ghi rõ mục đích chuyển tiền là để đặt cọc mua cổ phần, do đó, hành động của Ngân hàng là chiếm hữu tài sản của Công ty Hoàng Quân mà không có căn cứ pháp luật.

Theo PGS.TS Đỗ Văn Đại, Bộ luật Dân sự (BLDS) chỉ quy định việc “giao” tài sản đặt cọc mà không nhắc đến “chuyển quyền sở hữu” tài sản này Tài sản đặt cọc được giao nhằm “bảo đảm giao kết hoặc thực hiện hợp đồng” (khoản 1 Điều 328 BLDS năm 2015) và sẽ được trả lại cho bên đặt cọc khi hoàn thành nhiệm vụ (khoản 2 Điều 328 BLDS năm 2015) Cách tiếp cận này giúp bảo vệ quyền lợi cho người đặt cọc, đồng thời ngăn chặn sự can thiệp của bên thứ ba vào tài sản chỉ nhằm mục đích bảo đảm hợp đồng.

Hướng giải quyết của Toà giám đốc thẩm về quyền sở hữu tài sản đặt cọc là hợp lý và thuyết phục, phản ánh đúng bản chất của đặt cọc và bảo vệ quyền lợi của người đặt cọc, như thể hiện trong Bản án số 26.

Đoạn nào cho thấy Toà án đã áp dụng Án lệ số 25/2018/AL?

Toà án đã áp dụng Án lệ số 25/2018/AL trong phần Nhận định, theo đó, nếu bên nhận đặt cọc không thể thực hiện đúng cam kết do yếu tố khách quan, thì bên nhận đặt cọc sẽ không phải chịu phạt cọc Án lệ này được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 17 tháng 10 năm 2018 và công bố theo Quyết định số 269/QĐ-CA ngày 06 tháng 11 năm 2018 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

Việc Toà án áp dụng Án lệ số 25/2018/AL vào hoàn cảnh trong vụ việc này có thuyết phục không? Vì sao?

Trong bối cảnh vụ việc này, việc Tòa án áp dụng Án lệ số 25/2018/AL là hợp lý và thuyết phục Án lệ này, được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua vào ngày 17 tháng 10 năm 2018 và công bố theo Quyết định số 269/QĐ-CA ngày 06 tháng 11 năm 2018, quy định rằng nếu bên nhận đặt cọc không thể thực hiện đúng cam kết do yếu tố khách quan, thì bên này không phải chịu phạt cọc.

BLDS 2015 không quy định chi tiết về yếu tố khách quan hay sự kiện xảy ra do yếu tố này Tuy nhiên, có thể suy luận rằng một sự kiện được coi là khách quan khi nó xảy ra ngoài ý chí của các bên liên quan Điều này có nghĩa là sự kiện không do các bên tạo ra hoặc không phát sinh từ lỗi chủ quan của họ Để xác định yếu tố khách quan, việc quan trọng là xem xét liệu bên vi phạm có lỗi chủ quan hay chủ ý dẫn đến sự kiện bất khả kháng hay không.

Ông I đã từng nhờ em gái mua ô tô nhập khẩu từ Mỹ về Việt Nam, nên ông đồng ý mua hộ ông P, nhưng việc này hoàn toàn phụ thuộc vào chính sách quản lý của Nhà nước và người thân bên Mỹ cũng như Đại lý nhập khẩu Ông I không có xe ô tô để bán và không đủ điều kiện nhập khẩu xe để bán cho ông P, điều mà ông P cũng biết rõ nhưng không có chứng cứ chứng minh ông I có khả năng bán xe Do đó, việc ông I không thực hiện được thỏa thuận là do trở ngại khách quan Tòa án áp dụng Án lệ số 25/2018/AL là hợp lý và bảo đảm quyền lợi cho ông I.

Việc Toà án “không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông P, về việc yêu cầu ông I phải trả số tiền phạt cọc là 450.000.000đ” có phù hợp với Án lệ số 25/2018/AL không? Vì sao?

Tòa án đã không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông P về việc yêu cầu ông I trả số tiền phạt cọc 450.000.000đ, phù hợp với Án lệ số 25/2018/AL Thực tế cho thấy, ông I từng nhờ em gái mua ô tô từ Mỹ về Việt Nam, nhưng việc này phụ thuộc vào chính sách quản lý của Nhà nước và khả năng của người thân tại Mỹ cũng như Đại lý nhập khẩu Ông I không có xe ô tô để bán và không đủ điều kiện nhập khẩu xe để bán cho ông P, điều mà ông P đã biết rõ Hơn nữa, ông P không có tài liệu hay chứng cứ nào chứng minh khả năng bán xe của ông I, do đó việc ông I không thực hiện thỏa thuận là do yếu tố khách quan.

Quyết định số 02/2013/KDTM-GĐT ngày 08/01/2013 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao liên quan đến vụ án kinh doanh, thương mại tranh chấp về hợp đồng tín dụng, nhấn mạnh các nguyên tắc pháp lý quan trọng trong việc giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng Quyết định này khẳng định quyền và nghĩa vụ của các bên liên quan, đồng thời hướng dẫn cách thức áp dụng pháp luật trong việc xử lý các trường hợp vi phạm hợp đồng tín dụng, nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các bên và đảm bảo sự công bằng trong hoạt động kinh doanh.

- Nguyên đơn: Quỹ tín dụng nhân dân Trung ương

- Bị đơn: Bà Đỗ Thị Tỉnh - Chủ doanh nghiệp tư nhân Đại Lộc Tân

- Người có quyền và nghĩa vụ liên quan:

+ Ông Trần Văn Miễn download by : skknchat@gmail.com

Vào ngày 26/9/2006, Quỹ tín dụng nhân dân Trung ương đã ký hợp đồng tín dụng cho DNTN Đại Lộc Tân vay 900 triệu đồng, với tài sản đảm bảo là quyền sử dụng 20.408m2 đất tại xã Thạch Phú, huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai do ông Trần Văn Miễn và bà Nguyễn Thị Cà thế chấp Hợp đồng thế chấp được chứng thực vào ngày 22/9/2006 và đăng ký giao dịch bảo đảm vào ngày 25/9/2006 Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao cho rằng nếu hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất của bên thứ ba có hiệu lực, thì phải thực hiện theo Điều 361 BLDS 2005, nghĩa là nếu DNTN Đại Lộc Tân không trả nợ hoặc không trả đủ, ông Miễn và bà Cà sẽ phải chịu trách nhiệm.

Cà phải trả thay; nếu ông Miễn, bà Cà không trả nợ hoặc không trả đủ thì mới xử lý tài sản thế chấp để thu hồi nợ.

Tóm tắt Quyết định số 968/2011/DS-GĐT ngày 27/12/2011 của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao

- Nguyên đơn: Bà Vũ Thị Hồng Nhung

- Bị đơn: Bà Nguyễn Thị Thắng

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Nguyễn Thị Mát, Ông Nguyễn Văn Tam

Bà Nhung đã cho bà Mát vay 500.000.000 đồng với lãi suất 1,2%/tháng, được bảo lãnh bởi ông Ân và bà Thắng Sau 8 tháng trả lãi, bà Mát không trả gốc và lãi, dẫn đến việc bà Nhung yêu cầu bà Mát thanh toán Tòa sơ thẩm xác định bà Mát và bà Thắng cùng chịu trách nhiệm, nhưng bà Thắng đã kháng cáo Tòa phúc thẩm hủy án sơ thẩm, khẳng định rằng quan hệ vay và bảo lãnh là độc lập, cho phép bà Nhung kiện bà Mát hoặc yêu cầu bà Thắng thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh Quyết định giám đốc thẩm cũng hủy án sơ thẩm và phúc thẩm, nhấn mạnh rằng bà Mát phải thực hiện nghĩa vụ dân sự với bà Nhung, và nếu bà Mát không thể thực hiện, bà Thắng và ông Ân sẽ phải chịu trách nhiệm thay.

Những đặc trưng của bảo lãnh

Bảo lãnh là cam kết của bên bảo lãnh đối với bên nhận bảo lãnh, trong đó bên bảo lãnh sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh nếu bên này không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ khi đến hạn.

- Bảo lãnh là quan hệ có tính chất đối nhân, đối vật.

Biện pháp bảo lãnh có thể áp dụng cho các chức vụ, tùy thuộc vào nghĩa vụ được bảo đảm, có thể là nghĩa vụ thanh toán tiền hoặc nghĩa vụ thực hiện một công việc cụ thể.

- Thời hạn thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh tùy thuộc vào sự thỏa thuận của các bên hoặc theo quy định của pháp luật.

- Việc bảo lãnh có thể được trả thù lao theo thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật: Điều 337 BLDS 2015.

- Phạm vi bảo lãnh: Điều 336 BLDS 2015.

+ Bên bảo lãnh có thể cam kết bảo lãnh một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ cho bên được bảo lãnh.

Nghĩa vụ bảo lãnh không chỉ bao gồm nợ gốc mà còn bao gồm cả tiền lãi, tiền phạt, tiền bồi thường thiệt hại và lãi trên số tiền chậm trả, trừ khi có thỏa thuận khác được ký kết.

+ Các bên có thể thỏa thuận sử dụng biện pháp bảo đảm bằng tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh.

Trong trường hợp nghĩa vụ được bảo lãnh là nghĩa vụ phát sinh trong tương lai, phạm vi bảo lãnh sẽ không bao gồm các nghĩa vụ phát sinh sau khi người bảo lãnh qua đời hoặc khi pháp nhân bảo lãnh chấm dứt tồn tại.

- Xử lý tài sản của bên bảo lãnh: Điều 339 BLDS 2015.

Trong trường hợp bên bảo lãnh không thực hiện nghĩa vụ thay thế đúng hạn hoặc thực hiện không đầy đủ, bên này phải sử dụng tài sản thuộc sở hữu của mình để thực hiện thanh toán.

+ Phương thức xử lý: Theo thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật.

- Chấm dứt việc bảo lãnh: Điều 343 BLDS 2015 + Nghĩa vụ được bảo đảm bằng bảo lãnh chấm dứt.

+ Việc bảo lãnh bị hủy bỏ hoặc được thay thế bằng biện pháp bảo đảm khác +

Bên bảo lãnh đã thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh.

+ Việc bảo lãnh chấm dứt theo thỏa thuận của các bên.

Những thay đổi giữa BLDS 2015 và BLDS 2005 về bảo lãnh

Theo Điều 362, hình thức bảo lãnh phải được lập thành văn bản, có thể là văn bản riêng hoặc ghi trong hợp đồng chính Nếu pháp luật yêu cầu, văn bản bảo lãnh cần phải được công chứng.

Lược bỏ quy định về hình thức. download by : skknchat@gmail.com chứng thực.”

Phạm vi bảo lãnh theo Điều 363 bao gồm nghĩa vụ bảo lãnh liên quan đến tiền lãi, tiền nợ gốc, tiền phạt và tiền bồi thường thiệt hại Cụ thể, Điều 336 quy định rằng nghĩa vụ bảo lãnh không chỉ bao gồm tiền nợ gốc mà còn cả tiền lãi trên số tiền chậm trả, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.

Bổ sung thêm quy định:

“3 Các bên có thể thỏa thuận sử dụng biện pháp bảo đảm bằng tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh.

Trong trường hợp nghĩa vụ được bảo lãnh là nghĩa vụ phát sinh trong tương lai, phạm vi bảo lãnh sẽ không bao gồm những nghĩa vụ phát sinh sau khi người bảo lãnh qua đời hoặc khi pháp nhân bảo lãnh chấm dứt tồn tại.

Theo Khoản 1 Điều 368, trong trường hợp bên nhận bảo lãnh miễn nghĩa vụ cho bên bảo lãnh, bên được bảo lãnh vẫn phải thực hiện nghĩa vụ với bên nhận bảo lãnh, trừ khi có thỏa thuận khác hoặc quy định của pháp luật yêu cầu thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh liên đới.

Theo Khoản 1 Điều 341, nếu bên bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh nhưng bên nhận bảo lãnh miễn trừ nghĩa vụ cho bên bảo lãnh, thì bên được bảo lãnh không cần thực hiện nghĩa vụ đối với bên nhận bảo lãnh, trừ khi có thỏa thuận khác hoặc quy định của pháp luật.

Theo quy định tại khoản 3, nếu một trong những người nhận bảo lãnh liên đới được miễn nghĩa vụ đối với bên bảo lãnh, thì bên bảo lãnh vẫn phải thực hiện nghĩa vụ còn lại đối với các người nhận bảo lãnh khác.

Theo Điều 369, trong trường hợp bảo lãnh, nếu bên bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ khi đến hạn, bên bảo lãnh phải sử dụng tài sản thuộc sở hữu của mình để thanh toán cho bên nhận bảo lãnh.

⇒ Quy định bên nhận bảo lãnh có quyền xử lý tài sản bảo đảm của bên bảo lãnh

Việc hủy bỏ bảo lãnh theo Điều 370 có thể thực hiện khi có sự đồng ý của bên nhận bảo lãnh, trừ khi pháp luật có quy định khác.

Theo Khoản 2 Điều 343, nếu bên bảo lãnh không thực hiện đúng nghĩa vụ của mình, bên nhận bảo lãnh có quyền yêu cầu bên bảo lãnh thanh toán giá trị nghĩa vụ vi phạm và bồi thường thiệt hại phát sinh.

⇒ Chỉ quy định về quyền yêu cầu bên bảo lãnh phải thanh toán giá trị nghĩa vụ vi phạm và BTTH (nếu có).

Lược bỏ quy định này. Đối với Quyết định số 02

Ngày đăng: 14/05/2022, 14:37

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
6. Quyết định Giám đốc thẩm số 49/2018/KDTM-GĐT ngày 18/10/201 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh về “V/v tranh chấp đòi lại tiền cọc từ việc hủy hợp đồng mua bán cổ phần” Sách, tạp chí
Tiêu đề: V/v tranh chấp đòi lại tiền cọc từ việc hủyhợp đồng mua bán cổ phần
9. Quyết định số 02/2013/KDTM-GĐT ngày 08/01/2013 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về “Vụ án kinh doanh, thương mại tranh chấp về hợp đồng tín dụng” Sách, tạp chí
Tiêu đề: Vụ án kinh doanh, thương mại tranh chấp về hợp đồng tín dụng
1. Bộ luật Dân sự 2015 (Luật số 20/2015/L-CTN) ngày 08/12/2015 Khác
2. Bản án số 208/2010/DS-PT ngày: 09/03/2010 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh Khác
3. Quyết định số 02/2014/QĐ-UBTP ngày 28/02/2014 về việc Tranh chấp hợp đồng cầm cố quyền sử dụng đất Khác
4. Quyết định giám đốc thẩm số: 27/2021/DS-GĐT ngày 02/6/2021 về Tranh chấp hợp đòng tín dụng Khác
5. Bản án 90/2019/KDTM-PT ngày 16/8/2019 về Tranh chấp hợp đồng tín dụng Khác
8. Bản án số 26/2019/DS-PT ngày 11/6/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh về Tranh chấp hợp đồng đặt cọc Khác
10. Quyết định số 968/2011/DS-GĐT ngày 27/12/2011 của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao Khác

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Thực chất, các giao dịch bảo đảm đều được hình thành trên cơ sở giao dịch dân sự, mà trong các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự đã có yêu cầu - BUỔI THẢO LUẬN THỨ tư bảo đảm THỰC HIỆN NGHĨA vụ bộ môn pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
h ực chất, các giao dịch bảo đảm đều được hình thành trên cơ sở giao dịch dân sự, mà trong các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự đã có yêu cầu (Trang 8)

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w