1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

LỜI mở đầu

101 6 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Thiết Kế Trò Chơi Tâm Vận Động Nhằm Phát Triển Năng Lực Tri Giác Thị Giác Cho Trẻ 5 – 6 Tuổi Ở Trường Mầm Non
Tác giả Ngụy Như Mỹ Duyên
Người hướng dẫn Th.S Phan Thị Nga
Trường học Trường Đại Học Sư Phạm Đà Nẵng
Chuyên ngành Giáo Dục Mầm Non
Thể loại Khóa Luận Tốt Nghiệp
Năm xuất bản 2019
Thành phố Đà Nẵng
Định dạng
Số trang 101
Dung lượng 1,65 MB

Cấu trúc

  • 1. Lý do chọn đề tài (8)
  • 2. Mục đích nghiên cứu (9)
  • 3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu (9)
    • 3.1. Đối tượng nghiên cứu (9)
    • 3.2. Khách thể nghiên cứu (9)
  • 4. Giả thuyết khoa học (9)
  • 5. Nhiệm vụ nghiên cứu (9)
    • 5.1. Nghiên cứu một số vấn đề lý luận làm cơ sở cho đề tài (9)
    • 5.2. Tìm hiểu thực trạng phát triển năng lực tri giác thị giác của trẻ 5 – 6 tuổi ở trường mầm non (10)
    • 5.3. Thiết kế và thực nghiệm một số các trò chơi tâm vận động nhằm phát triển khả năng (10)
  • 6. Phương pháp nghiên cứu (10)
    • 6.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận (10)
    • 6.2. Phương pháp nghiến cứu thực tiễn (0)
      • 6.2.1. Phương pháp đàm thoại (10)
      • 6.2.2. Phương pháp điều tra viết (11)
      • 6.2.3. Phương pháp thực nghiệm (11)
      • 6.2.4. Phương pháp thống kê toán học (12)
  • 7. Phạm vi nghiên cứu (13)
  • 8. Cấu trúc của đề tài (13)
  • CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THIẾT KẾ TRÒ CHƠI TÂM VẬN ĐỘNG NHẰM PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC TRI GIÁC THỊ GIÁC CHO TRẺ 5 – 6 TUỔI Ở TRƯỜNG MẦM NON (15)
    • 1.1. Tổng quan nghiên cứu vấn đề (15)
      • 1.1.1. Các nghiên cứu nước ngoài (15)
      • 1.1.2. Các nghiên cứu trong nước (17)
    • 1.2. Các khái niệm chính (18)
      • 1.2.1. Khái niệm tri giác thị giác (18)
      • 1.2.2. Khái niệm phát triển năng lực tri giác thị giác cho trẻ 5 – 6 tuổi (19)
      • 1.2.3. Khái niệm trò chơi tâm vận động (20)
    • 1.3. Lý luận về tri giác thị giác của trẻ 5 – 6 tuổi (22)
      • 1.3.1. Đặc điểm tri giác thị giác của trẻ 5 – 6 tuổi (22)
      • 1.3.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển năng lực tri giác thị giác của trẻ 5 – 6 tuổi (30)
    • 1.4. Lý luận về trò chơi tâm vận động của trẻ (33)
      • 1.4.1. Những đặc trưng của trò chơi tâm vận động (34)
      • 1.4.2. Vai trò của trò chơi tâm vận động đối với sự phát triển năng lực tri giác thị giác của trẻ (35)
    • 1.5. Lý luận về thiết kế trò chơi tâm vận động (38)
      • 1.5.1. Cơ sở khoa học xây dựng các trò chơi tâm vận động phát triển khả năng tri giác thị giác cho trẻ 5 – 6 tuổi (38)
      • 1.5.2. Quy trình thiết kế trò chơi tâm vận động nhằm phát triển năng lực tri giác thị giác (40)
  • CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG THIẾT KẾ TRÒ CHƠI TÂM VẬN ĐỘNG NHẰM PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC TRI GIÁC THỊ GIÁC CHO TRẺ 5 – 6 TUỔI Ở TRƯỜNG MẦM NON (42)
    • 2.1. Mục đích nghiên cứu (42)
    • 2.2. Đối tượng khảo sát (42)
    • 2.3. Thời gian khảo sát (42)
    • 2.5. Nội dung của các bài tập (42)
    • 2.7. Kết quả khảo sát (44)
      • 2.7.1. Kết quả đánh giá của giáo viên về tầm quan trọng của việc thiết kế trò chơi học tâm vận động nhằm phát triển năng lực tri giác thị giác cho trẻ trẻ 5 - 6 tuổi ở trường mầm non (0)
      • 2.7.2. Kết quả mức độ khả năng tri giác thị giác của trẻ 5 – 6 tuổi theo 3 bài tập (48)
    • 2.8. Nguyên nhân thực trạng (51)
      • 2.8.1. Nguyên nhân chủ quan (51)
      • 2.8.2. Nguyên nhân khách quan (51)
  • CHƯƠNG 3: THIẾT KẾ VÀ THỰC NGHIỆM MỘT SỐ TRÒ CHƠI TÂM VẬN ĐỘNG NHẰM PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC TRI GIÁC THỊ GIÁC CHO TRẺ 5 – 6 TUỔI (53)
    • 3.2. Thiết kế một số trò chơi tâm vận động nhằm phát triển năng lực tri giác thị giác cho trẻ 5 – 6 tuổi (53)
    • 3.3. Một số yêu cầu khi tổ chức các trò chơi tâm vận động phát triển năng lực tri giác thị giác cho trẻ 5 – 6 tuổi (54)
    • 3.4. Điều kiện tiến hành thực nghiệm (54)
      • 3.4.1. Nhà trường (54)
      • 3.4.2. Đối với trẻ (55)
      • 3.4.3. Đối với gia đình (55)
      • 3.4.4. Sự phối hợp giữa gia đình và nhà trường (56)
    • 3.5 Thực nghiệm sư phạm (56)
      • 3.5.1. Mục đích thực nghiệm (56)
      • 3.5.2. Nội dung thực nghiệm (56)
      • 3.5.3. Đối tượng, phạm vi thực nghiệm (56)
      • 3.5.4. Thời gian thực nghiệm (56)
    • 3.6. Cách đánh giá hiệu quả của thực nghiệm tác động (57)
    • 3.7. Tiến hành thực nghiệm (57)
    • 3.8. Kết quả thực nghiệm một số trò chơi tâm vận động phát triển năng lực tri giác thị giác cho trẻ 5 – 6 tuổi (57)
      • 3.8.1. Kết quả khảo sát trước thực nghiệm (57)
      • 3.8.2. Kết quả sau thực nghiệm (59)
      • 3.8.3. So sánh năng lực tri giác thị giác của nhóm thực nghiệm trước và sau tác động sư phạm (61)
      • 3.8.4. So sánh kết quả năng lực tri giác thị giác trước và sau tác động sư phạm của hai nhóm thực nghiệm và đối chứng (63)
      • 3.8.5. So sánh kết quả 3 bài tập của nhóm thực nghiệm và đối chứng trước và sau thực nghiệm (65)
    • 1. KẾT LUẬN (68)
    • 2. KIẾN NGHỊ (68)
  • TÀI LIỆU THAM KHẢO (14)

Nội dung

Mục đích nghiên cứu

Nghiên cứu đề tài này tập trung vào thiết kế các trò chơi tâm vận động nhằm mục đích phát triển khả năng tri giác thị giác cho trẻ 5 – 6 tuổi Thông qua các hoạt động thú vị và tương tác, trẻ sẽ được rèn luyện và nâng cao khả năng nhận thức và xử lý thông tin qua thị giác Điều này sẽ giúp trẻ tự nhiên hơn khi tiếp xúc với môi trường học tập ở trường phổ thông, đồng thời tạo nền tảng vững chắc cho sự phát triển toàn diện của trẻ.

Đối tượng và khách thể nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu

Thiết kế trò chơi tâm vận động phát triển khả năng tri giác thị giác cho trẻ 5 – 6 tuổi.

Khách thể nghiên cứu

Trò chơi tâm vận động phát triển khả năng tri giác thị giác cho trẻ 5 – 6 tuổi.

Giả thuyết khoa học

Trò chơi tâm vận động đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển năng lực tri giác thị giác của trẻ Việc thiết kế các trò chơi phù hợp và áp dụng chúng vào hoạt động giáo dục cho trẻ 5-6 tuổi tại trường mầm non sẽ giúp cải thiện khả năng tri giác thị giác của trẻ một cách hiệu quả.

Nhiệm vụ nghiên cứu

Phương pháp nghiên cứu

Phương pháp nghiến cứu thực tiễn

5.3 Thiết kế và thực nghiệm một số các trò chơi tâm vận động nhằm phát triển khả năng tri giác thị giác cho trẻ 5 – 6 tuổi

6.1 Phương pháp nghiên cứu lý luận

Để hệ thống hóa các vấn đề lý luận về tâm vận động, trò chơi tâm vận động và khả năng tri giác thị giác của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi, cần tiến hành sưu tầm, đọc và phân tích các tài liệu, sách, tạp chí cùng những công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài này.

Nghiên cứu chương trình chăm sóc giáo dục trẻ 5 – 6 tuổi theo hướng đổi mới nhằm khám phá các trò chơi trong chương trình, đặc biệt là trò chơi tâm vận động Mục tiêu là xây dựng những trò chơi tâm vận động giúp phát triển năng lực tri giác thị giác của trẻ, từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho việc học đọc của trẻ khi vào trường phổ thông.

- Nghiên cứu một số quan điểm, phương pháp luận để có cơ sở xây dựng các bài tập tác động tới trẻ trong phần thực nghiệm

6.2 Phương pháp nghiên cứu thực tiễn

Tiến hành phỏng vấn các giáo viên dạy lớp mẫu giáo lớn nhằm thu thập thông tin bổ sung và làm rõ hơn các kết quả nghiên cứu từ phương pháp thực nghiệm Chúng tôi đã thảo luận và đặt câu hỏi cho các giáo viên về những vấn đề liên quan đến quá trình giảng dạy và sự phát triển của trẻ.

Khả năng nhận thức của trẻ, đặc biệt là khả năng tri giác thị giác, là một yếu tố quan trọng trong quá trình phát triển Chúng tôi đã thu thập ý kiến từ các cô giáo để đánh giá khả năng nhận thức của trẻ nói chung cũng như các khả năng liên quan khác Những thông tin này giúp chúng tôi có cái nhìn sâu sắc hơn về khả năng của trẻ trong nghiên cứu của mình.

- Trao đổi, tìm hiểu nhiều hơn về một số cháu nổi trội (cả tốt và kém) để có những nghiên cứu sâu hơn về những cháu này

Chúng tôi thường xuyên trao đổi với giáo viên vào những thời điểm thích hợp để không ảnh hưởng đến quá trình giảng dạy và chăm sóc của các cô Đồng thời, chúng tôi không chỉ làm việc với giáo viên chính mà còn liên hệ với tất cả các cô giáo phụ trách lớp, nhằm đảm bảo đánh giá chính xác và khách quan nhất.

6.2.2 Phương pháp điều tra viết

Thu thập các ý kiến đánh giá của giáo viên mầm non đã và đang dạy lớp mẫu giáo

Tại trường mầm non Hoan Ban và trường mầm non 20-10, trẻ em từ 5 đến 6 tuổi được phát triển khả năng tri giác thị giác thông qua việc thiết kế và sử dụng các trò chơi tâm vận động Những hoạt động này không chỉ giúp trẻ nâng cao kỹ năng nhận thức mà còn tạo cơ hội cho trẻ khám phá và tương tác với môi trường xung quanh, từ đó phát triển toàn diện khả năng tri giác thị giác của mình.

6.2.3 Phương pháp thực nghiệm a Phương pháp thực nghiệm phát hiện

Chúng tôi đã áp dụng phương pháp thực nghiệm để đánh giá khả năng tri giác thị giác của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi, nhằm làm nền tảng cho việc phát triển các trò chơi tâm vận động hỗ trợ khả năng này Đối tượng nghiên cứu bao gồm 100 trẻ từ hai trường mầm non: Trường Mầm non Hoa Ban và Trường Mầm non 20 – 10 tại Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng.

Chúng tôi đã thiết kế ba bài tập thực nghiệm để đánh giá khả năng tri giác thị giác của trẻ, bao gồm các hình vẽ về đồ vật quen thuộc và các hình hình học cơ bản.

Chúng tôi thực hiện thí nghiệm với hơn 100 trẻ em, chia thành các nhóm nhỏ từ 5 đến 7 trẻ mỗi nhóm Mỗi trẻ sẽ ngồi tại một bàn riêng trong một phòng yên tĩnh, đảm bảo không có sự phân tâm để trẻ có thể tập trung tốt nhất.

Cách đánh giá: Chúng tôi xin trình bày cụ thể cách đánh giá tại mục 6.2.4 b Phương pháp thực nghiệm tác động

Mục đích của thực nghiệm tác động là giải quyết nhiệm vụ nghiên cứu bằng cách thử nghiệm một số bài tập tác động sư phạm Nghiên cứu này nhằm đánh giá hiệu quả của các bài tập đối với sự phát triển năng lực tri giác thị giác của trẻ em từ 5 đến 6 tuổi.

Nội dung thực nghiệm: Bao gồm 15 trò chơi tâm vận động phát triển năng lực tri giác thị giác cho trẻ 5 – 6 tuổi

Tiến trình thực nghiệm tác động: Gồm 3 bước sau đây: a Đo trước tác động

Mục đích: xác định khả năng tri giác thị giác của trẻ em 5 – 6 tuổi

Chúng tôi tiến hành đo khả năng tri giác thị giác của trẻ thông qua bài tập tác động do chúng tôi thiết kế Sau khi phân tích kết quả, chúng tôi đã chọn ra 60 trẻ em với các mức độ khác nhau và chia thành hai nhóm, mỗi nhóm gồm 30 trẻ: một nhóm thực nghiệm và một nhóm đối chứng.

Mục đích của nghiên cứu này là thử nghiệm các biện pháp tác động sư phạm nhằm nâng cao khả năng tri giác thị giác cho trẻ em từ 5 đến 6 tuổi Đối tượng thử nghiệm bao gồm 36 trẻ tại trường mầm non 20-10, Hải Châu, Đà Nẵng.

Hệ thống bài tập được tổ chức dưới dạng trò chơi do tôi thiết kế, với sự hỗ trợ từ cô giáo Liên tại trường mầm non 20-10, đã tạo ra tác động tích cực Việc áp dụng phương pháp này không chỉ giúp trẻ em học tập một cách vui vẻ mà còn nâng cao khả năng tiếp thu kiến thức của các em.

Mục đích: Khẳng định tính đúng đắn và khả thi của các tác động thử nghiệm sư phạm

Tôi sử dụng bài tập đo trước tác động để đo kiểm tra sau tác động

6.2.4 Phương pháp thống kê toán học

Mục đích của bài viết là áp dụng các công thức toán học để xử lý số liệu thu thập, nhằm đạt được kết quả chính xác nhất cho đề tài nghiên cứu.

Các công thức thống kê toán học:

T: Số % trẻ đạt được ở từng mức độ P: Số trẻ đạt được ở từng mức độ

N: Tổng số trẻ tham gia

 Xi : Tổng số điểm đạt được của trẻ tham gia n: Tổng số trẻ tham gia

Để thực hiện nghiên cứu lý luận và thực tiễn, tôi đã áp dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau Cụ thể, trong phần nghiên cứu lý luận, tôi sử dụng phương pháp nghiên cứu lý luận để xây dựng cơ sở lý luận liên quan đến đề tài tri giác thị giác, trò chơi tâm vận động và các vấn đề liên quan.

Cấu trúc của đề tài

Chương 1 trình bày cơ sở lý luận về thiết kế các trò chơi tâm vận động nhằm phát triển năng lực tri giác thị giác cho trẻ từ 5 đến 6 tuổi tại trường mầm non Nội dung chương này nhấn mạnh tầm quan trọng của việc sử dụng trò chơi để kích thích khả năng nhận thức và quan sát của trẻ nhỏ, đồng thời giới thiệu các phương pháp và hình thức trò chơi phù hợp để nâng cao kỹ năng tri giác thị giác cho trẻ.

+ Chương 2: Thực trạng thiết kế trò chơi tâm vận động nhằm phát triển năng lực tri giác thị giác của trẻ 5 – 6 tuổi ở trường mầm non

+ Chương 3: Thiết kế và thực nghiệm một số trò chơi tâm vận động nhằm phát triển năng lực tri giác thị giác cho trẻ 5 – 6 tuổi

Phần kết luận chung và kiến nghị sư phạm

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THIẾT KẾ TRÒ CHƠI TÂM VẬN ĐỘNG NHẰM PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC TRI GIÁC THỊ GIÁC CHO TRẺ 5 – 6 TUỔI Ở TRƯỜNG MẦM NON

Tổng quan nghiên cứu vấn đề

1.1.1 Các nghiên cứu nước ngoài

Khái niệm “tâm vận động” lần đầu tiên được giới thiệu trong bài diễn văn của Dupré vào đầu thế kỷ XX, cho thấy lịch sử của khái niệm này còn khá ngắn Trước đó, mặc dù đã có nhiều đề cập đến mối quan hệ giữa cơ thể và tâm lý, nhưng chưa đủ sâu sắc để hình thành khái niệm tâm vận động hoàn chỉnh Theo nghiên cứu của TS Nguyễn Thị Như Mai trong luận án tiến sĩ “Nghiên cứu tâm vận động ở trẻ em 5 – 6 tuổi”, nhiều nhà triết học và tâm lý học đã thảo luận về mối liên hệ giữa cơ thể và tâm hồn, mở ra hướng nghiên cứu quan trọng về tâm vận động.

Từ thời cổ đại, Platon và Aristote đã đề cập đến mối quan hệ giữa cơ thể và tâm hồn, nhưng quan điểm của họ còn sơ khai Đến thế kỷ XVII, R Descartes nhấn mạnh vai trò của tư duy với câu nói nổi tiếng “Tôi tư duy tức là tôi tồn tại”, cho rằng con người là “một vật biết suy nghĩ”, nhưng không thuộc về cơ thể Ông phân tích cơ chế sinh lý của sự hợp nhất giữa tâm hồn và cơ thể, cho rằng vận động của con người tuân theo ý thức và ý chí thông qua các khớp, cơ bắp và đường thần kinh Vào đầu thế kỷ XIX, Maine de Biran phát triển lý thuyết “Tâm lý học hoạt động”, coi vận động là thành phần cơ bản của cấu trúc tâm lý về cái Tôi, và khẳng định rằng vận động là một phần của nhân cách.

Nửa đầu thế kỷ XX, khái niệm tâm vận động gắn liền với lịch sử thần kinh học và bệnh học, được phát triển từ những phát minh quan trọng trong sinh lý thần kinh Thuật ngữ “tâm vận động” xuất hiện nhờ vào công trình của các nhà thần kinh học nổi bật như Dupré, Charcot, Shilder và Head, góp phần làm rõ mối liên hệ giữa tâm lý và vận động.

J Piagiet cho rằng thông minh là từ cảm giác vận động Nhờ có sự xây dựng các sơ cấu về cảm giác vận động và sự phối hợp giữa chúng mà cơ thể, không gian và thời gian được xây dựng đồng thời do kinh nghiệm lặp đi lặp lại Ông cũng cho rằng con người toàn thể thể hiện bằng hành động của mình

S Freud cho rằng cơ thể có một tầm quan trọng đặc biệt trong sự hình thành vô thức – thành phần chủ yếu của đời sống tâm lý con người Cơ thể chính là nguồn của mọi xung động Theo S Freud, cái tôi có nguyên nhân từ cơ thể

Vào những năm 60 của thế kỷ XX, nghiên cứu về tâm vận động trở nên quan trọng, với J de Ajuriaguerra nhấn mạnh mối liên hệ chặt chẽ giữa tâm lý và vận động Cùng với H Wallon, Ajuriaguerra đã xây dựng nền tảng lý thuyết cho các vấn đề rối loạn tâm vận động và phương pháp điều trị Đến những năm 70, sự quan tâm của các nhà tâm lý học đối với vai trò của cơ thể trong điều trị tâm lý gia tăng, dẫn đến việc giáo dục và trị liệu tâm vận động trở thành lĩnh vực nghiên cứu ưu tiên.

* Vấn đề giáo dục tâm vận động và trò chơi tâm vận động:

Vấn đề giáo dục tâm vận động được nhiều quốc gia, nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu Cụ thể:

B Aucouturier là người đầu tiên xây dựng nên các nội dung thực hành giáo dục tâm vận động Ông đã tạo ra những nội dung thực hành độc đáo sử dụng một môi trường chuyên biệt, những khái niệm đặc trưng và những cách thức hành động riêng Những nội dung này được sử dụng như là phương tiện để giáo dục trẻ ở giai đoạn phát triển ban đầu và đã được thực hiện ở Châu Âu với trẻ mầm non Những thực hành của ông hướng tới tính thống nhất của con người, như là một cấu trúc tâm lý hợp lý không thể chia cắt có nguồn gốc cơ thể Ông cho rằng sự thoải mái về tâm lý – vận động là tâm điểm, nó là yếu tố thống nhất giữa có thể và tâm lý… Ông viết: “Trẻ em chế ngự thế giới từ một nền tảng mang tính xúc cảm thường xuyên, có liên hệ chặt chẽ với nền tảng tình cảm của nó, ngay cả cái sâu kín nhất.”

Kể từ năm 1974, Chính phủ Pháp đã bắt đầu đào tạo các nhà tâm vận động, đánh dấu bước khởi đầu quan trọng cho nghiên cứu và ứng dụng giáo dục tâm vận động trong đời sống.

Hiện nay, nhiều quốc gia châu Âu như Pháp, Đức, Áo, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha và Bỉ đang ngày càng áp dụng tâm vận động trong giáo dục và y tế Tương tự, Canada, Nam Phi và Mỹ cũng có nhiều nghiên cứu và ứng dụng phát triển trong lĩnh vực này Sự quan tâm đến tâm vận động và giáo dục tâm vận động ngày càng gia tăng, với sức lan tỏa mạnh mẽ trong nhiều lĩnh vực, đặc biệt là giáo dục và y tế.

Nhiều nhà khoa học đã thành công trong việc phát triển trò chơi tâm vận động cho trẻ em, nhằm nâng cao khả năng tư duy và phát triển trí não Một số tên tuổi nổi bật trong lĩnh vực này đã tạo ra các trò chơi hấp dẫn và bổ ích.

A.De Meur, Ph Navet (Bỉ, 1979), J Dubosson (Pháp, 1968) đã có những nghiên cứu và xây dựng những bài tập về tri giác, cảm giác – vận động, nghiên cứu và ứng dụng những phương pháp thực hành về tâm vận động cho trẻ em Đặc biệt, A.De Meur là người có công rất lớn khi đưa ra hệ thống những trò chơi tâm vận động cho trẻ Những trò chơi mà ông xây dựng được sử dụng rộng rãi và mang lại hiệu quả giáo dục tâm vận động cao

J le Boulch (Pháp) xây dựng những bài luyện tập tâm vận động cho trẻ từ tuổi mầm non cho đến tuổi học sinh tiểu học (1984)

Tâm vận động đã được hình thành và phát triển rõ nét vào thế kỷ XX, trở thành khái niệm quen thuộc trong giáo dục ở nhiều quốc gia Các ứng dụng của tâm vận động mang lại hiệu quả giáo dục cao, nhờ vào những quan điểm nghiên cứu của các chuyên gia trong những năm 60.

70 của thế kỷ XX đã tạo cơ sở cho sự phát triển mạnh mẽ của tâm vận động ngày nay

1.1.2 Các nghiên cứu trong nước

Nghiên cứu về tâm vận động ở Việt Nam đã được thực hiện qua nhiều công trình quan trọng, trong đó có ứng dụng thang phát triển tâm vận động Brunet – Lézin trên trẻ em của bác sĩ Vũ Thị Chính và các cộng sự Ngoài ra, bác sĩ Lê Đức Hinh cùng nhóm nghiên cứu cũng đã sử dụng test Denver để chẩn đoán sự phát triển tâm lý – vận động ở trẻ em.

Nhiều tác giả đã nghiên cứu về tâm vận động và sự phát triển của nó ở trẻ em, trong đó có Nguyễn Khắc Viện với cuốn "Từ điển tâm lý" giải thích khái niệm "tâm vận động", Nguyễn Thị Nhất trong cuốn "6 tuổi, vào lớp một", và Ngô Công Hoàn với tác phẩm "Tâm lý học trẻ em".

Tác giả Nguyễn Thị Như Mai đã thực hiện nhiều nghiên cứu chuyên sâu về tâm vận động của trẻ em trong Luận án tiến sĩ của mình Kể từ năm 1998, Tiến sĩ Như Mai đã đóng góp nhiều bài báo và sách liên quan đến tâm vận động và sự phát triển tâm vận động ở trẻ em, nổi bật trong các ấn phẩm như Tạp chí Tâm lý học, Tạp chí Giáo dục và giáo trình “Tâm lý học trẻ em tuổi mầm non”.

Các khái niệm chính

1.2.1 Khái niệm tri giác thị giác

Tri giác thị giác là quá trình nhận thức các sự vật và hiện tượng thông qua cơ quan phân tích thị giác Quá trình này cho phép con người tổ chức và hiểu biết các thông tin liên quan đến đối tượng bên ngoài, đồng thời nhận thức được các thông tin liên quan đến cơ thể của chính mình.

Khái niệm tri giác thị giác trên bao gồm những nội hàm chủ yếu sau đây:

Tri giác thị giác là một quá trình phức tạp, kết hợp giữa yếu tố sinh lý và tâm lý Nó bắt đầu khi các thông tin về đối tượng được cơ quan phân tích thị giác tiếp nhận và truyền đến trung khu thần kinh dưới vỏ, rồi tới vỏ não Tại đây, thông tin được kết hợp với cảm giác, cảm xúc, ký ức và kinh nghiệm, tạo ra một nhận thức đầy đủ và rõ ràng về đối tượng.

Trong tri giác thị giác, sự kết hợp giữa cảm giác và vận động đóng vai trò quan trọng Vận động giúp cải thiện độ chính xác, sự rõ ràng và tính đầy đủ của các tín hiệu cảm giác.

Tri giác thị giác không chỉ phụ thuộc vào khả năng của cơ thể mà còn góp phần quan trọng vào việc hiểu biết về bản thân và thích nghi với môi trường Thông tin từ tri giác thị giác làm phong phú thêm vốn sống và kinh nghiệm, giúp con người dễ dàng thích ứng với hoàn cảnh và xử lý thông tin một cách hiệu quả.

Thứ hai, những thông tin mà tri giác thị giác mang lại được tiếp nhận qua cơ quan thị giác

Tri giác thị giác là quá trình sử dụng cơ quan thị giác để tiếp nhận và truyền tải thông tin đến não bộ, từ đó giúp chúng ta nhận thức về bản thân và môi trường xung quanh Để hình thành tri giác thị giác, chúng ta cần sử dụng cơ thể của mình như một công cụ quan trọng trong việc hiểu biết thế giới.

Tri giác thị giác là một loại tri giác đặc biệt, sử dụng cơ quan phân tích thị giác để tiếp nhận và xử lý thông tin từ thế giới khách quan Qua đó, con người có thể hình thành những biểu tượng về hình dạng, kích thước, màu sắc, hướng, vị trí và tính chất của sự vật, hiện tượng Điều này cho phép chúng ta nhận biết các thuộc tính của sự vật một cách chính xác và đầy đủ, với sự phản ánh qua mắt ở các mức độ khác nhau.

Theo Louise Doyon:“Sự phân biệt về mặt thị giác là khả năng nhận biết những sự khác biệt và tương đồng giữa các yếu tố khác nhau”

Sự khác biệt và tương đồng giữa các yếu tố này về những mặt sau:

Chất lượng tri giác thị giác phụ thuộc vào độ chính xác trong việc nhận diện và phân biệt các đối tượng Khi con người tiếp xúc với nhiều đối tượng tương tự, sự khác biệt rõ ràng giữa chúng sẽ giúp cải thiện khả năng tri giác Ngược lại, nếu chỉ có sự khác biệt nhỏ và nhiều điểm tương đồng, người tri giác sẽ gặp khó khăn và dễ nhầm lẫn.

1.2.2 Khái niệm phát triển năng lực tri giác thị giác cho trẻ 5 – 6 tuổi

Trẻ 5 – 6 tuổi là giai đoạn cuối cùng của tuổi mẫu giáo với những đặc điểm tâm sinh lí khác nhiều so với lứa tuổi trước chính vì vậy các biện pháp phát triển giác quan cho trẻ lứa tuổi này phải đáp ứng được yêu cầu về sự phát triển đồng thời chuẩn bị tốt cho trẻ những điều kiện cần thiết để bước vào môi trường học tập Biện pháp phát triển năng lực tri giác thị giác cho trẻ 5 – 6 tuổi được thiết kế xuất phát từ cơ sở sinh lí của trẻ và hướng đến việc tích cực hóa vai trò của đứa trẻ trong hoạt động mới có thể kích thích sự phát triển các giác quan một cách tự nhiên

Biện pháp phát triển năng lực tri giác thị giác cho trẻ 5 – 6 tuổi là những phương pháp cụ thể mà giáo viên áp dụng để tác động vào quá trình luyện tập thị giác của trẻ Những thủ thuật này được thiết kế khoa học và hợp lý nhằm giúp trẻ giải quyết hiệu quả các nhiệm vụ và tình huống khác nhau bằng thị giác Qua đó, những biện pháp này góp phần tối ưu hóa sự phát triển năng lực tri giác thị giác cho trẻ trong các điều kiện giáo dục nhất định.

1.2.3 Khái niệm trò chơi tâm vận động

Tâm vận động là lĩnh vực đang thu hút sự quan tâm nghiên cứu và ứng dụng toàn cầu, đặc biệt trong giáo dục Các chuyên gia tâm lý và giáo dục ngày càng chú trọng đến sự phát triển tâm vận động ở trẻ em Hiện nay, giáo dục tâm vận động được xem là một lĩnh vực thiết yếu và mang lại hiệu quả cao.

Trước đây, cơ thể và tâm lý được xem là hai phần tách rời, nhưng nghiên cứu hiện đại trong tâm lý học cho thấy sự phát triển tâm lý của con người phụ thuộc vào hoạt động Để có hoạt động, cần có sự kết hợp giữa tâm lý và vận động của cơ thể.

Tâm vận động là lĩnh vực nghiên cứu sự tương tác giữa chức năng tâm lý và vận động, nhìn nhận con người một cách toàn diện qua ba khía cạnh: thể chất, tình cảm - xã hội và nhận thức Điều này giúp con người duy trì hoạt động tâm lý bình thường, thiết lập mối quan hệ với người khác và môi trường xung quanh Tâm vận động thể hiện quan niệm tổng thể về con người.

Tâm vận động là một phương pháp tiếp cận con người một cách toàn diện, theo Yernaux Jean – Pierre, nó thể hiện qua cảm xúc và hành động của cơ thể Tâm vận động không chỉ là nền tảng cần thiết cho trẻ em mà còn là nguồn lực giúp trẻ phát triển kinh nghiệm và khả năng trong các lĩnh vực như ngôn ngữ, âm nhạc và toán học, từ đó giải quyết các vấn đề trong cuộc sống Quan điểm này nhấn mạnh vai trò quan trọng của cơ thể trong việc tích lũy kinh nghiệm và khả năng, cho phép con người hoạt động thoải mái trong môi trường xung quanh Nhận thức được tầm quan trọng của tâm vận động, nhiều nhà nghiên cứu đã chú trọng vào giáo dục tâm vận động trong cuộc sống.

Giáo dục tâm vận động là một hệ thống giáo dục nhằm phát triển chức năng tâm vận động của trẻ em, từ đó thúc đẩy sự phát triển toàn diện về tâm lý và nhân cách Qua việc khai thác khả năng của trẻ, thông qua tương tác với môi trường và các trải nghiệm vận động, trẻ sẽ cải thiện nhận thức, tình cảm và trang bị những kỹ năng cần thiết để học tập hiệu quả ở trường phổ thông, đồng thời dễ dàng thích ứng với xã hội Những tác động này giúp kết hợp tốt nhất giữa giác quan và tâm vận động, tạo điều kiện cho trẻ phát triển toàn diện nhân cách.

Giáo dục tâm vận động đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của trẻ em, coi hoạt động cơ thể là phương tiện trung gian Kinh nghiệm cơ thể không chỉ giúp hình thành trí tuệ mà còn làm phong phú thêm xúc cảm của trẻ Khi trẻ nhận thức tốt về cơ thể và hoạt động hiệu quả, chúng sẽ dễ dàng hơn trong việc giao tiếp và tương tác với người khác Sự hiểu biết về không gian và thời gian từ kinh nghiệm cơ thể cũng thúc đẩy tư duy phát triển Tóm lại, giáo dục tâm vận động là nền tảng thiết yếu giúp trẻ chuẩn bị cho cuộc sống và học tập sau này.

Lý luận về tri giác thị giác của trẻ 5 – 6 tuổi

1.3.1 Đặc điểm tri giác thị giác của trẻ 5 – 6 tuổi

Các giác quan của trẻ sơ sinh bắt đầu hoạt động từ ngày đầu tiên, nhưng chưa hoàn thiện Thị giác và thính giác phát triển nhanh hơn các cử động cơ thể Chỉ sau 2 tuần, diện tích các miền thị giác trên vỏ đại não tăng lên 1,5 lần Theo Trần Trọng Thủy, phần lớn nghiên cứu về tri giác ở trẻ sơ sinh tập trung vào thị giác, vì đây là giác quan quan trọng Trẻ chỉ phản ứng với ánh sáng mạnh trong không gian gần, và khả năng nhìn được cải thiện nhanh chóng trong những tuần đầu Sự phát triển thị giác bắt đầu từ ngày thứ 10 với ánh sáng và khuôn mặt mẹ, và đến cuối năm thứ nhất, trẻ có thể nhìn theo cách thích thú các đồ vật Khoảng 1 năm tuổi, trẻ xác định được vị trí của vật trong không gian và điều chỉnh cử động tay chính xác Khi khả năng nhìn phát triển cao hơn, trẻ có thể điều chỉnh tay cầm đồ vật chỉ bằng cách nhìn, cho thấy sự phát triển tri giác bằng mắt về hình dáng và kích thước của đồ vật.

Hành động bằng mắt phát triển mạnh mẽ ở trẻ em từ 3 tuổi, giúp trẻ sử dụng thị giác để lựa chọn đối tượng phù hợp cho hành động Kỹ năng này cho phép trẻ tích lũy và so sánh các biểu tượng về các đối tượng, nhận ra người thân và đồ vật quen thuộc dễ dàng hơn Việc lựa chọn đối tượng bằng mắt là một quá trình phức tạp, yêu cầu trẻ hiểu rằng có nhiều đối tượng có thuộc tính tương tự Nhờ khả năng này, trẻ có thể ghi nhớ các biểu tượng trong đầu và so sánh chúng với các đồ vật khác, như khi trẻ nhận diện hình tròn và liên tưởng đến quả bóng, quả cam hay bánh xe.

Việc trẻ tích lũy biểu tượng về các sự vật hiện tượng xung quanh phụ thuộc vào khả năng định hướng bằng mắt trong quá trình tương tác với đồ vật Do đó, trẻ cần được tiếp xúc với nhiều loại đồ vật phong phú về chủng loại, hình dáng và màu sắc Nghiên cứu cho thấy trẻ ba tuổi có khả năng tiếp nhận biểu tượng của năm hình cơ bản (tròn, bầu dục, vuông, chữ nhật, tam giác) và tám màu sắc (đỏ, da cam, vàng, lục, xanh, tím, trắng, đen), mặc dù khả năng biểu đạt bằng ngôn ngữ vẫn chưa chính xác.

Tri giác thị giác của trẻ dưới 3 tuổi chủ yếu tập trung vào hình dạng và màu sắc của đối tượng, với khả năng nhận diện cả những đối tượng không màu và đường viền quen thuộc Theo nhà tâm lý học A.A LiublinXkaia, những đối tượng rực rỡ và đẹp đẽ đặc biệt thu hút trẻ, nhưng nhiều nghiên cứu cho rằng hình dạng là yếu tố quan trọng nhất trong tri giác của trẻ Các nhà tâm lý học Xô Viết đã chỉ ra rằng mối quan hệ giữa màu sắc và hình dạng trong tri giác của trẻ là phức tạp và có thể thay đổi tùy thuộc vào nhiều điều kiện khác nhau Đến độ tuổi mẫu giáo, khả năng tri giác thị giác của trẻ đã phát triển, cho phép trẻ nhận biết và phân biệt các thuộc tính như màu sắc, hình dạng, kích thước, hướng, vị trí và tính chất một cách chính xác và đầy đủ.

* Tri giác hình dạng và màu sắc

Tri giác hình dạng của sự vật chủ yếu diễn ra qua các cơ quan phân tích thị giác, va chạm và vận động, với dấu hiệu quan trọng nhất là đường biên của sự vật Đường biên này là ranh giới giữa hình ảnh của sự vật và nền xung quanh Nhờ vào những cử động nhỏ của mắt, chúng ta có thể tách rời ranh giới của các sự vật và học cách dõi theo nó Sự vận động của mắt giúp nhận ra và phân biệt đường biên, tạo điều kiện cần thiết để hình thành hình ảnh của sự vật trong tâm trí Khi tri giác hình dạng, chúng ta thường thăm dò bằng cách di chuyển cái nhìn một cách có hệ thống vào những điểm cố định.

Sự tri giác hình dáng của sự vật phụ thuộc vào nhiều yếu tố quan sát, bao gồm kích thước của sự vật, khoảng cách giữa sự vật và mắt người quan sát, mức độ chiếu sáng, cùng với độ tương phản giữa sự vật và nền xung quanh.

Nghiên cứu của các nhà khoa học Xô Viết cho thấy hình dạng đóng vai trò quan trọng trong việc trẻ em nhận diện đối tượng, đồng thời chỉ ra mối quan hệ phức tạp giữa hình dạng và màu sắc Họ khẳng định rằng màu sắc chỉ trở thành dấu hiệu nhận thức khi hình dạng nổi bật hơn S.N Sabalin ghi nhận rằng trẻ mẫu giáo có khả năng nhận diện chính xác hình dạng, ngay cả khi chúng mờ nhạt Đến độ tuổi 5-6, trẻ có thể phân biệt hình dạng dựa trên sự tương đồng với các đối tượng cụ thể, như gọi vòng tròn là bánh xe hay tam giác là nón Khi trẻ nhận diện và đặt tên cho các hình học, chúng có thể tìm thấy chúng trong các đồ vật quen thuộc, như cửa hình chữ nhật hay bánh xe hình tròn Lúc này, hình dạng trở thành tín hiệu quan trọng và được trẻ phản ánh qua việc trừu tượng hóa và gọi tên hình dạng.

Ở giai đoạn 5 – 6 tuổi, trẻ em có sự phát triển đáng kể trong khả năng tri giác màu sắc Ngoài việc nhận biết các màu cơ bản, trẻ có thể phân biệt và gọi tên nhiều màu sắc khác nhau như xanh lá cây, xanh nước biển, và xanh da trời Khi thể hiện các tác phẩm tạo hình, trẻ đã biết phối hợp và lựa chọn màu sắc phù hợp, phản ánh sự hiểu biết về màu sắc tự nhiên Nhiều trẻ có khả năng phối hợp màu sắc hợp lý, cho thấy khả năng nhận biết và phân biệt màu sắc của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi đã phát triển tương đối tốt.

Nghiên cứu của V.P Zintsenko, A.G Rudxkaia và M.N Vôlôkichina đã chỉ ra rằng có sự phụ thuộc phức tạp giữa xúc giác và thị giác trong quá trình tri giác hình dạng Cụ thể, ở trẻ mẫu giáo, việc nhận biết hình dạng qua thị giác và lựa chọn đối tượng tương tự sẽ hiệu quả hơn so với việc nhớ lại đối tượng đã được cảm nhận bằng xúc giác Tuy nhiên, khi hình dạng được nhận diện qua xúc giác, việc chuyển đổi sang tri giác thị giác lại cho kết quả tốt hơn so với quá trình ngược lại.

Sự phối hợp giữa tay và mắt đóng vai trò quan trọng trong việc cải thiện khả năng tri giác hình dạng của trẻ mẫu giáo lớn Tay hoạt động như một bộ phận thực hành, trong khi mắt giúp nhận diện các đặc điểm của sự vật Sự kết hợp nhịp nhàng giữa tay và mắt giúp nâng cao độ chính xác trong tri giác hình dạng Do đó, việc phối hợp giữa tri giác xúc giác và tri giác thị giác là rất cần thiết cho sự phát triển của trẻ ở độ tuổi này.

Sự tri giác kích thước của sự vật phụ thuộc vào độ lớn hình ảnh của nó trên võng mạc và khoảng cách đến mắt Mắt thích ứng để nhìn rõ các vật ở độ xa khác nhau thông qua hai cơ chế: điều tiết và hội tụ Khi sự vật lớn, hình ảnh của nó trên võng mạc cũng lớn, và ngược lại Sự kết hợp giữa kích thích từ độ lớn hình ảnh và sự căng của cơ mắt do điều tiết và hội tụ tạo ra tín hiệu phản xạ giúp ta nhận thức kích thước của sự vật.

Từ khi còn nhỏ, trẻ em đã bắt đầu nhận thức kích thước và hình dạng của đồ vật thông qua việc tương tác tích cực với chúng Các nghiên cứu của N.L Phigurin, M.P Đennhisôva, T.I Đanhiusepxkaia, A.A Prexman và các nhà nghiên cứu khác cho thấy rằng chỉ sau năm hoặc sáu tuổi, trẻ mới có khả năng định hướng khoảng cách dựa vào thị giác Việc thao tác với đồ vật và di chuyển xung quanh có ảnh hưởng đáng kể đến sự phát triển nhận thức của trẻ, giúp trẻ dễ dàng phân biệt giữa đồ vật lớn và nhỏ.

Theo nghiên cứu, bất biến độ lớn là khả năng tri giác về kích thước thực tế của một đối tượng, bất chấp khoảng cách và sự thu nhỏ hình ảnh Khả năng này bắt đầu phát triển từ tháng thứ sáu, khi trẻ có thể chọn đúng hộp lớn hơn dù bị đặt xa hơn Điều này cho thấy trẻ đã hình thành khả năng phân biệt kích thước từ sớm và ít nhầm lẫn về khái niệm to – nhỏ Đến giai đoạn 5 – 6 tuổi, trẻ đã thành thục trong việc nhận biết và phân biệt kích thước của các sự vật, ngay cả khi sự khác biệt không rõ ràng, và có thể sắp xếp chúng theo thứ tự kích thước một cách dễ dàng.

* Sự tri giác phương hướng và vị trí của các đối tượng

Trẻ em thường gặp khó khăn trong việc xác định phương hướng và vị trí của các đối tượng Khả năng tri giác những thuộc tính này ở trẻ còn hạn chế Giai đoạn mẫu giáo là thời điểm quan trọng, khi trẻ lần đầu tiếp xúc và làm quen với hướng và vị trí của các đối tượng trong thế giới xung quanh.

Nghiên cứu của các nhà khoa học A.Ia Kôlôtna, Ph.N Semiakin, A.E Kôzureva và K.N Kornhilôp cho thấy rằng trẻ em có khả năng định hướng hiệu quả trong môi trường quen thuộc ngay cả khi chưa nắm vững tên gọi các địa điểm Trẻ thường sử dụng các cụm từ như “ở kia” và “ở đó”, điều này cho thấy bước đầu tiên trong việc phát triển hiểu biết về không gian của trẻ.

Lý luận về trò chơi tâm vận động của trẻ

1.4.1 Những đặc trưng của trò chơi tâm vận động

Trò chơi tâm vận động là một hình thức giáo dục tâm vận động, vì vậy nó mang đặc trưng của tâm vận động Đó là:

Trò chơi tâm vận động, giống như các trò chơi khác, mang tính chất giải trí và tạo niềm vui cho trẻ Khi tham gia, trẻ em cảm thấy thoải mái và tự nguyện, bởi vì bản thân trò chơi hấp dẫn và thú vị Nếu trò chơi có thể kích thích hứng thú, trẻ sẽ dễ dàng vượt qua những lo lắng và sợ hãi của mình Mục tiêu chính của trò chơi là mang lại niềm vui cho trẻ em, trong khi động cơ chơi nằm trong chính quá trình tham gia chứ không phải ở kết quả cuối cùng.

Phát triển tâm lý và nhân cách của trẻ thông qua trải nghiệm cơ thể là rất quan trọng Trò chơi tâm vận động giúp trẻ tự tìm kiếm và trải nghiệm, từ đó hình thành biểu tượng về bản thân và thế giới xung quanh Những động tác lặp đi lặp lại tạo ra nhiều cảm giác khác nhau, kích thích các giác quan như nội tâm, thính giác, thị giác, khứu giác và vị giác Việc này không chỉ giúp trẻ hiểu rõ hơn về chính mình mà còn phát triển các kỹ năng cần thiết cho sự trưởng thành.

Trò chơi tâm vận động đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển tâm lý của trẻ em, giúp trẻ nhận thức về cơ thể, không gian và thời gian thông qua trải nghiệm thực tế Cô giáo tạo điều kiện cho trẻ thực hành bằng cách yêu cầu trẻ cầm bóng và đặt ở các vị trí khác nhau, từ đó trẻ dần hình thành những biểu tượng về cơ thể Để nhảy xuống từ ghế thể dục một cách an toàn, trẻ cần thực hiện nhiều động tác như leo trèo, bám vào thành ghế để cảm nhận trọng lượng và tình trạng mất thăng bằng, cũng như ước lượng chiều cao Qua nhiều lần thực hiện, trẻ sẽ tích lũy kinh nghiệm và rèn luyện kỹ năng, giúp trẻ tự tin hơn trong các hoạt động vận động.

Trò chơi giúp trẻ em trải nghiệm những điều thú vị của cuộc sống và tác động tích cực đến môi trường xung quanh Khi trẻ tự mình khám phá, chúng nhận ra những biểu tượng về không gian, thời gian và các thuộc tính của sự vật, hiện tượng Nếu bị ép buộc hoặc làm thay, trẻ sẽ khó có được những kinh nghiệm quý giá, ảnh hưởng đến quá trình phát triển nhân cách Như tác giả Carels đã nhấn mạnh, việc cử động và vui chơi giúp trẻ cảm nhận sự sống thực sự, đồng thời mang lại niềm vui, hứng thú và sự nhiệt huyết trong cuộc sống.

1.4.2 Vai trò của trò chơi tâm vận động đối với sự phát triển năng lực tri giác thị giác của trẻ

Tâm vận động đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển toàn diện tâm lý và nhân cách của trẻ em, do đó, giáo dục tâm vận động cần được thực hiện ngay từ khi trẻ còn nhỏ Việc giáo dục này thông qua hình thức trò chơi rất hiệu quả, giúp trẻ phát triển nhiều kỹ năng như nhận thức, khả năng thích ứng xã hội và những năng lực cần thiết cho việc học tại trường phổ thông Đặc biệt, trò chơi tâm vận động còn có tác động tích cực đến khả năng tri giác thị giác của trẻ, làm cho phương pháp này trở thành một cách tiếp cận phù hợp để phát triển khả năng này.

Theo J.le Boulch, tri giác bao gồm hai khía cạnh: một là sự tổ chức có ý thức các dữ kiện thông tin liên quan đến các đối tượng bên ngoài, và hai là sự tổ chức có ý thức các dữ kiện thông tin thuộc về cơ thể bản thân Cơ thể đóng vai trò quan trọng trong quá trình tri giác, vì từ những ngày đầu của cuộc sống, cơ thể là phương tiện duy nhất giúp trẻ khám phá thế giới xung quanh Những trải nghiệm đầu tiên cho phép trẻ nhận ra niềm vui trong cơ thể mình khi hoạt động trong không gian và thời gian Trẻ cảm nhận cảm xúc thông qua cơ thể và cũng nhờ cơ thể mà trẻ nhận thức được thế giới xung quanh, bao gồm cả khả năng tri giác thị giác.

Tri giác thị giác là quá trình tổ chức thông tin về thế giới bên ngoài và bản thân, bắt đầu từ sự hiểu biết về cơ thể của trẻ Để nhận biết các đối tượng xung quanh, trẻ cần có nhận thức về bản thân và vị trí các bộ phận trên cơ thể Các yếu tố cơ bản trong tri giác thị giác bao gồm hình dạng, kích thước, màu sắc, tính chất, hướng và vị trí của các đối tượng.

Trò chơi tâm vận động giúp phát triển tri giác thị giác cho trẻ thông qua trải nghiệm cơ thể, từ đó nhận diện thế giới xung quanh Trẻ sẽ nhận ra các thuộc tính của đối tượng như kích thước, hình dạng, hướng và vị trí khi hiểu rõ về cơ thể của mình Những trò chơi này không chỉ rèn luyện sức khỏe, sự mềm dẻo, cân bằng và nhanh nhẹn mà còn phát triển nhận thức, tình cảm và khả năng học tập, giúp trẻ thích ứng tốt hơn với xã hội Do đó, trò chơi tâm vận động là phương tiện hiệu quả để nâng cao khả năng tri giác thị giác cho trẻ.

Các trò chơi tâm vận động giúp phát triển khả năng tri giác thị giác của trẻ, giúp trẻ nhận diện, phân biệt hình dáng, kích thước, tính chất, vị trí và hướng trong không gian Nội dung của các trò chơi này thường yêu cầu trẻ phân biệt những đối tượng có sự khác biệt nhỏ hoặc nhóm các đối tượng tương đồng giữa nhiều đối tượng tương tự Điều này không chỉ nâng cao khả năng tri giác của trẻ mà còn khuyến khích trẻ tự khám phá, sờ mó và tô màu các đối tượng, tạo ra sự hứng thú và kích thích trẻ tham gia một cách tự nhiên mà không cần ép buộc.

Trò chơi tâm vận động là phương tiện hiệu quả giúp trẻ phát triển nhận thức về hình dạng và kích thước Các trò chơi này bao gồm tìm hình giống mẫu, lắp ghép hình và các trò chơi trí nhớ tri giác, trong đó trẻ sẽ tương tác với những hình ảnh và sự vật tương đồng, chỉ khác nhau ở một chi tiết nhỏ Trẻ không chỉ tìm kiếm các đối tượng theo yêu cầu mà còn có thể tô màu theo sở thích, mang lại niềm vui và sự hứng thú Những hoạt động này không chỉ rèn luyện khả năng nhận thức mà còn khuyến khích trẻ vận động sáng tạo.

Tri giác về màu sắc có thể được phát triển hiệu quả thông qua các trò chơi, như tô màu vào hình giống nhau hoặc tô màu cho các bức tượng, điều này thu hút sự chú ý của trẻ Qua việc trải nghiệm và chơi đùa với màu sắc, trẻ nhận ra và phân biệt các màu sắc khác nhau Khi tiếp xúc và khám phá, trẻ không chỉ hiểu về những màu cơ bản mà còn nhận ra sự đa dạng của các màu sắc khác.

Các trò chơi tâm vận động đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành khái niệm về không gian cho trẻ, bao gồm hướng và vị trí của các đối tượng Theo J.M Tasset, cấu trúc hóa không gian liên quan đến việc định hướng và hiểu biết về thế giới xung quanh thông qua cái Tôi M.X Mukhina nhấn mạnh rằng cơ thể trẻ là "điểm gốc" để xác định phương hướng Để trẻ có thể định hướng không gian, việc dạy khái niệm bắt đầu từ cơ thể, thông qua các trò chơi như "hãy làm theo cô" để trẻ nhận biết tay phải và tay trái Khi trẻ đã hiểu về tay phải, tay trái, giáo viên sẽ giúp trẻ hình thành khái niệm "bên phải" và "bên trái" thông qua các trò chơi định hướng Các hoạt động như tìm nhóm hề có mắt hướng trái hoặc phải không chỉ giúp trẻ phân biệt phương hướng mà còn kích thích tư duy và sự tự lập của trẻ Nhìn chung, các trò chơi tâm vận động giúp trẻ phát triển khả năng nhận thức về không gian một cách tự nhiên và thoải mái.

Trò chơi tâm vận động đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển khả năng tri giác thị giác của trẻ, giúp hỗ trợ quá trình học tập Các trò chơi nhận biết và phân biệt hướng như phải, trái giúp trẻ dễ dàng hơn trong việc học các chữ cái tương tự như b – d, p – q Bên cạnh đó, việc phân biệt vị trí trong trò chơi cũng giúp trẻ nắm bắt trật tự sắp xếp chữ trong từ ngữ Những hoạt động này không chỉ kích thích sự thích thú và sáng tạo của trẻ mà còn thỏa mãn nhu cầu vận động, giúp trẻ trải nghiệm và tương tác với đồ chơi Vì vậy, trò chơi tâm vận động là một phương pháp hiệu quả để phát triển khả năng tri giác thị giác, tạo nền tảng vững chắc cho việc học đọc của trẻ trong tương lai.

Lý luận về thiết kế trò chơi tâm vận động

1.5.1 Cơ sở khoa học xây dựng các trò chơi tâm vận động phát triển khả năng tri giác thị giác cho trẻ 5 – 6 tuổi a Cơ sở lý luận

Khả năng tri giác thị giác đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của trẻ em Nếu trẻ không thể phân biệt được sự tương đồng và khác biệt giữa các đối tượng hay hình ảnh, việc tham gia vào các hoạt động hàng ngày sẽ trở nên khó khăn Do đó, khả năng này là yếu tố then chốt cho trẻ chuẩn bị vào lớp.

Trẻ em cần nhận ra và phân biệt các con chữ và con số, đặc biệt là những chữ tương tự như b – d và p – q, vì vậy việc phát triển khả năng tri giác thị giác cho trẻ là rất quan trọng Ngoài các hoạt động học tập, trò chơi là một phương pháp hiệu quả để trẻ phát triển Chơi không chỉ là hoạt động chủ đạo mà còn là cuộc sống của trẻ, giúp trẻ thể hiện bản thân, khám phá và mơ ước Thông qua trò chơi, trẻ phát triển các chức năng tâm lý và hình thành nhân cách Thiếu trò chơi, trẻ sẽ không còn giữ được sự ngây thơ, chỉ còn lại những tâm hồn cằn cỗi Do đó, tổ chức cho trẻ chơi là nhiệm vụ thiết yếu và quan trọng.

Trò chơi tâm vận động là một hình thức trò chơi đặc thù giúp trẻ phát huy khả năng tự tìm kiếm và trải nghiệm thông qua cảm nhận cơ thể, từ đó hình thành biểu tượng về bản thân và thế giới xung quanh Những trò chơi này không chỉ phát triển vận động mà còn nâng cao nhận thức và tình cảm, mang lại sự phát triển toàn diện cho trẻ Đặc biệt, trò chơi tâm vận động giúp cải thiện khả năng tri giác thị giác thông qua việc sử dụng cảm giác và tri giác vận động Việc cho trẻ tham gia vào các hoạt động này giúp chúng tự trải nghiệm và nhận thức về bản thân cũng như môi trường xung quanh, tạo nên sự hứng khởi và thích thú Do đó, việc sử dụng trò chơi tâm vận động để phát triển khả năng tri giác thị giác cho trẻ là cần thiết và hợp lý.

Kết quả điều tra về khả năng tri giác thị giác của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi cho thấy nhiều trẻ gặp khó khăn trong việc phân biệt các đối tượng tương tự nhau Nhiều trẻ chưa thể nhận diện sự giống và khác nhau về hình dáng, kích thước, vị trí, hướng và tính chất của các đối tượng mà chúng tri giác Điều này có thể ảnh hưởng tiêu cực đến kết quả học tập của trẻ trong tương lai tại trường phổ thông.

Kết quả điều tra về khả năng tri giác thị giác của trẻ cho thấy có nhiều nguyên nhân dẫn đến thực trạng này Thứ nhất, khả năng tập trung chú ý của trẻ vào các đối tượng tri giác còn yếu, khiến nhiều trẻ chỉ chú ý trong thời gian ngắn và dễ bị phân tâm Thứ hai, một số thao tác tư duy như so sánh và phân tích của trẻ cũng chưa phát triển tốt, ảnh hưởng đến khả năng tri giác bằng mắt Thứ ba, môi trường giáo dục đóng vai trò quan trọng; việc tổ chức giáo dục tại trường mầm non chưa chú trọng đến khả năng tri giác của trẻ, với giáo viên thường chỉ tập trung vào việc cung cấp kiến thức mà không quan tâm đến từng trẻ Điều này dẫn đến sự chênh lệch về khả năng tri giác thị giác giữa các trẻ trong lớp.

Việc phát triển khả năng tri giác thị giác cho trẻ thông qua các trò chơi tâm vận động vẫn chưa được chú trọng đúng mức Giáo viên thường chỉ tập trung vào các hoạt động chung mà bỏ qua những hoạt động quan trọng khác Trò chơi tâm vận động hầu như không được tổ chức, do giáo viên chưa hiểu rõ bản chất và vai trò của nó trong sự phát triển của trẻ Mặc dù có những trò chơi tâm vận động xuất hiện, nhưng chúng thường bị nhầm lẫn với trò chơi học tập hoặc trò chơi vận động Nếu được hiểu và tổ chức đúng cách, các trò chơi này sẽ mang lại sự hứng thú cho trẻ, từ đó giúp phát triển khả năng tri giác thị giác một cách dễ dàng và hiệu quả hơn.

1.5.2 Quy trình thiết kế trò chơi tâm vận động nhằm phát triển năng lực tri giác thị giác cho trẻ 5 – 6 tuổi ở trường mầm non

Bước 1: Xác định mục đích trò chơi: Chỉ ra được bài toán của nhiệm vụ nhận thức được yêu cầu đối với trẻ

Bước 2: Lựa chọn tình huống chơi là rất quan trọng, cần chọn những tình huống gần gũi với cuộc sống của trẻ và phù hợp với tâm sinh lý của lứa tuổi Điều này giúp tạo ra sự sinh động và hứng thú cho trẻ khi tham gia trò chơi Tình huống chơi cũng đóng vai trò là cơ sở để đặt tên cho trò chơi.

Bước 3 trong việc xây dựng trò chơi là xác định rõ luật chơi và cách thức tổ chức Điều này bao gồm việc mô tả các quy định của trò chơi, lựa chọn hình thức chơi (cá nhân, nhóm hoặc cả lớp) và xác định các hành động của giáo viên cũng như trẻ em trong quá trình chơi, đảm bảo phù hợp với tình huống đã được chọn.

Bước 4: Dự kiến vật dụng cho trò chơi là rất quan trọng Giáo viên cần xác định và chuẩn bị những vật dụng phù hợp với nội dung trò chơi để đảm bảo việc tổ chức diễn ra suôn sẻ và hiệu quả.

Bước 5: Biên tập trò chơi, tổ chức chơi thử và điều chỉnh nếu cần thiết

Bước 6: Tiến hành tổ chức cho trẻ chơi

Từ những nội dung lý luận đã trình bày, có thể rút ra những kết luận chính sau:

Tri giác thị giác là quá trình nhận thức các sự vật và hiện tượng qua cơ quan thị giác, cho phép tổ chức thông tin một cách có ý thức liên quan đến các đối tượng bên ngoài và bản thân Quá trình này bắt nguồn từ cơ thể và bao gồm những yếu tố chính như tri giác hình dạng, kích thước, màu sắc, phương hướng, vị trí và tính chất của các đối tượng trong thế giới khách quan.

Tri giác thị giác đóng vai trò quan trọng trong đời sống con người, ảnh hưởng đến nhiều khả năng của trẻ, đặc biệt là khả năng học tập Do đó, việc phát triển khả năng thị giác cho trẻ em là rất cần thiết.

Hoạt động chơi, đặc biệt là trò chơi, đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển toàn diện của trẻ em Trẻ mẫu giáo tham gia vào nhiều loại hình trò chơi đa dạng và phong phú, với nội dung và đồ chơi hấp dẫn Hơn nữa, trò chơi giúp trẻ giải quyết mâu thuẫn nội tâm, vì đối với trẻ, chơi chính là cuộc sống Do đó, việc tổ chức cho trẻ chơi mang ý nghĩa đặc biệt trong quá trình phát triển của trẻ.

Trò chơi tâm vận động là phương tiện phát triển toàn diện tâm lý và nhân cách cho trẻ em, thông qua việc khai thác khả năng của trẻ trong môi trường tương tác xã hội Những trò chơi này không chỉ giúp trẻ rèn luyện kỹ năng vận động mà còn thúc đẩy sự phát triển nhận thức và tình cảm, trang bị cho trẻ những kỹ năng cần thiết để học tập hiệu quả tại trường phổ thông và thích ứng với xã hội.

Trò chơi tâm vận động có mối liên hệ chặt chẽ với khả năng tri giác thị giác của trẻ, vì cả hai đều sử dụng cơ thể làm yếu tố trung gian Do đó, phát triển khả năng tri giác thị giác cho trẻ thông qua các trò chơi tâm vận động là phương pháp hiệu quả.

Việc áp dụng trò chơi tâm vận động để phát triển khả năng tri giác thị giác cho trẻ từ 5 đến 6 tuổi là rất quan trọng Phương pháp này không chỉ cải thiện khả năng học tập của trẻ mà còn giúp trẻ tự tin hơn khi bước vào môi trường học tập ở trường phổ thông.

THỰC TRẠNG THIẾT KẾ TRÒ CHƠI TÂM VẬN ĐỘNG NHẰM PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC TRI GIÁC THỊ GIÁC CHO TRẺ 5 – 6 TUỔI Ở TRƯỜNG MẦM NON

THIẾT KẾ VÀ THỰC NGHIỆM MỘT SỐ TRÒ CHƠI TÂM VẬN ĐỘNG NHẰM PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC TRI GIÁC THỊ GIÁC CHO TRẺ 5 – 6 TUỔI

Ngày đăng: 09/05/2022, 11:34

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Bernard Aucouturier. Phương pháp tâm vận động. Nguyễn Văn Thành chuyển ngữ Sách, tạp chí
Tiêu đề: Phương pháp tâm vận động
2. Đào Thanh Âm (Chủ biên), Trịnh Dân, Nguyễn Thị Hoà, Đinh Văn Vang (1997). Giáo dục học mầm non; Tập 2, 3. NXB Đại học Quốc gia Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giáo dục học mầm non
Tác giả: Đào Thanh Âm (Chủ biên), Trịnh Dân, Nguyễn Thị Hoà, Đinh Văn Vang
Nhà XB: NXB Đại học Quốc gia Hà Nội
Năm: 1997
3. Hoàng Chúng (1980) Phương pháp thống kê toán học trong khoa học giáo dục. Tạp chí Nghiên cứu giáo dục – Số 19/1972 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Phương pháp thống kê toán học trong khoa học giáo dục
4. A.V. Daparôgiet (1974) Tâm lý học. Người dịch: Phạm Minh Hạc và Đức Minh. Nhà xuất bản Giáo dục. Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tâm lý học
Nhà XB: Nhà xuất bản Giáo dục. Hà Nội
5. Nguyễn Văn Đồng (2004) Tâm lý học phát triển. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tâm lý học phát triển
Nhà XB: Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia
6. Phạm Minh Hạc (tuyển chọn, chủ biên, viết lời giới thiệu) (1996): Tuyển tập tâm lý học J. Piaget. Nhà xuất bản Giáo dục Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tuyển tập tâm lý học J. Piage
Tác giả: Phạm Minh Hạc (tuyển chọn, chủ biên, viết lời giới thiệu)
Nhà XB: Nhà xuất bản Giáo dục
Năm: 1996
7. N.Đ.Lê vi tôp (1971) Tâm lý học trẻ em và tâm lý học sư phạm – NXB GD.Hà Nội 8. A.N. Lêônchiev (1980) Sự phát triển tâm lý trẻ em. Trường Cao đẳng Sư phạm Mẫugiáo Trung ương số 3 thành phố Hồ Chí Minh Sách, tạp chí
Tiêu đề: (1971) Tâm lý học trẻ em và tâm lý học sư phạm" – NXB GD.Hà Nội 8. A.N. Lêônchiev (1980) "Sự phát triển tâm lý trẻ em
Nhà XB: NXB GD.Hà Nội 8. A.N. Lêônchiev (1980) "Sự phát triển tâm lý trẻ em". Trường Cao đẳng Sư phạm Mẫu giáo Trung ương số 3 thành phố Hồ Chí Minh
9. A.A.Liublinxkaia (1971) Tâm lý học trẻ em (tập 1). Sở Giáo dục thành phố Hồ Chí Minh xuất bản năm 1977 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tâm lý học trẻ em
10. Phan Trọng Ngọ (chủ biên) (2003): Các lý thuyết phát triển tâm lý người. Nhà xuất bản Đại học Sư phạm Sách, tạp chí
Tiêu đề: Các lý thuyết phát triển tâm lý người
Tác giả: Phan Trọng Ngọ (chủ biên)
Nhà XB: Nhà xuất bản Đại học Sư phạm
Năm: 2003
12. Nguyễn Thị Như Mai (2001) Nghiên cứu tâm vận động ở trẻ em 5 – 6 tuổi (Luận án Tiến sĩ) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghiên cứu tâm vận động ở trẻ em 5 – 6 tuổi
13. Nguyễn THị Như Mai (2008) Giáo dục tâm vận động – nột lĩnh vực giáo dục cần thiết đối với trẻ em. Tạp chí Giáo dục số 202 (Kỳ 2- tháng 11 năm 2008) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giáo dục tâm vận động – nột lĩnh vực giáo dục cần thiết đối với trẻ em
14. V.X. Mukhina (1980). Tâm lý học mẫu giáo. Nhà xuất bản giáo dục Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tâm lý học mẫu giáo
Tác giả: V.X. Mukhina
Nhà XB: Nhà xuất bản giáo dục
Năm: 1980
15. Hoàng Phê, Bùi Khắc Việt, Chu Bích Thu (2002). Từ điển Tiếng Việt. Nxb Đà Nẵng Sách, tạp chí
Tiêu đề: Từ điển Tiếng Việt
Tác giả: Hoàng Phê, Bùi Khắc Việt, Chu Bích Thu
Nhà XB: Nxb Đà Nẵng
Năm: 2002
16. J. Piagiet (1996) Tuyển tập tâm lý học. Nhà xuất bản Giáo dục Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tuyển tập tâm lý học
Nhà XB: Nhà xuất bản Giáo dục
17. Hứa Thị Hạnh (2004) Thiết kế và sử dụng trò chơi học tập nhằm phát triển trí tuệ của trẻ mẫu giáo nhỡ (4 - 5 tuổi). Luận văn Thạc sĩ khoa học giáo dục. Người hướng dẫn:PGS. TS Ngô Công Hoàn Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thiết kế và sử dụng trò chơi học tập nhằm phát triển trí tuệ của trẻ mẫu giáo nhỡ (4 - 5 tuổi)
18. Trần Trọng Thủy . Tâm lý học. Nhà xuất bản Giáo dục Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tâm lý học
Nhà XB: Nhà xuất bản Giáo dục
19. Nguyễn Ánh Tuyết (chủ biên) (1996): Tổ chức, hướng dẫn trẻ mẫu giáo chơi. Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tổ chức, hướng dẫn trẻ mẫu giáo chơi
Tác giả: Nguyễn Ánh Tuyết (chủ biên)
Nhà XB: Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội
Năm: 1996
20. Nguyễn Ánh Tuyết (2000) Trò chơi trẻ em. Nhà xuất bản Phụ nữ. Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Trò chơi trẻ em
Nhà XB: Nhà xuất bản Phụ nữ. Hà Nội
21. Nguyễn Ánh Tuyết (2007) Tâm lý học trẻ em lứa tuổi mầm non. Nhà xuất bản Đại học Sư phạm Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tâm lý học trẻ em lứa tuổi mầm non
Nhà XB: Nhà xuất bản Đại học Sư phạm Hà Nội
22. Nguyễn Quang Uẩn (2003) Tâm lý học đại cương. Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tâm lý học đại cương
Nhà XB: Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Quan niệm của giáo viên về trò chơi tâm vận động được thể hiện qua bảng 2 - LỜI mở đầu
uan niệm của giáo viên về trò chơi tâm vận động được thể hiện qua bảng 2 (Trang 45)
Bảng 3: Kết quả đánh giá của giáo viên về các loại trò chơi phát triển năng lực tri giác thị giác cho trẻ 5 – 6 tuổi - LỜI mở đầu
Bảng 3 Kết quả đánh giá của giáo viên về các loại trò chơi phát triển năng lực tri giác thị giác cho trẻ 5 – 6 tuổi (Trang 46)
Bảng 5: Kết quả mức độ khả năng tri giác thị giác của trẻ –6 tuổi. - LỜI mở đầu
Bảng 5 Kết quả mức độ khả năng tri giác thị giác của trẻ –6 tuổi (Trang 48)
2.7.2. Kết quả mức độ khả năng tri giác thị giác của trẻ –6 tuổi theo 3 bài tập - LỜI mở đầu
2.7.2. Kết quả mức độ khả năng tri giác thị giác của trẻ –6 tuổi theo 3 bài tập (Trang 48)
Qua bảng 5 và biểu đồ số 1, ta thấy: - LỜI mở đầu
ua bảng 5 và biểu đồ số 1, ta thấy: (Trang 49)
Biểu đồ số 2: Kết quả khả năng tri giác thị giác của hai nhóm thực nghiệm và đối chứng trước thực nghiệm - LỜI mở đầu
i ểu đồ số 2: Kết quả khả năng tri giác thị giác của hai nhóm thực nghiệm và đối chứng trước thực nghiệm (Trang 58)
Từ bảng 6 và biểu đồ số 2 cho thấy ở các mức độ cao, trung bình và thấp của hai nhóm trẻ là tương đối giống nhau - LỜI mở đầu
b ảng 6 và biểu đồ số 2 cho thấy ở các mức độ cao, trung bình và thấp của hai nhóm trẻ là tương đối giống nhau (Trang 58)
Bảng 7: Kết quả tri giác thị giác của hai nhóm thực nghiệm và đối chứng sau thực nghiệm - LỜI mở đầu
Bảng 7 Kết quả tri giác thị giác của hai nhóm thực nghiệm và đối chứng sau thực nghiệm (Trang 59)
Theo bảng 7 và biểu đồ 3 ta thấy, Ở mức độ cao nhóm thực nghiệm có 26 trẻ chiếm 86,67%, nhóm đối chứng có 20 trẻ chiếm 66,67% - LỜI mở đầu
heo bảng 7 và biểu đồ 3 ta thấy, Ở mức độ cao nhóm thực nghiệm có 26 trẻ chiếm 86,67%, nhóm đối chứng có 20 trẻ chiếm 66,67% (Trang 60)
Bảng 8: So sánh khả năng tri giác thị giác của nhóm thực nghiệm trước và sau tác động - LỜI mở đầu
Bảng 8 So sánh khả năng tri giác thị giác của nhóm thực nghiệm trước và sau tác động (Trang 62)
Bảng 9: Kết quả khả năng tri giác thị giác trước và sau tác động sư phạm của hai nhóm thực nghiệm và đối chứng - LỜI mở đầu
Bảng 9 Kết quả khả năng tri giác thị giác trước và sau tác động sư phạm của hai nhóm thực nghiệm và đối chứng (Trang 63)
Từ bảng 9 và biểu đồ số 5, ta thấy: - LỜI mở đầu
b ảng 9 và biểu đồ số 5, ta thấy: (Trang 64)
Nhìn vào bảng 12 và biểu đồ số 6, ta thấy: - LỜI mở đầu
h ìn vào bảng 12 và biểu đồ số 6, ta thấy: (Trang 66)
Bài 1: Hãy tô màu vào hình giống mẫu - LỜI mở đầu
i 1: Hãy tô màu vào hình giống mẫu (Trang 75)
Bài 2: Hãy hoàn thành các hình bên phải theo mẫu - LỜI mở đầu
i 2: Hãy hoàn thành các hình bên phải theo mẫu (Trang 77)

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w