Đánh giá tác động của CPTPP đến hoạt động thương mại hàng hóa tại Việt Nam TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG TPHCM VIỆN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ NGÂN HÀNG BÁO CÁO TỔNG HỢP NGHIỆM THU CHÍNH THỨC ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA HIỆP ĐỊNH ĐỐI TÁC TOÀN DIỆN VÀ TIẾN BỘ XUYÊN THÁI BÌNH DƢƠNG (CPTPP) TỚI HOẠT ĐỘNG THƢƠNG MẠI HÀNG HÓA TẠI VIỆT NAM CHỦ NHIỆM TS LÊ THỊ ÁNH TUYẾT TP Hồ Chí Minh, Năm 2021 TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG TPHCM VIỆN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ NGÂN HÀNG BÁO CÁO TỔNG HỢP NGHIỆM THU C.
GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP) là một hiệp định thương mại tự do được đàm phán từ tháng 3/2010, bao gồm 12 quốc gia thành viên: Hoa Kỳ, Canada, Mexico, Peru, Chile, New Zealand, Australia, Nhật Bản, Singapore, Brunei, Malaysia và Việt Nam TPP đã chính thức được ký kết vào ngày 4/2/2016 và dự kiến sẽ có hiệu lực trong tương lai gần.
Vào tháng 1/2017, Hoa Kỳ tuyên bố rút khỏi Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP), khiến hiệp định này không thể có hiệu lực như dự kiến Đến tháng 11/2017, 11 quốc gia thành viên còn lại đã quyết định đổi tên TPP thành Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ Xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) CPTPP được ký kết chính thức vào tháng 3/2018 và đã được 7 nước phê chuẩn, bao gồm Australia, Canada, Nhật Bản, Mexico, Singapore, New Zealand và Việt Nam, có hiệu lực từ ngày 30/12/2018 Tại Việt Nam, CPTPP có hiệu lực từ ngày 14/1/2019, giữ nguyên hầu hết các cam kết của TPP, ngoại trừ các cam kết liên quan đến Hoa Kỳ, 22 điểm tạm hoãn và một số sửa đổi trong các Thư song phương giữa các bên.
Việc ký kết Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) mở ra cơ hội lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam trong bối cảnh nền kinh tế mở với quy mô xuất, nhập khẩu cao Giảm thuế xuất khẩu xuống còn 0% - 5% sẽ nâng cao khả năng cạnh tranh về giá cả sản phẩm, đồng thời tạo điều kiện để các doanh nghiệp mở rộng thị trường sang các quốc gia thành viên như Nhật Bản, Canada, Australia, New Zealand và Mexico Bên cạnh đó, việc giảm thuế nhập khẩu cũng giúp doanh nghiệp Việt Nam đa dạng hóa sản phẩm, mở rộng quy mô sản xuất và kinh doanh CPTPP không chỉ tạo ra một môi trường cạnh tranh công bằng và minh bạch mà còn là nền tảng cho sự phát triển bền vững, giúp doanh nghiệp cải thiện chất lượng hàng hóa, dịch vụ và tham gia hiệu quả vào chuỗi cung ứng toàn cầu.
Bốn nước thành viên CPTPP sẽ được hưởng cam kết cắt giảm thuế lên đến hơn 90%, thậm chí 95% Lợi ích từ CPTPP không chỉ tăng xuất khẩu mà còn nâng cao hàm lượng công nghệ trong hàng hóa xuất khẩu, thúc đẩy thương mại với các thị trường lớn như Nhật Bản, Canada, Úc và Mexico Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi, CPTPP cũng đặt ra nhiều thách thức cho Việt Nam do một số điều khoản có lợi hơn cho các nước công nghiệp phát triển.
Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra tác động của CPTPP đến thương mại quốc gia, bao gồm các công trình của Lu (2018), Maliszewska, Olekseyuk và Osorio-Rodarte (2018), Cooper và Manyin (2013), cùng với các tác giả khác như Armstrong (2011), Trung (2017), Oanh (2019), Hội (2015), Hội (2014), Phúc (2017), Lê (2015), Thịnh (2019), Phương (2016) và Thúy (2015) Những nghiên cứu này cung cấp cái nhìn sâu sắc về ảnh hưởng của CPTPP đối với thương mại trong nước và quốc tế.
Mặc dù có nhiều nghiên cứu về cơ hội và thách thức của CPTPP đối với các quốc gia thành viên, chưa có nghiên cứu nào đánh giá tác động tổng thể của Hiệp định này đến quan hệ thương mại của Việt Nam với từng thành viên trong CPTPP Cần thiết phải xác định các ngành hàng có lợi thế và bất lợi cho Việt Nam, cũng như ước lượng mức độ thay đổi trong kim ngạch xuất nhập khẩu khi các cam kết xóa bỏ thuế quan được thực thi Các cam kết mạnh mẽ của CPTPP có thể thúc đẩy kim ngạch xuất nhập khẩu, nhưng mức độ thay đổi sẽ khác nhau giữa các quốc gia Do đó, phân tích thương mại Việt Nam - CPTPP là cần thiết để hiểu rõ xu hướng và tác động theo ngành, từ đó dự báo xu hướng xuất nhập khẩu của Việt Nam với thị trường CPTPP Bài nghiên cứu này sẽ làm rõ bức tranh chung trong quan hệ thương mại Việt Nam - CPTPP và xác định các yếu tố ảnh hưởng đến tăng trưởng xuất nhập khẩu.
TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU TRONG VÀ NGOÀI NƯỚC
Châu (2014) đã phân tích Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP) như một hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, từ đó đưa ra các phương án đàm phán cho Việt Nam trong khuôn khổ TPP, đồng thời nhận diện những cơ hội và thách thức mà Việt Nam phải đối mặt.
Quỳ (2014) đã nghiên cứu bối cảnh ra đời và các đặc điểm nổi bật của Hiệp định TPP, coi đây là một hiệp định tự do thương mại thế hệ mới Bài viết cũng phân tích những nội dung chính dự kiến sẽ được thảo luận trong Hiệp định TPP và đề xuất các giải pháp nhằm giúp Việt Nam tham gia hiệu quả vào các vòng đàm phán.
Thành và Hằng (2015) đã nghiên cứu tác động của hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt là các Hiệp định Thương mại tự do như TPP và AEC, lên nền kinh tế Việt Nam Họ đã phân tích ảnh hưởng đến từng ngành, tập trung vào các yếu tố như thương mại, giá cả, sản lượng và phúc lợi Đặc biệt, cuốn sách chú trọng vào ngành chăn nuôi, được xem là ngành gặp nhiều khó khăn và chịu ảnh hưởng tiêu cực từ các Hiệp định thương mại tự do.
Theo Hiệp (2015), nền kinh tế Việt Nam sẽ hưởng lợi từ cả hai khía cạnh kinh tế và chiến lược, nhưng cũng sẽ đối mặt với nhiều thách thức Nghiên cứu dự đoán GDP của Việt Nam sẽ tăng khoảng 11% và kim ngạch xuất khẩu sẽ tăng 28% trong vòng 10 năm tới Các ngành xuất khẩu như dệt may, thủy sản và nông lâm sản sẽ có cơ hội lớn để tiếp cận thị trường lớn, đặc biệt là Mỹ và Nhật Bản, trong khi ngành chăn nuôi và các sản phẩm như sữa, đậu nành và bắp sẽ gặp nhiều tác động tiêu cực Hiệp định này cũng sẽ thúc đẩy dòng vốn đầu tư FDI và quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước Mặc dù các quy định về sở hữu trí tuệ và bảo vệ môi trường trong TPP có thể làm tăng chi phí cho doanh nghiệp trong nước, nhưng về lâu dài, chúng sẽ thúc đẩy nền kinh tế phát triển theo hướng sáng tạo và bền vững hơn.
Hoàng (2015) đã tiến hành nghiên cứu phân tích sơ bộ về tác động của Hiệp định TPP đối với ba lĩnh vực dịch vụ chủ chốt tại Thành phố Hồ Chí Minh, bao gồm tài chính-ngân hàng, phân phối bán lẻ và thương mại điện tử.
Hùng (2015) đã thực hiện phân tích sơ bộ về tác động đến một số ngành kinh tế của Việt Nam thông qua mô hình định lượng Nghiên cứu này sẽ làm cơ sở cho việc đánh giá tác động sâu hơn đến các lĩnh vực khác trong nền kinh tế.
Nghiên cứu của Việt (2016) tập trung vào việc nhận diện và phân tích các cơ hội, ưu tiên và thách thức mà các doanh nghiệp phải đối mặt khi Việt Nam tham gia đàm phán Hiệp định TPP.
Hầu hết các nghiên cứu tại Việt Nam về Hiệp định TPP, tiền thân của CPTPP, chủ yếu tập trung vào quá trình đàm phán và dự đoán tác động ban đầu của Hiệp định đối với nền kinh tế tổng thể cũng như một số ngành kinh tế tiêu biểu.
Ciuriak, Xiao và Dadkhah (2017) đã đánh giá kết quả của các bên đàm phán trong Hiệp định TPP nếu mười một bên còn lại tiến hành thỏa thuận mà không có Hoa Kỳ, so với thỏa thuận ban đầu gồm 12 thành viên ký vào tháng 10 năm 2016 Nghiên cứu chỉ ra rằng hiệp định CPTPP với 11 bên là một thỏa thuận nhỏ hơn nhiều, nhưng một số nước, đặc biệt là Canada, Mexico, Chile và Peru, sẽ có lợi hơn khi không có Hoa Kỳ Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng mười một bên nên thực hiện CPTPP, bỏ qua các yếu tố quản trị gây tranh cãi do tác động của chúng đối với lợi ích quốc gia không rõ ràng và có thể bị ảnh hưởng bởi các cuộc đàm phán song phương giữa các bên CPTPP và Hoa Kỳ.
Khan, Zada và Mukhopadhyay (2018) đã sử dụng mô hình cân bằng tổng thể để đánh giá tác động của CPTPP đối với thương mại và kinh tế vĩ mô của Pakistan Kết quả cho thấy CPTPP có thể gây tác động tiêu cực đến GDP thực tế, xuất khẩu và nhập khẩu của Pakistan Tuy nhiên, nếu Pakistan tham gia CPTPP, nền kinh tế quốc gia sẽ có những lợi ích tích cực Với vị trí địa lý chiến lược của mình, Pakistan có tiềm năng trở thành một nền kinh tế trung chuyển quan trọng giữa Nam Á, Tây Á và Trung Á, từ đó việc tham gia CPTPP không chỉ mang lại lợi ích lớn mà còn giúp giảm khoảng cách giàu nghèo.
Pakistan và do đó sẽ có tác động tích cực đến bất bình đẳng thu nhập nói chung ở Pakistan
Lu (2018) đã thực hiện một nghiên cứu đánh giá định lượng về tác động tiềm tàng của Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và Hiệp định Thương mại Tự do EU-Việt Nam (EVFTA) đối với xuất khẩu hàng may mặc của Việt Nam Nghiên cứu này nhằm xác định những lợi ích và cơ hội mà các hiệp định thương mại này mang lại cho ngành may mặc Việt Nam.
Theo ước tính của Lakatos, Maliszewska, Ohnsorge, Petri và Plummer (2016), hiệp định TPP có khả năng thúc đẩy GDP của các quốc gia thành viên tăng trung bình khoảng 1,1% và gia tăng giá trị thương mại lên khoảng 11% vào năm 2030, đồng thời tạo ra tác động lan tỏa tích cực đến các khu vực khác trong nền kinh tế toàn cầu.
Kelsey và Kilic (2014) đã trình bày quan điểm của Hoa Kỳ về thương mại điện tử, chuyển giao công nghệ và việc di chuyển dữ liệu xuyên biên giới trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế Những quan điểm này nhấn mạnh tầm quan trọng của thương mại điện tử và công nghệ trong việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế toàn cầu, đồng thời chỉ ra những thách thức và cơ hội mà các quốc gia phải đối mặt khi tham gia vào nền kinh tế số.
Capling và Ravenhill (2011) chỉ ra rằng việc thúc đẩy Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP) nhằm dỡ bỏ rào cản thương mại giữa các quốc gia thành viên không mang lại lợi ích kinh tế rõ rệt Điều này là do hầu hết các thành viên TPP đều là những nền kinh tế nhỏ và đã có nhiều hiệp định thương mại tự do được thiết lập trước đó giữa họ.
Armstrong (2011) phân tích rằng ý nghĩa kinh tế và chính trị của hiệp định TPP phụ thuộc vào sự thống nhất cuối cùng về nội dung và khả năng mở rộng cho các quốc gia như Indonesia và các nước Đông Á khác, đặc biệt là Trung Quốc Sau khi TPP được ký kết và công bố toàn bộ nội dung, các nghiên cứu đã rõ ràng định lượng tác động của hiệp định này đến các nền kinh tế thành viên.
MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
Mục tiêu chính của đề tài là đánh giá tác động của CPTPP đối với thương mại hàng hóa tại Việt Nam, đồng thời đề xuất các giải pháp nhằm tối ưu hóa những ảnh hưởng tích cực và giảm thiểu các tác động tiêu cực của CPTPP đến lĩnh vực này.
- Phân tích thực trạng thương mại hàng hóa giữa Việt Nam và CPTPP
- Đánh giá tác động của CPTPP đến một số một số ngành hàng xuất nhập khẩu tại Việt Nam
- Ước lượng mức độ thay đổi kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam – CPTPP
- Đề xuất các giải pháp và kiến nghị cho Việt Nam trong tận dụng cơ hội vượt qua những thách thức của Hiệp định CPTPP.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Dựa vào tài liệu và số liệu thứ cấp từ nhiều nguồn khác nhau, nhóm nghiên cứu sẽ áp dụng các phương pháp nghiên cứu nhằm đạt được những mục tiêu cụ thể.
- Tổng hợp, phân tích các nghiên cứu về đánh giá tác động của Hiệp định thương mại tự do
- Thống kê, mô tả, phân tích và đánh giá các số liệu về xuất nhập khẩu, thương mại của Việt Nam với các nước CPTPP
Giải pháp và kiến nghị
Tổng quan các nghiên cứu
Phương pháp định lượng: mô hình trọng lực và chỉ số thương mại
Thống kê mô tả, suy luận logic
(1) Cơ sở lý luận về tác động của Hiệp định thương mại tự do
(2) Phân tích và đánh giá thực trạng thương mại hàng hóa giữa
(3) Đánh giá tác động của CPTPP đến một số ngành hàng XNK và xác định các nhân tố tác động tới thương mại giửa
Nghiên cứu áp dụng phương pháp chỉ số thương mại nhằm xác định các ngành nghề tại Việt Nam có khả năng hưởng lợi và những ngành có khả năng bị ảnh hưởng tiêu cực từ Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP).
- Nghiên cứu sử dụng mô hình trọng lực để đánh giá tác động của các nhân tố ảnh hưởng đến thương mại giữa Việt Nam và các nước CPTPP
KHUNG PHÂN TÍCH VÀ MÔ HÌNH ĐỀ XUẤT
Hình 1.1 Khung phân tích của nghiên cứu
Nguồn: Nhóm nghiên cứu đề xuất, 2021
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÁC ĐỘNG CỦA HIỆP ĐỊNH CPTPP
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÁC ĐỘNG CỦA HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI TỰ DO
2.1.1 Hội nhập kinh tế quốc tế
Hội nhập kinh tế quốc tế, theo Bình (2012), là quá trình kết nối nền kinh tế của các quốc gia với các tổ chức hợp tác kinh tế khu vực và toàn cầu, trong đó các nước thành viên tuân thủ các quy định chung Quá trình này bao gồm việc tự do hóa và mở cửa nền kinh tế thông qua các hình thức khác nhau, trong đó có biện pháp đơn phương, cho phép các quốc gia tự nguyện thực hiện các chính sách nhằm giảm bớt rào cản đối với hoạt động sản xuất kinh doanh, đồng thời giảm thuế quan và phi thuế quan đối với hàng hóa xuất - nhập khẩu.
Song phương: Là hình thức hội nhập kinh tế giữa hai nước dựa trên thỏa thuận song phương
Tiểu khu vực/vùng là hình thức hội nhập giữa các vùng của hai hoặc nhiều quốc gia gần gũi về địa lý, nhằm thực hiện các liên kết kinh tế và kết nối hạ tầng Mục tiêu của tiểu khu vực là phát huy sự bổ trợ lẫn nhau về nguồn lực giữa các vùng, từ đó thúc đẩy sự phát triển kinh tế bền vững.
Khu vực là hình thức hội nhập giữa các quốc gia trong cùng một khu vực địa lý, như khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), Liên minh châu Âu (EU), Khu vực Mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA) và CPTPP.
Liên khu vực là hình thức hội nhập giữa các quốc gia thuộc hai khu vực địa lý khác nhau, ví dụ như ASEM (Hợp tác Á-Âu) và Khu vực Mậu dịch tự do EU-ASEAN.
Toàn cầu: Hội nhập như trong khuôn khổ tổ chức WTO là hình thức hội nhập kinh tế-thương mại toàn cầu
Hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra với nhiều mức độ khác nhau, và khung khái niệm về các cấp độ này do nhà kinh tế học Hungary, Balassa (1961) đề xuất trong tác phẩm “Lý thuyết về hội nhập kinh tế” vẫn được áp dụng rộng rãi trong nghiên cứu Ông đã trình bày năm hình thức liên kết và hội nhập kinh tế khu vực, được phân loại theo mức độ cam kết tự do hóa thương mại và liên kết kinh tế, từ “nông” đến “sâu”.
Thỏa thuận thương mại ưu đãi (PTA) là hình thức mà các nước thành viên cung cấp cho nhau các ưu đãi thương mại thông qua việc cắt giảm thuế quan, tuy nhiên, phạm vi và mức độ cắt giảm thường bị giới hạn Một số ví dụ tiêu biểu về PTA bao gồm Hiệp định PTA của ASEAN được ký kết năm 1977, Hiệp định Thương mại Việt-Mỹ vào năm 2001, và Hiệp định GATT.
(1947 và 1994) là các ví dụ cụ thể của mô hình liên kết kinh tế ở giai đoạn thấp nhất
Khu vực mậu dịch tự do (FTA) yêu cầu các thành viên cắt giảm và loại bỏ hàng rào thuế quan cũng như hạn chế định lượng trong thương mại hàng hóa nội khối, đồng thời duy trì chính sách thuế quan độc lập với các quốc gia ngoài khối Một số ví dụ tiêu biểu về FTA bao gồm Khu vực mậu dịch tự do Bắc Âu (EFTA), Khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA) và Khu vực Mậu dịch tự do ASEAN (AFTA).
Liên minh thuế quan (CU) là một hình thức hợp tác kinh tế giữa các quốc gia, trong đó các thành viên cam kết cắt giảm và loại bỏ thuế quan trong thương mại nội khối, đồng thời áp dụng chính sách thuế quan chung đối với các nước bên ngoài Ví dụ điển hình của các liên minh thuế quan bao gồm Nhóm ANDEAN và Liên minh thuế quan Nga-Belarus-Kazakhstan.
Thị trường chung (CM) yêu cầu các thành viên không chỉ loại bỏ thuế quan và hàng rào phi thuế quan trong thương mại nội khối, mà còn phải có chính sách thuế quan chung đối với các nước ngoài khối Bên cạnh đó, các hạn chế về lưu chuyển các yếu tố sản xuất như vốn và lao động cũng cần được xóa bỏ, nhằm tạo ra một nền sản xuất chung Một ví dụ điển hình là Liên minh châu Âu, nơi đã trải qua giai đoạn xây dựng thị trường duy nhất (Thị trường chung châu Âu) trước khi phát triển thành một liên minh kinh tế.
Liên minh kinh tế - tiền tệ là hình thức hội nhập kinh tế cao nhất, được xây dựng trên nền tảng của một thị trường chung và việc thực hiện các chính sách kinh tế thống nhất.
13 tế và tiền tệ chung (một đồng tiền chung, ngân hàng trung ương thống nhất của khối)
Ví dụ: EU hiện nay
Một quốc gia có thể tham gia vào nhiều tiến trình hội nhập với các đặc điểm và hình thức khác nhau Tuy nhiên, quá trình hội nhập thường diễn ra từ những bước cơ bản đến nâng cao, và việc bỏ qua giai đoạn chỉ xảy ra trong những điều kiện đặc biệt Hội nhập kinh tế đóng vai trò quan trọng cho sự bền vững của các lĩnh vực hội nhập khác, đặc biệt là chính trị, và thường được các quốc gia ưu tiên thúc đẩy như một công cụ cho hợp tác và phát triển trong bối cảnh toàn cầu hóa.
2.1.2 Khái niệm về Hiệp định Thương mại tự do
Hiệp định thương mại tự do (FTA) là văn bản ghi nhận sự thỏa thuận giữa hai hay nhiều quốc gia hoặc vùng lãnh thổ nhằm tự do hóa thương mại cho một hoặc một số nhóm mặt hàng FTA được thực hiện thông qua việc cắt giảm thuế quan và thiết lập các quy định thuận lợi cho việc trao đổi hàng hóa, dịch vụ và đầu tư giữa các thành viên Sự đa dạng trong các khái niệm về FTA từ các tổ chức và quốc gia khác nhau phản ánh những quan điểm và sự phát triển riêng biệt của từng quốc gia.
Theo quan điểm truyền thống, FTA (Hiệp định Thương mại Tự do) là hiệp định hợp tác kinh tế giữa ít nhất hai quốc gia nhằm giảm bớt hàng rào thương mại, bao gồm thuế quan và quota nhập khẩu, đồng thời thúc đẩy thương mại hàng hóa và dịch vụ giữa các nước Một đặc điểm quan trọng của FTA truyền thống là các thành viên không áp dụng biểu thuế quan chung với các quốc gia ngoài FTA Các ví dụ tiêu biểu về FTA theo khái niệm này bao gồm FTA ASEAN (AFTA) và FTA Trung Âu (CEFTA).
FTA thế hệ mới đề cập đến các hiệp định thương mại tự do toàn diện, không chỉ giới hạn trong việc tự do hóa thương mại hàng hóa Ví dụ tiêu biểu bao gồm FTA Việt Nam-EU (EVFTA), CPTPP, NAFTA, MERCOSUR, các FTA ASEAN+1 và AUSFTA Các hiệp định này được coi là “mới” vì chúng mở rộng phạm vi hợp tác kinh tế, thúc đẩy đầu tư và bảo vệ quyền lợi của các bên tham gia.
- Một số FTA “thế hệ mới” nêu trên bao gồm cả các nội dung vốn được coi là
“phi thương mại” như: lao động, môi trường, cam kết phát triển bền vững và quản trị tốt, …
Các FTA "thế hệ mới" khác biệt so với các hiệp định trước đây và WTO bởi việc bao gồm nhiều nội dung mới như đầu tư, cạnh tranh, mua sắm công, thương mại điện tử Những hiệp định này cũng tập trung vào việc khuyến khích phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, cung cấp hỗ trợ kỹ thuật cho các nước đang phát triển, đồng thời cho phép thời gian chuyển đổi hợp lý để các nước đi sau có thể điều chỉnh chính sách theo lộ trình phù hợp với trình độ phát triển của mình.