Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa luôn là chủ đề thu hút sự quan tâm của nhiều học giả và nhà nghiên cứu trong và ngoài nước Nhiều công trình nghiên cứu đã được thực hiện, tập trung vào các nguồn sử liệu và thư tịch cổ để khẳng định rõ ràng quyền sở hữu của Việt Nam đối với quần đảo này.
Nhiều công trình nghiên cứu về chủ quyền Hoàng Sa đã được thực hiện dựa trên các nguồn sử liệu và chứng cứ lịch sử Các nhà sử học và nhà nghiên cứu lịch sử đã phân tích và đưa ra những luận cứ thuyết phục để khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo này.
Trong “Phủ biên tạp lục” (năm 1972) của Lê Quý Đôn, bản dịch của tác giả
Lê Xuân Giao đã mô tả chi tiết các hoạt động của đội Bắc Hải và đội Hoàng Sa, nhấn mạnh sự xác lập chủ quyền và bảo vệ lãnh thổ của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Dưới triều Nguyễn, nhiều tài liệu chính sử đã xác nhận chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, trong đó có tác phẩm Dư Địa Chí trong bộ Lịch sử.
Triều Hiến Chương Loại Chí của Phan Huy Chú (1821) và Hoàng Việt Địa Dư Chí (1833) đều đề cập đến Hoàng Sa, có nhiều điểm tương đồng với Phủ Biên Tạp Lục của Lê Quý Đôn từ thế kỷ XVIII Đại Nam Thực Lục phần tiền biên, quyển 10, khẳng định chủ quyền của Đại Việt thông qua hoạt động của đội Hoàng Sa và đội Bắc Hải Các phiên bản của Đại Nam Thực Lục Chính biên, được khắc in từ năm 1848 đến 1864, tiếp tục củng cố luận điểm này.
Vào năm 1879, có 11 đoạn viết về quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, cung cấp nhiều thông tin mới và phong phú về việc khẳng định chủ quyền của Việt Nam tại đây Tài liệu quý giá này là Châu bản triều Nguyễn thế kỷ XIX, chứa đựng các bản tấu và phúc tấu từ các bộ như Bộ Công, cùng những dụ của các vua về việc xác lập chủ quyền Các hoạt động như vãng thám, đo đạc, vẽ họa đồ Hoàng Sa và cắm cột mốc được ghi nhận rõ ràng Đặc biệt, vào năm 1845, dưới triều Thiệu Trị, đã có chỉ thị đình hoãn kỳ vãng thám, nhưng sau đó lại tiếp tục thực hiện.
Các tài liệu như "Nam thực lục chính biên" (2007), "Đại Nam nhất thống chí" (1992) và bộ "Minh Mệnh chính yếu" (1994) đã ghi chép nhiều về việc dựng bia và cắm mốc chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa Những tài liệu này chứng minh sự quan tâm và nỗ lực bảo vệ chủ quyền của các vua quan triều đình phong kiến Việt Nam đối với hai quần đảo này.
Hiện nay, có nhiều sách tổng hợp các báo cáo khoa học và nghiên cứu từ những cứ liệu lịch sử, cùng với các tư liệu quý giá từ các thư tịch cổ, chẳng hạn như “Hai quần đảo”.
Hoàng Sa và Trường Sa là bộ phận lãnh thổ không thể tách rời của Việt Nam, như được khẳng định trong tác phẩm của Vũ Phi Hoàng, xuất bản năm 1988 bởi NXB Quân đội nhân dân Cuốn sách "Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam" do NXB Trẻ phát hành năm 2009 và tác phẩm của Nguyễn Đình Đầu năm 2014 cũng nhấn mạnh chủ quyền của Việt Nam trên biển Đông cùng với hai quần đảo này.
Tác phẩm “Hoàng Sa, Trường Sa lãnh thổ Việt Nam nhìn từ công pháp quốc tế” của Nguyễn Quốc Thắng (2008) đã cung cấp nhiều chứng cứ và tư liệu khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa Năm 2014, “Kỷ yếu Hoàng Sa” do Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng và huyện đảo Hoàng Sa xuất bản đã bổ sung thông tin và tư liệu cổ, cùng với lời chứng của những nhân chứng từng sống và làm việc tại Hoàng Sa, nhằm khẳng định lại chủ quyền lãnh thổ của người Việt Nam đối với khu vực này.
Nhiều nghiên cứu, hội thảo và triển lãm đã được tổ chức để khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa Tuy nhiên, chưa có công trình nào hệ thống và đầy đủ nghiên cứu về sự đóng góp của hai địa phương Quảng Nam và Đà Nẵng trong việc bảo vệ chủ quyền này Những tư liệu quan trọng vẫn cần được khai thác và làm rõ hơn để hỗ trợ cho công tác này.
Đề tài khóa luận của tôi, "Đóng góp của nhân dân Quảng Nam - Đà Nẵng trong việc khẳng định và bảo vệ chủ quyền Hoàng Sa," sẽ được thực hiện với sự hỗ trợ từ 8 nguồn tài liệu quan trọng Những tài liệu này sẽ giúp làm rõ vai trò và những nỗ lực của cộng đồng địa phương trong việc bảo vệ chủ quyền biển đảo.
ối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
ối ượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu tập trung vào sự đóng góp của nhân dân hai tỉnh Quảng Nam và Đà Nẵng trong việc khẳng định và bảo vệ chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa.
Phạm vi nghiên cứu
Về không gian: Với đề tài này, phạm vi nghiên cứu mà chúng tôi nghiên cứu là hai tỉnh Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng
Về thời gian: Đề tài tập trung nghiên cứu từ khi Việt Nam khẳng định chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa cho đến nay.
Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là nhằm làm rõ những đóng góp quan trọng của nhân dân Quảng Nam và Đà Nẵng trong việc khẳng định và bảo vệ chủ quyền của Hoàng Sa.
Sa qua các thời kỳ
Nghiên cứu này nhằm cung cấp bằng chứng lịch sử khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, đồng thời nhấn mạnh tầm quan trọng của việc xác nhận quyền sở hữu lãnh thổ này trên trường quốc tế.
Nghiên cứu đề tài này nhằm nâng cao nhận thức của cộng đồng, đặc biệt là thế hệ trẻ, về tầm quan trọng của việc bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của Tổ quốc, khẳng định rằng đây luôn là ưu tiên hàng đầu.
Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
Nguồn ư liệu nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, tôi đã tiến hành thu thập tài liệu tại thư viện Khoa Học - Tổng Hợp Đà Nẵng và phòng học liệu khoa Lịch Sử, trường Đại Học Sư Phạm - Đại Học Đà Nẵng Tôi đã tìm kiếm thông tin từ sách báo, tạp chí liên quan, cũng như khai thác tư liệu từ các website có uy tín Đặc biệt, tôi chú trọng vào các nguồn tư liệu tại chỗ từ hai địa phương Quảng Nam và Đà Nẵng.
Phương pháp nghiên cứu
Trong nghiên cứu đề tài này, chúng tôi áp dụng phương pháp luận dựa trên quan điểm sử học Mác-xít, sử dụng phương pháp nghiên cứu duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để phân tích và đánh giá vấn đề một cách sâu sắc.
Chúng tôi áp dụng hai phương pháp nghiên cứu trong lĩnh vực Lịch sử cho đề tài này, bao gồm phương pháp lịch sử cụ thể và phương pháp logic để đảm bảo tính chính xác và sâu sắc trong phân tích.
Chúng tôi áp dụng nhiều phương pháp nghiên cứu như sưu tầm, so sánh và đối chiếu để thu thập tư liệu có độ chính xác và khái quát cao Bên cạnh đó, công tác điền dã và thực địa cũng được chú trọng và xem là yếu tố quan trọng trong quá trình nghiên cứu.
óng góp của khóa luận
Nghiên cứu thành công đề tài “Đóng góp của nhân dân Quảng Nam - Đà
Nẵng trong việc khẳng định và bảo vệ chủ quyền Hoàng Sa” có ý nghĩa khoa học và thực tiễn to lớn
Đề tài này làm rõ những đóng góp quan trọng của nhân dân Quảng Nam và Đà Nẵng trong việc khẳng định và bảo vệ chủ quyền Hoàng Sa Đồng thời, nghiên cứu cũng có tác động mạnh mẽ đến nhận thức và thái độ của người dân về việc bảo vệ chủ quyền Hoàng Sa và biển đảo quê hương.
Thứ ba, từ đó có thể đưa ra những giải pháp phù hợp cho việc khẳng định và bảo vệ biển đảo trong tình hình hiện nay
Trong bối cảnh thế giới đang diễn ra nhiều biến động, đặc biệt là sự gia tăng căng thẳng trong tranh chấp chủ quyền lãnh thổ ở Biển Đông do Trung Quốc gây ra, việc khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trở nên cực kỳ quan trọng Đề tài này không chỉ mang ý nghĩa khoa học mà còn có giá trị thực tiễn lớn, giúp cộng đồng quốc tế nhận thức rõ ràng về quyền lợi hợp pháp của Việt Nam trong khu vực.
Bố cục
Bài viết bao gồm phần mở đầu và kết luận, cùng với hai chương nội dung chính Chương 1 cung cấp cái nhìn tổng quan về Quảng Nam - Đà Nẵng và quần đảo Hoàng Sa Chương 2 tập trung vào những đóng góp của nhân dân Quảng Nam - Đà Nẵng trong việc khẳng định và bảo vệ chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa.
ỔNG QUAN VỀ QUẢNG NAM - NG VÀ QUẦ ẢO HOÀNG SA
Tổng quan về Quảng Nam - à ẵng
1.1.1 Vị rí địa lý, đi u kiện tự nhiên
Quảng Nam là một tỉnh ven biển nằm trong vùng phát triển kinh tế trọng điểm miền Trung, giáp với thành phố Đà Nẵng ở phía Bắc và biển Đông ở phía Đông.
Quảng Nam có 125 km bờ biển, giáp tỉnh Quảng Ngãi ở phía Nam, tỉnh Kon Tum và Lào ở phía Tây Tỉnh có 14 huyện và 2 thị xã, trong đó có 8 huyện miền núi Với diện tích tự nhiên 10.406,83 km² và dân số khoảng 1,5 triệu người, Quảng Nam nằm ở vị trí trung độ của đất nước, thuận lợi cho giao thông Bắc - Nam qua đường sắt, đường bộ, biển và hàng không Tỉnh được kết nối với đường Hồ Chí Minh và các quốc lộ, tạo điều kiện cho giao lưu kinh tế với các tỉnh Tây Nguyên và biên giới Việt - Lào Đặc biệt, phía Bắc là thành phố Đà Nẵng, trung tâm kinh tế lớn, còn phía Nam là khu vực phát triển công nghiệp dịch vụ Chu Lai - Dung Quất với cảng Kỳ Hà và sân bay Chu Lai Địa hình Quảng Nam phức tạp, chia thành 3 vùng sinh thái: vùng núi cao, vùng trung du và vùng đồng bằng ven biển, với các tiểu vùng đặc trưng nhờ hệ thống sông Vu Gia, Thu Bồn, Tam Kỳ.
Vùng sông Vu Gia, Thu Bồn, Tam Kỳ nổi bật với phù sa bồi đắp hàng năm, tạo điều kiện cho người dân thâm canh lúa nước và cây công nghiệp ngắn ngày Khu vực ven biển chủ yếu là đất cát, tập trung vào sản xuất hoa màu, trồng rừng chống cát bay và nuôi trồng hải sản Trong quá trình công nghiệp hóa, vùng này có lợi thế về hạ tầng giao thông gần sân bay, bến cảng và hệ thống điện quốc gia Vùng Trung du với độ cao trung bình 100m, địa hình đồi bát úp xen kẽ đồng bằng, nơi người dân truyền thống trồng lúa, cây màu và chăn nuôi Vùng miền núi phía Tây tỉnh là nơi cư trú của các dân tộc ít người, chủ yếu sống bằng nông lâm nghiệp với phương thức canh tác lạc hậu Thế mạnh của vùng này là rừng, cây công nghiệp dài ngày và chăn nuôi đại gia súc, cùng với các khu rừng đặc sản như sâm Trà Linh và quế Trà My, tạo điều kiện cho phát triển cây cao su và tiêu, hình thành vùng nguyên liệu cho ngành chế biến nông lâm sản.
Thành phố Đà Nẵng, bao gồm vùng đất liền và quần đảo Hoàng Sa, nằm ở vị trí địa lý thuận lợi với tọa độ 15°55' đến 16°14' vĩ độ Bắc và 107°18' đến 108°20' kinh độ Đông Phía Bắc giáp tỉnh Thừa Thiên - Huế, Tây và Nam giáp tỉnh Quảng Nam, còn phía Đông giáp Biển Đông Quần đảo Hoàng Sa nằm ở 15°45' đến 17°15' vĩ độ Bắc, cách đảo Lý Sơn khoảng 120 hải lý về phía Nam Đà Nẵng là trung tâm giao thông quan trọng của Việt Nam, cách Hà Nội 764 km về Bắc, Hồ Chí Minh 964 km về Nam và Huế 108 km về Tây Bắc Thành phố này còn là điểm giao thoa của bốn di sản văn hóa thế giới: cố đô Huế, Phố cổ Hội An, Thánh địa Mỹ Sơn và Rừng quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng Đà Nẵng cũng đóng vai trò là cửa ngõ ra biển quan trọng cho Tây Nguyên và các nước Lào, Campuchia, Thái Lan, Myanma, kết nối với các nước Đông Bắc Á thông qua Hành lang kinh tế Đông Tây với cảng Tiên Sa.
Thành phố Đà Nẵng nằm ở vị trí địa lý thuận lợi với địa hình đa dạng, bao gồm đồng bằng và núi Khu vực núi cao và dốc tập trung ở phía Tây và Tây Bắc, nơi có nhiều dãy núi chạy dài ra biển, cùng với những đồi thấp xen kẽ đồng bằng ven biển Địa hình đồi núi chiếm diện tích lớn, với độ cao từ 700 - 1.500m và độ dốc lớn, đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ môi trường sinh thái Hệ thống sông ngòi ngắn và dốc bắt nguồn từ phía Tây và Tây Bắc, trong khi đồng bằng ven biển là khu vực thấp bị ảnh hưởng bởi nước biển, nơi tập trung nhiều cơ sở nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ, quân sự và các khu chức năng của thành phố.
Diện tích đất lâm nghiệp tại thành phố Đà Nẵng lên tới 67.148 ha, chủ yếu phân bố ở phía Tây và Tây Bắc, bao gồm ba loại rừng: rừng đặc dụng (22.745 ha, với 15.933 ha là đất có rừng), rừng phòng hộ (20.895 ha, trong đó 17.468 ha có rừng) và rừng sản xuất (23.508 ha, với 18.176 ha là đất có rừng) Rừng tập trung chủ yếu ở huyện Hòa Vang, cùng với một số diện tích nhỏ ở quận Liên Chiểu, Sơn Trà và Ngũ Hành Sơn Tỷ lệ che phủ rừng đạt 49,6%, và trữ lượng gỗ ước tính khá đáng kể.
Đà Nẵng sở hữu 3 triệu m³ rừng, chủ yếu phân bố ở khu vực có độ dốc lớn và địa hình phức tạp, mang lại giá trị kinh tế cũng như phục vụ nghiên cứu khoa học và bảo vệ môi trường Thành phố được thiên nhiên ưu đãi với các khu bảo tồn như Bà Nà, Sơn Trà và khu văn hóa lịch sử Nam Hải Vân Đà Nẵng có bờ biển dài 30 km và vịnh Đà Nẵng được bảo vệ bởi núi Hải Vân và Sơn Trà, tạo điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng cảng lớn và giao thông đường thủy Vịnh Đà Nẵng cũng là nơi trú bão an toàn cho tàu lớn, với ngư trường rộng trên 15.000 km², chứa đựng 266 loài động vật biển, trong đó có 16 loài hải sản giá trị cao Tổng trữ lượng hải sản ước tính đạt 1.136.000 tấn, tập trung ở vùng nước sâu từ 50-200m.
Đà Nẵng có tiềm năng khai thác hải sản lớn, với khả năng đạt từ 150.000 - 200.000 tấn mỗi năm Khu vực này có độ sâu biển đa dạng, với 48,1% diện tích ở độ sâu dưới 50m, 31% ở độ sâu 50m, và 20,6% ở vùng nước sâu trên 200m Bên cạnh đó, Đà Nẵng sở hữu bờ biển dài và nhiều bãi tắm đẹp như Non Nước, Mỹ Khê, Thanh Khê, và Nam Ô, cùng với cảnh quan thiên nhiên phong phú Khu vực quanh bán đảo Sơn Trà còn nổi bật với các bãi san hô lớn, tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển các dịch vụ và hoạt động du lịch biển.
1.1.2 Lịch sử hình thành và phát triển
Vào năm 1306, một phần phía Bắc Quảng Nam được sáp nhập vào Đại Việt qua thỏa thuận giữa Thượng Hoàng Trần Nhân Tông và Vua Chiêm Thành Chế Mân, liên quan đến hôn nhân của Huyền Trân công chúa Đến đầu thế kỷ XV, Quảng Nam chính thức thuộc quyền lực của Đại Việt sau khi nhà Hồ thương thảo với triều đình Chiêm Thành, đồng ý giao nộp Chiêm động (bắc Quảng Nam) và Cổ Lũy động (Quảng Ngãi hiện nay) cho người Việt.
Hồ chia đất Chiêm động và Cổ Lũy thành 4 châu: Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa, và thiết lập lộ Thăng Hoa để thống lĩnh các châu này Ông đã đưa dân từ Nghệ An và Thuận Hóa vào khai khẩn đất đai và chỉ định người cai quản cho khu vực.
Năm 1471, vua Lê Thánh Tông đã thành lập Thừa tuyên Quảng Nam, bao gồm ba phủ: Thăng Hoa, Tư Nghĩa và Hoài Nhơn, đánh dấu sự xuất hiện của danh xưng Quảng Nam trong Đại Việt Trong thời kỳ Trịnh - Nguyễn phân tranh, Quảng Nam thuộc quyền cai quản của chúa Nguyễn từ năm 1570, góp phần vào sự phát triển của vùng đất này Trong kháng chiến chống Pháp, nhân dân Quảng Nam đã tiên phong trong các phong trào đấu tranh, nổi bật với những chí sĩ yêu nước như Trần Quý Cáp và Phan Châu Trinh Quảng Nam cũng là nơi có tổ chức Đảng Cộng sản hoạt động sớm nhất Trong kháng chiến chống Mỹ, quân và dân Quảng Nam đã ghi dấu ấn với nhiều chiến công, đặc biệt trong chiến dịch giải phóng Huế - Đà Nẵng.
Ngày 14 tháng 3 năm 1975 là mốc lịch sử quan trọng, góp phần vào đại thắng mùa xuân, giải phóng hoàn toàn miền Nam và thống nhất đất nước Kể từ sau ngày giải phóng, Đảng bộ và nhân dân Quảng Nam - Đà Nẵng đã nỗ lực hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục và phát triển kinh tế - xã hội, đưa tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng ngày càng phát triển vững mạnh.
Cửa biển Đà Nẵng, một trong những cửa sông lớn của miền Quảng Nam, đã được đánh giá cao từ nhiều thế kỷ trước nhờ vào vịnh Đà Nẵng với nước sâu và an toàn Vào đầu thế kỷ XVIII, Đà Nẵng dần trở thành thương cảng quan trọng thay thế cho Hội An, đặc biệt khi kỹ thuật đóng tàu châu Âu phát triển Năm 1858, Pháp xâm lược Việt Nam bắt đầu từ Đà Nẵng và sau đó tách nơi đây khỏi Quảng Nam, đổi tên thành Tourane, quản lý trực tiếp bởi Toàn quyền Đông Dương Đầu thế kỷ XX, Tourane được phát triển thành đô thị kiểu Tây phương với hạ tầng xã hội và kỹ thuật sản xuất được đầu tư, hình thành các ngành nghề như nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ Cùng với Hải Phòng và Sài Gòn, Tourane trở thành trung tâm thương mại quan trọng của cả nước.
Tháng 3 năm 1965, Mỹ đổ bộ vào Đà Nẵng và thiết lập ở đây một căn cứ quân sự hỗn hợp lớn Năm 1967, Đà Nẵng được chính quyền Việt Nam Cộng hòa ấn định là thành phố trực thuộc trung ương và xác định mục tiêu xây dựng Đà Nẵng thành trung tâm chính trị, quân sự, văn hóa cho vùng I và II chiến thuật Năm 1975, hòa bình lập lại, Đà Nẵng là thành phố thuộc tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng bắt tay vào khôi phục những hậu quả nặng nề của cuộc chiến tranh Mặc dù còn lắm khó khăn nhưng công cuộc phục hồi và phát triển thành phố đã đạt được nhiều thành quả, nhất là thời kỳ đổi mới sau năm 1986
Ngày 6 tháng 11 năm 1996 tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa IX đã thông qua Nghị quyết cho phép tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng tách thành tỉnh Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng trực thuộc Trung ương Về địa giới hành chính, thành phố Đà Nẵng mới bao gồm thành phố Đà Nẵng trước đây, huyện Hòa Vang và huyện đảo Hoàng Sa
Khái quát về quần đảo Hoàng Sa
Trong quá khứ, cả người Việt và người phương Tây đều có những cách gọi khác nhau về "Hoàng Sa" Ban đầu, họ đều nghĩ rằng ở giữa Biển Đông chỉ có một quần đảo duy nhất, nên sử dụng tên gọi chung Người Việt thường gọi là Bãi Cát Vàng, Cồn Vàng, hoặc Hoàng Sa, đôi khi còn được gọi là Đại Trường Sa hay Vạn Lý Trường Sa Các tên gọi này đều có nguồn gốc từ chữ Nôm và chữ Hán, mang ý nghĩa tương tự: Sa có nghĩa là Cát, Hoàng là Vàng, Trường có nghĩa là Dài, Đại là Lớn, và Vạn Lý nghĩa là Vạn Dặm Bãi chỉ những vùng đất nổi lên giữa sông hoặc biển, trong khi Cồn là gò đất nổi lên giữa dòng nước Tên gọi "Cát Vàng" rất phổ biến trong dân gian và được người dân sử dụng rộng rãi.
Quần đảo Hoàng Sa, còn được gọi là Bãi Cát Vàng hay Cồn Vàng, bao gồm nhiều đảo, đá và bãi cạn, số lượng đảo thay đổi theo thủy triều Vào thế kỷ XVI, người Bồ Đào Nha và Hà Lan đã gọi quần đảo này là Parcel, có nghĩa là đá ngầm Đến đầu thế kỷ XVII - XVIII, các nhà hàng hải Pháp và Anh đã ghi nhận tên Paracel trên bản đồ Năm 1787 - 1788, đoàn khảo sát Kergariou Locmaria đã xác định chính xác vị trí của quần đảo Paracel, giúp phân biệt giữa quần đảo ở phía Bắc và phía Nam Vào thập niên 40 của thế kỷ XX, người Pháp đã gọi quần đảo phía Nam là Spratley, chỉ chung cho quần đảo Trường Sa.
Người Việt đã kiểm soát vùng biển Đông từ thế kỷ XVII, với Lê Quý Đôn ghi nhận trong Phủ Biên Tạp Lục rằng Đội Bắc Hải thuộc đội Hoàng Sa phụ trách các đảo phía Nam, bao gồm Côn Lôn và Hà Tiên Đến thế kỷ XIX, địa danh Vạn Lý Trường Sa xuất hiện ở phía Nam cùng với đội Hoàng Sa ở phía Bắc trong Đại Nam Nhất Thống Toàn Đồ, tuy nhiên, hai quần đảo vẫn chưa được phân biệt rõ ràng Vào thời Ngô Đình Diệm năm 1956, khái niệm “hai quần đảo là một” được thể hiện khi văn bản ghi nhận Hoàng Sa bao gồm cả hai quần đảo Paracel và Spratley.
1.2.2 Vị rí địa lý, đi u kiện tự nhiên
Quần đảo Hoàng Sa, nằm ở khu vực Bắc Biển Đông, bao gồm 37 đảo, đá và bãi cạn, trải dài từ khoảng kinh tuyến 111° Đông đến 113° Đông và từ vĩ tuyến 15° 45' Bắc đến 17° 15' Bắc, tương đương với vị trí của Huế và Đà Nẵng Khu vực này thuộc huyện Hoàng Sa, thành phố Đà Nẵng, và chiếm một diện tích biển khoảng 30.000 km² Các đảo và bãi cạn trong quần đảo được xác định rõ ràng theo các cực Bắc, Nam, Đông và Tây.
Bảng 1.1 Vị trí các điểm cực của quần đảo Hoàng Sa
Vị trí các cực của quần đảo Vỹ độ Bắc Kinh độ ông
Cực Bắc: đảo Đá Bắc 17 o 06' 0" 111 o 30' 8"
Cực Nam: Bãi ngầm Ốc Tai Voi 15 o 44' 2" 112 o 14' 1"
Cực Đông: Bãi cạn Gò Nổi 16 o 49' 7" 112 o 53' 4"
Cực Tây: đảo Tri Tôn 15 o 47' 2" 111 o 11' 8"
Quần đảo Hoàng Sa có tổng diện tích phần nổi khoảng 10 km², với đảo lớn nhất là Phú Lâm có diện tích khoảng 1,5 km² Khu vực này nằm trong vùng biển rộng khoảng 30.000 km², trải dài ngang bờ biển các tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Quảng Nam và một phần tỉnh Quảng Ngãi Phạm vi quần đảo được giới hạn bởi đảo Đá Bắc ở cực Bắc, bãi ngầm Ốc Tai Voi ở cực Nam, bãi cạn Gò Nổi ở cực Đông và đảo Tri Tôn ở cực Tây.
Khoảng cách từ đảo Tri Tôn đến mũi Ba Làng An, tỉnh Quảng Ngãi là 135 hải lý, trong khi khoảng cách đến huyện đảo Lý Sơn (Cù Lao Ré) là 123 hải lý.
Quần đảo Hoàng Sa là một hệ sinh thái san hô phong phú với hơn 100 loài, nằm trong vòng cung san hô ở bờ biển Đông Nam châu Á Địa hình của các đảo ở đây khá đơn giản nhưng thể hiện rõ nét đặc trưng của địa hình ám tiêu san hô nhiệt đới Hầu hết các đảo có độ cao dưới 10 m và diện tích nhỏ hơn 1 km² Ngoài các đảo, khu vực này còn có các cồn san hô và vành đai san hô bao quanh một vùng nước, tạo thành đầm nước giữa biển, với cồn Cát Vàng dài tới 30 km và rộng 10 km.
Đảo Phú Lâm, tọa lạc tại 16°50,2' vĩ Bắc và 112°20' kinh Đông, có kích thước 1,7 km chiều dài và 1,2 km chiều rộng, đóng vai trò quan trọng nhất trong cụm đảo An Vĩnh cũng như toàn bộ quần đảo Hoàng Sa.
16 o 40,3‟ độ vĩ Bắc và 112 o 43,6‟ độ kinh Đông) có độ cao trung bình khoảng 8,5 m,
Đảo Hoàng Sa có nước ngọt quanh năm và mặc dù diện tích không lớn, nhưng có giá trị quân sự và hậu cần nghề cá Trên đảo từng tồn tại bia chủ quyền, Miếu Bà và một trạm khí tượng do chính quyền bảo hộ Pháp và nhà Nguyễn xây dựng từ năm 1938, được Tổ chức Khí tượng thế giới công nhận với mã số 48860 Ngoài các đảo, khu vực này còn có các cồn và vành đai san hô bao bọc, tạo thành một đầm nước lớn giữa biển, trong đó có cồn Cát Vàng dài 30 km và rộng khoảng 10 km.
Hoàng Sa, nằm ở phía Đông Việt Nam, đóng vai trò quan trọng trên tuyến hàng hải quốc tế kết nối Thái Bình Dương với Ấn Độ Dương và Đại Tây Dương Khu vực này không chỉ giàu tiềm năng khoáng sản và hải sản mà còn có lợi thế lớn trong phát triển kinh tế Hơn nữa, vị trí của Hoàng Sa mang tính chiến lược quân sự, giúp kiểm soát các tuyến giao thông hàng hải và hàng không tại khu vực phía Bắc Biển Đông.
Hoàng Sa có khí hậu nhiệt đới, đặc trưng bởi sự nóng ẩm và lượng mưa lớn Khu vực này thường xuyên trải qua sương mù và thường bị ảnh hưởng bởi giông bão, tạo nên một môi trường khí hậu đặc biệt so với các vùng đất có cùng vĩ độ trên lục địa.
Sa khá điều hòa, không quá nóng về mùa hè, không quá lạnh về mùa đông
Độ ẩm tương đối trung bình ở Hoàng Sa dao động từ 80 - 85% và ổn định qua các mùa Các quan sát cho thấy trong tháng 1 (mùa Đông), tháng 7 (mùa Hè), cùng với tháng 4 và tháng 10 (thời kỳ chuyển tiếp), độ ẩm đều duy trì ở mức 80 - 85%.
Quần đảo Hoàng Sa có thời gian nắng trung bình từ 2.400 đến 2.600 giờ mỗi năm, với khoảng 1.300 giờ ánh sáng trong mùa hè (từ tháng 5 đến tháng 10), nhiều hơn so với mùa đông (từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau) Trong mùa hè, thời gian chiếu sáng ở quần đảo Hoàng Sa luôn vượt trội hơn so với quần đảo Trường Sa.
- Nhiệt độ không khí ở vùng biển Hoàng Sa có giá trị thấp nhất 22 o - 24 o C trong tháng 1, tăng dần đạt cực đại 28.5 o - 29 o C trong tháng 6, 7 và giảm từ từ tới
25 o C vào tháng 12 Sự chênh lệch nhiệt độ giữa các tháng nhiệt độ cao nhất và thấp nhất là 5.5 o C - 6 o C
Chế độ gió tại quần đảo Hoàng Sa rất phức tạp, chịu ảnh hưởng từ địa hình của Việt Nam và Trung Quốc Vào mùa hè, gió Tây Nam chiếm ưu thế với tỉ lệ 57%, trong khi các hướng gió Tây, Nam và Đông - Nam khoảng 10 - 12% Các hướng gió Đông, Đông - Bắc và Bắc xuất hiện với tần suất thấp hơn Vận tốc gió trung bình trong mùa hè dao động từ 5 đến 7 m/s Ngược lại, vào mùa đông, gió Đông - Bắc chiếm ưu thế với tần suất 48%.
Gió Bắc chiếm tần suất 27-30% với tốc độ 7-10 m/s, trong khi các hướng gió Đông, Đông Nam, Nam và Tây Bắc cũng xuất hiện trong mùa Đông nhưng với tần suất thấp hơn Tất cả các hướng gió này đều có vận tốc tối đa đạt từ 7-10 m/s.