1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Yếu tố kì ảo trong tập truyện ngắn Yêu ngôn của Nguyễn Tuân.

66 15 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Yếu Tố Kì Ảo Trong Tập Truyện Ngắn Yêu Ngôn Của Nguyễn Tuân
Tác giả Trần Thị Trinh
Người hướng dẫn TS. Nguyễn Thanh Trường
Trường học Đại học Đà Nẵng
Chuyên ngành Ngữ văn
Thể loại khóa luận tốt nghiệp
Năm xuất bản 2013
Thành phố Đà Nẵng
Định dạng
Số trang 66
Dung lượng 1,09 MB

Cấu trúc

  • 1. Lí do chọn đề tài (5)
  • 2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu (6)
  • 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu (9)
  • 4. Phương pháp nghiên cứu (9)
  • 5. Bố cục của khóa luận (10)
  • Chương 1. Nguyễn Tuân trong khuynh hướng văn học kì ảo (11)
    • 1.1. Yếu tố kì ảo trong văn chương (11)
    • 1.2. Nguyễn Tuân và cuộc hành trình đến với văn học kì ảo (15)
    • 1.3. Yêu ngôn – một cõi riêng kì ảo Nguyễn Tuân (18)
  • Chương 2. Yêu ngôn – Thế giới nghệ thuật kì ảo (23)
    • 2.1. Nhân vật kì ảo (23)
      • 2.1.1. Thế giới nhân vật hồn ma (23)
      • 2.1.2. Thế giới kì nhân, kì vật (28)
    • 2.2. Không gian kì ảo (34)
      • 2.2.1. Không gian quá vãng (35)
      • 2.2.2. Không gian huyền kì (38)
    • 2.3. Thời gian kì ảo (44)
      • 2.3.1. Thời gian mơ hồ, không xác định (44)
      • 2.3.2. Thời gian huyền thoại (47)
  • Chương 3. Yêu ngôn – Một số phương thức nghệ thuật thể hiện yếu tố kì ảo (50)
    • 3.1. Môtip truyện dân gian (50)
    • 3.2. Biểu tượng đậm tính gợi hình, giàu sức ám ảnh (54)
    • 3.3. Giọng điệu huyễn hoặc, sắc lạnh (59)
  • KẾT LUẬN (63)
  • TÀI LIỆU THAM KHẢO (64)

Nội dung

Lịch sử vấn đề nghiên cứu

Nguyễn Tuân là một hiện tượng văn học độc đáo, thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu về phong cách sáng tác và sự nghiệp của ông.

Riêng với Yêu ngôn đã có một số bài viết, công trình nghiên cứu như sau:

GS Nguyễn Đăng Mạnh là một trong những nhà nghiên cứu hàng đầu về nhà văn Nguyễn Tuân, với nhiều bài viết sâu sắc về cuộc đời, sự nghiệp và nghệ thuật của ông Ông đã thực hiện ước nguyện của Nguyễn Tuân bằng cách sưu tầm các truyện ngắn kỳ ảo thành cuốn sách "Yêu ngôn" Trong lời giới thiệu cuốn truyện, Nguyễn Đăng Mạnh phác họa diện mạo cơ bản của "Yêu ngôn" và cho rằng các tác phẩm trong đó được viết trong giai đoạn sáng tác khó khăn nhất của Nguyễn Tuân, đồng thời nhận thấy trong những câu chuyện kỳ quái ấy vẫn có dấu ấn của những con người tài hoa.

Nguyễn Tuân” [21, tr 8] Ở bài viết Nguyễn Tuân trong tùy bút, Phong Lê nhận định những tác phẩm trước Cách mạng tháng Tám của Nguyễn Tuân là thể hiện một

Nhà văn, trong nỗi thất vọng với hiện tại, đã tìm về quá khứ để hồi tưởng những hình ảnh lấp lánh của một thời vang bóng, cùng những thú vui thanh lịch như ướp hương cuội hay thả thơ Tuy nhiên, ông cũng không ngần ngại khám phá những ham muốn kỳ quái và ma quái như “tiệc đầu lâu” hay “chém treo ngành” Sự đào bới trong cái tôi cô đơn và ích kỷ đã dẫn ông vào một thế giới hoàn toàn tách biệt với cuộc sống nhân dân, nơi chủ nghĩa cá nhân hưởng lạc chiếm ưu thế Cuối cùng, nhà văn không thể tránh khỏi việc lạc lối vào những khía cạnh kinh dị của cuộc sống, như trong các tác phẩm Trên đỉnh non Tản, Báo oán, và Loạn âm.

Chùa Đàn” [15, tr 75] Đi sâu vào thế giới Yêu ngôn Phong Lê còn cho rằng

Nguyễn Tuân thể hiện một thế giới hạn chế và ngột ngạt, dù có khát khao tự do cá nhân và khám phá không gian, thời gian Dù muốn leo lên đỉnh núi Tản hay xuống cõi âm, ông vẫn cảm nhận được sự tù túng, thiếu không khí và sự sống trong thế giới của mình.

Tôn Thảo Miên nhận định rằng mạch truyện trong "Yêu ngôn" của Nguyễn Tuân là một lối thoát khỏi thực tại, hướng đến thể loại truyện thần kỳ và quái đản, nơi tác giả thả hồn vào cõi âm để tránh xa cuộc sống trần thế Trong giai đoạn này, nhiều tác phẩm của Nguyễn Tuân thể hiện sự phản kháng tiêu cực đối với xã hội, tìm kiếm vẻ đẹp trong quá khứ với nỗi buồn tiếc nuối, hay buông thả trong cuộc sống bê tha, hoặc sáng tác những câu chuyện kỳ ảo để trốn tránh thực tại.

Nguyễn Thị Thanh Minh trong bài viết của mình đã chỉ ra rằng Nguyễn Tuân không ngẫu nhiên viết loạt truyện mang tên Yêu ngôn, mà đó là cuộc săn tìm những cảm giác mới lạ và mãnh liệt Qua đề tài này, ông thể hiện sức mạnh trí tưởng tượng của mình, bộc lộ niềm khao khát về những trải nghiệm khác thường mà ông không thể tìm thấy trong cuộc sống thực tại.

Trong bài viết "Thi pháp Nguyễn Tuân", Thụy Khuê nhấn mạnh rằng Nguyễn Tuân tìm kiếm mối liên hệ siêu hình giữa sống, chết, tình yêu và nghệ thuật Ông đưa ra quan niệm "Tài, Tử tương đố" như một sự đối xứng với thuyết "Tài, Mệnh tương đố" của Nguyễn Du Theo đó, tài tử nào cũng phải đối mặt với cái chết, điều này gần như đã được định sẵn, vì chữ "tài" luôn gắn liền với chữ "tử" Sự đồng âm giữa "tử" và "chết" cho thấy rằng trong tài tử đã có sự liên kết chặt chẽ với cái chết.

Nguyễn Tuân – Người nhập vai, Vương Trí Nhàn nhận định rằng "Yêu ngôn" của Nguyễn Tuân xuất phát từ sự tận tâm với nghề và sự hòa nhập sâu sắc vào nó Ông thường bị cuốn hút bởi sức mạnh của ngôn ngữ, để rồi từ đó cho ra đời những tác phẩm mang đậm chất kỳ quái Trước Cách mạng, những bế tắc trong việc tìm kiếm nghệ thuật đã dẫn đến những khoảnh khắc tự mê hoặc, tạo nên các tác phẩm "yêu ngôn" nổi bật như Xác ngọc lam, Đới roi, Rượu bệnh, và đỉnh cao là Chùa Đàn.

Trong các bài viết về Nguyễn Tuân, Vương Trí Nhàn đã phân tích nhan đề của tập truyện ngắn "Yêu ngôn", cho rằng hai chữ "yêu ngôn" chỉ loại truyện mang không khí ma quái, nơi mà cuộc sống và những hiện tượng huyền bí hòa quyện Những câu chuyện trong tập truyện này thường có sự giao thoa giữa người và ma, tạo nên những tình huống kỳ lạ, nhưng đồng thời cũng phản ánh sâu sắc tinh thần của đời sống hiện thực.

Trong bài viết Liêu trai hiện đại Việt Nam, Trần Lê Bảo đã cho rằng

Liêu trai hiện đại Việt Nam không chỉ mang màu sắc kì ảo giống như liêu trai Trung Quốc mà còn được cách tân để phù hợp với yêu cầu của thời đại và tâm hồn dân tộc Truyện "Yêu ngôn" của Nguyễn Tuân là một ví dụ tiêu biểu, với hình ảnh oan hồn xỏa tóc và non cao huyền bí, gợi nhớ đến những tác phẩm của Bồ Tùng Linh trong văn học hiện đại.

Yêu ngôn của Nguyễn Tuân được viết theo lối Liêu Trai của Bồ Tùng Linh với những chuyện ma chuyện quỉ hết sức kì quái hoang đường

Trong bài viết "Tình huống truyện trong Yêu ngôn của Nguyễn Tuân" trên Tạp chí Thế giới trong ta, số 418/2013, Nguyễn Hoàng Liêm đã chỉ ra rằng thể loại Yêu ngôn của Nguyễn Tuân có nguồn gốc từ truyện truyền kỳ, chí quái thời trung đại Người xưa thường viết những câu chuyện hoang đường, ma quái với mục đích giáo dục và hướng con người đến chân – thiện – mỹ Tuy nhiên, Nguyễn Tuân khẳng định rằng "yêu ngôn trước hết phải là yêu ngôn", vì vậy, dù các tác phẩm của ông có mang tính chất "yêu ngôn" như thế nào, chúng vẫn chứa đựng những giá trị luân lý, đạo lý và quan niệm nhân sinh sâu sắc.

Qua khảo sát các bài viết và công trình nghiên cứu về nhà văn Nguyễn Tuân, chúng tôi nhận thấy có nhiều tác phẩm và phê bình về ông, nhưng Yêu ngôn của Nguyễn Tuân vẫn chưa được nghiên cứu một cách hệ thống và đầy đủ Hầu hết các nghiên cứu hiện tại chỉ đề cập đến một số nét chính của tác phẩm, coi đó là những tác phẩm được viết trong thời kỳ khủng hoảng của nhà văn Tuy nhiên, đây là cơ sở để chúng tôi tiếp tục khám phá những giá trị ẩn chứa trong tập truyện ngắn này.

Tập truyện ngắn "Yêu ngôn" của nhà văn Nguyễn Tuân thể hiện rõ yếu tố kì ảo, qua đó khẳng định tài năng và phong cách độc đáo của ông Chúng tôi hy vọng bài viết này sẽ góp phần làm nổi bật sự đóng góp của Nguyễn Tuân đối với dòng văn chương kì ảo và văn học Việt Nam.

Phương pháp nghiên cứu

Trong đề tài này, chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau đây:

Chúng tôi áp dụng phương pháp hệ thống để nghiên cứu sự nghiệp sáng tác, đặc biệt là tập truyện ngắn "Yêu ngôn" Qua việc phân tích mối quan hệ giữa các yếu tố nội dung và hình thức của tác phẩm, chúng tôi khám phá các yếu tố kì ảo ẩn chứa trong những câu chuyện và cảnh đời mà tác giả đã sáng tạo, cũng như cách thức thể hiện những yếu tố kì ảo đó.

Phương pháp phân tích và tổng hợp là phương pháp chủ yếu mà chúng tôi áp dụng trong nghiên cứu này, nhằm mang đến cái nhìn sâu sắc và toàn diện về phong cách độc đáo cũng như nghệ thuật đặc trưng của tác giả.

Phương pháp so sánh và đối chiếu được áp dụng liên tục trong quá trình thực hiện luận văn, giúp làm nổi bật những nét độc đáo và đặc thù trong tài năng của Nguyễn Tuân qua tác phẩm Yêu ngôn.

Bố cục của khóa luận

Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, Nội dung chính của luận văn được triển khai qua 3 chương:

Chương 1 Nguyễn Tuân trong khuynh hướng văn học kì ảo

Chương 2 Yêu ngôn – Thế giới nghệ thuật kì ảo

Chương 3 Yêu ngôn – Một số phương thức nghệ thuật thể hiện yếu tố kì ảo

Nguyễn Tuân trong khuynh hướng văn học kì ảo

Yếu tố kì ảo trong văn chương

Cuộc sống đa dạng và phong phú, nhưng con người thường cảm thấy bị thu hẹp trong đó Để nuôi dưỡng niềm tin và lạc quan, trí tưởng tượng hư ảo trở thành một nguồn cảm hứng quan trọng Nó giúp con người thăng hoa và chinh phục cả đời sống thực tại lẫn tâm hồn Đối với nghệ sĩ, trí tưởng tượng là yếu tố thiết yếu để tạo ra những tác phẩm nghệ thuật độc đáo, biến hư cấu thành chất xúc tác cho giá trị thẩm mỹ Qua việc sử dụng hình thức không có thực để phản ánh thực tại, nhà văn đã tạo ra một thế giới mới mẻ và sinh động Tất cả những sản phẩm hư cấu này được gọi là “cái kì ảo”, và vai trò của nó trong việc định hình vẻ đẹp và tinh thần cho tác phẩm văn chương là không thể phủ nhận.

Yếu tố kì ảo đã xuất hiện từ rất sớm trong văn học dân gian cổ đại và tiếp tục hiện diện trong văn học hiện đại, tạo thành một dòng chảy liên tục trong sự phát triển của nền văn học nhân loại Mặc dù đã tồn tại lâu dài, khái niệm về văn học kì ảo vẫn chưa có định nghĩa thống nhất Qua nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy rằng ngoài thuật ngữ truyện kì ảo, còn có nhiều thuật ngữ khác như truyện kinh dị, truyện kì lạ, truyện huyền ảo và truyện ma Dù có tên gọi khác nhau, nhưng tất cả đều mang yếu tố kì ảo trong nội dung và hình thức.

Theo Từ điển Tiếng Việt của Hoàng Phê, "kì ảo" được định nghĩa là vẻ đẹp lạ lùng, giống như chỉ tồn tại trong trí tưởng tượng và không có thật Thuật ngữ "Fantastic" trong tiếng Pháp được sử dụng để chuyển dịch khái niệm này.

Fantastique, có nguồn gốc từ tiếng La Tinh là Phantasticus, được định nghĩa trong từ điển Pháp – Việt là sản phẩm của trí tưởng tượng, nơi cái siêu nhiên chiếm ưu thế Cái kì ảo không tuân theo quy luật thực tế mà chỉ thuộc về thế giới tưởng tượng, thể hiện qua những điều kỳ quặc, dị thường và huyễn hoặc Trong công trình "Cái kì ảo trong tác phẩm Balzac", Lê Nguyên Cẩn đã đưa ra công thức về cái kì ảo, nhấn mạnh sự độc đáo và khác biệt trong sáng tạo nghệ thuật.

Cái kì ảo = bình thường + phi thường, siêu nhiên

Lê Nguyên Cẩn đã định nghĩa cái kì ảo qua thuật ngữ Lefantastique, cho rằng đây là một phạm trù tư duy nghệ thuật được hình thành từ trí tưởng tượng và thể hiện qua các yếu tố siêu nhiên, khác lạ, phi thường Cái kì ảo hiện diện trong văn học dân gian và văn học viết qua các thời đại, tồn tại trên trục thực – ảo mà không hòa tan vào các dạng thức khác của trí tưởng tượng Ông coi cái kì ảo như một yếu tố nghệ thuật, tạo ra sự rung động trong hệ thống ý nghĩa, từ đó thu hút con người Nó có thể xuất phát từ giấc mơ hoặc sự kết thúc dục vọng, mang trong mình sức mạnh bí ẩn và dễ dàng nắm bắt ý nghĩa tượng trưng.

Lê Nguyên Cẩn đã giới thiệu 11 đề tài kì ảo của Roger Caillois và 23 đề tài kì ảo của M Schneider, tập trung vào các môtíp và nhân vật Thuật ngữ Fantastique hay Fantastic được sử dụng để mô tả bản chất của cái kì ảo.

Cái kì ảo là một phạm trù tư duy nghệ thuật, thể hiện trí tưởng tượng qua hình thức thần linh, ma quái và siêu nhiên Nó tồn tại trong thực tế nghệ thuật đặc thù, tạo ra sự đứt gãy trong chuỗi liên kết vũ trụ và gây ra sự do dự trong lòng độc giả Cái kì ảo xâm nhập vào cuộc sống đời thường, mang đến yếu tố phi logic vào thế giới logic Nhờ đó, nó trở thành lăng kính thẩm xét con người và cuộc đời, cũng như là phương tiện nghệ thuật phổ biến.

Todorov trong tác phẩm "Dẫn luận về văn chương kì ảo" định nghĩa cái kì ảo là những sự kiện không thể giải thích bằng quy luật của thế giới quen thuộc Người cảm nhận phải đối mặt với hai lựa chọn: một là coi đó chỉ là ảo giác hoặc sản phẩm của trí tưởng tượng, hai là chấp nhận sự kiện thực sự xảy ra, thuộc về một thực tại điều hành bởi những quy luật chưa biết Cái kì ảo tạo ra sự lưỡng lự trong nhận thức của con người, khi họ chỉ quen thuộc với các quy luật tự nhiên nhưng lại gặp phải hiện tượng siêu nhiên Khi lựa chọn một trong hai giải pháp, con người rời khỏi cái kì ảo để tiến vào thể loại cận kề như cái lạ hoặc cái thần tiên.

Ngô Tự Lập cho rằng kì ảo chính là mê lộ nghệ thuật, xuất hiện ở khắp nơi khi trật tự trở nên bó buộc và đáng sợ, làm cho tính hợp lý của trật tự ấy bị đặt thành câu hỏi Ông nhấn mạnh rằng sự xuất hiện của kì ảo càng trở nên kịch tính trong những thiết chế văn minh chặt chẽ, như những gì chúng ta đã chứng kiến ở phương Tây.

Phùng Hữu Hải định nghĩa rằng cái kì ảo là sản phẩm của trí tưởng tượng, được thể hiện qua những năng lực và yếu tố siêu nhiên, vượt ra ngoài tư duy lý tính của con người.

Tác giả Lê Nguyên Long cho rằng cái kỳ ảo không thể được lý giải bằng lý tính từ góc nhìn hiện tại, tạo ra sự đứt gãy trong chuỗi liên kết vũ trụ Điều này gây ra tâm trạng hoang mang cho những người đối diện với nó Theo Vax, khi con người không còn coi những mê tín là nghiêm túc, họ bắt đầu sử dụng chúng như nguồn cảm hứng để sáng tạo nghệ thuật.

Yếu tố kì ảo thường xuất hiện trong trí tưởng tượng, kết hợp với sự hư cấu để tạo ra tính lưỡng sự mơ hồ Điều này cho thấy kì ảo là một trong những thủ pháp nghệ thuật độc đáo và hiệu quả trong kho tàng văn xuôi thế giới.

Văn học kì ảo là thể loại văn học chứa đựng các yếu tố ma quái và quái dị, với những nhân vật không có thực Nó không chỉ phản ánh cuộc sống mà còn khám phá những đặc trưng và thế mạnh của những điều khác lạ, phi thường, vượt ra ngoài khả năng nhận thức thông thường của con người.

Văn học kỳ ảo chú trọng miêu tả các hình thức thái quá và sự chuyển hóa đặc biệt, bao gồm cả sự đồi bại Nó cũng khám phá vị trí của tàn nhẫn, bạo lực và cái chết, cũng như cuộc sống sau cái chết Đặc biệt, các yếu tố này thường gắn liền với chủ đề tình yêu.

Văn học kì ảo là một dòng chảy liên tục từ quá khứ đến hiện tại, phản ánh những nhận thức và niềm tin lý tưởng của người cổ đại về thế giới Từ các tác phẩm văn học dân gian cổ đại cho đến văn học hiện đại, yếu tố kì ảo không chỉ thể hiện thái độ con người đối với những ẩn ức xã hội mà còn khát vọng sống của con người Mục đích sử dụng yếu tố này là để thỏa mãn lý tưởng đạo đức trong bối cảnh xã hội cụ thể, đồng thời giúp con người giải mã những hiện tượng trong cuộc sống Dù thời gian trôi qua, thế giới vẫn còn nhiều bí ẩn chưa được khám phá, khiến văn học kì ảo luôn là phương tiện để tìm hiểu cuộc sống đa dạng Ngoài ra, yếu tố kì ảo còn là công cụ để nhà văn thể hiện quan niệm nhân sinh và tư tưởng thẩm mỹ của mình đến với độc giả.

Nguyễn Tuân và cuộc hành trình đến với văn học kì ảo

Văn học là một loại hình nghệ thuật đặc thù, phản ánh sự biến chuyển và phát triển của xã hội qua các thời kỳ lịch sử Nó không chỉ là sản phẩm của cuộc sống mà còn mang trong mình nhịp đập, dáng dấp và hơi thở của thời đại, thể hiện sự hình thành và tồn tại của một hệ thống chỉnh thể.

Trong giai đoạn 1930 – 1945, nhiều sự kiện lịch sử và xã hội đã làm thay đổi sâu sắc tâm lý con người, tạo ra một bầu không khí chán nản và u hoài Xã hội phong kiến đã đẩy con người vào tình cảnh bế tắc, khiến các nhà văn, nhà thơ tìm đến văn chương như một cách để khám phá “cái tôi” nội cảm và diễn tả ước mơ cá nhân Thái độ của họ đối với thực tại xã hội mang tính chủ quan, nhìn nhận cuộc sống qua lăng kính của khát vọng và sức tưởng tượng Để thoát khỏi thực tại chật chội, các nhà văn đã sử dụng nhiều yếu tố, trong đó việc thoát ly vào thế giới kì ảo là một phương thức giúp họ thỏa mãn khát khao tự do cá nhân và cân bằng trạng thái tinh thần.

Trong văn học Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945, ta thấy hình ảnh Xuân Diệu trốn chạy trong tình yêu ngập tràn hương sắc, Huy Cận đắm chìm trong nỗi sầu vạn kí với sự mênh mông vô tận, Chế Lan Viên u uẩn tìm về thời hoàng kim của vương quốc Chiêm Thành đã mất, và Lưu Trọng Lư ru mình trong thế giới mộng tưởng Bên cạnh đó, những nhà văn như Nhất Linh, Hoàng Đạo, Khải Hưng với tôn chỉ “tươi trẻ, yêu đời”, đã tạo ra một trường phái sáng tạo mới, góp phần làm phong phú thêm văn chương truyền kỳ và thể hiện tinh thần phấn đấu, tin tưởng vào sự tiến bộ và tôn trọng tự do cá nhân.

Nguyễn Tuân, một trong những cây bút lớn và tài hoa nhất của văn học Việt Nam hiện đại, đã phủ nhận những cái hủ lậu để khai phá những miền đất mới mẻ, nơi mà bản ngã không còn bị giới hạn Với cá tính độc đáo và vốn hiểu biết sâu rộng về phương Đông, lối viết của ông trong thể loại truyện huyền bí, mang đậm chất “kì” và liêu trai, thực sự phù hợp với tạng của một cây bút như Nguyễn Tuân.

Nguyễn Tuân bắt đầu sự nghiệp sáng tác vào những năm 30 của thế kỷ XX Đối với ông, việc viết văn và làm báo luôn có sự liên kết chặt chẽ Ông đã đóng góp nhiều bài viết cho các tờ báo nổi tiếng.

Trung Bắc Tân văn đã đăng nhiều tác phẩm của Nguyễn Tuân, bao gồm thơ, truyện ngắn và bút ký trên các tờ báo như Đông Tây, An Nam tạp chí và Tiểu thuyết thứ bảy Ông sử dụng nhiều bút danh như Ngột Lôi Quất, Thanh Hà, Nhất Lang, Tuân, Nguyễn Tuân, Ân Ngũ Tuyên, và Tuấn Thừa Sắc Mặc dù không thành công ngay từ những tác phẩm đầu tay, Nguyễn Tuân đã thử sức ở nhiều thể loại như thơ, bút ký và truyện ngắn hiện thực trào phúng Đến đầu năm 1938, ông tìm ra sở trường và đạt được thành công lớn với các tác phẩm nổi bật như Một chuyến đi (1938), Vang bóng một thời (1939), Thiếu quê hương (1940) và Chiếc lư đồng mắt cua (1941).

Tác phẩm của Nguyễn Tuân trước Cách mạng tháng Tám tập trung vào ba đề tài chính: “chủ nghĩa xê dịch”, vẻ đẹp của “Vang bóng một thời” và đời sống trụy lạc, mỗi đề tài đều để lại dấu ấn riêng cho nhà văn Đặc biệt, “Vang bóng một thời” được xem là tác phẩm đầu tay gần đạt đến sự hoàn thiện và toàn mỹ, theo nhận xét của Vũ Ngọc Phan Qua đó, Nguyễn Tuân đã khám phá và ca ngợi cái đẹp, cái thật trong cuộc sống, từ đó tôn vinh vẻ đẹp của nghệ thuật.

Nguyễn Tuân, qua tác phẩm Chiếc lư đồng mắt cua, đã khắc họa chân thực cuộc sống bê tha và trụy lạc, phản ánh tâm trạng bế tắc của nhân vật “tôi” trong việc tìm kiếm lối thoát qua âm nhạc, rượu và thuốc phiện Trong bối cảnh khủng hoảng tinh thần, tác giả thể hiện khát khao vươn tới một thế giới thanh cao và tinh khiết nhờ nghệ thuật Yêu nước và bất mãn với xã hội đã dẫn ông đến với khuynh hướng văn học kỳ ảo, nơi ông tìm kiếm sự trốn thoát khỏi thực tại Nguyễn Tuân đã sử dụng yếu tố kỳ ảo như một công cụ kích thích trí tưởng tượng, tạo nên những câu chuyện diệu kỳ, đa sắc màu Ông đã viết nhiều tác phẩm mang màu sắc kỳ ảo, trong đó có những truyện trong Vang bóng một thời và các bài viết trên báo, tạp chí Tập truyện ngắn Yêu ngôn, được biên soạn bởi nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Mạnh, đã kết tinh giá trị nội dung, nghệ thuật và quan niệm nhân sinh của Nguyễn Tuân.

Nguyễn Tuân trong Yêu ngôn đã khám phá vẻ đẹp của quá khứ, thể hiện nỗi buồn và sự nuối tiếc, đồng thời tìm cách trốn tránh thực tại qua việc sáng tác các tác phẩm kỳ ảo và quái đản Chính vì lý do này, ông đã xây dựng cho mình một không gian nghệ thuật độc đáo trong dòng văn học kỳ ảo từ năm 1930 đến 1945.

Yêu ngôn – một cõi riêng kì ảo Nguyễn Tuân

Từ xa xưa, yếu tố thần kỳ đã xuất hiện trong văn học Việt Nam, đặc biệt trong các câu chuyện cổ tích và thần thoại Tính chất hoang đường là đặc trưng cơ bản của truyện dân gian, với những tình tiết li kì tạo nên sức hấp dẫn cho các tác phẩm Điều này lý giải vì sao nhiều tác giả văn học đương đại Việt Nam vẫn tiếp tục sử dụng yếu tố kì ảo như một công cụ sáng tạo nghệ thuật hiệu quả.

Giai đoạn 1930 – 1945, văn học Việt Nam đã có sự phát triển mạnh mẽ với nhiều tác phẩm nổi bật như "Truyện ngắn đường rừng kì ảo" của Lan Khai, "Thần hổ" và "Ai hát giữa rừng khuya" của Tchya – Đái Đức Tuấn, cùng "Vàng và máu" và "Trại Bồ Tùng Linh" của Thế Lữ Những tác phẩm như "Trên đỉnh non tản", "Xác ngọc lam", "Loạn âm" và "Khoa thi cuối cùng" của Nguyễn cũng đã đóng góp đáng kể vào dòng chảy văn học thời kỳ này.

Những tác phẩm như "Tuân", "Lan rừng" của Nhất Linh và "Ngậm ngãi tìm trầm" của Thanh Tịnh đã thể hiện tài năng và sự sáng tạo của các tác giả, góp phần làm phong phú thêm thể loại truyện kỳ ảo trong văn học Việt Nam.

Truyện của Lan Khai cuốn hút người đọc với màu sắc kỳ lạ của vùng đất xa xôi, mang đến cảm giác mê hoặc trong không gian huyền bí, giúp họ khám phá sâu vào rừng thẳm và tiếp cận các gia đình Thổ Mán để hiểu rõ những tâm tư kỳ dị Trong khi đó, Thế Lữ cũng tạo nên những tác phẩm mang màu sắc bí ẩn và rùng rợn, nổi bật nhất là Vàng và máu (1934), được coi là tác phẩm tiêu biểu trong thể loại kinh dị, được Lê Huy Oanh đánh giá là một trong những tác phẩm rùng rợn có giá trị lớn trong kho tàng tiểu thuyết Việt Nam.

Nguyễn Tuân, khác với nhiều nhà văn khác, luôn khao khát những trải nghiệm mới mẻ và mãnh liệt, ông mong muốn mỗi ngày trong cuộc sống đều mang lại cảm giác say đắm như trong đêm tân hôn Những cảm xúc này ông không thể tìm thấy trong môi trường xung quanh, vì vậy ông tìm kiếm một thế giới khác để sống một cách nồng nàn và cuồng nhiệt, thể hiện trọn vẹn cá tính của mình Khi bước vào thế giới của cõi âm và cõi ma, Nguyễn Tuân cuốn hút độc giả bằng những nét lãng mạn độc đáo, giàu tính thẩm mỹ và nhân văn Ông được coi là một nhà văn độc lập, với phong cách và tư tưởng riêng biệt, và tác phẩm "Yêu ngôn" đã tạo nên những giá trị đặc sắc cho văn học.

Mạch truyện Yêu ngôn của Nguyễn Tuân xuất hiện vào khoảng năm 1943 trên các tờ Thanh Nghị và Trung Bắc Chủ Nhật, với những đoản thiên viết theo lối Liêu Trai của Bồ Tùng Linh, chứa đựng những câu chuyện ma quái và hoang đường Tác phẩm này không chỉ là một thể tài đặc biệt mà còn định danh phong cách độc đáo của nhà văn, tạo nên "một cõi riêng" trong dòng văn học kì ảo Dù là chuyện ma, nhưng đó là "ma tài hoa, tài tử" của Nguyễn Tuân Ông đã dự định tập hợp những câu chuyện này thành một tập truyện ngắn từ năm 1942-1943, nhưng chưa kịp hoàn thành và sau đó ít được nhắc đến Nhiều năm sau khi ông qua đời, Yêu ngôn đã có cơ hội trở lại trên văn đàn văn học.

Tập truyện ngắn "Yêu ngôn" của nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Mạnh, xuất bản bởi Hội nhà văn năm 1998, bao gồm các tác phẩm như "Khoa thi cuối cùng", "Trên đỉnh non Tản", "Đới roi", "Xác ngọc lam", "Rượu bệnh", "Lửa nến trong tranh", "Loạn âm", và "Tâm sự của nước độc" (hay còn gọi là "Chùa Đàn") Nguyễn Đăng Mạnh đã giải thích rằng sự ra đời của tập truyện này phản ánh khát khao của Nguyễn Tuân trong việc tìm kiếm những cảm giác mới lạ và mãnh liệt, điều mà ông không thể tìm thấy trong cuộc sống hàng ngày đầy nhàm chán và tẻ nhạt.

Quá trình thưởng thức tác phẩm của Nguyễn Tuân cho thấy mỗi truyện của ông là một công trình nghệ thuật độc đáo, kết hợp tinh hoa của nghệ thuật Đông và Tây Ông đã tạo ra một phong cách yêu ngôn kì ảo, giàu hương vị dân tộc, với những nhân vật vừa quen vừa lạ, sống động trong không gian ma quái, nơi thực và ảo hòa quyện Những nhân vật như anh khóa bị ma ám hay người thợ mộc được Sơn thần gọi lên đều mang đậm bản sắc Việt Nam, không thể nhầm lẫn với các nhân vật khác Vẻ đẹp huyền bí và ma quái trong tác phẩm của Nguyễn Tuân không chỉ thể hiện sự sáng tạo cá nhân mà còn phản ánh sâu sắc văn hóa dân tộc.

Dữ, cùng với những hồ ly tinh trong tác phẩm của Bồ Tùng Linh, và các nhân vật hồn ma trong truyện kinh dị của Edgar Allan Poe, Prosper Mérimée, và Viller der L’isle Ađam, tạo nên một bức tranh phong phú về thế giới siêu nhiên và tâm linh trong văn học.

Yêu ngôn là con đường giúp nhà văn diễn đạt quan niệm về thế giới và cái đẹp Để khám phá giá trị đích thực, cái đẹp thường phải được tìm kiếm đến tận cùng Truyện của Nguyễn Tuân, dù có yếu tố yêu ngôn và đôi khi mang đến cảm giác lo sợ, vẫn chứa đựng nội dung luân lý sâu sắc, phản ánh tinh thần của đời sống hiện thực Chính vì vậy, Yêu ngôn của Nguyễn Tuân đã tạo ra một không gian riêng biệt trong dòng văn học kỳ ảo.

Yêu ngôn – Thế giới nghệ thuật kì ảo

Nhân vật kì ảo

Văn học không chỉ là nghệ thuật mà còn là nhân học, là nền tảng cho sự sáng tạo của nghệ sĩ Nguyễn Tuân đã khéo léo xây dựng một thế giới nhân vật đa dạng, từ những con người bình thường với tính cách và tài năng đặc biệt đến những hồn ma và hiện tượng kỳ lạ Ông đã phủ lên tất cả những nhân vật này một lớp kì ảo, tạo nên sự phong phú và đa sắc cho thế giới Yêu ngôn của mình.

Qua khảo sát Yêu ngôn, chúng tôi phân chia nhân vật kỳ ảo thành hai loại: thế giới hồn ma và thế giới kỳ nhân, kỳ vật Mỗi loại nhân vật, mặc dù có những đặc điểm riêng biệt, nhưng đều phản ánh những tư tưởng và quan niệm nhân sinh sâu sắc của tác giả.

2.1.1 Thế giới nhân vật hồn ma

Nguyễn Tuân đã khéo léo xây dựng thế giới nhân vật hồn ma trên mảnh đất kì ảo, thể hiện quyền năng vô hình và bản nguyên của sự sống Trong tác phẩm Yêu ngôn, những hồn ma đều là những nhân vật tài hoa, sống mãi với nợ duyên trần thế, hiện hình như con người bình thường và có khả năng giao tiếp, tâm tình với người sống Họ biết yêu, ghét, và oán trách, như hồn ma cậu Ấm Đái, người thiếu phụ báo oán, Vị Quan Ôn báo ân, ông Chánh Thú và cô Dó Dù là “ma yêu”, “ma báo oán” hay “ma báo ân”, tất cả đều mang nét tài hoa, đặc trưng của thế giới Yêu ngôn của Nguyễn Tuân.

Cậu Đái, một tài tử lừng danh trong thế giới ăn chơi, đã tiêu tán cơ nghiệp vào đam mê âm nhạc Khi rơi vào cảnh bần cùng, cậu chọn cái chết để không phải sống nhờ lòng thương hại, trở thành một hồn ma thiêng, thường hiện về quấy rối những người không tôn trọng vong hồn mình Với tài năng xuất chúng, Đới Roi quyết định tự kết liễu đời mình thay vì chấp nhận tình yêu mà anh cho là "bố thí" Qua hình tượng cậu Đái, Nguyễn Tuân gửi gắm thông điệp về nhân cách và lối sống cao đẹp, phản ánh khí tiết còn sót lại giữa cuộc đời đầy rẫy khó khăn.

Trong tác phẩm "Chùa Đàn" của Nguyễn Tuân, hồn ma ông Chánh Thú xuất hiện trong giấc mơ của Cô Tơ, trò chuyện về việc đàn hát dưới âm phủ và ước muốn được đầu thai làm người Vào một đêm gần sáng, Cô Tơ nửa tỉnh nửa mơ nghe thấy tiếng động lạ trong buồng và khi quay lại, cô thấy hồn ma chồng mình, ông Chánh Thú, trong bộ đồ trắng Ông nói với cô rằng sắp có người đến nghe mình hát, và khi người ấy đàn xong, sẽ phải hy sinh mạng sống để ông được đầu thai, mang lại một ý nghĩa bi thương về sự nối tiếp giữa hai cõi sống và chết.

Hồn ma xuất hiện trên dương gian, tạo nên những cuộc trò chuyện bình thường giữa người và hồn ma, mang đến cảm giác rùng rợn Nguyễn Tuân dường như đã sống thật sự với các nhân vật quái đản của mình, dẫn dắt người đọc vào một thế giới ma quái, nơi ranh giới giữa hư và thực, dương gian và âm phủ trở nên mờ nhạt.

Trong tác phẩm "Khoa thi cuối cùng," nhân vật ma báo oán hiện lên với hình ảnh một người đàn bà trẻ, xỏa tóc, ẵm con, xuất hiện ngay giữa trường thi Hồn ma này không ngừng quấy rối ông Đầu Xứ Anh và Đầu Xứ Em, khiến họ không thể tập trung vào việc thi cử Cô ta gào khóc, giữ chặt tay ông, và thậm chí lấy tóc quất vào mặt ông, gây cảm giác bỏng rát Hành động của cô không chỉ dừng lại ở đó; cô còn cười sằng sặc và hắt mực vào quyển thi của ông, khiến ông phải xin đổi quyển nhiều lần nhưng vẫn không thể thoát khỏi sự quấy nhiễu của oan hồn này.

Hai anh em ông trải qua những cơn đau bụng dữ dội, như bị ám ảnh bởi oan hồn, khiến họ phải mơ hoảng và thiếp đi Trước mỗi kỳ thi Quan Chánh Chủ khảo tại trường Hà Nam, họ luôn thực hiện nghi lễ cúng tế trời đất và thánh thần để cầu mong bình an.

“ – Báo oán giả, tiên nhập; – Báo ân giả, thứ nhập; – Sĩ tử thứ thứ nhập”

Oan hồn vẫn hiện ra để báo oán, do những việc làm thất đức của ông Huấn trong quá khứ, khiến đời sau phải gánh chịu Khi còn sống, ông đã phải chịu trách nhiệm cho cái chết của một nàng hầu tài hoa đang mang thai Oán thù này tiếp tục đeo bám gia đình ông, làm cho hai anh em Đầu Xứ gặp trắc trở trong các kỳ thi, dẫn đến thất bại ê chề Sự liên kết giữa oan hồn và những người còn sống đã khiến cho khoa danh của họ không thành, bất chấp tài năng của họ Qua tác phẩm "Khoa thi cuối cùng," Nguyễn Tuân phần nào lý giải nguyên nhân thất bại của các sĩ tử xưa, đồng thời gửi gắm triết lý sâu sắc về mối quan hệ giữa quá khứ và hiện tại mà dân gian vẫn thường nhắc đến.

"Đời cha ăn mặn, đời con khát nước" nhấn mạnh tầm quan trọng của việc sống có trách nhiệm và tạo phúc cho thế hệ sau Chúng ta cần sống hòa hợp, tránh những hành động sai trái để không để lại gánh nặng cho con cháu.

Cuộc sống luôn tồn tại hai mặt đối lập, như âm và dương, sáng và tối, đẹp và xấu Trong văn học, nhân vật ma cũng phản ánh điều này Chẳng hạn, trong tác phẩm "Khoa thi cuối cùng," xuất hiện những linh hồn báo oán, trong khi "Loạn âm" lại có những ma quái báo ân.

Quan Ôn, một nhân vật từ âm thế, được Diêm Vương giao nhiệm vụ quản lý việc xây dựng đường ở địa phủ, cụ thể là phải thu thập đủ một nghìn phu Trong hành trình qua Hải Dương, ông đã gặp lại bạn học cũ, Kinh Trịnh, và quyết định báo ân bằng cách tiết lộ danh sách nạn nhân, đồng thời đề nghị Kinh Trịnh cứu giúp những người thân Quan Ôn còn xin Diêm Vương ban chức Chánh Tuyển Quan cho Kinh Trịnh, cho thấy sự tri ân của ông Hình ảnh hồn ma của Quan Ôn xuất hiện như một con người bình thường phản ánh mong muốn của Nguyễn Tuân trong việc xóa nhòa ranh giới giữa cõi âm và dương, cho phép hồn ma và người sống có thể chung sống hòa hợp.

Thế giới nhân vật ma trong Yêu ngôn còn là kiểu ma yêu, Cô Dó –

Cô gái của Ngàn Thiêng, sống trong Góc Dó Thần, là linh hồn của cây cối nơi đây Giọng hát ngọt ngào của cô vang vọng khắp nương rẫy Tuy nhiên, tình yêu dành cho cậu Năm nhà họ Chu đã khiến cô quyết định rời xa rừng xanh, trở về làng giấy.

Kể từ khi cô Dó rời khỏi Hồ Khẩu, vùng đất này không còn được nghe tiếng hát của cô, và Góc Dó nơi cô sinh sống cũng đã sụp đổ Khi về sống trong nhà họ Chu, cô Dó âm thầm hỗ trợ chồng trong việc ghè giấy, mang lại cho giấy dó một linh hồn mới Nhờ vậy, lò chế giấy của Cậu Năm họ Chu tại làng Hồ Khẩu bước vào một kỷ nguyên mới với sản phẩm giấy tự nhiên thơm đẹp, vượt xa hàng triệu đối thủ khác Cuối cùng, cô Dó đã ra đi và biến thành một khối ngọc lam toàn bích.

Nguyễn Tuân xây dựng thế giới nhân vật ma với hồn ma hiện hình, tạo ra sự giao thoa giữa âm và dương, khiến người đọc khó phân biệt đâu là ma, đâu là người Các nhân vật ma không chỉ đơn thuần là hình ảnh rùng rợn mà còn thể hiện tình cảm, sự căm ghét và yêu thương, phản ánh “âm bản” của thế giới trần tục Thế giới ma của Nguyễn Tuân như một chiếc cầu nối giữa thực và ảo, đồng thời gửi gắm những trăn trở về nhân sinh quan và cuộc đời Việc xây dựng hình ảnh hồn ma còn thể hiện văn hóa tâm linh, tín ngưỡng của con người, gợi mở những cảm xúc thẩm mỹ và suy tư về thế giới khác mà con người sẽ phải đối diện.

2.1.2 Thế giới kì nhân, kì vật

Không gian kì ảo

Không gian nghệ thuật, theo Từ điển thuật ngữ văn học, là hình thức bên trong của hình tượng nghệ thuật, thể hiện tính chỉnh thể và mang tính chủ quan Trong tác phẩm văn học, không gian nghệ thuật giúp mô hình hóa các mối liên hệ của thế giới, bao gồm thời gian, xã hội, đạo đức và trật tự Nó có thể mang tính địa điểm và phân giới, phản ánh các phạm trù thời gian như bước đường đời hay con đường cách mạng Đồng thời, không gian nghệ thuật có thể cản trở, biểu hiện các kiểu tính cách con người, hoặc không cản trở như trong cổ tích, nơi ước mơ và công lý được thực hiện dễ dàng.

Trong tác phẩm "Yêu ngôn" của Nguyễn Tuân, không gian kì ảo được khắc họa sâu sắc, tạo nên chiều sâu tâm tưởng và cảm nhận về cuộc sống giữa âm và dương, hư và thực Không gian này không chỉ bao gồm cõi trần với những điều kỳ lạ, mà còn mở rộng đến cõi âm, cõi vô thức và quá khứ văn hóa truyền thống của vùng quê xưa Những yếu tố kì ảo này xâm nhập vào đời sống và tâm hồn nhân vật, làm nổi bật lên một không gian đa màu sắc và phong phú trong tác phẩm.

Mỗi tác phẩm văn học đều bị ảnh hưởng bởi hoàn cảnh lịch sử và xã hội của thời đại mà nó ra đời Câu chuyện trong tác phẩm thường được sắp xếp theo một trật tự thời gian nhất định, có thể là tuyến tính hoặc theo dòng tâm tưởng Thời gian kết hợp với không gian tạo nên bối cảnh cho câu chuyện, từ đó phát triển các diễn biến chính của tác phẩm.

Trong tập truyện ngắn "Yêu ngôn", không gian quá khứ được khắc họa rõ nét qua hoài niệm và ký ức, tạo nên bức tranh sống động về một thời đã qua Nguyễn Tuân khéo léo tái hiện những hình ảnh quen thuộc như núi non, sông nước, phố phường và các làng nghề thủ công truyền thống, mang đến cho độc giả cảm giác gần gũi và thân thương Những khung cảnh này không chỉ phản ánh đời sống mà còn chứa đựng những giá trị văn hóa đặc trưng của tâm hồn Việt, được thể hiện sinh động qua ngòi bút tài hoa của tác giả.

Trong bài viết, Nguyễn Tuân khắc họa không gian thi cử của trường thi Việt Nam đầu thế kỷ XX, với hình ảnh những con đò và hoa hòe vàng nở rộ tại Sơn Nam, gợi nhớ đến niềm tự hào của sĩ tử Mùa hoa hòe không chỉ mang lại vẻ đẹp mà còn là thời điểm những người có chữ bắt đầu bận rộn với ước mơ thành đạt trong tương lai Trong khi đó, nhà thơ Tú Xương lại phản ánh thực tại qua hình ảnh trường ốc với sự hiện diện của các nhân vật ngoại quốc, thể hiện nỗi niềm chua chát và sự châm biếm trước hiện thực thi cử.

Nhà nước ba năm mở một khoa Trường Nam thi lẫn với trường Hà Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ Ậm ọe quan trường miệng thét loa

Cờ kéo rợp trời, quan sứ đến Váy lê quét đất, mụ đầm ra Nhân tài đất Bắc nào ai đó?

Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà!

Trong tác phẩm "Lễ xướng danh khoa Đinh Mậu - Tú Xương," Nguyễn Tuân đã khắc họa không khí sôi động của huyện lỵ Hà Nam như trong một ngày hội, với hình ảnh phố Hàng Giấy tràn ngập giấy mực và các loại bút nổi tiếng như Song Lam, Thanh Chi, Nhất Chi, Kiều Lan, Trúc Lan, cùng với bút Tảo Thiên Quân Qua đó, ông đã khơi dậy và làm sống lại văn hóa truyền thống của một thời xa xưa Sự am hiểu sâu sắc về văn hóa dân tộc và xuất thân từ một gia đình Nho học chính là yếu tố giúp Nguyễn Tuân tạo ra những trang thơ đầy giá trị như vậy.

Trong trang văn Yêu ngôn, hình ảnh sinh hoạt văn hóa truyền thống Việt Nam hiện lên sống động với những cảnh buôn bán tấp nập tại các địa danh như Ô Chợ Dừa, Ô Cầu Giấy, và Ô Quan Chưởng Những dòng mô tả về rượu ngon từ tả ngạn song Nhĩ được đưa vào Kinh đô, cùng hình ảnh các cô gái Bồ Đề ghé đò ngang, tạo nên sự xao xuyến cho những ai từng gắn bó với Thăng Long Nguyễn Tuân, với tài năng đặc biệt, đã khắc họa cảnh sắc và hương vị quê hương một cách tinh tế, làm nổi bật vẻ đẹp kỳ diệu của nghệ thuật truyền thống làng quê.

Nghề làm giấy ở làng Hồ Khẩu (Xác ngọc lam) được nhà văn khắc họa sinh động, đặc biệt là loại giấy dó nổi tiếng của nhà họ Chu Họ chỉ sản xuất giấy lụa và giấy lệnh hội, không làm giấy moi, và chỉ khi có khoa thi, họ mới làm giấy cho học trò Giấy của nhà họ Chu có đặc điểm nhận diện rõ ràng: mặt giấy nhẵn mà không cứng, chất giấy dai, và khi sờ vào, người ta cảm nhận được sự dễ chịu Vào mùa hè, giấy mang lại cảm giác mát lạnh, còn mùa đông thì ấm áp Hương thơm nhẹ nhàng từ giấy, giống như mùi thảo mộc tươi sống, khiến nó trở thành một vật quý giá trên thế gian.

Làng Chàng Thôn, tỉnh Đoài, nổi tiếng với nghề thợ mộc truyền thống, nơi có những sản phẩm gỗ tinh xảo được biết đến không chỉ trong nước mà còn thu hút sự chú ý của những người từ xa Cuộc sống của người dân nơi đây gắn liền với nông nghiệp, họ là những nông dân chăm chỉ vào mùa vụ và là những thợ thủ công khéo léo trong thời gian nông nhàn Trên đỉnh non Tản, dấu ấn văn hóa cổ kính vẫn hiện hữu qua những mái đình, thể hiện tài năng của người thợ mộc Những tác phẩm gỗ của họ không chỉ đơn thuần là vật dụng mà còn mang đậm hồn cốt văn hóa, với những chi tiết chạm khắc tinh xảo như đầu kèo vai, câu đầu và bức trần gỗ, thể hiện sự tỉ mỉ và công phu vượt trội so với các nơi khác.

Không gian quá vãng là những gì đã qua, không thể nhìn thấy mà chỉ có thể cảm nhận qua văn thơ và câu chuyện Nguyễn Tuân đã khéo léo tái hiện không gian văn hóa giàu bản sắc dân tộc, như Phan Cự Đệ đã nhận xét: “Nguyễn Tuân làm cái việc của một người đi khơi lại đống tro tàn của dĩ vãng, tìm lại cái đẹp ngày đã qua một thời vang bóng.” Cảm xúc của người đọc khi gấp sách lại thường là sự ngậm ngùi và tiếc nuối cho những gì đã mất Qua không gian quá vãng, tình cảm sâu nặng của Nguyễn Tuân đối với quê hương đất nước hiện lên rõ nét trong từng trang viết.

Không gian huyền kì là sự hòa quyện giữa ảo và thực, âm và dương, tạo nên một thế giới tưởng tượng chỉ có trong thần thoại và cổ tích Nguyễn Tuân đã khéo léo sáng tạo ra một không gian ma quái và huyền ảo, đồng thời vẫn gắn liền với nền tảng thực tế.

Không gian huyền bí trong "Yêu ngôn" được khắc họa qua những cánh đồng dâu bát ngát và cảnh sắc núi non hùng vĩ, tạo nên một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp và lôi cuốn.

Hồ Tây và không gian huyền ảo trong "Trên đỉnh non Tản" tạo nên một bức tranh sống động, nơi có những hình ảnh như gian nhà cỏ, ngõ nhỏ và bến đò, mang đậm tính nguyên sơ và gợi cảm giác ma mị Không gian núi Tản, với vẻ đẹp huyền bí của sương khói, là một thế giới bí ẩn, nơi tiếng nước róc rách và cảnh vật lung linh như trong giấc mơ Đặc biệt, hình ảnh tiên nhân ung dung với râu tóc trắng xốp và cây gậy trúc vàng óng, cùng với sự giao thoa giữa tiên cảnh và hạ giới, khiến con người có thể dễ dàng di chuyển giữa hai cõi Cảm giác bay lên giữa các lớp mây, như những hạt sắt bị khối đá nam châm hút lên cao, tạo nên một trải nghiệm kỳ diệu và thú vị.

Do ảnh hưởng của những trận mưa, Đền Thượng thường xuyên hư hỏng, và đám thợ mộc Chàng Thôn được Sơn thần triệu tập, tạo nên một khung cảnh huyền ảo Cuộc sống nơi đây không cần lo lắng về mưu sinh, vì lúa gạo dồi dào, chỉ cần đập những viên cuội là có ngay thực phẩm Những loại cây ăn quả như hồ đào, với trái chín vàng và má hồng, tạo nên sự phong phú cho bữa ăn Thức ăn được thưởng thức mà không cần nấu nướng, chỉ cần đập vỡ cuội để lấy nhân là đủ hương vị Nguyễn Tuân khéo léo vẽ nên một không gian êm dịu, kỳ thú của chốn bồng lai tiên cảnh Ngược lại, trong các tác phẩm khác, không gian kinh dị như trong Khoa thi cuối cùng, lại tạo nên bầu không khí rùng rợn với sự xuất hiện của hồn ma, khiến cho không gian trở nên u ám và huyền bí.

Gió u hiển thổi vào bãi trường, mang theo âm thanh như tiếng oan hồn chen chúc, khiến những cây nến bỗng tắt lịm Cảnh trường thi u ám, với mặt đất sáng hơn nền trời, tạo nên không khí chờ đợi sự biến đổi Gió không còn muốn thổi, những ngọn nến đứng yên, khói hương bay thẳng lên Trời Đông chỉ có mây đen dày đặc, trong khi phía Tây xuất hiện cầu vòng cụt, tạo nên những màu sắc chói mắt Đây là khoảnh khắc oan hồn người đàn bà hiện ra, quấy rối ông Đầu Xứ Anh và ông Đầu Xứ.

Thời gian kì ảo

Thời gian nghệ thuật trong tác phẩm là yếu tố quan trọng, thể hiện tính chỉnh thể của hình tượng nghệ thuật Nó bắt nguồn từ một điểm nhìn nhất định, phản ánh sự tự cảm nhận của con người về thế giới Thời gian này có thể liên kết chặt chẽ với chuỗi biến cố trong cốt truyện, như trong cổ tích, hoặc xây dựng trên dòng tâm trạng và ý thức, như trong tiểu thuyết Có những tác phẩm dừng lại ở quá khứ, khép kín trong tương lai, hoặc trôi chảy qua các diễn biến sinh hoạt, gắn liền với vận động của thời đại và lịch sử Bên cạnh đó, cũng có thời gian nghệ thuật mang tính vĩnh cửu, đứng ngoài thời gian như trong thần thoại.

2.3.1 Thời gian mơ hồ, không xác định

Trong tác phẩm "Yêu", Nguyễn Tuân xây dựng thời gian một cách mơ hồ và không xác thực Ông đã khéo léo sử dụng biện pháp hư ảo hóa thời gian ban đêm để tạo nên không gian huyền ảo, đầy bí ẩn và mập mờ.

Đêm không chỉ là thời gian mà còn là biểu tượng cho sự thai nghén của những mưu đồ bí mật, nơi mọi khả năng tiềm tàng của cuộc sống được ẩn chứa Tuy nhiên, bước vào đêm cũng đồng nghĩa với việc đối diện với những điều chưa xác định, những ác mộng và quái vật Đêm tượng trưng cho cái vô thức, nơi mà những ẩn khuất được giải phóng Nguyễn Tuân trong tác phẩm "Yêu ngôn" đã khéo léo xây dựng một thời gian mơ hồ giữa ánh sáng và bóng tối, tạo ra không gian cho những nhân vật kỳ ảo xuất hiện Thời khắc ban đêm trở nên huyền bí, nơi mà hồn ma và những điều kỳ quái có thể xảy ra, làm cho con người cảm thấy sự bí ẩn của thời gian.

Thời gian bắt đầu kỳ thi cuối cùng diễn ra trong đêm mưa dầm tối tăm, khi hai anh em tài hoa chưa đến bốn mươi nhăm tuổi cùng nhau bước đến cửa trường thi, cảm nhận được sự chật vật trên con đường công danh và đặt ra câu hỏi về việc tiếp tục Trong khi đó, đêm cũng là thời điểm cô Dó xuất hiện bên Hồ Tây, nơi khung cảnh đêm đông không còn lạnh lẽo như trước Âm thanh từ tiếng chầy của cậu Năm giã dó hòa quyện với những tiếng hát lơ lớ, tạo nên một không gian vừa quen thuộc vừa mới mẻ, khi cậu Năm làm giấy và cô Dó hỗ trợ chồng trong công việc.

Cô Dó thường xuất hiện vào ban đêm bên hồ Tây và sông Tô, với hình ảnh mờ ảo trong chiếc áo choàng rách nát và mái tóc rối bời Trong những đêm nóng nực, âm thanh của móng ngựa và nhạc réo rắt vang lên, báo hiệu sự xuất hiện của những hồn ma từ âm thế Một nhân vật quen thuộc, Quan Ôn, lại hiện về nhưng trong trang phục khác lạ Chỉ trong đêm tối, những hồn ma mới có thể biến mất, để lại âm thanh lanh lảnh của nhạc ngựa trong gió khuya Thời gian đêm trở thành yếu tố quan trọng trong các câu chuyện, tạo nên không khí huyền bí và ma quái cho những hiện tượng kỳ ảo.

Thời gian mơ hồ trong Yêu ngôn còn xuất hiện hàng loạt với những:

Trong các tác phẩm như "Trên đỉnh non Tản", "Xác ngọc lam", "Rượu bệnh" và "Lửa nến trong tranh", thời gian được miêu tả một cách mơ hồ, từ những buổi chiều xa xưa đến những đêm khuya đầy bí ẩn Những khoảnh khắc này tạo nên sự mơ màng, không xác định trong câu chuyện, thường diễn ra vào ban đêm - thời điểm con người đối diện với chính mình và bỏ lại sau lưng những lo toan thường nhật Thời gian đêm trở thành khoảng không gian lý tưởng để mỗi người sống với bản thân, chìm đắm trong thế giới vô thức, trực giác và linh cảm.

“tâm” trong mỗi người “thức” và nhiều sự khác không bình thường xảy đến”

Yêu ngôn khơi gợi trong lòng người đọc những suy tư sâu sắc về cuộc sống Giữa những điều kỳ ảo và mơ hồ, con người cần nhận diện những giá trị thực sự, điều cần được trân trọng và gìn giữ.

Huyền thoại được định nghĩa là "câu chuyện huyền hoặc, kỳ lạ, hoàn toàn do tưởng tượng; thần thoại." Đây là một hình thức tư duy đặc thù của con người thời nguyên thủy, trong đó yếu tố kỳ ảo che giấu những sự thật và được bảo lưu dưới nhiều dạng thức trong đời sống tinh thần của các nhóm cư dân trên thế giới, đồng thời ảnh hưởng đến văn học nghệ thuật Vào thế kỷ XX, khái niệm này tiếp tục phát triển và trở thành một phần quan trọng trong việc hiểu về văn hóa và lịch sử nhân loại.

Huyền thoại trở lại với nhân loại, là sự pha trộn giữa thực tại và hoang đường, giữa hư ảo và kỳ diệu, thường thông qua việc phóng đại kích cỡ hoặc làm lệch lạc hình tượng nhân vật và sự kiện lịch sử Mục đích của việc này có thể là để giải thích một nhân vật vĩ đại hoặc truyền bá một tư tưởng nào đó trong đại chúng Thời gian huyền thoại mang vẻ thần bí và kỳ lạ, hoàn toàn do tưởng tượng, và có lẽ chỉ những khoảnh khắc tối tăm, đêm khuya của Nguyễn Tuân mới có thể làm hiện lên thời gian này.

Với nhà văn Nguyễn Tuân, viết Yêu ngôn ông dựa trên mạch nguồn cảm xúc từ những chuyện dân gian mang tính huyền thoại Do vậy, đọc

Nguyễn Tuân khéo léo dẫn dắt người đọc vào những câu chuyện cổ tích và huyền thoại qua những hình ảnh sống động, như việc "vua Thủy lại dâng nước một lần như thế lên chân núi Tản." Ông sử dụng lối kể chuyện mang đậm tính chất văn học dân gian, khiến độc giả như lạc vào xứ sở thần tiên, với những "trận hồng thủy dữ dội tàn khốc" được cho là do cuộc đánh ghen giữa vua Thủy và một vị thần trong Tứ.

"Bất tử nơi thế giới u linh" là một chủ đề hấp dẫn, nơi những câu chuyện kỳ bí được truyền lại qua nhiều thế hệ Đền thờ thánh, với những huyền thoại và tín ngưỡng, là nơi lưu giữ những ký ức và niềm tin của con người về sự sống và cái chết Những câu chuyện này không chỉ mang tính chất giải trí mà còn phản ánh sâu sắc văn hóa và tâm linh của cộng đồng.

Tản có đủ ba ngôi Đền Hạ và đền Trung thì nhiều người đã lên tới rồi

Nhưng vượt được cái vách đá trái núi thắt quả bồng để lên cho được trên đền

Thượng, chưa từng thấy có ai thuật lại việc đó” [21, tr 45]

Thời gian trên đỉnh non Tản được miêu tả như một không gian vô thủy vô chung, nơi mà "ngày tháng không biết lấy gì mà đo tính" vì không có đêm hay ngày Đây là chốn bồng lai tiên cảnh với ánh sáng vĩnh viễn, tạo cảm giác thời gian trôi chậm hơn gấp nhiều lần so với hạ giới Con người ở đây cảm thấy "ngày thì dài mà không thấy suốt ruột", cho thấy sự khác biệt rõ rệt về cảm nhận thời gian: "tính theo ngày tháng của các ngươi, thì cũng phải đi vắng mất chừng một tháng", và "đường đi từ đây lên đấy, tính thời gian theo cái phép đo lường của hạ giới thì cũng phải mất đến nửa ngày".

Thời gian huyền thoại, giống như trong các truyện cổ tích và thần thoại, là một khái niệm mà chỉ những người thần, người tiên mới có thể hiểu rõ, trong khi con người trần gian không thể nắm bắt Nguyễn Tuân đã kế thừa và sáng tạo một cách độc đáo về loại thời gian này trong tác phẩm của mình.

Thời gian trong Yêu ngôn là sự kết hợp hài hòa giữa yếu tố kỳ ảo của quá khứ và hiện tại, nơi mà quá khứ, hiện tại và tương lai hòa quyện một cách lẫn lộn.

Khoa thi cuối cùng diễn ra vào năm Mậu Ngọ, nhưng không gian lại được tái hiện từ Khoa Ất Mão Ba năm trước, cũng vào ngày tế tiến trường, bầu trời và đất đai cũng âm thầm giống như những ngày hiện tại.

Yêu ngôn – Một số phương thức nghệ thuật thể hiện yếu tố kì ảo

Ngày đăng: 09/05/2022, 00:57

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Lại Nguyên Ân (biên soạn) (2003), 150 thuật ngữ văn học, NXB ĐHQG Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: 150 thuật ngữ văn học
Tác giả: Lại Nguyên Ân
Nhà XB: NXB ĐHQG Hà Nội
Năm: 2003
2. Lê Nguyên Cẩn (1999), Cái kì ảo trong tác phẩm của Balzac, NXB Giáo dục, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Cái kì ảo trong tác phẩm của Balzac
Tác giả: Lê Nguyên Cẩn
Nhà XB: NXB Giáo dục
Năm: 1999
3. Jean Chevalier, Alain Cheerbrant (1999), Từ điển biểu tượng văn hoá thế giới, NXB Đà Nẵng, Trường Viết văn Nguyễn Du Sách, tạp chí
Tiêu đề: Từ điển biểu tượng văn hoá thế giới
Tác giả: Jean Chevalier, Alain Cheerbrant
Nhà XB: NXB Đà Nẵng
Năm: 1999
4. Hà Thị Đoài (2009), Mô típ kì ảo trong Liêu trai chí dị của Bồ Tùng Linh, Khóa luận tốt nghiệp, ĐHSP Đà Nẵng Sách, tạp chí
Tiêu đề: Mô típ kì ảo trong Liêu trai chí dị của Bồ Tùng Linh
Tác giả: Hà Thị Đoài
Năm: 2009
5. Hà Minh Đức (chủ biên) (2005), Những vấn đề lý luận và lịch sử văn học, NXB KHXH, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Những vấn đề lý luận và lịch sử văn học
Tác giả: Hà Minh Đức
Nhà XB: NXB KHXH
Năm: 2005
6. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2010), Từ điển thuật ngữ văn học, NXB Giáo dục Sách, tạp chí
Tiêu đề: Từ điển thuật ngữ văn học
Tác giả: Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi
Nhà XB: NXB Giáo dục
Năm: 2010
7. Cao Thị Thu Hoài (2009), Yếu tố kì ảo trong sáng tác của Võ Thị Hảo, Luận văn thạc sĩ khoa học Ngữ văn, ĐHSP Thái Nguyên Sách, tạp chí
Tiêu đề: Yếu tố kì ảo trong sáng tác của Võ Thị Hảo
Tác giả: Cao Thị Thu Hoài
Nhà XB: ĐHSP Thái Nguyên
Năm: 2009
8. Đoàn Trọng Huy (2007), “Hình tượng không gian đa dạng trong văn xuôi nghệ thuật Nguyễn Tuân”, Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 6 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hình tượng không gian đa dạng trong văn xuôi nghệ thuật Nguyễn Tuân”, Tạp chí "Nghiên cứu văn học
Tác giả: Đoàn Trọng Huy
Năm: 2007
9. Bồ Tùng Linh (2011), Liêu trai chí dị, NXB Văn hóa – Thông tin, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Liêu trai chí dị
Tác giả: Bồ Tùng Linh
Nhà XB: NXB Văn hóa – Thông tin
Năm: 2011
10. Nguyễn Hoàng Liêm (2013), “Tình huống truyện trong “Yêu ngôn” của Nguyễn Tuân”, Tạp chí Thế giới trong ta, số 418 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tình huống truyện trong “Yêu ngôn” của Nguyễn Tuân”, Tạp chí "Thế giới trong ta
Tác giả: Nguyễn Hoàng Liêm
Năm: 2013
11. Lê Nguyên Long (2006), “Về khái niệm kì ảo và văn học kì ảo trong nghiên cứu văn học”, Nghiên cứu văn học số 9, Viện văn học, Viện KHXHVN, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Về khái niệm kì ảo và văn học kì ảo trong nghiên cứu văn học
Tác giả: Lê Nguyên Long
Nhà XB: Nghiên cứu văn học
Năm: 2006
12. Nguyễn Văn Long, Lã Nhâm Thìn (2006), Văn học Việt Nam sau 1975 những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy, NXB Giáo dục Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn học Việt Nam sau 1975 những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy
Tác giả: Nguyễn Văn Long, Lã Nhâm Thìn
Nhà XB: NXB Giáo dục
Năm: 2006
13. Phương Lựu (chủ biên) (2006), Lí luận văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Lí luận văn học
Tác giả: Phương Lựu
Nhà XB: NXB Giáo dục
Năm: 2006
14. Nguyễn Đăng Mạnh (2005), Những bài giảng về tác gia văn học Việt Nam hiện đại, NXB Đại học Sư phạm Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Những bài giảng về tác gia văn học Việt Nam hiện đại
Tác giả: Nguyễn Đăng Mạnh
Nhà XB: NXB Đại học Sư phạm Hà Nội
Năm: 2005
15. Tôn Thảo Miên (2003), Nguyễn Tuân về tác gia và tác phẩm, NXB Giáo dục, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nguyễn Tuân về tác gia và tác phẩm
Tác giả: Tôn Thảo Miên
Nhà XB: NXB Giáo dục
Năm: 2003
16. Vương Trí Nhàn (2005) Cây bút đời văn, NXB Hội nhà văn Sách, tạp chí
Tiêu đề: Cây bút đời văn
Tác giả: Vương Trí Nhàn
Nhà XB: NXB Hội nhà văn
Năm: 2005
17. Vũ Ngọc Phan (1989), Nhà văn hiện đại, tập 1, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nhà văn hiện đại, tập 1
Tác giả: Vũ Ngọc Phan
Nhà XB: NXB Khoa học xã hội
Năm: 1989
18. Hoàng Phê (1998), Từ điển Tiếng Việt, NXB Đà Nẵng Sách, tạp chí
Tiêu đề: Từ điển Tiếng Việt
Tác giả: Hoàng Phê
Nhà XB: NXB Đà Nẵng
Năm: 1998
19. Trần Đình Sử (2004), Tự sự học (một số vấn đề lí luận và lịch sử), NXB Đại học Sư phạm Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tự sự học (một số vấn đề lí luận và lịch sử)
Tác giả: Trần Đình Sử
Nhà XB: NXB Đại học Sư phạm
Năm: 2004
20. Phan Ngọc Thu (2001), Để hiểu thêm một số tác giả và tác phẩm Văn học Việt Nam hiện đại, NXB Giáo dục Sách, tạp chí
Tiêu đề: Để hiểu thêm một số tác giả và tác phẩm Văn học Việt Nam hiện đại
Tác giả: Phan Ngọc Thu
Nhà XB: NXB Giáo dục
Năm: 2001

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w