1. Trang chủ
  2. » Thể loại khác

pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa thực tiễn xét xử giải quyết tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng hóa tại tòa án nhân dân thành phố hồ chí minh

78 62 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Pháp Luật Về Hợp Đồng Mua Bán Hàng Hóa - Thực Tiễn Xét Xử Giải Quyết Tranh Chấp Về Hợp Đồng Mua Bán Hàng Hóa Tại Tòa Án Nhân Dân Thành Phố Hồ Chí Minh
Tác giả Lê Viết Xuân
Người hướng dẫn ThS. Vũ Kim Hạnh Dung
Trường học Đại Học Quốc Gia Thành Phố Hồ Chí Minh
Chuyên ngành Luật Kinh Doanh
Thể loại khóa luận tốt nghiệp
Năm xuất bản 2022
Thành phố Thành Phố Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 78
Dung lượng 398,2 KB

Cấu trúc

  • 1. Lý do chọn đề tài (10)
  • 2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài (11)
  • 3. Phạm vi, đối tƯợng nghiên cứu của đề tài (11)
  • 4. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài (12)
  • 5. PhƯơng pháp nghiên cứu (13)
  • 6. Kết cấu của đề tài (13)
  • ChƯơng 1: KHÁI QUÁT VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA TRONG HOẠT ĐỘNG THƯƠNG MẠI (14)
    • 1.1 Khái quát về hàng hóa và mua bán hàng hóa (14)
      • 1.1.1 Khái quát về hàng hóa (14)
      • 1.1.2 Khái quát về hoạt động mua bán hàng hóa (16)
    • 1.2 Khái niệm và đặc điểm của hợp đồng mua bán hàng hóa trong hoạt động thƯơng mại (19)
      • 1.2.1 Khái quát về hợp đồng (19)
      • 1.2.2 Khái niệm về hợp đồng mua bán hàng hóa trong hoạt động thương mại (21)
      • 1.2.3 Đặc điểm của hợp đồng mua bán hàng hóa trong hoạt động thương mại (25)
    • 1.3 Vai trò của hợp đồng mua bán hàng hóa trong hoạt động thƯơng mại (27)
  • ChƯơng 2: THỰC TRẠNG CÁC QUY ĐỊNH VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA TRONG HOẠT ĐỘNG THƯƠNG MẠI (30)
    • 2.1 Xác lập hợp đồng mua bán hàng hóa trong hoạt động thƯơng mại (30)
      • 2.1.1 Chủ thể, đối tượng, hình thức của hợp đồng mua bán hàng hóa (30)
      • 2.1.2 Các quy định về đàm phán, ký kết của hợp đồng mua bán hàng hóa trong hoạt động thương mại (35)
      • 2.1.3 Hiệu lực của hợp đồng mua bán hàng hóa trong hoạt động thương mại (38)
    • 2.2 Thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa trong hoạt động thƯơng mại (39)
      • 2.2.2 Quyền và nghĩa vụ của bên mua khi thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa trong hoạt động thương mại (44)
    • 2.3 Chế tài về vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa trong hoạt động thƯơng mại 37 (46)
      • 2.3.1 Phạt vi phạm trong hợp đồng mua bán hàng hóa trong hoạt động thương mại (46)
      • 2.3.2 Bồi thường thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa trong hoạt động thương mại (48)
      • 2.3.3 Đình chỉ thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa trong hoạt động thương mại (50)
  • ChƯơng 3: THỰC TIỄN VÀ KIẾN NGHỊ PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG (53)
    • 3.1 Thực tiễn quy định của pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa trong hoạt động thƯơng mại (53)
      • 3.1.1. Các quy định về phạt vi phạm và vấn đề quy định tính lãi suất chậm trả (53)
      • 3.1.2 Các quy định về chế tài phạt vi phạm, điều khoản thanh toán và chủ thể không còn phù hợp trong hợp đồng mua bán hàng hóa trong hoạt động thương mại (59)
    • 3.2 Sự cần thiết hoàn thiện quy định pháp luật về hợp đồng trong hoạt động thƯơng mại (60)
      • 3.2.1. Thương nhân và các chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa trong hoạt động thương mại cần pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa thay đổi (61)
      • 3.2.2 Những thay đổi về pháp luật hợp đồng mua bán hàng hóa để phù hợp với pháp luật quốc tế (63)
      • 3.3.1 Quan điểm pháp luật quy định về hợp đồng mua bán hàng hóa trong hoạt động thương mại (67)
      • 3.3.2 Kiến nghị phương hướng hoàn thiện pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa trong hoạt động thương mại (68)
  • KẾT LUẬN (72)

Nội dung

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ĐẠI HỌC KINH TẾ LUẬT KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA THỰC TIỄN XÉT XỬ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Chuyên ngành LUẬT KINH DOANH Giảng viên hướng dẫn ThsVũ Kim Hạnh Dung Sinh viên thực hiện LÊ VIẾT XUÂN MSSV Lớp K18501 TP Hồ Chí Minh, 2022 ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ĐẠI HỌC KINH TẾ LUẬT KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA THỰC TIỄN.

Mục tiêu nghiên cứu của đề tài

Mục tiêu của đề tài là đánh giá đa chiều về pháp luật hợp đồng mua bán hàng hóa trong thương mại ở xã hội phát triển, bao gồm những nhận xét về mặt tích cực và tiêu cực của việc áp dụng pháp luật hiện nay Bài viết chỉ ra những bất lợi cho các bên tham gia hợp đồng và đặt ra câu hỏi về sự phù hợp của pháp luật thương mại với xã hội hiện đại Qua đó, đề tài nhằm làm rõ các khuyết điểm trong pháp luật hợp đồng Việt Nam, giúp các nhà làm luật nhận diện sự "lỗi thời" giữa pháp luật thương mại Việt Nam và quốc tế, từ đó cải thiện các văn bản pháp luật trong tương lai.

Phạm vi, đối tƯợng nghiên cứu của đề tài

Nội dung nghiên cứu của tác giả tập trung vào quy định và áp dụng pháp luật trong hoạt động mua bán hàng hóa trong thương mại, đồng thời so sánh với các hoạt động mua bán trong lĩnh vực dân sự để làm nổi bật tính chất thương mại Nghiên cứu bao gồm các quy định pháp luật trong nước và quốc tế, với thời gian tham khảo từ năm 2015 đến 2022 nhằm đưa ra các giải pháp thực tiễn Đối tượng nghiên cứu chủ yếu là các quy định pháp luật Việt Nam và pháp luật quốc tế liên quan đến hợp đồng mua bán hàng hóa.

Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Trong quá trình nghiên cứu về pháp luật hợp đồng mua bán hàng hóa trong thương mại, tác giả nhận thấy sự quan tâm lớn từ phía học giả và doanh nghiệp, nhưng nhiều vấn đề vẫn còn trùng lặp và thiếu tính mới, đặc biệt là trong việc làm rõ quyền và nghĩa vụ của các bên cũng như các khuyết điểm của pháp luật hiện hành Thực tế, các doanh nghiệp chỉ chú ý đến vấn đề này khi xảy ra tranh chấp hợp đồng Với tầm nhìn mới, tác giả mong muốn đưa ra những phân tích sâu sắc hơn về pháp luật hợp đồng mua bán hàng hóa, nhằm phát hiện các thiếu sót và hạn chế, từ đó giúp giảm thiểu rủi ro và đơn giản hóa quy trình giải quyết tranh chấp Tài liệu tham khảo được sử dụng trong nghiên cứu bao gồm cuốn sách "Tìm hiểu pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa và đại diện thương mại" của TS Nguyễn Am Hiểu và Ths Quản Thị Mai Hường, cùng giáo trình "Luật Thương mại quốc tế - Phần II" của Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh.

Nghiên cứu pháp lý năm 2017 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế của Luật sư Đặng Bá Kỹ đã chỉ ra tầm quan trọng của hợp đồng thương mại dịch vụ đối với doanh nghiệp, như được phân tích bởi ThS Hà Công Anh Bảo Hợp đồng này không chỉ xác định quyền và nghĩa vụ của các bên mà còn đóng vai trò then chốt trong việc đảm bảo sự phát triển bền vững của doanh nghiệp trong môi trường kinh doanh toàn cầu.

Economy and Taxation của David Ricardo;…và một số tài liệu tạp chí, bản án mà tác giả thu thập được trong quá trình hoàn thành khóa luận.

PhƯơng pháp nghiên cứu

Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở là pháp luật của Nhà nước Cộng hòa

Xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản pháp luật về kinh tế và thương mại Tác giả áp dụng các phương pháp nghiên cứu lý thuyết, thực tiễn, thống kê, so sánh, phân tích và tổng hợp tài liệu từ giáo trình, sách chuyên khảo, và báo chí chính thống để thực hiện nghiên cứu Bài viết cũng tổng kết kinh nghiệm thực tập tại Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, nơi tác giả thực hiện quá trình thực tập.

Kết cấu của đề tài

Bài báo cáo bao gồm mục lục, phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và bài khóa luận được kết cấu thành 3 chương:

Chương 1: Khái quát về hợp đồng mua bán hàng hóa trong hoạt động thương mại.

Chương 2: Thực trạng quy định pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa trong hoạt động thương mại.

Chương 3: Thực tiễn quy định của pháp luật và kiến nghị pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa trong hoạt động thương mại.

KHÁI QUÁT VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA TRONG HOẠT ĐỘNG THƯƠNG MẠI

Khái quát về hàng hóa và mua bán hàng hóa

1.1.1 Khái quát về hàng hóa

Trong kinh tế chính trị Mác - Lênin, hàng hóa được xem là sản phẩm của lao động thông qua quá trình trao đổi và mua bán C Mác khẳng định rằng để nghiên cứu phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, cần bắt đầu từ hàng hóa, vì nó là "tế bào kinh tế của xã hội tư sản" Sản xuất hàng hóa và lưu thông hàng hóa phát triển là những tiền đề lịch sử cho sự xuất hiện của tư bản Hàng hóa có thể tồn tại dưới dạng hữu hình như sắt, thép, thực phẩm, hoặc vô hình như dịch vụ thương mại, vận tải, và các dịch vụ từ giáo viên, bác sĩ, nghệ sĩ.

David Ricardo cho rằng hàng hóa có hai thuộc tính cơ bản là: giá trị sử dụng và giá trị.

Giá trị sử dụng của hàng hóa phản ánh khả năng đáp ứng nhu cầu của con người Chẳng hạn, kéo được sử dụng để cắt, do đó giá trị sử dụng của nó là cắt; tương tự, bút được dùng để viết, nên giá trị sử dụng của bút là viết Một hàng hóa có thể mang một hoặc nhiều công dụng, dẫn đến việc nó có thể sở hữu nhiều giá trị sử dụng khác nhau.

Giá trị của hàng hóa được hình thành từ lao động xã hội của người sản xuất, được kết tinh trong chính sản phẩm Cả quần áo và thóc lúa đều là kết quả của quá trình sản xuất lao động, mang trong mình công sức, thời gian và trí tuệ của con người.

1 Lê Minh Nghĩa (2005), Giáo trình Kinh tế chình trị Mác – Lênin

2 C.Mác và Ph.Ăng- Ghen (1995), C.Mác và Ph.Ăng- Ghen toàn tập

3 David Ricardo (1817), On the Principles of Political Economy and Taxation.

Ngày nay, giá trị của hàng hóa được thể hiện qua giá cả và giá trị trao đổi, ví dụ như một cái tủ có thể trao đổi với hai lượng bạc, trong khi cái bàn chỉ một lượng bạc, cho thấy giá trị của tủ lớn hơn bàn Sự thay đổi trong nhận thức về kinh tế đã làm thay đổi cách hiểu về hàng hóa, không còn chỉ dựa trên đặc tính vật lý mà tiến gần hơn đến phạm trù giá trị Hiện nay, tiền, cổ phiếu, quyền sở hữu, và quyền sở hữu trí tuệ cũng được xem là hàng hóa, mặc dù chúng không nhất thiết phải có những tính chất truyền thống của hàng hóa.

Hàng hóa là những vật phẩm xuất hiện hàng ngày, được trao đổi và mua bán, tạo ra sự biến đổi về giá trị Giá trị hàng hóa thay đổi tùy thuộc vào thị trường, mùa vụ, xu hướng tiêu dùng, thông tin và tình hình kinh tế Sự biến động này không chỉ ảnh hưởng đến đời sống xã hội mà còn phản ánh chất lượng hàng hóa của các quốc gia, đặc biệt là các nước đang phát triển như Việt Nam Mặc dù cùng một loại hàng hóa, nhưng chất lượng và giá trị có thể khác nhau giữa các quốc gia, điều này thể hiện rõ qua hoạt động mua bán quốc tế và hình ảnh chất lượng hàng hóa của quốc gia xuất khẩu và nhập khẩu.

Chất lượng hàng hóa là chỉ số quan trọng phản ánh sức mạnh của thị trường hàng hóa quốc gia Gần đây, một số quốc gia đã áp dụng chiến lược thu mua với giá cao và phát tán tin đồn để làm thay đổi xu hướng hàng hóa, dẫn đến việc các thương nhân trong nước phải bán với giá thấp cho thương nhân nước ngoài Hành động này không chỉ gây hại cho thị trường hàng hóa mà còn ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế và thể hiện sự can thiệp gián tiếp về mặt chính trị từ các quốc gia phát triển đối với các quốc gia đang phát triển Điều này nhấn mạnh tầm quan trọng của hàng hóa trong nền kinh tế, từ đó cho thấy cần thiết phải có sự quan tâm đến pháp luật liên quan đến hàng hóa.

Hàng hóa ngày càng đa dạng về chủng loại và hình thức, tạo ra nhiều vấn đề pháp luật cần quy định để đáp ứng nhu cầu xã hội Sự phát triển của xã hội thúc đẩy sự sáng tạo trong sản xuất hàng hóa, đồng thời làm thay đổi thói quen tiêu dùng Đối với doanh nghiệp, hàng hóa là linh hồn của họ, và để có sản phẩm chất lượng, cần đầu tư từ dây chuyền sản xuất đến thành phẩm Người tiêu dùng coi hàng hóa là nhu cầu thiết yếu hàng ngày, tạo nên thị trường cung cầu không ngừng Tuy nhiên, trong khi một số quốc gia hợp pháp hóa hàng hóa như vũ khí hay ma túy, thì ở Việt Nam, những mặt hàng này lại bị cấm sản xuất và lưu hành.

Hàng hóa là một loại tài sản, nhưng không phải tất cả tài sản đều được xem là hàng hóa Theo quy định tại Điều 105 Bộ luật Dân sự, định nghĩa về tài sản có phạm vi rộng hơn so với hàng hóa.

Theo quy định tại Điều 3 Khoản 2 năm 2015, tài sản được định nghĩa là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản, bao gồm cả động sản và bất động sản, có thể là tài sản hiện có hoặc tài sản hình thành trong tương lai Trong góc nhìn thương mại, hàng hóa được hiểu là tất cả các loại động sản, bao gồm cả những động sản hình thành trong tương lai, cũng như những vật gắn liền với đất đai.

Theo Luật Thương mại năm 2005, không phải mọi loại hàng hóa đều được xem là hàng hóa thương mại theo quy định của pháp luật Theo Khoản 1 Điều 4 của Luật giá năm 2012, hàng hóa được định nghĩa là tài sản có thể trao đổi, mua bán trên thị trường và có khả năng thỏa mãn nhu cầu của con người, bao gồm cả động sản và bất động sản Mỗi lĩnh vực sẽ có những quy định riêng về hàng hóa thuộc phạm vi điều chỉnh của luật chuyên ngành.

Bài khóa luận này nghiên cứu pháp luật về hợp đồng mua bán trong thương mại, đặc biệt tập trung vào các loại hàng hóa như động sản, động sản hình thành trong tương lai, hàng hóa cấm kinh doanh và hàng hóa kinh doanh có điều kiện Mỗi loại hàng hóa sẽ có hợp đồng mua bán phù hợp nhằm điều chỉnh quan hệ mua bán một cách hiệu quả.

1.1.2 Khái quát về hoạt động mua bán hàng hóa

Khoản 8 Điều 3 Luật Thương mại năm 2005 quy định “Mua bán hàng hoá là hoạt động thương mại, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao hàng, chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho bên mua và nhận thanh toán; bên mua có nghĩa vụ thanh toán cho bên bán, nhận hàng và quyền sở hữu hàng hoá theo thỏa thuận.” theo quan điểm của Luật thương mại Mua bán hàng hóa là một loại quan hệ pháp luật, phản ánh quan hệ hàng-tiền trong kinh tế học Người bán thực hiện việc chuyển giao quyền sở hữu một vật, tài sản cho người mua và đổi lại được nhận một khoản tiền tương ứng với giá trị tài tài sản đã được chuyển giao, ngược lại người mua phải trả một khoản tiền để đổi lại việc được nhận một tài sản Tính chất có qua có lại về quyền lợi được hiểu dưới góc độ Luật Dân sự là hợp đồng đền bù.

Hoạt động mua bán hàng hóa là cách giải quyết mối quan hệ giữa cung và cầu, trong đó người bán cung cấp hàng hóa cho người mua có nhu cầu Bất kỳ cá nhân, tổ chức nào có nhu cầu về hàng hóa đều có quyền thực hiện giao dịch mua bán, không phân biệt địa lý hay thành phần kinh tế, miễn là trong khuôn khổ năng lực pháp lý của họ Trong lĩnh vực kinh doanh thương mại, mua bán hàng hóa được coi là hoạt động thương mại giữa các thương nhân hoặc giữa thương nhân với các đối tác không phải là thương nhân.

Trong hoạt động mua bán hàng hóa, bên thứ ba như trung gian, bao gồm kho hàng, bên vận chuyển và nhà phân phối, đóng vai trò quan trọng Hàng hóa được chuyển giao từ bên bán sang bên mua thông qua trung gian sau khi có thỏa thuận và bên mua thanh toán giá trị tương đương Tuy nhiên, nếu bên thứ ba không uy tín hoặc xảy ra lỗi trong quá trình giao hàng, thỏa thuận giữa người mua và người bán có thể không được thực hiện, gây khó khăn trong hoạt động giao dịch hàng hóa.

Hoạt động mua bán hàng hóa diễn ra chủ yếu dưới hai hình thức: trong nước và quốc tế Mua bán hàng hóa trong nước là quá trình trao đổi hàng hóa không vượt qua biên giới quốc gia hoặc khu vực hải quan riêng Trong khi đó, mua bán hàng hóa quốc tế bao gồm các hình thức như xuất khẩu, nhập khẩu, tạm nhập, tái xuất, tạm xuất, tái nhập và chuyển khẩu, cho thấy sự đa dạng hơn so với hình thức mua bán trong nước.

Khái niệm và đặc điểm của hợp đồng mua bán hàng hóa trong hoạt động thƯơng mại

1.2.1 Khái quát về hợp đồng

Hợp đồng là công cụ pháp lý thiết yếu, giúp con người thực hiện các giao dịch để đáp ứng nhu cầu trong xã hội Tuy nhiên, việc xác định thuật ngữ "hợp đồng" trong lịch sử lập pháp không hề đơn giản Nhiều quốc gia cho rằng từ "hợp đồng" (contractus) xuất phát từ động từ "contrahere" trong tiếng Latin, có nghĩa là "ràng buộc", và lần đầu tiên xuất hiện ở La Mã vào khoảng thế kỷ V-IV trước Công Nguyên.

Hợp đồng là một khái niệm đã tồn tại từ lâu và hiện có nhiều định nghĩa khác nhau Theo Điều 1, Bộ luật Thương mại thống nhất của Hoa Kỳ (UCC), hợp đồng được hiểu là sự tổng hợp các nghĩa vụ pháp lý phát sinh từ thỏa thuận của các bên Trong khi đó, Luật Hợp đồng năm 1999 của Trung Quốc định nghĩa hợp đồng là sự thỏa thuận về việc xác lập, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự giữa các chủ thể bình đẳng Trước đây, nhiều thuật ngữ như khế ước, giao kèo, và văn tự thường được sử dụng thay cho hợp đồng Tuy nhiên, ngày nay, từ "hợp đồng" trở nên phổ biến hơn nhờ tính bao quát và chức năng của nó, dần thay thế các thuật ngữ cũ trong các văn bản pháp lý Đặc biệt, tại Việt Nam, hợp đồng được phân chia thành các loại như hợp đồng dân sự, hợp đồng thương mại, và hợp đồng lao động, điều này khác biệt so với nhiều nước khác.

Hợp đồng, bất kể lĩnh vực nào, đều là thỏa thuận tự nguyện giữa hai hoặc nhiều bên, tạo ra quyền và nghĩa vụ cho các bên tham gia Những quyền và nghĩa vụ này thường gắn liền với lợi ích vật chất mà các bên mong muốn đạt được.

Hợp đồng là sự kết nối thỏa thuận giữa các bên liên quan đến một loạt các vấn đề pháp lý cần được công nhận và thực hiện, đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện giao dịch và ký kết.

5 Nguyễn Ngọc Khánh (2007), “Chế định hợp đồng trong Bộ Luật Dân sự Việt Nam,” , NXB Tư pháp

Bài viết của ThS Hà Công Anh Bảo (08/10/2013) mang tiêu đề “Hợp đồng thương mại dịch vụ và vai trò của nó đối với doanh nghiệp” phân tích hiệu lực của giao dịch và hậu quả pháp lý liên quan đến việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của hợp đồng Bài viết cũng đề cập đến hình thức chấm dứt hợp đồng, phương thức giải quyết tranh chấp và biện pháp đảm bảo giao dịch Những nội dung này giúp thống nhất các vấn đề trong giao dịch giữa các bên, từ đó tạo ra trách nhiệm cao hơn cho các bên đối với hợp đồng đã ký kết so với các giao dịch thông thường.

Nhiều doanh nghiệp vẫn sử dụng thuật ngữ “Hợp đồng kinh tế” trong hoạt động kinh doanh hàng ngày, nhưng về mặt pháp lý, thuật ngữ này đã không còn chính xác Sau khi Pháp lệnh về hợp đồng kinh tế 1989 hết hiệu lực và được thay thế bởi Luật Thương mại năm 2005, Bộ Luật Dân sự 2015 và các luật chuyên ngành khác, việc sử dụng “hợp đồng kinh tế” trở nên không hợp lý Một số doanh nghiệp cho rằng tên gọi này làm tăng giá trị của hợp đồng, nhưng thực tế, việc áp đặt tên gọi sai có thể dẫn đến việc áp dụng luật không đúng cho hợp đồng Tên gọi hợp đồng rất quan trọng vì nó ảnh hưởng đến quyền lợi và nghĩa vụ của các bên, đặc biệt trong thương mại Việc chỉ sử dụng tên “Hợp đồng” cũng không đủ rõ ràng về nội dung hợp đồng, trong khi quy định pháp luật đã chỉ rõ ngay từ tiêu đề Do đó, tốt nhất là sử dụng phân loại hợp đồng theo quy định trong Luật Thương mại và Bộ Luật Dân sự để đảm bảo quyền lợi của các bên Pháp luật về hợp đồng có vị trí quan trọng trong hệ thống pháp luật Việt Nam, vì hầu hết các giao dịch xã hội đều liên quan đến hợp đồng Các quy định về hợp đồng trong Bộ Luật Dân sự 2015 chiếm phần lớn và nhằm bảo vệ quyền tự do ý chí của các bên, chỉ bị hạn chế bởi một số ngoại lệ để bảo vệ trật tự công và quyền lợi hợp pháp của bên thứ ba.

1.2.2 Khái niệm về hợp đồng mua bán hàng hóa trong hoạt động thương mại

Trong Luật thương mại 2005, khái niệm hợp đồng mua bán hàng hóa không được quy định rõ ràng, do đó cần làm rõ các khái niệm liên quan Theo từ điển Black’s Law Dictionary, hợp đồng được định nghĩa là sự thỏa thuận giữa hai hoặc nhiều bên tạo ra nghĩa vụ thực hiện hoặc không thực hiện một công việc cụ thể Ngoài ra, hợp đồng cũng được hiểu là một tập hợp các hứa hẹn, mà nếu vi phạm sẽ bị pháp luật áp dụng chế tài, hoặc được công nhận như một trách nhiệm trong một số trường hợp nhất định.

Hợp đồng thương mại, theo Từ điển luật học của Viện khoa học pháp lý - Bộ Tư Pháp, được định nghĩa là thỏa thuận giữa các thương nhân hoặc giữa thương nhân với các bên liên quan Mục đích của hợp đồng này là xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ của các bên trong hoạt động mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ thương mại và xúc tiến thương mại.

Theo học thuyết Kinh Tế Chính Trị Mác-Lênin, hàng hóa được định nghĩa là sản phẩm của lao động thông qua trao đổi và mua bán Hàng hóa có thể là hữu hình như sắt thép, quyển sách, hoặc vô hình như sức lao động Karl Marx nhấn mạnh rằng hàng hóa là đồ vật có khả năng thỏa mãn nhu cầu con người nhờ vào các tính chất của nó Để một đồ vật trở thành hàng hóa, cần phải có tính ích dụng cho người dùng, giá trị kinh tế được xác định bởi lao động, và sự hạn chế trong việc đạt được, tức là độ khan hiếm.

Hợp đồng mua bán hàng hóa là văn bản pháp lý được hình thành từ thỏa thuận bình đẳng và tự nguyện giữa các bên, nhằm xác lập, thực hiện và chấm dứt mối quan hệ trao đổi hàng hóa trong hoạt động thương mại.

7 Black’s Law Dictionary (2010), West Publishing Co (Ninth edition), Oxford.

8 Viện Khoa Học Pháp Lý - Bộ Tư Pháp (2006), Từ điển luật học, NXB Tư Pháp.

Mại được định nghĩa là một loại hợp đồng thương mại, trong đó các bên tham gia thỏa thuận nhằm xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ liên quan đến việc mua bán hàng hóa Mục tiêu chính của hợp đồng mại là tạo ra lợi nhuận cho các bên liên quan.

Hợp đồng mua bán hàng hóa trong thương mại, theo quy định tại Điều 430 BLDS năm 2015, là sự thoả thuận giữa bên bán và bên mua, trong đó bên bán chuyển quyền sở hữu tài sản cho bên mua và bên mua trả tiền cho bên bán Điểm khác biệt giữa hợp đồng mua bán hàng hóa và hợp đồng mua bán tài sản khác chính là đối tượng hàng hóa và mục đích sinh lợi Hợp đồng mua bán hàng hóa trong thương mại có tính chất của cả hợp đồng mua bán tài sản và hợp đồng thương mại, nhằm mục đích trao đổi hàng hóa và thu lợi nhuận khi ký kết.

Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế trong hoạt động thương mại là hình thức hợp đồng có yếu tố nước ngoài Mặc dù khái niệm này không được quy định cụ thể trong các văn bản pháp luật quốc tế hay pháp luật thương mại Việt Nam, nhưng có thể hiểu nó là sự kết hợp giữa hợp đồng thương mại quốc tế và hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế.

Theo Bộ nguyên tắc Hague về chọn luật trong hợp đồng thương mại quốc tế ban hành tháng 7 năm 2014, hợp đồng được coi là có tính quốc tế nếu các bên không có trụ sở ở cùng một quốc gia và mối quan hệ giữa họ cũng như các yếu tố liên quan không chỉ gắn liền với một quốc gia duy nhất.

Hague đã áp dụng phương pháp loại trừ để xác định tính quốc tế trong hợp đồng thương mại, trong đó tính quốc tế của hợp đồng được xác định dựa trên tinh thần của Bộ nguyên.

Vai trò của hợp đồng mua bán hàng hóa trong hoạt động thƯơng mại

Trong nền kinh tế thị trường phát triển hiện nay, hoạt động thương mại diễn ra liên tục và việc ký kết hợp đồng là điều không thể thiếu trong kinh doanh hàng ngày Sự đa dạng về hàng hóa, chủ thể và văn hóa gây ra nhiều thách thức cho hoạt động thương mại Do đó, việc ký hợp đồng mua bán hàng hóa là cần thiết để bảo vệ quyền lợi của các bên, giảm thiểu rủi ro trong hợp tác, xác định rõ quyền và nghĩa vụ, cũng như dự liệu các tình huống có thể xảy ra trong quá trình giao dịch.

Hợp đồng mua bán hàng hóa là một dạng hợp đồng thương mại, vì vậy nó đảm nhận những vai trò quan trọng trong hoạt động thương mại như đảm bảo quyền lợi cho các bên tham gia, xác định nghĩa vụ và trách nhiệm của từng bên, và tạo ra cơ sở pháp lý cho việc giao dịch hàng hóa.

Hợp đồng thương mại là cơ sở pháp lý quan trọng cho các doanh nghiệp trong việc thực hiện các hoạt động thương mại với khách hàng Nó không chỉ là một cam kết cụ thể mà còn là công cụ giúp doanh nghiệp đảm bảo rằng các thỏa thuận cung cấp hàng hóa và dịch vụ sẽ được thực hiện một cách tin cậy Thông qua hợp đồng, doanh nghiệp và đối tác thiết lập mối quan hệ dựa trên sự tin tưởng và các quy định pháp luật, tạo nền tảng vững chắc cho hoạt động kinh doanh.

Hợp đồng thương mại là công cụ quan trọng giúp doanh nghiệp nâng cao sức cạnh tranh và loại bỏ những đối tác không đáng tin cậy Qua hợp đồng, doanh nghiệp được pháp luật bảo vệ quyền lợi, tránh rủi ro bị lừa đảo và xây dựng uy tín, thương hiệu Việc thực hiện tốt các cam kết trong hợp đồng tạo sự tin tưởng cho khách hàng, giúp kết nối với đối tác mới và mang lại lợi thế cạnh tranh Đối với thương nhân, hợp đồng là công cụ pháp lý thiết yếu nhằm mục đích sinh lợi, đặc biệt là lợi nhuận từ hoạt động mua bán hàng hóa.

Hợp đồng mua bán hàng hóa không chỉ hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc quản lý hàng hóa và khách hàng mà còn giúp các cơ quan nhà nước kiểm soát hoạt động kinh doanh của người dân và doanh nghiệp Nó cho phép theo dõi lượng hàng hóa trên thị trường và cung cấp cơ sở pháp lý để xác định trách nhiệm của các bên khi xảy ra tranh chấp Nhờ đó, các cơ quan quản lý nhà nước có thể đưa ra giải pháp điều chỉnh và định hướng cho nền kinh tế quốc gia.

Trong thị trường quốc tế, doanh nghiệp Việt Nam thường gặp bất lợi về tiềm lực tài chính và mối quan hệ đối tác, dẫn đến tình trạng bị động trong đàm phán Pháp luật các quốc gia hiện nay công nhận sự thỏa thuận giữa các bên trong hợp đồng, ngay cả khi thỏa thuận đó không công bằng Mặc dù một số quốc gia có quy định loại bỏ các điều khoản không công bằng, nhưng điều này thường chỉ áp dụng cho hợp đồng giữa doanh nghiệp và người tiêu dùng, như quy định trong Luật về các điều khoản không công bằng của Anh.

Luật hợp đồng không công bằng năm 1977 và Luật cung cấp hàng hóa và dịch vụ năm 1982 của Australia ngăn cản doanh nghiệp đưa vào các điều khoản bất công trong hợp đồng nhằm loại bỏ trách nhiệm đối với người tiêu dùng Qua đó, hợp đồng thương mại trở thành công cụ bảo vệ doanh nghiệp, giúp họ tránh khỏi tình trạng bị chèn ép và hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam thâm nhập vào thị trường quốc tế.

Hợp đồng có giá trị pháp lý như luật, là công cụ bảo vệ lợi ích hợp pháp cho doanh nghiệp khi xảy ra tranh chấp Trong khi Bộ Luật hình sự đảm bảo an toàn cho con người và tài sản, thì hợp đồng lại giữ vai trò quan trọng trong duy trì trật tự kinh doanh Việc ký kết hợp đồng có thể khó khăn, nhưng hoàn thành hợp đồng với sự hài lòng của tất cả các bên còn khó hơn Doanh nghiệp thường không thể dự đoán mọi tình huống trong tương lai, dẫn đến việc không thực hiện thỏa thuận, gây ra tranh chấp Hợp đồng mua bán hàng hóa giúp xác định thẩm quyền giải quyết tranh chấp và các cơ quan như tòa án hay trọng tài cần có bằng chứng về thỏa thuận của các bên Vì vậy, hợp đồng thương mại trở nên cực kỳ quan trọng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp.

THỰC TRẠNG CÁC QUY ĐỊNH VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA TRONG HOẠT ĐỘNG THƯƠNG MẠI

Xác lập hợp đồng mua bán hàng hóa trong hoạt động thƯơng mại

2.1.1 Chủ thể, đối tượng, hình thức của hợp đồng mua bán hàng hóa

Chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa cần có năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự, theo quy định tại Điều 117 BLDS năm 2015, để có thể tham gia giao kết hợp đồng Đối với hợp đồng mua bán hàng hóa thương mại, cá nhân còn phải đáp ứng yêu cầu có đăng ký kinh doanh theo pháp luật Theo Luật Doanh nghiệp, cá nhân có thể đăng ký thành lập doanh nghiệp tư nhân hoặc hộ kinh doanh cá thể để thực hiện các hoạt động kinh doanh Cả pháp nhân và cá nhân đều có quyền tiến hành giao dịch thương mại nếu tuân thủ các quy định pháp luật.

Hợp đồng thương mại được thiết lập chủ yếu giữa các chủ thể là thương nhân theo Luật Thương mại năm 2005 Điều 6 quy định:

Thương nhân là tổ chức kinh tế hợp pháp hoặc cá nhân hoạt động thương mại độc lập, thường xuyên và đã đăng ký kinh doanh.

2 Thương nhân có quyền hoạt động thương mại trong các ngành nghề, tại các địa bàn, dưới các hình thức và theo các phương thức mà pháp luật không cấm…”

Trong hợp đồng thương mại, có những loại hợp đồng yêu cầu cả hai bên đều phải là thương nhân, như hợp đồng đại diện và hợp đồng đại lý thương mại Ngoài ra, cũng có những hợp đồng chỉ cần một bên là thương nhân, chẳng hạn như hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa, hợp đồng dịch vụ bán đấu giá, và hợp đồng môi giới thương mại Thêm vào đó, các tổ chức và cá nhân không phải là thương nhân cũng có thể tham gia vào hợp đồng thương mại nếu có hoạt động liên quan đến thương mại.

Hợp đồng mua bán hàng hóa, giống như các hợp đồng thương mại khác, được ký kết giữa các bên là thương nhân hoặc chỉ một bên là thương nhân Điểm đặc trưng này phân biệt hợp đồng thương mại với hợp đồng dân sự Chủ thể trong hợp đồng mua bán hàng hóa bao gồm thương nhân là tổ chức kinh tế hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh, cũng như các cá nhân, tổ chức khác có hoạt động liên quan đến thương mại, theo quy định tại Điều 2 của Luật thương mại năm 2005.

Trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, chủ thể đóng vai trò quan trọng trong việc xác định yếu tố quốc tế của hợp đồng Theo quan điểm của Pháp, yếu tố này được xác định dựa trên hai tiêu chuẩn: kinh tế và pháp lý Tiêu chuẩn kinh tế cho rằng hợp đồng quốc tế liên quan đến việc di chuyển giá trị trao đổi giữa hai quốc gia, thể hiện quyền lợi thương mại quốc tế Trong khi đó, tiêu chuẩn pháp lý xác định hợp đồng quốc tế nếu nó bị chi phối bởi các tiêu chuẩn pháp lý của nhiều quốc gia, bao gồm quốc tịch, nơi cư trú, và nguồn vốn thanh toán của các bên Theo Điều 1 CISG, các bên trong hợp đồng phải có địa điểm kinh doanh ở các quốc gia khác nhau, mà không dựa vào nơi giao kết hay thực hiện hợp đồng Do đó, việc xác định trụ sở thương mại của các chủ thể ở các quốc gia khác nhau sẽ xác nhận hợp đồng mua bán hàng hóa giữa hai bên là hợp đồng quốc tế, thuộc phạm vi điều chỉnh của Công ước viên 1980 Đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hóa được quy định tại Khoản 2 Điều 3 Luật thương mại năm 2005.

“Hàng hóa bao gồm: a) Tất cả các loại động sản, kể cả động sản hình thành trong tương lai; b) Những vật gắn liền với đất đai.”

13 Tác giả Minh Đức (01/10/2009); Bài viết “ Hợp đồng thương mại quốc tế - Những nội dung doanh nghiệp cần quan tâm”; Trang web Thông tin Pháp luật Dân sự.

Trong hợp đồng mua bán hàng hóa, các bên có thể thỏa thuận về đối tượng của hợp đồng, bao gồm cả những hàng hóa chưa tồn tại, hay còn gọi là động sản hình thành trong tương lai Thông thường, bên mua sẽ xem xét mẫu hàng từ bên bán trước khi ký hợp đồng đặt hàng Do đó, đối tượng của hợp đồng không chỉ giới hạn ở hàng hóa hiện có mà còn bao gồm hàng hóa sẽ được sản xuất sau khi hợp đồng được ký kết Luật thương mại hiện tại không quy định cụ thể về hàng hóa trong tương lai.

Trong hoạt động thương mại, không phải tất cả hàng hóa đều có thể là đối tượng của hợp đồng mua bán Theo quy định tại Khoản 2 Điều 3 của Luật thương mại năm 2005, cần lưu ý đến các loại hàng hóa cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh hoặc kinh doanh có điều kiện Các bên tham gia giao dịch cần kiểm tra xem hàng hóa mình định mua hoặc bán có thuộc danh mục hàng cấm hay không Việc xác định loại hàng hóa cấm và hàng hóa kinh doanh có điều kiện dựa trên tác động của chúng đến an toàn, quốc phòng, kinh tế, xã hội, môi trường, và vệ sinh phòng dịch, cùng với cách thức quản lý của từng quốc gia.

Theo Điều 25 của Luật Thương mại năm 2005, có quy định về các loại hàng hóa cấm kinh doanh, hàng hóa hạn chế kinh doanh và hàng hóa kinh doanh có điều kiện Những quy định này cũng được nêu rõ trong Văn bản hợp nhất số 19/VBHN-BCT năm 2014, hướng dẫn về hàng hóa và dịch vụ cấm, hạn chế và có điều kiện kinh doanh do Bộ Công Thương ban hành.

So với Công ước Viên 1980 (CISG) về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế do UNCITRAL soạn thảo, đối tượng được quy định trong Luật thương mại Việt Nam còn khá hẹp Công ước này điều chỉnh khoảng hai phần ba thương mại hàng hóa toàn cầu, và Việt Nam trở thành thành viên thứ 84, sau Singapore, của công ước này vào năm 2015.

14 International Trade Centre (UNCTAD/WTO) & Ministry of Trade of Vietnam, Report on key multilateral treaties affecting trade not ratified by Vietnam- A cost/benefit analysis, March 2007, tr.27

CISG chính thức có hiệu lực tại Việt Nam từ năm 2017, với Điều 2 quy định về đối tượng hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế Điều này được thực hiện bằng cách chỉ nêu ra các trường hợp "không được áp dụng".

Công ước này không áp dụng cho việc mua bán hàng hóa cá nhân, gia đình hoặc nội trợ trừ khi người bán không biết rằng hàng hóa được mua cho mục đích đó Ngoài ra, công ước cũng không áp dụng cho bán đấu giá, việc thi hành luật hoặc văn kiện ủy thác, cổ phiếu, chứng khoán, tàu thủy, máy bay, phương tiện chạy trên đệm không khí và điện năng.

Việc quy định mở của CISG cho phép áp dụng rộng rãi ở nhiều quốc gia, nhưng cũng tạo ra khó khăn do sự khác biệt trong quy định về hàng hóa giữa các nước Do đó, CISG chỉ mang tính chất tham khảo trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế; việc áp dụng cụ thể hơn cần dựa vào luật của các bên để đảm bảo tính hợp pháp của hàng hóa trong quan hệ hợp đồng.

Hợp đồng mua bán hàng hóa thường không yêu cầu hình thức cụ thể, vì các bên có quyền tự do thỏa thuận Tuy nhiên, một số quốc gia quy định hình thức bắt buộc cho các hợp đồng có giá trị lớn hoặc liên quan đến hàng hóa đặc biệt nhằm giảm thiểu rủi ro cho các bên Theo Công ước Viên 1980, không cần phải ký kết hoặc xác nhận hợp đồng bằng văn bản, có thể sử dụng bất kỳ phương tiện nào để chứng minh sự tồn tại của hợp đồng Ở Anh, hợp đồng có giá trị trên 10 bảng Anh phải lập thành văn bản, trong khi ở Mỹ, yêu cầu này thay đổi theo từng tiểu bang Tại Bỉ, các giao dịch trên 1500 Fran Bỉ cũng cần có văn bản, và Pháp yêu cầu hợp đồng cho một số đối tượng như bất động sản hay tàu phải có văn bản Luật thương mại năm 2005 tại Việt Nam khuyến khích tự do trong việc lựa chọn hình thức hợp đồng, tạo điều kiện thuận lợi cho các bên bảo vệ quyền lợi của mình.

“1 Hợp đồng mua bán hàng hoá được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc được xác lập bằng hành vi cụ thể.

2 Đối với các loại hợp đồng mua bán hàng hoá mà pháp luật quy định phải được lập thành văn bản thì phải tuân theo các quy định đó.” Đối với các hợp đồng mua bán hàng hóa pháp luật bắt buộc phải lập thành văn bản thì phải tuân theo các quy định đó, chẳng hạn như các hợp đồng có đối tượng là tài sản phải đăng ký quyền sở hữu thì phải lập thành văn bản…Đối với hợp đồng được lập bằng văn bản thì thỏa thuận về quyền và nghĩa vụ của hai bên được thể hiện bằng văn bản hoặc các hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương như email, fax…Hợp đồng mua bán hàng hóa được lập bằng lời nói thì hai bên thỏa thuận quyền và nghĩa vụ bằng miệng, có thể mời người làm chứng Tuy nhiên đây là hình thức hợp đồng rất rủi ro vì khi có tranh chấp rất khó có chứng minh được thỏa thuận của hai bên Hợp đồng mua bán hàng hóa được giao kết bằng hành vi thì hai bên không có thỏa thuận bằng văn bản cũng như thỏa thuận bằng miệng Việc giao kết hợp đồng được minh chứng bằng các hành vi như bên bán tiến hành giao hàng hoặc bên mua tiến hành trả tiền, đây cũng là hình thức hợp đồng mang lại nhiều rủi ro, do đó trên thực tế các thương nhân ít sử dụng.

Thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa trong hoạt động thƯơng mại

2.2.1 Quyền và nghĩa vụ của bên bán khi thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa trong hoạt động thương mại

Theo Điều 34 đến Điều 62 của Luật Thương mại năm 2005, trong hợp đồng mua bán hàng hóa, quyền của bên mua đồng nghĩa với nghĩa vụ của bên bán và ngược lại Điều này cho thấy rằng bên bán có nhiều nghĩa vụ hơn trong việc thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa.

Bên bán có trách nhiệm giao hàng và các chứng từ liên quan đúng địa điểm và thời gian đã thỏa thuận với bên mua Hàng hóa phải được giao đúng số lượng, cách thức đóng gói và bảo quản theo hợp đồng Nếu không có thỏa thuận cụ thể về địa điểm, bên bán phải giao hàng tại nơi có hàng hóa hoặc cho người vận chuyển nếu có quy định trước về việc vận chuyển Nếu không có thỏa thuận về việc vận chuyển, hàng sẽ được giao tại kho chứa Về thời hạn, bên bán phải giao hàng đúng thời gian đã cam kết; nếu chỉ có thời hạn mà không có thời điểm cụ thể, bên bán có quyền giao hàng bất kỳ lúc nào trong khoảng thời gian đó và thông báo cho bên mua Nếu không có thỏa thuận về thời hạn giao hàng, bên bán phải giao hàng trong thời gian hợp lý sau khi hợp đồng được ký kết.

Bên bán có trách nhiệm đảm bảo hàng hóa phù hợp với hợp đồng, bao gồm việc khắc phục hậu quả khi giao hàng thiếu hoặc thừa Nếu hàng hóa không phù hợp, bên bán phải chịu trách nhiệm nếu bên mua không biết về khiếm khuyết trước khi giao kết hợp đồng Ngoài ra, bên bán cũng có nghĩa vụ giao hàng còn thiếu hoặc thay thế hàng hóa không phù hợp và chịu chi phí phát sinh trong quá trình khắc phục Bên bán cần tạo điều kiện cho bên mua kiểm tra hàng hóa và phải khắc phục các khiếm khuyết đã biết cho bên mua.

Bên bán có nghĩa vụ đảm bảo quyền sở hữu hàng hóa và quyền sở hữu trí tuệ, cũng như bảo hành hàng hóa Họ phải xác nhận rằng hàng hóa thuộc quyền sở hữu của mình và không có tranh chấp với bên thứ ba; nếu có, phải thông báo cho bên mua Việc vận chuyển hàng hóa phải hợp pháp, và bên bán cũng cần thông báo nếu hàng hóa bị áp dụng biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự Nếu có thỏa thuận bảo hành trong hợp đồng, bên bán phải thực hiện bảo hành và chịu chi phí liên quan Trong trường hợp bên mua chậm thanh toán, bên bán có quyền yêu cầu lãi suất trên số tiền chậm trả và có thể khởi kiện bên mua tại tòa án hoặc trọng tài kinh tế nếu không có thỏa thuận trước Nếu tranh chấp xảy ra do lỗi của bên mua, bên bán có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại theo thỏa thuận trong hợp đồng (Khoản 5 Điều 297, Điều 302 Luật thương mại năm 2005).

Trong quá trình thực hiện hợp đồng, sự thay đổi hoàn cảnh có thể dẫn đến khó khăn, nhưng pháp luật về hợp đồng thương mại Việt Nam hiện chưa có quy định cụ thể cho trường hợp này Hiện nay, điều khoản liên quan đến sự thay đổi hoàn cảnh đã trở nên phổ biến trong thương mại quốc tế, đóng vai trò quan trọng trong PICC (Bộ nguyên tắc về hợp đồng thương mại quốc tế) và PECL (Bộ nguyên tắc của Luật hợp đồng châu Âu).

Khái niệm "Hardship" trong thương mại lần đầu tiên được đề cập vào những năm 1960, được ghi nhận trong nghiên cứu của Marcel Fontaine trong cuốn "Pháp luật hợp đồng quốc tế" (1989) Theo Điều 6.2.2 của UNIDROIT trong PICC năm 2010, "Hardship" xảy ra khi hoàn cảnh gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự cân bằng của hợp đồng, làm tăng chi phí thực hiện hoặc giảm giá trị nhận được Tương tự, theo PECL tại Điều 6:111, mặc dù mỗi bên phải hoàn thành nghĩa vụ của mình, nhưng nếu việc thực hiện hợp đồng trở nên quá khó khăn do thay đổi hoàn cảnh, các bên cần thương thảo để điều chỉnh hoặc chấm dứt hợp đồng Trường hợp "Hardship" được xác định khi có sự mất cân bằng về giá trị hợp đồng, chẳng hạn như sự thay đổi về giá cả.

Trong bài viết "Điều khoản về trường hợp bất khả kháng và điều khoản Hardship trong hợp đồng quốc tế" của Ugo Draetta, được trình bày tại Hội thảo “Hợp đồng thương mại quốc tế” do Nhà pháp luật Việt – Pháp tổ chức vào ngày 13-14/12/2004, tác giả phân tích vai trò và ý nghĩa của các điều khoản này trong việc bảo vệ quyền lợi của các bên trong hợp đồng khi xảy ra sự kiện không lường trước Bài viết nhấn mạnh tầm quan trọng của việc hiểu rõ các điều khoản này để đảm bảo tính công bằng và minh bạch trong giao dịch thương mại quốc tế.

18 UNIDROIT, UNIDROIT PRINCIPLES Of International Commercial Contracts 2016.

Theo Ole Lando (1995) trong "The Principles on European Contract Law", khái niệm Hardship được xem xét khi có sự thay đổi hoàn cảnh dẫn đến khó khăn trong việc thực hiện hợp đồng, buộc các bên phải thương thảo lại Cả PECL và các nguyên tắc này đều cho phép điều chỉnh giá trị hợp đồng và đàm phán lại các điều khoản đã ký kết Tại Việt Nam, pháp luật hiện hành chưa quy định rõ về Hardship, nhưng đã có những điều khoản cho phép điều chỉnh hợp đồng trong trường hợp có sự thay đổi nghiêm trọng, như Điều 57 Luật Đấu thầu năm 2005 và các quy định tại Điều 67 Luật Đấu thầu năm 2013 Ngoài ra, Thông tư 09/2008/TT-BXD cũng quy định về việc điều chỉnh giá trong hợp đồng xây dựng do biến động giá nguyên liệu Các điều khoản về bất khả kháng cũng được đề cập trong Bộ luật Dân sự năm 2015, nêu rõ sự kiện bất khả kháng là sự kiện không thể lường trước và không thể khắc phục.

Theo Bộ luật hàng hải 2005 (Điều 294, 295, 296) và Bộ luật hàng hải 2015 (Điều 151, Điều 288), các quy định này chủ yếu áp dụng cho các tranh chấp trong hợp đồng chuyên biệt Tuy nhiên, chúng không thể được coi là căn cứ chung để giải quyết các tranh chấp trong các loại hợp đồng khác.

Cần phân biệt giữa điều khoản Hardship và Force Majeure (Bất khả kháng) Force Majeure có nhiều tên gọi khác nhau tùy theo nguồn luật điều chỉnh, như "Impediment" trong PECL và Công ước của Liên Hiệp Quốc về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế 1980, "Impossibility" trong BLDS Đức, và "Impracticability" trong Bộ luật thương mại thống nhất Hoa Kỳ (UCC) Sự khác biệt chính giữa Hardship và Force Majeure nằm ở cách thức ảnh hưởng đến việc thực hiện hợp đồng: Force Majeure làm cho một bên không thể thực hiện nghĩa vụ, trong khi Hardship khiến việc thực hiện trở nên khó khăn nhưng vẫn khả thi Điều kiện áp dụng của Force Majeure liên quan đến sự gia tăng chi phí mà không ảnh hưởng đến lợi ích của bên hưởng lợi, trong khi Hardship đề cập đến sự gia tăng chi phí có tác động đến lợi ích đó Ngoài ra, Force Majeure thường liên quan đến thiên tai, chiến tranh, hoặc cản trở từ chính quyền, trong khi Hardship đề cập đến các sự kiện khách quan không lường trước Cuối cùng, khi xảy ra sự kiện Force Majeure, bên vi phạm có thể được miễn trách nhiệm, trong khi trong trường hợp Hardship, các bên vẫn phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ của mình.

Các điều khoản Hardship và Force Majeure có những quan điểm và mục đích khác nhau Để lựa chọn điều khoản phù hợp nhằm ứng phó với hoàn cảnh thay đổi trong hợp đồng, bên mua và bên bán cần thỏa thuận dựa trên tình huống và đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hóa.

20 Tác giả Trần Thanh Tâm, Nguyễn Minh Hiễn (2015); Bài viết “ Điều khoản Hardship trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế”; Tạp chí kinh tế đối ngoại số 70 (02/2015)

2.2.2 Quyền và nghĩa vụ của bên mua khi thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa trong hoạt động thương mại

Theo Điều 34 đến Điều 62 của Luật thương mại năm 2005, hợp đồng mua bán hàng hóa không đặt ra quá nhiều nghĩa vụ cho bên mua so với bên bán, mà tập trung vào việc bảo vệ quyền lợi của bên mua Bên mua cần cung cấp thông tin về địa điểm giao hàng và hỗ trợ bên bán trong quá trình giao hàng theo thỏa thuận Ngoài ra, bên mua có quyền yêu cầu bên bán cung cấp thông tin cần thiết liên quan đến hàng hóa và vận chuyển để có thể mua bảo hiểm cho hàng hóa nếu cần.

Nếu bên bán giao hàng trước thời hạn không đúng với hợp đồng, bên mua có quyền quyết định nhận hoặc không nhận hàng Trong trường hợp hàng hóa không phù hợp với hợp đồng, bên mua có quyền từ chối nhận hàng và yêu cầu bên bán khắc phục hậu quả nếu giao thiếu hoặc không đúng hàng Nếu bên bán giao thừa hàng, bên mua có thể từ chối hoặc nhận hàng thừa, nhưng nếu chọn nhận, phải thanh toán theo giá đã thỏa thuận Bên mua cũng có quyền kiểm tra hàng hóa trước khi nhận, và nếu phát hiện khiếm khuyết mà không thông báo cho bên bán trong thời hạn hợp lý, bên mua sẽ tự chịu trách nhiệm.

Bên mua có quyền yêu cầu bên bán đảm bảo quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến hàng hóa trong hợp đồng, phù hợp với bản vẽ kỹ thuật, thiết kế, công thức hoặc số liệu mà bên mua đã cung cấp cho bên bán trước đó.

Trong hợp đồng mua bán hàng hóa, nghĩa vụ thanh toán của bên mua đối với bên bán là yếu tố quan trọng nhất Bên mua phải thực hiện thanh toán theo đúng trình tự và thủ tục đã thỏa thuận, đồng thời tuân thủ quy định của pháp luật Trong một số trường hợp như khi có bằng chứng về việc bên bán lừa dối hoặc hàng hóa không phù hợp với hợp đồng, bên mua có quyền ngưng thanh toán Địa điểm thanh toán sẽ được các bên thỏa thuận; nếu không có thỏa thuận, bên mua phải thanh toán tại nơi cư trú, địa điểm giao hàng hoặc nơi giao chứng từ Bên mua có nghĩa vụ thanh toán tại thời điểm bên bán giao hàng hoặc giao chứng từ, và không chỉ kiểm tra hàng hóa, bên mua còn phải tạo điều kiện cho bên bán thực hiện giao hàng.

Chế tài về vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa trong hoạt động thƯơng mại 37

Trong Luật Thương mại 2005, có nhiều loại chế tài đối với hành vi vi phạm hợp đồng, trong đó có 03 loại chế tài thường được áp dụng trong hợp đồng mua bán hàng hóa Mặc dù các chế tài này phổ biến, nhưng cơ sở và cách thức thực hiện mỗi chế tài lại khác nhau, điều này cần được chú ý trong pháp luật về thương mại.

2.3.1 Phạt vi phạm trong hợp đồng mua bán hàng hóa trong hoạt động thương mại

Chế tài thương mại là trách nhiệm vật chất áp dụng cho bên vi phạm các điều khoản trong hợp đồng thương mại, như hợp đồng mua bán hàng hóa Việc áp dụng chế tài này dựa trên thỏa thuận giữa các bên và các quy định của pháp luật thương mại, dẫn đến hậu quả bất lợi cho bên bị áp dụng Trong đó, chế tài phạt vi phạm là một hình thức quan trọng được quy định trong Luật thương mại.

Luật thương mại năm 2005 quy định về việc phạt vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa tại các Điều 300, 301 và 418, cụ thể là phạt vi phạm, mức phạt vi phạm và thỏa thuận phạt vi phạm Các quy định này nhấn mạnh rằng phạt vi phạm được áp dụng theo thỏa thuận trong hợp đồng, tương tự như quy định trong Bộ luật dân sự.

Mặc dù có bản chất tương đồng, nhưng cách thức áp dụng chế tài phạt vi phạm giữa hai bộ luật khác nhau Theo Luật thương mại năm 2005, việc phạt vi phạm không yêu cầu phải có thiệt hại xảy ra, trong khi một số quan điểm cho rằng phạt vi phạm chỉ nên áp dụng khi có thiệt hại Nhiều quốc gia trên thế giới cũng chia sẻ quan điểm này, cho rằng việc phạt vi phạm mà không có thiệt hại thể hiện sự thiếu thiện chí và trung thực từ bên vi phạm.

Pháp luật Việt Nam quy định mức phạt vi phạm tối đa không phụ thuộc vào thỏa thuận giữa các bên Cụ thể, Điều 301 Luật Thương mại năm 2005 quy định mức phạt tối đa là 8% giá trị nghĩa vụ vi phạm, trong khi Điều 418 BLDS năm 2015 không nêu rõ mức phạt Đối với hợp đồng mua bán hàng hóa, nếu các bên có thỏa thuận mức phạt vi phạm, bên vi phạm chỉ phải chịu trách nhiệm trong giới hạn đó, bất kể thiệt hại có lớn đến đâu Trong trường hợp giao dịch giữa các doanh nghiệp, Luật Thương mại năm 2005 sẽ được ưu tiên áp dụng.

Chế tài phạt vi phạm là một hình thức độc lập, thường được áp dụng trong các tranh chấp hợp đồng, nhằm nâng cao trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ của các bên Trong nhiều trường hợp, phạt vi phạm hợp đồng được xem như một biện pháp cần thiết để giải quyết các vấn đề phát sinh Đặc biệt, trong quan hệ hợp đồng mua bán hàng hóa, mức phạt vi phạm 8% thường không quá cao, dẫn đến việc bên vi phạm vẫn chấp nhận chế tài này, gây ra tình trạng vi phạm kéo dài và khó khăn cho bên còn lại.

Phạt vi phạm đóng vai trò quan trọng như một "tấm lá chắn" bảo vệ các bên trong quan hệ kinh doanh thương mại Tuy nhiên, việc áp dụng chế tài phạt vi phạm cần phải tuân thủ đúng các điều kiện để đảm bảo hiệu quả Nếu không nắm rõ các quy định này, "tấm lá chắn" có thể không phát huy tác dụng và thậm chí gây hại cho bên yêu cầu phạt.

Bài viết "Tấm lá chắn" của Lưu Ngọc Quang, Thư ký Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam, đề cập đến chế tài phạt vi phạm trong Luật Xây dựng, nhấn mạnh một trường hợp ngoại lệ về mức phạt Nội dung này được công bố vào ngày 21/02/2018, thể hiện sự quan tâm đến việc áp dụng các quy định pháp lý trong lĩnh vực xây dựng.

Theo Khoản 2 Điều 146 năm 2014, đối với các công trình xây dựng sử dụng vốn nhà nước, mức phạt hợp đồng tối đa không được vượt quá 12% giá trị phần hợp đồng bị vi phạm.

Nhận thấy, có một số luật chuyên ngành còn quy định mức phạt chưa thống nhất đối với pháp luật về hợp đồng.

Thực tiễn giải quyết tranh chấp cho thấy nhiều bên thường áp dụng không đúng chế tài phạt vi phạm, dẫn đến việc không bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của mình Một sai lầm phổ biến là các doanh nghiệp đơn phương áp dụng biện pháp phạt vi phạm mà không có quy định trong hợp đồng, do nhận thức hạn chế rằng bên vi phạm tự động phải chịu phạt Hậu quả là yêu cầu áp dụng chế tài phạt vi phạm thường bị bác bỏ bởi Tòa án hoặc Trọng tài Do đó, các bên cần chủ động đàm phán và đưa điều khoản phạt vi phạm vào hợp đồng để tạo cơ sở pháp lý cho việc áp dụng trong thực tiễn.

Trong quá trình ký kết hợp đồng, các doanh nghiệp thường mắc phải sai lầm khi thỏa thuận mức phạt vi phạm vượt quá giới hạn pháp luật cho phép Theo Luật Thương mại năm 2005, mức phạt tối đa cho vi phạm hợp đồng chỉ là 8% giá trị nghĩa vụ bị vi phạm Do đó, mọi thỏa thuận về mức phạt lớn hơn 8% mà không thuộc trường hợp ngoại lệ quy định tại Khoản 2 Điều 146 Luật Xây dựng sẽ bị coi là vi phạm pháp luật Các chế tài phạt vi phạm không chỉ nâng cao trách nhiệm pháp lý mà còn tăng cường tính ràng buộc và ý thức thực hiện hợp đồng giữa các bên, góp phần bảo vệ quyền lợi cho tất cả các bên trong quá trình thực hiện hợp đồng.

2.3.2 Bồi thường thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa trong hoạt động thương mại

Mối quan hệ giữa chế tài bồi thường thiệt hại và phạt vi phạm theo Điều 418 BLDS năm 2015 và Điều 307 Luật thương mại năm 2005 không thống nhất Theo BLDS, các bên có thể thỏa thuận rằng bên vi phạm chỉ phải nộp tiền phạt hoặc cả tiền phạt và bồi thường thiệt hại Nếu không có thỏa thuận về bồi thường, bên vi phạm chỉ phải nộp phạt Ngược lại, theo Luật thương mại, bên bị vi phạm có quyền áp dụng cả hai chế tài phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại, trừ khi có quy định khác, cho thấy Luật thương mại không yêu cầu thỏa thuận trước như trong Bộ luật dân sự.

Luật thương mại năm 2005 quy định tại Điều 302 về chế tài bồi thường thiệt hại trong hợp đồng mua bán hàng hóa, nhấn mạnh rằng trách nhiệm bồi thường phát sinh ngay cả khi không có thỏa thuận cụ thể giữa các bên Theo quy định của Bộ luật Dân sự và Luật Thương mại, trách nhiệm này chỉ có hiệu lực khi có hành vi vi phạm hợp đồng, thiệt hại thực tế xảy ra, và mối quan hệ nhân quả giữa vi phạm và thiệt hại Đặc biệt, cả hai luật không giới hạn mức bồi thường, mà dựa vào lỗi của các bên và mức thiệt hại thực tế, theo Điều 303 của Luật thương mại 2005.

Theo Khoản 2 Điều 302 Luật thương mại năm 2005, chỉ có thiệt hại vật chất mới được bồi thường, trong khi thiệt hại phi vật chất như tổn hại uy tín thương nhân hay nhãn hiệu hàng hóa không thuộc nghĩa vụ bồi thường của bên vi phạm Thiệt hại trực tiếp trong hợp đồng mua bán hàng hóa được hiểu là những thiệt hại xảy ra khách quan, dễ dàng tính toán như tài sản bị mất, giá trị hàng hóa giảm sút, và chi phí bảo quản hàng hóa Những thiệt hại này là nguyên nhân trực tiếp mà luật thương mại yêu cầu các bên thực hiện nghĩa vụ bồi thường.

Bên bị vi phạm có nghĩa vụ yêu cầu bồi thường thiệt hại từ bên vi phạm theo hợp đồng, nhưng cần chứng minh được tổn thất và hạn chế tổn thất để tránh việc yêu cầu bồi thường không hợp lý Nghĩa vụ chứng minh bao gồm việc xác định mức độ tổn thất do hành vi vi phạm gây ra và khoản lợi mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng Đồng thời, bên yêu cầu bồi thường phải áp dụng các biện pháp hợp lý để hạn chế tổn thất, bao gồm cả lợi ích trực tiếp bị ảnh hưởng Nếu không thực hiện các biện pháp hạn chế, bên vi phạm có quyền yêu cầu giảm giá trị bồi thường tương ứng với mức tổn thất có thể hạn chế được.

THỰC TIỄN VÀ KIẾN NGHỊ PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG

Ngày đăng: 08/05/2022, 13:55

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Bộ Công Thương (2014), Văn bản hợp nhất 19/VBHN-BCT năm 2014 hợp nhất Nghị định hướng dẫn Luật Thương mại về hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh và kinh doanh có điều kiện, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn bản hợp nhất 19/VBHN-BCT năm 2014 hợp nhất Nghịđịnh hướng dẫn Luật Thương mại về hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinhdoanh và kinh doanh có điều kiện
Tác giả: Bộ Công Thương
Nhà XB: Nhà xuất bản Chính trị quốc gia
Năm: 2014
2. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2022), Thông tư 03/2022/TT-NHNN sửa đổi Thông tư 32/2013/TT-NHNN hướng dẫn thực hiện quy định hạn chế sử dụng ngoại hối trên lãnh thổ Việt Nam do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ban hành, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thông tư 03/2022/TT-NHNN sửa đổi Thông tư32/2013/TT-NHNN hướng dẫn thực hiện quy định hạn chế sử dụng ngoại hối trên lãnhthổ Việt Nam do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ban hành
Tác giả: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Nhà XB: Nhà xuất bản Chính trịquốc gia
Năm: 2022
3. Quốc hội (2005), Luật Thương mại năm 2005, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Luật Thương mại năm 2005
Tác giả: Quốc hội
Nhà XB: Nhà xuất bản Chính trị quốc gia sự thật
Năm: 2005
4. Quốc hội (2012), Luật giá năm 2012 , Nhà xuất bản Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Luật giá năm 2012
Tác giả: Quốc hội
Nhà XB: Nhà xuất bản Chính trị quốc gia sự thật
Năm: 2012
5. Quốc hội (2014), Luật Doanh nghiệp năm 2014, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Luật Doanh nghiệp năm 2014
Tác giả: Quốc hội
Nhà XB: Nhà xuất bản Chính trị quốc gia sựthật
Năm: 2014
7. Quốc hội (2015), Bộ Luật Dân sự năm 2015 , Nhà xuất bản Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội.Bản án, giáo trình, tạp chí, sách, từ điển, luận văn Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bộ Luật Dân sự năm 2015
Tác giả: Quốc hội
Nhà XB: Nhà xuất bản Chính trị quốc gia sự thật
Năm: 2015
8. C.Mác và Ph.Ăng- Ghen (1995), C.Mác và Ph.Ăng- Ghen toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia - Sự thật Sách, tạp chí
Tiêu đề: C.Mác và Ph.Ăng- Ghen toàn tập
Tác giả: C.Mác và Ph.Ăng- Ghen
Nhà XB: Nhà xuất bảnChính trị Quốc gia - Sự thật
Năm: 1995
9. Dương Anh Sơn- Lê Thị Bích Thọ (2005), “Một số ý kiến về phạt vi phạm do vi phạm pháp luật hợp đồng theo pháp luật Việt Nam”, Tạp chí Khoa học pháp lý, Số 1(tr26) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Một số ý kiến về phạt vi phạm do vi phạmpháp luật hợp đồng theo pháp luật Việt Nam”, Tạp chí Khoa học pháp lý
Tác giả: Dương Anh Sơn- Lê Thị Bích Thọ
Năm: 2005
10. Lê Minh Nghĩa (2005), Giáo trình Kinh tế chình trị Mác – Lênin, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giáo trình Kinh tế chình trị Mác – Lênin
Tác giả: Lê Minh Nghĩa
Nhà XB: Nhà xuất bản Chínhtrị Quốc gia
Năm: 2005
11. Nguyễn Ngọc Khánh (2007), Chế định hợp đồng trong Bộ Luật Dân sự Việt Nam , NXB Tư pháp Sách, tạp chí
Tiêu đề: Chế định hợp đồng trong Bộ Luật Dân sự Việt Nam
Tác giả: Nguyễn Ngọc Khánh
Nhà XB: NXB Tư pháp
Năm: 2007
12. Trường Đại học Bách khoa Hà Nội (2008) - Cao Thị Toàn, Kinh Tế Chính Trị Mác- Lênin, Nhà xuất bản Khoa Học Kỹ Thuật, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Kinh Tế Chính Trị Mác-Lênin
Nhà XB: Nhà xuất bản Khoa Học Kỹ Thuật
13. Trường Đại học Cần Thơ – Khoa Luật – Thạc sĩ Dương Kim Thế Nguyên (2007), Giáo trình Luật Thương mại, Nhà xuất bản Đại học Cần Thơ, Cần Thơ Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giáo trình Luật Thương mại
Tác giả: Trường Đại học Cần Thơ – Khoa Luật – Thạc sĩ Dương Kim Thế Nguyên
Nhà XB: Nhà xuất bản Đại học Cần Thơ
Năm: 2007
14. Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2017) , Giáo trình Luật Thương mại quốc tế - Phần II, Nhà xuất bản Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam, (tr57,133) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giáo trình Luật Thương mạiquốc tế - Phần II
Nhà XB: Nhà xuất bản Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam
15. TS.Nguyễn Am Hiểu, Ths. Quản Thị Mai Hường ( 2000), Tìm hiểu pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa và đại diện thương mại, Nhà xuất bản Đà Nẵng, Đà Nẵng Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tìm hiểu pháp luật về hợpđồng mua bán hàng hóa và đại diện thương mại
Nhà XB: Nhà xuất bản Đà Nẵng
16. Ugo Draetta (13-14/12/2004), Điều khoản về trường hợp bất khả kháng và điều khoản Hardship trong hợp đồng quốc tế, Kỷ yếu Hội thảo “Hợp đồng thương mại quốc tế”do Nhà pháp luật Việt –Pháp tổ chức tại Hà Nội , tr.181 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Điều khoản về trường hợp bất khả kháng và điều khoảnHardship trong hợp đồng quốc tế, Kỷ yếu Hội thảo “Hợp đồng thương mại quốc tế”"do Nhà pháp luật Việt –Pháp tổ chức tại Hà Nội
18. Viện Khoa Học Pháp Lý - Bộ Tư Pháp (2006), Từ điển luật học, Nhà xuất bản Tư Pháp.Tài liệu tham khảo từ internet Sách, tạp chí
Tiêu đề: Từ điển luật học
Tác giả: Viện Khoa Học Pháp Lý - Bộ Tư Pháp
Nhà XB: Nhà xuất bản TưPháp.Tài liệu tham khảo từ internet
Năm: 2006
19. Đoàn Thị Ngọc Hải, Nghiên cứu trao đổi- Hoàn thiện các quy định về chế tài trong thương mại theo Luật Thương mại năm 2005, Trang Trường Đại học Khoa học Xã hội& Nhân văn - Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh. Nguồn:http://ttpc.hcmussh.edu.vn/?ArticleId=a7405083-940b-44f1-95e6-71f840db65a5 , dowload ngày 01/03/2022 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghiên cứu trao đổi- Hoàn thiện các quy định về chế tài trongthương mại theo Luật Thương mại năm 2005
20. Lê Minh Trường (2018), Điều chỉnh giá trong hợp đồng, Trang Công ty Luật TNHH Minh Khuê. Nguồn: https://luatminhkhue.vn/dieu-chinh-gia-trong-hop-dong.aspx,dowload ngày 24/03/2022 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Điều chỉnh giá trong hợp đồng
Tác giả: Lê Minh Trường
Năm: 2018
21. Lê Xuân (2018), Rối bời thực thi pháp luật về hợp đồng. Nguồn:https://baomoi.com/roi-boi-thuc-thi-phap-luat-ve-hop-dong/c/28697388.epi , download ngày 06/3/2022 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Rối bời thực thi pháp luật về hợp đồng
Tác giả: Lê Xuân
Năm: 2018
12. Tòa án Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh (2020), Bản án số 745/2020/QĐ- PT ngày 5/8/2020 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh về việc hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án dân sự về tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa giữa Công ty cổ phần New Link và Công ty Cổ phần Bê tông Fico Pan –United (http://congbobanan.toaan.gov.vn/2ta869510t1cvn/chi-tiet-ban-an) Link

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w