1. Trang chủ
  2. » Thể loại khác

thong-tin-cu-tri-quan-tam-ky-6-ban-chinh-thuc-gui-in-08.10.218

38 4 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Thông Tin Một Số Vấn Đề Cử Tri Quan Tâm Về Lĩnh Vực Giáo Dục Và Đào Tạo
Trường học Bộ Giáo Dục Và Đào Tạo
Chuyên ngành Giáo Dục Và Đào Tạo
Thể loại báo cáo
Năm xuất bản 2018
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 38
Dung lượng 870,89 KB

Cấu trúc

  • SỐ 29-NQ/TW VỀ ĐỔI MỚI CĂN BẢN, TOÀN DIỆN GDĐT (0)
    • 1. Một số kết quả bước đầu (2)
    • 2. Tồn tại, hạn chế (6)
    • 3. Nhiệm vụ, giải pháp trong thời gian tới (7)
  • PHẦN II. KẾT QUẢ THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT 33/2016/QH14 CỦA QUỐC HỘI VỀ CHẤT VẤN VÀ TRẢ LỜI CHẤT VẤN TẠI KỲ HỌP THỨ 2, QUỐC HỘI KHÓA XIV LIÊN (10)
  • PHẦN III. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CỬ TRI QUAN TÂM (14)
    • 1. Về thi trung học phổ thông quốc gia (14)
    • 2. Chương trình giáo dục phổ thông mới (19)
    • 3. Sách giáo khoa giáo dục phổ thông hiện hành (23)
    • 4. Tài liệu Tiếng Việt 1- Công nghệ giáo dục (28)
    • 5. Về thừa, thiếu giáo viên mầm non, phổ thông (31)
    • 6. Về cơ sở vật chất (35)

Nội dung

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THÔNG TIN MỘT SỐ VẤN ĐỀ CỬ TRI QUAN TÂM VỀ LĨNH VỰC GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO PHẦN I MỘT SỐ KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC SAU 05 NĂM THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT SỐ 29 NQ/TW VỀ ĐỔI[.]

VỀ ĐỔI MỚI CĂN BẢN, TOÀN DIỆN GDĐT

Một số kết quả bước đầu

1.1 Hệ thống cơ sở GDĐT phát triển cả về quy mô, số lượng và chất lượng Năm 2016, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Khung cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân được thiết kế theo hươ ng mơ , linh hoa t, lie n tho ng giư a ca c ca p ho c, tr nh độ và giữa các phương thức GDĐT phù hợp với quốc tế; ban hành Khung trình độ quốc gia Việt Nam nhằm chuẩn hóa hệ thống giáo dục quốc dân, góp phần thúc đẩy hợp tác quốc tế về giáo dục và công nhận trình độ người lao động trong bối cảnh Việt Nam hội nhập quốc tế sâu rộng, với cấu trúc 8 bậc phù hợp với cơ cấu hệ thống giáo dục hiện hành (sơ cấp, trung cấp, cao đẳng, đại học, thạc sĩ, tiến sĩ) 1

1.2 Giáo dục mầm non: năm học 2013-2014 cả nước mới có 18 tỉnh, thành phố được công nhận đạt chuẩn phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em

Đến năm 2017, 63/63 tỉnh, thành phố đã hoàn thành tiêu chuẩn phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi Tỷ lệ trẻ từ 3 đến 5 tuổi được học mẫu giáo đang dần tăng lên, và việc chăm sóc, giáo dục trẻ em trong 2 buổi/ngày được cải thiện đáng kể Bộ GDĐT đã chỉ đạo các địa phương rà soát điều kiện và tiêu chuẩn phổ cập giáo dục cho trẻ em 5 tuổi, nhằm có giải pháp đầu tư và thúc đẩy thực hiện đúng lộ trình Nhiều tỉnh, thành phố đã ban hành chính sách và đầu tư vào cơ sở vật chất, xây dựng trường chuẩn quốc gia, đồng thời hỗ trợ cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên và trẻ em trong các cơ sở giáo dục mầm non.

Vào tháng 8/2018, Chính phủ đã quyết định thực hiện chính sách miễn học phí cho trẻ em mầm non 5 tuổi và hỗ trợ học phí cho trẻ em thuộc diện phổ cập, đặc biệt là ở các thôn, xã khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và vùng sâu, vùng xa Chất lượng chăm sóc và giáo dục trẻ mầm non ngày càng được cải thiện.

Quyết định số 1981/QĐ-TTg và Quyết định số 1982/QĐ-TTg ngày 18/10/2016 đã nhấn mạnh việc tăng cường đảm bảo chất lượng giáo dục mầm non Nhà nước khuyến khích các tổ chức và cá nhân đầu tư vào lĩnh vực này Ngành Giáo dục tiếp tục triển khai hiệu quả các chương trình và đề án phát triển giáo dục mầm non, đồng thời tăng cường quản lý, kiểm tra và giám sát các cơ sở giáo dục nhằm đảm bảo an toàn cho trẻ em.

1.3 Giáo dục phổ thông: Nghị quyết 29 xác định “phấn đấu đến năm

Đến năm 2020, 80% thanh niên trong độ tuổi đã hoàn thành trình độ giáo dục trung học phổ thông và tương đương Tính đến năm 2017, Việt Nam có hơn 2,5 triệu học sinh trung học phổ thông, cùng với gần 600 nghìn học sinh trung học nghề và trung học chuyên nghiệp trong các năm 2016 và 2017 Tổng cộng, hơn 67% thanh niên trong độ tuổi đã đạt trình độ giáo dục trung học phổ thông và tương đương.

Chất lượng giáo dục phổ thông của Việt Nam được quốc tế đánh giá cao, với 7 trong 10 hệ thống giáo dục đổi mới hàng đầu thế giới nằm ở khu vực Đông Á - Thái Bình Dương, theo báo cáo của Ngân hàng Thế giới năm 2018 Sự phát triển ấn tượng của hệ thống giáo dục Việt Nam, cùng với Trung Quốc, đã được nhấn mạnh trong báo cáo “Tăng trưởng thông minh hơn: Học tập và Phát triển công bằng ở Đông Á - Thái Bình Dương” Ngoài ra, báo cáo “Learning to realize education’s promise” của Ngân hàng Thế giới cũng khẳng định rằng năng lực học sinh 15 tuổi tại Việt Nam vượt mức trung bình của các nước có nền kinh tế phát triển OECD, mặc dù Việt Nam là một nước thu nhập trung bình thấp.

Trong 05 năm trở lại đây, thành tích của các đội tuyển quốc gia Việt Nam dự thi Olympic quốc tế và khu vực liên tục duy trì ở mức cao Đặc biệt, năm 2017, các đội tuyển Olympic của nước ta đạt thành tích cao nhất từ trước tới nay, nhất là ở các môn Toán, Vật lí, Hóa học và Sinh học; năm 2018 đội tuyển Olympic quốc tế môn Sinh học đạt thành tích rất xuất sắc, có 01 học sinh đạt điểm cao nhất trong tất cả thí sinh và đã được Ban tổ chức vinh danh là Người chiến thắng Giai đoạn 2012 - 2018, các đoàn học sinh Việt Nam tham dự cuộc thi Intel ISEF được tổ chức tại Hoa Kỳ với sự tham dự của trên

Trên toàn cầu, 100 quốc gia đã giành được tổng cộng 22 giải thưởng Năm 2017, Việt Nam nổi bật là một trong 5 quốc gia có số giải thưởng cao nhất trong cuộc thi Hiện tại, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã hoàn tất việc xây dựng Chương trình giáo dục phổ thông mới, bao gồm cả chương trình tổng thể và chương trình cho các môn học.

Hai học sinh Việt Nam đạt vị trí thứ 8 về khoa học, thứ 22 về toán học và thứ 32 về đọc hiểu trong số 72 quốc gia tham gia PISA 2015 Hiện tại, các thủ tục để ban hành chương trình giáo dục mới đang được tiến hành và dự kiến sẽ hoàn thành vào tháng 10/2018 Đồng thời, các chương trình môn học sẽ được tổ chức thực nghiệm tại một số địa phương, với nhiều phương pháp dạy học và giáo dục được áp dụng nhằm phát triển năng lực người học.

Hoạt động kiểm tra, đánh giá trong giáo dục đã được đổi mới, chuyển từ việc đánh giá kiến thức sang đánh giá phát triển năng lực học sinh Bộ GDĐT đã ban hành Thông tư số 30/2014/TT-BGDĐT và Thông tư số 22/2016/TT-BGDĐT nhằm đánh giá học sinh tiểu học, chú trọng vào việc khuyến khích sự cố gắng trong học tập và rèn luyện Đánh giá kết hợp giữa nhận xét và điểm số, với sự tham gia của giáo viên, học sinh và phụ huynh Ở bậc THCS và THPT, đánh giá tập trung vào cách học và khả năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, đồng thời sử dụng kết quả đánh giá để định hướng cho quá trình dạy học Bộ GDĐT cũng chỉ đạo triển khai đánh giá các chỉ số trí tuệ như IQ, AQ, EQ trong tuyển sinh vào các trường THPT chuyên và trường chất lượng cao, đảm bảo chất lượng giáo dục.

Kể từ năm 2015, Chính phủ đã triển khai cải cách kỳ thi tốt nghiệp THPT theo hướng tổ chức kỳ thi THPT quốc gia, nhằm xét công nhận tốt nghiệp và làm căn cứ xét tuyển đại học, cao đẳng Kết quả cải cách này đã thành công, giảm áp lực cho xã hội và đảm bảo tính khách quan, công bằng, đáng tin cậy và minh bạch hơn cho thí sinh Đồng thời, nó cũng đã giải quyết tình trạng học lệch và hiện tượng luyện thi tràn lan Những sai phạm trong Kỳ thi THPT quốc gia năm 2018 đã được xác định nguyên nhân rõ ràng và sẽ được khắc phục triệt để trong năm 2019 và các năm tiếp theo.

1.4 Giáo dục đại học: Đến nay có 23 cơ sở giáo dục đại học được thí điểm thực hiện tự chủ theo Nghị quyết số 77/NQ-CP ngày 24/10/2014 Các trường được giao quyền mạnh hơn trong hoạt động đào tạo, nghiên cứu khoa học, hợp tác quốc tế, tổ chức và tài chính; chủ động, linh hoạt hơn về tổ chức bộ máy, tuyển dụng nhân sự và thực hiện nhiệm vụ chuyên môn, từng bước chủ động đổi mới cơ chế để hoạt động ngày càng hiệu quả 3

Chất lượng giáo dục đại học tại Việt Nam đã có những bước tiến đáng kể và được công nhận trên thế giới thông qua các quy trình kiểm định chất lượng và xếp hạng đại học quốc tế Trước năm 2014, chỉ có 15 chương trình đào tạo từ hai Đại học Quốc gia được công nhận.

Kể từ khi các trường được giao quyền tự chủ, số lượng đề tài khoa học đấu thầu thành công đã tăng mạnh từ 426 đề tài năm 2013 lên 546 đề tài năm 2016 Số công trình khoa học được đăng tải trên các tạp chí chuyên môn quốc tế cũng tăng hơn 2 lần, từ 574 lên 1437 công trình Số lượng bằng độc quyền và giải pháp hữu ích tăng từ 21 (năm 2013) lên 61 (năm 2016) Bên cạnh đó, số chương trình mở mới và quy mô đào tạo ổn định, cùng với việc tăng cường tuyển dụng giảng viên và nhân viên Các tổ chức khu vực và quốc tế cũng đã tiến hành đánh giá và kiểm định chất lượng Đến năm 2018, những kết quả này đã được ghi nhận rõ rệt.

Đến nay, 104 chương trình đào tạo từ 15 trường đại học tại Việt Nam đã được các tổ chức kiểm định quốc tế như AUN-QA, CTI, ABET và AACSB công nhận chất lượng Ngoài ra, có 06 cơ sở giáo dục đại học tham gia kiểm định cấp trường, được đánh giá và công nhận bởi Hội đồng Cấp cao về đánh giá nghiên cứu và giáo dục đại học Pháp (HCERES) cùng Mạng lưới đảm bảo chất lượng các trường đại học ASEAN (AUN-QA).

Tồn tại, hạn chế

2.1 Nội dung chương trình giáo dục phổ thông hiện hành còn nặng, chưa quan tâm đúng mức tới giáo dục kỹ năng sống; đổi mới phương pháp dạy học có nhiều cải tiến nhưng chưa thật ổn định; một số vấn đề như dạy thêm học thêm, lạm thu chưa được giải quyết triệt để Tiến độ triển khai Chương trình, sách giáo khoa (CTSGK) mới chưa đảm bảo tiến độ theo Nghị quyết 88/2014/QH13 của Quốc hội; các điều kiện để bảo đảm thực hiện CTSGK còn nhiều khó khăn; sự vào cuộc, tham gia của các địa phương, cơ sở giáo dục trong việc chuẩn bị đổi mới CTSGK còn lúng túng, bị động

2.2 Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống cho học sinh, sinh viên ở một số cơ sở GDĐT chưa đạt yêu cầu Một số nơi chưa thực hiện tốt quy chế dân chủ, một số ít giáo viên vi phạm đạo đức nhà giáo Bạo lực học đường vẫn còn diễn ra, nhất là đối với các nhà trẻ, nhóm trẻ tư thục

2.3 Đội ngũ giáo viên phổ thông còn thừa, thiếu cục bộ, nhất là thiếu giáo viên mầm non Chưa có chính sách đủ mạnh để thu hút được sinh viên giỏi vào ngành sư phạm Chính sách tiền lương đo i vơ i nha gia o chưa thực hiện theo tinh thần Nghị quyết số 29

2.4 Vie c quy hoa ch, sa p xe p ma ng lươ i trươ ng, lớp học ở một số địa phương chậm triển khai, chưa phù hợp với thực tế, nhất là những tỉnh, thành phố có dân số cơ học tăng cao Nhiều đi a phương co n thie u trươ ng, lớp ở các khu đô thị, khu công nghiệp, khu chế xuất; ở vùng sâu, vùng xa còn thiếu cơ sở vật chất, thiết bị và đồ dùng dạy học

2.5 Việc sáp nhập các trung tâm giáo dục thường xuyên thiếu tính khoa học Chất lượng, hiệu quả hoạt động của nhiều trung tâm học tập cộng đồng thấp, nhiều nơi sáp nhập với trung tâm văn hóa thể thao dẫn đến nhiệm vụ học tập của trung tâm bị coi nhẹ Giáo du c hươ ng nghie p co n nhie u ha n che , có nơi la m h nh thư c; vie c phân luồng học sinh sau THCS chưa thực hiện tốt

2.6 Hệ thống giáo dục đại học chưa được phân loại về chất lượng để có chính sách ưu tiên đầu tư theo kết quả đào tạo Cơ sở vật chất, chương trình, giáo trình, phương pháp giảng dạy ở nhiều cơ sở đào tạo chưa đươ c hiện đại hoá

2.7 Phương án đổi mới, tổ chức kỳ thi THPT quốc gia đã kế thừa được những ưu điểm và kết quả đạt được, khắc phục những bất cập của các kỳ thi trước đó nhưng trong quá trình tổ chức thi còn một số hạn chế, nhất là để xảy ra tiêu cực, gian lận có tổ chức trong chấm thi tại Hội đồng thi của một số địa phương (năm 2018).

Nhiệm vụ, giải pháp trong thời gian tới

Các nhiệm vụ và giải pháp được đề ra nhằm khắc phục những tồn tại và hạn chế của ngành giáo dục trong thời gian qua Mục tiêu là tạo ra sự chuyển biến rõ rệt, củng cố niềm tin của xã hội, đồng thời tiếp tục thực hiện các mục tiêu đổi mới căn bản và toàn diện trong giáo dục và đào tạo theo Nghị quyết 29.

3.1 Chín nhiệm vụ chủ yếu a) Rà soát, quy hoạch, phát triển mạng lưới cơ sở giáo dục và đào tạo trong cả nước, trong đó tập trung rà soát, sắp xếp hợp lý mạng lưới cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông theo Nghị quyết số 19-NQ/TW, khắc phục tình trạng thiếu trường lớp, nhất là trường lớp mầm non ở các khu công nghiệp, khu chế xuất; tiếp tục hoàn thiện quy hoạch mạng lưới các cơ sở giáo dục đại học và cơ sở đào tạo giáo viên b) Nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục các cấp, trong đó tiếp tục rà soát, sa p xe p la i đo i ngu gia o vie n ga n với vie c ba o đa m ca c quy đi nh ve định mức giáo viên, khắc phục tình trạng thừa thiếu giáo viên cục bộ, nâng cao đạo đức nhà giáo Lựa chọn, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục phổ thông cốt cán theo chuẩn hiệu trưởng, chuẩn nghề nghiệp giáo viên đã ban hành đe thư c hie n trie n khai chương tr nh, sa ch gia o khoa gia o du c pho thông mơ i, ưu tiên bồi dưỡng đội ngũ giáo viên dạy lớp 1 Thực hiện tốt chính sách, thi đua, khen thưởng nhằm tạo động lực cho đội ngũ nhà giáo chuyên tâm với nghề và thu hút sinh viên giỏi vào ngành sư phạm c) Đổi mới giáo dục mầm non, phổ thông; đẩy mạnh giáo dục hướng nghiệp và định hướng phân luồng trong giáo dục phổ thông Trong đó, tăng cường các điều kiện bảo đảm thực hiện hiệu quả chương trình giáo dục mầm non và tập trung chuẩn bị các điều kiện đảm bảo thực hiện hiệu quả chương trình giáo dục phổ thông mới (nhất là đội ngũ giáo viên và cơ sở vật chất) Đánh giá các phương pháp giáo dục mới để lựa chọn, áp dụng các phương pháp giáo dục phù hợp Tăng cường giáo dục tư tưởng, đạo đức, lối sống, kỹ năng sống, văn hóa ứng xử, phát huy dân chủ trong nhà trường Khắc phục tình trạng dạy thêm học thêm trái quy định Thúc đẩy việc học tập ở người lớn, học tập suốt đời, nâng cao hiệu quả hoạt động của các trung tâm học tập cộng đồng Triển khai thực hiện hiệu quả Quyết định số 522/QĐ-TTg ngày 14/5/2018 của Thủ tướng Chính phủ về Đề án giáo dục hướng nghiệp và định hướng phân luồng học sinh trong giáo dục phổ thông d) Nâng cao chất lượng dạy học ngoại ngữ, đặc biệt là tiếng Anh ở các cấp học và trình độ đào tạo, trong đó tiếp tục hoàn thiện, xây dựng chương trình ngoại ngữ theo chuẩn đầu ra và ngành, nghề đào tạo; khuyến khích dạy các môn học khác bằng ngoại ngữ và dạy ngoại ngữ thông qua các môn học Triển khai bồi dưỡng gia o viên, giảng viên ngoa i ngư theo phương thức kết hợp trực tuyến và trực tiếp; xây dựng, phát triển môi trường học và sử dụng ngoại ngữ; tăng cường dạy và học ngoại ngữ trên các phương tiện truyền thông đại chúng đ) Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học và quản lý giáo dục, trong đó tập trung hoàn thiện cơ sở dữ liệu ngành Giáo dục; triển khai đồng bộ các phần mềm quản lý trong các cơ sở GDĐT, kết nối liên thông dữ liệu với phần mềm cơ sở dữ liệu ngành; triển khai các giải pháp học tập kết hợp và học trực tuyến trong giáo dục đại học; triển khai mô hình giáo dục điện tử, lớp học thông minh ở những nơi có điều kiện e) Đẩy mạnh giao quyền tự chủ và trách nhiệm giải trình đối với các cơ sở GDĐT, trong đó tiếp tục tăng cường giao quyền tự chủ và trách nhiệm giải trình đối với cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông trong việc xây dựng, thực hiện kế hoạch giáo dục nhà trường đáp ứng yêu cầu đổi mới Đẩy mạnh tự chủ gắn với trách nhiệm giải trình đối với các cơ sở giáo dục đại học theo Nghị định số 16/2015/NĐ-CP của Chính phủ quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập g) Hội nhập quốc tế trong GDĐT Triển khai thực hiện Nghị định số 86/2018/NĐ-CP của Chính phủ quy định về hợp tác, đầu tư của nước ngoài trong lĩnh vực giáo dục; tạo điều kiện cho các cơ sở giáo dục đẩy mạnh hội nhập quốc tế thông qua việc hợp tác với các cơ sở giáo dục nước ngoài Chỉ đạo các cơ sở giáo dục đại học chủ động và tích cực mở rộng hợp tác quốc tế trong nghiên cứu khoa học, tăng số lượng các chương trình giảng dạy bằng tiếng nước ngoài, liên kết đào tạo, công nhận tín chỉ, liên thông chương trình với các trường đại học nước ngoài có uy tín để thu hút sinh viên, nhà khoa học nước ngoài đến học tập và nghiên cứu tại Việt Nam h) Tăng cường cơ sở vật chất bảo đảm chất lượng các hoạt động GDĐT, trong đó tổ chức rà soát, đánh giá thực trạng, ban hành các quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật cơ sở vật chất và thiết bị dạy học của các cơ sở giáo dục; hướng dẫn các địa phương xây dựng mới, sửa chữa, cải tạo phòng học, các phòng chức năng, nhà vệ sinh, công trình nước sạch và mua sắm bổ sung các thiết bị dạy học còn thiếu, trong đó chú trọng các vùng khó khăn, vùng dân tộc thiểu số, biên giới, hải đảo và lớp 1 i) Phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, trong đó tập trung phát triển các chương trình đào tạo đại học theo hướng tiệm cận với chuẩn khu vực và quốc tế, đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động Khuyến khích các cơ sở đào tạo chủ động xây dựng chương trình đào tạo mới với sự tham gia của các bên liên quan (doanh nghiệp sử dụng lao động, đơn vị có cơ sở thực hành, thực tập ) Thúc đẩy phát triển một số cơ sở giáo dục đại học, ngành đào tạo ngang tầm khu vực, quốc tế và cơ sở đào tạo giáo viên chất lượng cao

3.2 Năm giải pháp cơ bản a) Hoàn thiện thể chế, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra về GDĐT Trong đó, tập trung hoàn thiện hồ sơ và trình Quốc hội xem xét thông qua Luật Giáo dục (sửa đổi) và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học Rà soát văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực giáo dục nhằm phát hiện các quy định bất cập, mâu thuẫn, chồng chéo, hết hiệu lực hoặc không còn phù hợp với thực tế, không đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện GDĐT để kịp thời kiến nghị cấp có thẩm quyền hoặc chủ động theo thẩm quyền sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ hoặc thay thế b) Nâng cao năng lực lãnh đạo của cán bộ quản lý giáo dục các cấp Trong đó, tập trung triển khai các chương trình bồi dưỡng cán bộ quản lý các cấp theo các chuẩn đã ban hành Thực hiện đánh giá, phân loại, sử dụng, bổ nhiệm, bổ nhiệm lại cán bộ quản lý giáo dục theo tiêu chuẩn chức danh; thực hiện nghiêm kỷ cương, kỷ luật, đạo đức lối sống đối với cán bộ quản lý giáo dục c) Tăng cường các nguồn lực đầu tư cho GDĐT Trong đó, ưu tiên lồng ghép các nguồn vốn ngân sách Trung ương kết hợp ngân sách địa phương để đầu tư cơ sở vật chất, mua sắm trang thiết bị đáp ứng điều kiện đảm bảo chất lượng giáo dục Thực hiện công tác xã hội hóa theo đúng quy định của pháp luật, các khoản tài trợ, đóng góp tự nguyện phải bảo đảm đúng tính chất tự nguyện Khuyến khích phát triển các loại hình trường ngoài công lập đáp ứng nhu cầu xã hội về giáo dục chất lượng cao d) Tăng cường công tác khảo thí, kiểm định và đánh giá chất lượng giáo dục Trong đó, tiếp tục duy trì ổn định phương án tổ chức thi THPT quốc gia, thực hiện điều chỉnh về kỹ thuật một số khâu trong quy trình tổ chức thi để đảm bảo kết quả thi khách quan, công bằng; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, nhất là khâu coi thi và chấm thi Đẩy mạnh kiểm định chất lượng giáo dục theo tiêu chuẩn trong nước và quốc tế, công khai điều kiện đảm bảo chất lượng và kết quả kiểm định chất lượng giáo dục theo quy định đ) Đẩy mạnh công tác truyền thông về GDĐT Trong đó, chủ động tổ chức truyền thông về các chủ trương, chính sách mới của ngành, chú trọng công tác truyền thông trong nội bộ ngành Phối hợp với Bộ Thông tin và Truyền thông và các bộ, ngành, địa phương, cơ sở giáo dục triển khai có hiệu quả Đề án truyền thông về đổi mới căn bản toàn diện GDĐT và dạy nghề.

KẾT QUẢ THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT 33/2016/QH14 CỦA QUỐC HỘI VỀ CHẤT VẤN VÀ TRẢ LỜI CHẤT VẤN TẠI KỲ HỌP THỨ 2, QUỐC HỘI KHÓA XIV LIÊN

VỀ CHẤT VẤN VÀ TRẢ LỜI CHẤT VẤN TẠI KỲ HỌP THỨ 2, QUỐC HỘI KHÓA XIV LIÊN QUAN ĐẾN LĨNH VỰC GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

Tại kỳ họp thứ 2 của Quốc hội khóa XIV, Bộ trưởng Bộ GDĐT đã tham gia trả lời chất vấn trực tiếp Sau kỳ họp, Quốc hội ban hành Nghị quyết số 33/2016/QH14 về chất vấn, giao ngành Giáo dục tập trung vào 04 nhóm vấn đề quan trọng Ngay sau khi Nghị quyết được ban hành, Bộ GDĐT đã xây dựng kế hoạch triển khai và đạt được nhiều kết quả tích cực.

Vấn đề 1: Cần rà soát Luật Giáo dục và các đề án đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo Đồng thời, cần cải tiến công tác thi và tuyển sinh, định hướng nghề nghiệp cho học sinh phổ thông, phân luồng học sinh hợp lý và nâng cao chất lượng giáo dục thường xuyên.

Bộ GDĐT đã tiến hành rà soát và phân tích những tác động của Luật Giáo dục hiện hành, đánh giá việc thi hành luật và tiếp thu ý kiến từ đại biểu Quốc hội cùng nhân dân để thực hiện sửa đổi toàn diện Để thu thập ý kiến từ các cơ quan quản lý, sở GDĐT, cơ sở giáo dục đại học và phổ thông, Bộ đã phối hợp với các ủy ban liên quan tổ chức các hội thảo Sau khi tiếp thu ý kiến từ Ủy ban Thường vụ Quốc hội và các cơ quan thẩm tra, Bộ GDĐT đã hoàn thiện hồ sơ dự án Luật Giáo dục (sửa đổi) và trình Thủ tướng Chính phủ để được phép trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 6, khóa XIV Đồng thời, Bộ cũng tiếp tục lấy ý kiến từ những đối tượng bị ảnh hưởng bởi Luật Giáo dục (sửa đổi).

Chính phủ đã thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW bằng cách ban hành chương trình hành động và chỉ đạo các bộ, ngành xây dựng, triển khai 14 đề án, trong đó có 10 đề án đã được Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Các đề án này bao gồm việc hoàn thiện cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân, đổi mới phương pháp thi và kiểm tra, đào tạo lại và bồi dưỡng giáo viên, cũng như kiên cố hóa cơ sở vật chất cho giáo dục giai đoạn 2016 - 2020 Đặc biệt, việc tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý giáo dục cũng được chú trọng nhằm nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo.

Quyết định số 260/QĐ-BGDĐT ngày 20/01/2017 của Bộ Giáo dục và Đào tạo đã hỗ trợ các hoạt động giảng dạy và nghiên cứu khoa học, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo và dạy nghề Đề án giáo dục hướng nghiệp và định hướng phân luồng học sinh trong giáo dục phổ thông cũng đã có tác động tích cực, cải thiện và nâng cao chất lượng các hoạt động giáo dục và đào tạo ở tất cả các cấp học.

Xây dựng phương án đổi mới thi nhằm kế thừa ưu điểm của kỳ thi “3 chung” và khắc phục những bất cập trước đây là rất cần thiết Mục tiêu là đảm bảo tính liên tục trong lộ trình đổi mới thi, không gây xáo trộn cho giáo viên và học sinh, đồng thời tác động tích cực đến việc đổi mới dạy-học theo định hướng phát triển năng lực học sinh Sau 4 năm thực hiện, Kỳ thi THPT quốc gia và xét tuyển đại học, cao đẳng đã đáp ứng yêu cầu gọn nhẹ, khách quan và tiết kiệm, giảm áp lực cho thí sinh và gia đình Bộ GDĐT đã nghiêm túc rút kinh nghiệm từ những sai phạm trong tổ chức thi ở một số địa phương và đề ra giải pháp khắc phục cho Kỳ thi THPT quốc gia năm 2019.

Tuyển sinh đại học và cao đẳng được thực hiện theo quy định pháp luật, đảm bảo quyền tự chủ của các trường Công tác xét tuyển không chỉ an toàn và hiệu quả mà còn ứng dụng công nghệ thông tin trong mọi khâu như đăng ký dự thi, điều chỉnh nguyện vọng và xác nhận thí sinh nhập học Điều này giúp nâng cao tính khoa học, khách quan, công khai và minh bạch, đồng thời giảm thiểu số thí sinh ảo Điểm trúng tuyển phản ánh chất lượng đầu vào, thể hiện sự phân hóa giữa các thí sinh và các nhóm trường.

Bộ GDĐT đã trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 522/QĐ-TTg vào ngày 14/5/2018, phê duyệt Đề án giáo dục hướng nghiệp và định hướng phân luồng học sinh trong giáo dục phổ thông giai đoạn 2018.

Năm 2025, chất lượng giáo dục hướng nghiệp sẽ có bước đột phá, góp phần mạnh mẽ vào việc phân luồng học sinh sau trung học cơ sở và trung học phổ thông Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp từ các cấp này chuyển sang học nghề dự kiến sẽ tăng 6%.

Để nâng cao chất lượng giáo dục thường xuyên và xây dựng xã hội học tập, các địa phương cần chú trọng phát triển hệ thống cơ sở giáo dục thường xuyên Hệ thống này phải đáp ứng nhu cầu học tập đa dạng và liên tục của mọi đối tượng, bao gồm học sinh, sinh viên, cán bộ công chức, giáo viên, người lao động và cộng đồng dân cư.

Trong năm 2017, có 366.250 học sinh trúng tuyển vào đại học, chiếm 42% trong tổng số 865.975 thí sinh đăng ký, trong khi khoảng 500.000 học sinh, tương đương 58%, không được tuyển và tham gia giáo dục nghề nghiệp Đến năm 2018, khoảng 336.000 học sinh được tuyển vào các ngành giáo dục đại học và cao đẳng, chiếm 36% trong tổng số 926.000 thí sinh đăng ký, dẫn đến khoảng 590.000 học sinh, chiếm 64%, không được tuyển và tham gia giáo dục nghề nghiệp và các hình thức lập nghiệp khác.

Hiện nay, mạng lưới cơ sở giáo dục thường xuyên tại Việt Nam bao gồm 695 trung tâm giáo dục thường xuyên, trong đó có 74 trung tâm cấp tỉnh và 621 trung tâm cấp huyện, bao gồm 32 trung tâm giáo dục thường xuyên và 589 trung tâm giáo dục nghề nghiệp - giáo dục thường xuyên Ngoài ra, còn có 11.019 trung tâm học tập cộng đồng và 2.854 trung tâm ngoại ngữ tin học do các sở giáo dục và đào tạo quản lý Từ năm 2013 đến nay, đã có hơn 100 triệu lượt người tham gia học tập các chuyên đề tại các trung tâm này.

Hội khuyến học đã được thành lập tại hầu hết các xã trên toàn quốc, với hơn 99% xã có trung tâm học tập cộng đồng Phong trào gia đình hiếu học và cộng đồng khuyến học phát triển mạnh mẽ, góp phần tích cực vào việc xây dựng một xã hội học tập.

Vấn đề 2: Cần đổi mới chương trình và sách giáo khoa giáo dục phổ thông, đồng thời đánh giá toàn diện Đề án dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân Bên cạnh đó, cần xem xét mô hình trường học mới (VNEN) và quản lý chặt chẽ việc dạy thêm, học thêm để nâng cao chất lượng giáo dục.

Theo Nghị quyết số 88/2014/QH13, Nghị quyết số 51/2017/QH14 và Chỉ thị số 16/CT-TTg ngày 18/6/2018 của Thủ tướng Chính phủ, Bộ GDĐT đã hoàn thành xây dựng chương trình tổng thể và các chương trình môn học, đồng thời tổ chức thực nghiệm các nội dung và phương pháp dạy học mới Bộ GDĐT sẽ chủ trì biên soạn một bộ sách giáo khoa, đảm bảo quá trình thẩm định diễn ra khách quan và công bằng Các sách giáo khoa sẽ được phê duyệt dựa trên kết quả thẩm định của Hội đồng quốc gia thẩm định sách giáo khoa và sẽ được công bố công khai, bao gồm cả phiên bản điện tử để giáo viên và học sinh sử dụng Bộ cũng đang tiến hành các thủ tục để ban hành Thông tư Chương trình giáo dục phổ thông vào tháng 10 năm 2018.

MỘT SỐ VẤN ĐỀ CỬ TRI QUAN TÂM

Về thi trung học phổ thông quốc gia

1.1 Chủ trương, cơ sở pháp lý và tổ chức thực hiện

Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo (GDĐT), đặc biệt là trong phương thức thi và công nhận tốt nghiệp trung học phổ thông (THPT) nhằm giảm áp lực và chi phí cho xã hội, đồng thời đảm bảo độ tin cậy và đánh giá đúng năng lực học sinh Để thực hiện nghị quyết này, Chính phủ đã ban hành Chương trình hành động (Nghị quyết 44), xác định việc tổ chức một kỳ thi chung làm cơ sở cho công nhận tốt nghiệp và tuyển sinh giáo dục nghề nghiệp và đại học Theo Điều 31 Luật Giáo dục, học sinh hoàn thành chương trình THPT đủ điều kiện sẽ được dự thi và nếu đạt yêu cầu sẽ được cấp bằng tốt nghiệp Điều này khẳng định thi tốt nghiệp THPT là yêu cầu bắt buộc Đồng thời, Điều 34 Luật Giáo dục đại học quy định các cơ sở giáo dục đại học có quyền tự chủ trong việc quyết định phương thức tuyển sinh và chịu trách nhiệm về công tác này.

Các trường có thể tuyển sinh bằng cách sử dụng kết quả thi THPT quốc gia, tổ chức thi riêng, sử dụng học bạ hoặc kết hợp các phương thức này.

Bộ GDĐT đang thực hiện Nghị quyết 29 của Trung ương và Nghị quyết 44 của Chính phủ nhằm đổi mới thi THPT, xác định đây là khâu đột phá để nâng cao chất lượng giáo dục Việc đổi mới thi, kiểm tra và đánh giá sẽ tác động tích cực đến phương pháp dạy và học Trước năm 2015, hệ thống thi cử rất nặng nề, với hàng triệu thí sinh phải tham gia nhiều kỳ thi trong thời gian ngắn, gây áp lực lớn cho học sinh, phụ huynh và xã hội Học sinh từ các tỉnh xa phải di chuyển đến các thành phố lớn như Hà Nội và TP Hồ Chí Minh để dự thi, dẫn đến tốn kém về thời gian và chi phí Hơn nữa, các tiêu cực trong thi cử tại Đồi Ngô, Phú Xuyên đã gây bức xúc trong dư luận.

Bộ GDĐT đã triển khai phương án đổi mới thi nhằm khắc phục những bất cập hiện tại, đảm bảo tính trung thực và khách quan, đồng thời giảm áp lực và chi phí cho thí sinh, gia đình và xã hội Kỳ thi THPT quốc gia được thiết kế để đo lường kết quả học tập của học sinh sau 12 năm học, đáp ứng yêu cầu giảm áp lực và tốn kém, đồng thời đảm bảo độ tin cậy trong việc đánh giá năng lực học sinh Kết quả thi sẽ chính xác, khách quan và phân hóa rõ ràng để phục vụ cho việc xét công nhận tốt nghiệp THPT, đánh giá chất lượng giáo dục phổ thông, và cung cấp dữ liệu cho tuyển sinh đại học, cao đẳng.

Phương án tổ chức kỳ thi THPT quốc gia đã kế thừa những ưu điểm và kết quả đạt được từ các kỳ thi trước, đồng thời khắc phục những bất cập, đảm bảo tính liên tục trong lộ trình đổi mới thi Điều này không chỉ giúp tránh xáo trộn cho giáo viên và học sinh mà còn phù hợp với Luật Giáo dục, Luật Giáo dục đại học và xu hướng chung của các quốc gia trên thế giới.

Kỳ thi THPT quốc gia đã được tổ chức và cải tiến qua các năm 2015 và 2016, nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả Từ năm 2017, kỳ thi được triển khai trên toàn quốc, do Sở GDĐT chủ trì và các trường ĐH, CĐ phối hợp tổ chức Đặc biệt, việc ứng dụng công nghệ thông tin trong tổ chức thi và xét tuyển ĐH được tăng cường, góp phần nâng cao tính chính xác và minh bạch của kỳ thi.

Hình thức thi trắc nghiệm khách quan sẽ được áp dụng cho hầu hết các môn thi, ngoại trừ môn Ngữ văn Mỗi thí sinh trong cùng một phòng thi sẽ nhận được một mã đề thi riêng biệt, và kết quả bài thi sẽ được chấm bằng máy quét thông qua phần mềm máy tính.

Năm 2018, Bộ GDĐT đã giữ ổn định phương án tổ chức kỳ thi THPT quốc gia và xét tuyển sinh vào ĐH, CĐ như năm 2017, đồng thời thực hiện các điều chỉnh kỹ thuật dựa trên kinh nghiệm từ các năm trước Quy chế thi đã được ban hành đầy đủ, với một số điều chỉnh nhằm khắc phục các hạn chế kỹ thuật của các kỳ thi trước Kỳ thi THPT quốc gia 2018 diễn ra nhẹ nhàng, giảm áp lực và tiết kiệm chi phí cho xã hội.

Theo khảo sát, hiện nay chỉ còn ít nước có nền giáo dục phát triển tổ chức hai kỳ thi riêng biệt cho tốt nghiệp THPT và tuyển sinh ĐH, CĐ Hầu hết các quốc gia như Mỹ, Nga, Áo, Ai-len, Ai Cập, Tây Ban Nha, Nhật Bản và Pháp đều tổ chức một kỳ thi chung, sử dụng kết quả để công nhận tốt nghiệp và tuyển sinh Nhiều nước chỉ sử dụng kết quả kỳ thi chung để xét tuyển vào ĐH và các trường chuyên nghiệp, trong khi ở một số quốc gia, kết quả này còn được dùng để công nhận tốt nghiệp THPT.

Kỳ thi tốt nghiệp THPT năm nay được tổ chức với 8 môn học và 2 loại cụm thi: cụm thi tỉnh do sở GDĐT chủ trì cho thí sinh tốt nghiệp và cụm thi liên tỉnh do trường ĐH phối hợp với sở GDĐT cho thí sinh xét tuyển ĐH, CĐ Mặc dù kỳ thi đã đạt được mục tiêu đề ra, nhưng đã xảy ra tình trạng nghẽn mạng khi công bố kết quả và khó khăn trong việc kiểm soát thay đổi nguyện vọng đăng ký xét tuyển của thí sinh.

Tại mỗi tỉnh/thành phố, có hai loại cụm thi: cụm thi tốt nghiệp THPT do địa phương tổ chức và cụm thi ĐH do các trường ĐH chủ trì Kỳ thi đã cải thiện những hạn chế của năm 2015, với đề thi có độ phân hóa tốt, phục vụ cho cả công nhận tốt nghiệp THPT và xét tuyển vào ĐH, CĐ Bên cạnh đó, công nghệ thông tin đã được ứng dụng hiệu quả trong quản lý thi và tuyển sinh Tuy nhiên, việc tổ chức hai loại cụm thi khác nhau tại mỗi tỉnh có thể làm cho Kỳ thi trở nên nặng nề, dẫn đến sự không thống nhất và công bằng.

Để khắc phục tình trạng đề thi dễ dẫn đến nhiều điểm 10, cần xem xét việc điều chỉnh điểm ưu tiên cho các đối tượng và khu vực, đồng thời thiết lập điểm chuẩn hợp lý cho một số trường Điều này nhằm tạo thuận lợi tối đa cho thí sinh, đảm bảo sự công bằng trong đánh giá năng lực.

Công tác tuyển sinh đại học năm 2018 đạt hiệu quả cao nhờ phần mềm lọc ảo hoạt động ổn định, tạo thuận lợi cho thí sinh và các trường trong công tác xét tuyển Trong đợt xét tuyển nguyện vọng 1, 172 mã ngành tuyển sinh đã đủ chỉ tiêu, với 226 mã tuyển sinh đạt 70% chỉ tiêu, chiếm 70% tổng số mã tuyển sinh trên toàn quốc Chất lượng tuyển sinh đầu vào phản ánh đúng năng lực của các trường, đặc biệt chất lượng đầu vào ngành sư phạm cao hơn hẳn so với năm 2017, với điểm chuẩn tối thiểu là 17 điểm.

1.2 Tồn tại và nguyên nhân

Để khắc phục tình trạng đề thi năm 2017 quá dễ dẫn đến nhiều học sinh đạt điểm 10, năm 2018 đã có sự phân hóa cao hơn trong đề thi Tuy nhiên, một số câu hỏi khó vẫn chưa phù hợp với mục đích của kỳ thi THPT quốc gia Mặc dù phần mềm chấm thi trắc nghiệm đã được cập nhật để đảm bảo an toàn và chính xác, vẫn tồn tại những kẽ hở trong bảo mật có thể bị lợi dụng để làm sai lệch kết quả thi, đặc biệt khi có sự gian lận có tổ chức Thực tế, đã xảy ra tình trạng tiêu cực và gian lận trong chấm thi tại một số Hội đồng thi ở các địa phương.

Nguyên nhân và trách nhiệm trước các sai phạm xảy ra tại một số địa phương được xác định rõ như sau:

* Quy trình tổ chức thi:

Đề thi hiện tại chưa hoàn toàn phù hợp với mục đích của Kỳ thi THPT quốc gia, do quá chú trọng vào việc phân hóa kết quả thi để phục vụ cho công tác xét tuyển đại học.

Chương trình giáo dục phổ thông mới

2.1 Xây dựng chương trình giáo dục phổ thông (GDPT)

Thực hiện Nghị quyết số 88/2014/QH13 và Quyết định số 404/QĐ-TTg, Bộ GDĐT đã hoàn thành xây dựng Chương trình Giáo dục phổ thông mới, bao gồm Chương trình tổng thể và 27 chương trình môn học Hiện tại, Bộ GDĐT đang hoàn thiện để ban hành Thông tư về Chương trình GDPT mới theo quy định pháp luật trong tháng 10 năm 2018.

Chương trình giáo dục phổ thông mới đã thực hiện theo Nghị quyết số 88/2014/QH13, nhằm chuyển đổi từ nền giáo dục chú trọng vào kiến thức sang một hệ thống giáo dục phát triển toàn diện Mục tiêu là phát triển phẩm chất và năng lực của học sinh, hài hòa giữa đức, trí, thể, mỹ, đồng thời phát huy tối đa tiềm năng của từng học sinh.

Chương trình giáo dục mới đã xác định rõ các yêu cầu về phẩm chất và năng lực của học sinh ở từng cấp học, từ đó lựa chọn nội dung dạy học phù hợp Chương trình không chỉ hướng dẫn giáo viên về phương pháp tổ chức hoạt động mà còn khuyến khích học sinh tự khám phá, thực hành và áp dụng kiến thức Trong khi các chương trình trước đây tập trung vào việc học sinh biết được gì sau khi hoàn thành, chương trình GDPT mới chú trọng đến khả năng thực hành của học sinh sau khi học xong.

Chương trình GDPT mới được thiết kế theo hướng tích hợp cao ở các lớp học dưới và phân hóa dần ở các lớp học trên, nhằm giúp học sinh phát triển toàn diện Giáo dục tích hợp thúc đẩy việc huy động kiến thức và kỹ năng, trong khi giáo dục phân hóa, đặc biệt ở cấp trung học phổ thông, cho phép học sinh lựa chọn nội dung học tập yêu thích, từ đó tự phát hiện và rèn luyện năng lực của bản thân.

Chương trình GDPT mới đã giảm tải so với chương trình hiện hành bằng cách giảm số môn học và số giờ học, đồng thời chọn lọc nội dung giáo dục thiết thực Chương trình khuyến khích học sinh lựa chọn môn học và tăng cường các hoạt động thực hành, tạo điều kiện cho giáo viên sáng tạo trong phương pháp dạy học và đánh giá học sinh Ngoài ra, chương trình còn tăng cường dạy đạo đức và kỹ năng sống, nhằm phát triển toàn diện cho học sinh với tinh thần dân tộc và ý thức công dân toàn cầu, đồng thời khuyến khích sự sáng tạo và phát triển năng lực của cả học sinh và giáo viên.

Nội dung giáo dục hướng nghiệp được xây dựng thông qua sự phối hợp giữa nhà trường, gia đình và doanh nghiệp, nhằm cung cấp kiến thức về nghề nghiệp và thị trường lao động cho học sinh Điều này giúp học sinh tự đánh giá sở trường, nguyện vọng và giá trị bản thân, từ đó lựa chọn định hướng nghề nghiệp phù hợp và chuẩn bị cho việc thực hiện lựa chọn đó Giáo dục hướng nghiệp được tích hợp vào nhiều môn học khác nhau, bao gồm khoa học tự nhiên, công nghệ, khoa học xã hội, nghệ thuật và hoạt động trải nghiệm.

- hướng nghiệp, phù hợp với đặc thù của mỗi môn học

Chương trình giáo dục tiểu học mới quy định 7 môn học cho lớp 1 và lớp 2, 9 môn cho lớp 3, và 10 môn cho lớp 4 và lớp 5, trong khi chương trình hiện hành có 10 môn cho lớp 1, 2, và 3, và 11 môn cho lớp 4 và lớp 5 Ở trung học cơ sở, chương trình mới áp dụng 12 môn học cho tất cả các lớp, trái ngược với chương trình hiện tại có 16 môn cho lớp 6 và 7, và 17 môn cho lớp 8 và 9 Tại trung học phổ thông, chương trình mới cũng quy định 13 môn học cho mỗi lớp, trong khi chương trình hiện hành có 16 môn cho lớp 10 và 11, và 17 môn cho lớp 12.

Trong bậc tiểu học, học sinh hiện nay học 2.353 giờ theo chương trình mới, giảm so với 2.838 giờ trước đây Chương trình mới áp dụng hình thức học 2 buổi/ngày, trung bình 1,8 giờ/lớp/buổi, trong khi chương trình cũ chỉ học 1 buổi/ngày với 2,7 giờ/lớp/buổi Ở bậc THCS, tổng thời gian học là 3.070 giờ, giảm 54 giờ so với chương trình hiện hành Tại bậc THPT, học sinh học 2.284 giờ, giảm 262 giờ so với chương trình Ban cơ bản và giảm 315 giờ so với chương trình Ban A, Ban C hiện tại.

Bộ GDĐT đã triển khai Đề án đào tạo và bồi dưỡng nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục nhằm hỗ trợ Chương trình GDPT mới Đồng thời, bộ cũng xây dựng chuẩn nghề nghiệp cho giảng viên sư phạm, giáo viên và hiệu trưởng cơ sở giáo dục phổ thông Ngoài ra, tài liệu bồi dưỡng giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục đã được biên soạn để thực hiện chương trình mới Bộ GDĐT còn phối hợp chặt chẽ với các địa phương để rà soát và chuẩn bị các điều kiện cần thiết về đội ngũ giáo viên và cơ sở vật chất, đảm bảo thành công cho chương trình GDPT mới.

2.2 Tồn tại và nguyên nhân

Việc ban hành chương trình giáo dục phổ thông (GDPT) mới cần được gia hạn theo Nghị quyết số 51/2017/QH14 nhằm điều chỉnh lộ trình thực hiện Nguyên nhân chính là do quá trình xây dựng chương trình GDPT mới đã tiêu tốn nhiều thời gian cho nghiên cứu, chuẩn bị và lấy ý kiến từ cộng đồng Sự đa dạng trong quan điểm của các tầng lớp nhân dân đã chỉ ra rằng cần thêm thời gian để lắng nghe, chắt lọc và giải thích, nhằm tạo sự đồng thuận xã hội Hơn nữa, việc chuẩn bị các điều kiện cần thiết cho chương trình, như đội ngũ giáo viên và cơ sở vật chất, đòi hỏi sự đầu tư kỹ lưỡng và nguồn lực từ các địa phương.

2.3 Kế hoạch triển khai thời gian tới

Theo Nghị quyết số 51/2017/QH14, Bộ GDĐT đã tư vấn cho Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị số 16/CT-TTg ngày 18/6/2018 nhằm thúc đẩy việc đổi mới chương trình và sách giáo khoa giáo dục phổ thông Đồng thời, Bộ cũng tiến hành rà soát và điều chỉnh kế hoạch thực hiện đổi mới chương trình và sách giáo khoa GDPT theo các Nghị quyết của Quốc hội.

Thực hiện các Nghị quyết của Quốc hội và chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ GDĐT đang tiếp tục thực hiện các nội dung:

Bộ GDĐT chỉ đạo tổ chức biên soạn bộ sách giáo khoa cho tất cả các môn học ở các lớp học, đảm bảo tính công khai, minh bạch và đáp ứng các tiêu chuẩn quy định tại Thông tư số 33/2017/TT-BGDĐT Đồng thời, bộ cũng tổ chức thẩm định các sách giáo khoa, bao gồm cả bộ sách do Bộ GDĐT chỉ đạo.

Đề án 17 về đào tạo và bồi dưỡng nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục phổ thông giai đoạn 2016-2020, định hướng đến năm 2025, đã được ban hành kèm theo Quyết định số 732/QĐ-TTg Đề án này tập trung vào việc nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý, góp phần thực hiện mục tiêu đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục.

29 tháng 4 năm 2016 của Thủ tướng Chính phủ)

Thông tư số 14/2018/TT-BGDĐT ngày 20/7/2018 quy định chuẩn hiệu trưởng cơ sở giáo dục phổ thông, trong khi Thông tư số 20/2018/TT-BGDĐT ngày 22/8/2018 quy định chuẩn nghề nghiệp giáo viên tại các cơ sở giáo dục phổ thông Cả hai thông tư này đều được ban hành bởi Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo nhằm nâng cao chất lượng quản lý và giảng dạy trong hệ thống giáo dục.

Để xây dựng chương trình giáo dục phổ thông mới với chất lượng cao và phát triển phẩm chất, năng lực của học sinh, cần lắng nghe và chắt lọc ý kiến từ nhiều tầng lớp nhân dân Việc ban hành chương trình cần đảm bảo tính khả thi và hiệu quả Đồng thời, các sách giáo khoa phải được biên soạn bởi các tổ chức, cá nhân có uy tín và phải được phê duyệt, cho phép sử dụng dựa trên kết quả thẩm định của Hội đồng quốc gia thẩm định sách giáo khoa.

Sách giáo khoa giáo dục phổ thông hiện hành

3.1 Thực trạng phát hành và sử dụng sách giáo khoa

Các nhà xuất bản tại Việt Nam được Nhà nước quy định rõ chức năng và nhiệm vụ cụ thể, như Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam chuyên xuất bản sách phục vụ giáo dục, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia chuyên về tư tưởng lãnh đạo và lý luận Đảng, và các nhà xuất bản khác như Y học và Văn học cũng có lĩnh vực riêng Điều 13 của Luật Xuất bản (2012) quy định rằng việc thành lập nhà xuất bản phải đảm bảo có tôn chỉ, mục đích và chức năng phù hợp Do đó, từ năm học 2002-2003, Bộ GDĐT đã giao nhiệm vụ cho Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam trong việc tổ chức biên soạn, thiết kế và phát hành sách giáo khoa.

Trước năm 2017, Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam là đơn vị duy nhất có chức năng, nhiệm vụ xuất bản sách giáo khoa Từ cuối năm 2017 đến nay,

Bộ GDĐT đã hợp tác với Bộ Thông tin và Truyền thông để cấp phép cho một số nhà xuất bản tham gia vào việc xuất bản sách giáo khoa 21, đồng thời xem xét cấp phép cho các nhà xuất bản đủ điều kiện theo quy định pháp luật Điều này nhằm xây dựng phương án xuất bản, in ấn và phát hành sách giáo khoa, đảm bảo cung cấp đủ sách cho các cơ sở giáo dục, đặc biệt ở vùng sâu, vùng xa, đồng thời tiết kiệm chi phí cho học sinh và phụ huynh Như vậy, tình trạng độc quyền trong xuất bản sách giáo khoa sẽ không còn tồn tại.

Việc xuất bản và phát hành sách giáo khoa hiện nay được thực hiện theo Nghị quyết số 40/2000/QH10 ngày 09/12/2000 của Quốc hội nhằm đổi mới chương trình giáo dục phổ thông Chính phủ đã giao Bộ Giáo dục và Đào tạo (GDĐT) trách nhiệm xây dựng chương trình và tổ chức biên soạn sách giáo khoa trên toàn quốc từ năm học 2002-2003, đảm bảo tuân thủ các quy định pháp luật Để thực hiện biên soạn bộ sách giáo khoa, Bộ GDĐT đã ban hành Quyết định thành lập đội ngũ tác giả và tổ chức biên soạn sách giáo khoa.

Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, Nhà xuất bản Đại học Sư phạm Hà Nội, Nhà xuất bản Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh và Nhà xuất bản Đại học Huế là những đơn vị xuất bản uy tín, cung cấp nhiều tài liệu học thuật chất lượng cho sinh viên và giảng viên.

Luật Giáo dục 2005, Luật Xuất bản 2012 và Nghị quyết số 40/2000/QH10 đã quy định việc thành lập Hội đồng thẩm định sách giáo khoa và tổ chức thẩm định các môn học Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam được giao nhiệm vụ tổ chức biên soạn, thiết kế, minh họa, đăng ký xuất bản, in ấn và phát hành sách giáo khoa Đến nay, Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam đã thực hiện xuất bản sách giáo khoa theo đúng quy trình, đảm bảo cung cấp đầy đủ sách giáo khoa trên toàn quốc.

Khi biên soạn sách giáo khoa từ năm học 2002-2003, các tác giả đã áp dụng kinh nghiệm quốc tế để phát triển phương pháp dạy học tích cực, tăng cường sự tương tác giữa học sinh và sách Sách giáo khoa được thiết kế với các thí nghiệm kèm theo bảng đại lượng cần đo, giúp hướng dẫn học sinh thực hiện thí nghiệm Ngoài ra, các bài tập đa dạng như trắc nghiệm, điền khuyết, và nối đôi được đưa vào để rèn luyện tư duy và khuyến khích học sinh tự học, làm quen với nhiều dạng bài tập khác nhau, phù hợp với xu thế đổi mới phương pháp dạy học tại các quốc gia tiên tiến.

Việc thiết kế nội dung sách giáo khoa nhằm tăng cường tính tương tác và hứng thú cho học sinh, đồng thời hỗ trợ giáo viên trong việc đổi mới phương pháp dạy học Tuy nhiên, việc học sinh viết hoặc vẽ vào sách có thể dẫn đến việc không sử dụng lại sách cho các năm sau Để giải quyết vấn đề này, Bộ GDĐT đã tổ chức các đợt tập huấn cho giáo viên và hướng dẫn học sinh ý thức giữ gìn sách, không viết hay vẽ vào sách giáo khoa nhằm đảm bảo tính bền vững trong sử dụng.

Giá sách giáo khoa tại Việt Nam không thể tự quyết định bởi Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam do tính chất đặc thù của việc xuất bản Theo quy định hiện hành, sách giáo khoa là mặt hàng được Bộ Tài chính quản lý giá Mặc dù chi phí và giá thành đầu vào đã tăng cao, giá sách giáo khoa vẫn được giữ ổn định trong nhiều năm, vượt qua mức giá bán hiện tại Điều này cho thấy nỗ lực duy trì sự ổn định giá sách giáo khoa trong bối cảnh kinh tế khó khăn.

Tổ chức cho học sinh thực hiện thí nghiệm theo nhóm và lập bảng số liệu để phân tích và rút ra kết luận là rất quan trọng Đối với các bài tập trắc nghiệm, học sinh cần ghi phương án trả lời dự kiến cùng với lời giải thích vào vở, không ghi trực tiếp vào sách giáo khoa Sách giáo khoa được sử dụng trong quá trình học tập để học sinh tiếp thu kiến thức mới, vì vậy các bài tập được đưa ra như "tình huống" để học sinh dự đoán Những dự đoán này có thể không chính xác, và sự đa dạng trong các phương án lựa chọn sẽ tạo ra "mâu thuẫn nhận thức", thúc đẩy quá trình học tập hiệu quả hơn.

Công văn số 6176/TH ngày 19/7/2002, Công văn số 7590/GDTH ngày 27/8/2004, Công văn số 2372/BGDĐT-GDTrH ngày 11/4/2013, và Chỉ thị số 3798/CT-BGDĐT ngày 24/9/2018 đã quy định rõ về việc sử dụng sách giáo khoa và sách tham khảo trong các cơ sở giáo dục phổ thông Những văn bản này nhằm đảm bảo chất lượng giáo dục và hướng dẫn các cơ sở giáo dục trong việc lựa chọn tài liệu học tập phù hợp.

Vào năm 2011, Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam đã gửi nhiều công văn quan trọng liên quan đến giá bán sách giáo khoa cho Bộ Tài chính và Bộ GDĐT, trong đó bao gồm Công văn số 263/NXBGDVN-CV ngày 09/3, Công văn số 3677/BTC-QLG ngày 21/3, và Công văn 1566/BGDĐT-KHTC ngày 22/3 Các công văn này đề cập đến việc điều chỉnh giá sách giáo khoa cho năm học 2011-2012 nhằm giảm bớt khoản lỗ trong việc in ấn và phát hành Trong suốt 16 năm qua, Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam đã hợp tác với các công ty Sách thiết bị trường học để cùng chia sẻ trách nhiệm và giảm dần chiết khấu đối với sách giáo khoa.

Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam phải tự hạch toán và cân đối toàn bộ chi phí in ấn và phát hành sách giáo khoa, mà không nhận được trợ giá hay hỗ trợ từ ngân sách Nhà nước Mỗi năm, việc phát hành sách giáo khoa dẫn đến thua lỗ khoảng 40 tỷ đồng Thông tin này đã được các cơ quan Kiểm toán Nhà nước và Thanh tra Tổng cục Thuế kiểm tra.

Bộ Tài chính (Cục Quản lý giá) xác nhận rằng mặc dù lĩnh vực xuất bản và phát hành sách giáo khoa gặp khó khăn, nhưng các lĩnh vực khác như sách tham khảo, hoạt động xuất bản và khai thác cơ sở vật chất vẫn có lãi Do đó, tổng hợp lại, hoạt động kinh doanh của Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam vẫn đạt lợi nhuận.

Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam cam kết duy trì chính sách chiết khấu thấp cho các đại lý, nhằm đảm bảo sách giáo khoa được phân phối đến học sinh ở mọi vùng miền trên toàn quốc.

Mức chiết khấu sách giáo khoa (SGK) hiện nay dao động từ 18-20%, nhằm hỗ trợ các công ty và đối tác phát hành trong việc chi trả các chi phí như vay ngân hàng, lương nhân viên, kho bãi, cửa hàng, nghĩa vụ thuế, cổ tức cho cổ đông, và chi phí vận chuyển đến tay học sinh và các cơ sở giáo dục Tuy nhiên, mức chiết khấu này vẫn thấp hơn so với sách tham khảo và các sản phẩm của nhà xuất bản khác.

3.2 Tồn tại và hướng dẫn, chấn chỉnh

Tài liệu Tiếng Việt 1- Công nghệ giáo dục

Tài liệu Tiếng Việt 1 - Công nghệ giáo dục (TV1-CNGD) là kết quả nghiên cứu từ năm 1978 do GS.TSKH Hồ Ngọc Đại và các nhà khoa học khác thực hiện, nhằm chuyển giao công nghệ giáo dục cho bậc tiểu học Tài liệu này đã được phát triển, chỉnh sửa và bổ sung dựa trên các nghiên cứu từ các Đề tài khoa học cấp Nhà nước và cấp Bộ, và được áp dụng tại trường Thực nghiệm Giảng Võ, Hà Nội Ngoài việc thử nghiệm tại đây, Tài liệu TV1-CNGD còn được triển khai dạy học tại một số trường tiểu học ở Hải Phòng và Hà Bắc theo khuôn khổ nghiên cứu của Đề tài khoa học.

Năm 1993, Bộ trưởng Bộ GDĐT đã phê duyệt việc triển khai Chương trình Giáo dục Nghề nghiệp (CNGD) tại các cơ sở giáo dục Đến năm học 2001-2002, 43 tỉnh, thành phố đã tự nguyện áp dụng Tài liệu TV1-CNGD, tuy nhiên không phải tất cả các trường tiểu học đều dạy Tiếng Việt lớp 1 theo tài liệu này; một số địa phương chỉ có từ 3 đến 5 trường tham gia Sang năm học 2002-2003, cả nước bắt đầu thực hiện Chương trình Giáo dục Phổ thông mới.

2000) thì tất cả các trường tiểu học, các địa phương không sử dụng Tài liệu TV1-CNGD nữa

Sau khi triển khai Chương trình giáo dục phổ thông hiện hành, Bộ GDĐT đã nhận thấy thực trạng dạy và học môn Tiếng Việt ở cấp tiểu học, đặc biệt là lớp 1, và đã đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy học tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số Theo Quyết định số 5236/QĐ-BGDĐT ngày 19/8/2009, Bộ GDĐT cho phép các địa phương lựa chọn Tài liệu TV1-CNGD như một phương pháp học tập hiệu quả để cải thiện chất lượng học tiếng Việt cho học sinh trên toàn quốc.

Bộ GDĐT đang triển khai thí điểm Tài liệu TV1-CNGD tại một số trường tiểu học ở các tỉnh miền núi phía Bắc, nơi có đông học sinh dân tộc thiểu số Lào Cai là tỉnh tiên phong trong việc thử nghiệm tài liệu này trong giai đoạn hiện tại.

Kết quả thử nghiệm dạy học môn TV1-CNGD tại Lào Cai và một số tỉnh miền núi phía Bắc cho thấy phương pháp này có nhiều ưu điểm vượt trội Bộ Giáo dục đã ghi nhận những thành công đáng kể trong việc áp dụng phương pháp này, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục tại các khu vực khó khăn.

30 Công văn số 3786/GDPT ngày 25/6/1993 gửi các sở GDĐT về việc triển khai CNGD ở các cơ sở

Phương pháp dạy học đánh vần của tài liệu TV1-CNGD tập trung vào việc phân tích cấu trúc âm tiết tiếng Việt, sử dụng các thuật ngữ ngữ âm học như nguyên âm, âm đệm và âm cuối Tài liệu nhấn mạnh sự phân biệt rõ ràng giữa âm và chữ, ví dụ như âm /k/ (cờ) và chữ “k” (ca), “q” (cu) Phương pháp này không chỉ giúp học sinh nâng cao kỹ năng đọc thành tiếng mà còn cải thiện khả năng viết đúng chính tả, góp phần chống tái mù chữ, thể hiện rõ những ưu điểm nổi bật của tài liệu TV1-CNGD.

Bộ GDĐT đã cho phép các địa phương có nhu cầu và đủ điều kiện áp dụng dạy học Tiếng Việt lớp 1, đặc biệt tại những vùng khó khăn, từ năm học 2009-2010 đến 2016-2017 trên cơ sở tự nguyện Sau mỗi năm học, các địa phương cần báo cáo kết quả triển khai thí điểm cho Bộ GDĐT và đề xuất nhu cầu triển khai cho năm học tiếp theo.

Việc triển khai thí điểm Tài liệu TV1-CNGD nhằm nâng cao chất lượng dạy và học môn Tiếng Việt lớp 1, đặc biệt ở các vùng khó khăn và có nhiều học sinh dân tộc thiểu số Tài liệu này giúp học sinh phát triển kỹ năng đọc thành tiếng và viết đúng chính tả một cách hiệu quả Dạy học theo Tài liệu TV1-CNGD là một phương pháp mà các địa phương có thể lựa chọn để giảng dạy môn Tiếng Việt lớp 1 trong Chương trình giáo dục phổ thông hiện hành.

4.2 Tồn tại và nguyên nhân

Cách tiếp cận trong Tài liệu Tiếng Việt 1-CNGD khác biệt so với sách giáo khoa Tiếng Việt 1 hiện hành, vì vậy giáo viên cần được bồi dưỡng và tập huấn về phương pháp dạy học và tổ chức lớp học để thực hiện hiệu quả, đặc biệt là trong năm học đầu tiên Phụ huynh học sinh cảm thấy cách tiếp cận này còn xa lạ và không quen thuộc, dẫn đến khó khăn trong việc hướng dẫn con em học tập tại nhà Hơn nữa, phương pháp này vẫn chưa được tổng kết và đánh giá rộng rãi sau thời gian thử nghiệm dài, gây ra những hiểu lầm về phương pháp sư phạm được sử dụng trong Tài liệu, đồng thời tạo ra những dư luận trái chiều về việc triển khai Tài liệu này.

4.3 Giải pháp Để khắc phục những vấn đề đã nêu, năm 2016, Bộ GDĐT đã giao Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam nghiên cứu, khảo sát, đánh giá hiệu quả triển khai Tài liệu TV1-CNGD và đề xuất các giải pháp chỉ đạo Theo kết quả khảo sát, đánh giá của Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam, việc triển khai Tài liệu TV1-CNGD ở các địa phương đạt được hiệu quả khả quan thông qua kết quả giáo dục học sinh, năng lực chuyên môn của giáo viên Theo đó, Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam đề nghị Bộ GDĐT tổ chức Hội đồng thẩm định Tài liệu TV1-CNGD theo quy định và đề nghị các tác giả tiếp tục chỉnh sửa, bổ sung, hoàn thiện Tài liệu để đáp ứng nhu cầu của các địa phương

Theo báo cáo của Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam, Bộ GDĐT đã tiến hành thẩm định Tài liệu TV1-CNGD nhằm nâng cao chất lượng dạy học Tiếng Việt lớp 1 trong năm 2017 và 2018 Sau 2 vòng thẩm định, Hội đồng thẩm định đánh giá rằng tài liệu này cơ bản đáp ứng các yêu cầu về mục tiêu và chuẩn kiến thức kỹ năng của môn Tiếng Việt lớp 1 theo Chương trình GDPT cấp Tiểu học Dưới đây là những ưu điểm và hạn chế của Tài liệu TV1-CNGD.

Tài liệu TV1-CNGD áp dụng phương pháp tiếp cận từ ÂM đến CHỮ, giúp học sinh phát triển tư duy và phương pháp học tập tích cực Kênh hình và kênh chữ trong tài liệu rất sinh động, tạo hứng thú cho học sinh Các bài học được xây dựng từ khái quát đến cụ thể, tối ưu hóa khả năng của từng học sinh.

Học sinh lớp 1 được tham gia vào các hoạt động học tập nhằm tạo ra sản phẩm cho bản thân, củng cố kiến thức qua thực hành để phát triển kỹ năng đọc, nghe và viết đúng chính tả Tài liệu TV1 đáp ứng tốt yêu cầu của chương trình giáo dục phổ thông môn Tiếng Việt, tuân thủ quy định pháp luật Việt Nam và rõ ràng về cấu trúc ngữ âm cùng luật chính tả Tài liệu chú trọng phát triển kỹ năng đọc thành tiếng và viết chính tả cho học sinh, đồng thời áp dụng phương thức dạy học “thầy thiết kế, trò thi công” nhất quán trong từng bài học Ngoài ra, tài liệu còn hỗ trợ giáo viên trong phương pháp và hình thức tổ chức dạy học, tạo điều kiện cho học sinh tự kiểm tra và đánh giá.

Phương pháp dạy học theo Tài liệu TV1-CNGD có một số hạn chế, bao gồm những quan điểm dạy học cực đoan và không phù hợp với xu thế hiện đại, như “chân không về nghĩa” Bên cạnh đó, phương pháp này chưa chú trọng đến kỹ năng nghe và nói, và quy trình dạy học thường cứng nhắc khi tuân theo khuôn mẫu 4 bước, thiếu sự linh hoạt trong việc điều chỉnh cho các đối tượng học sinh khác nhau.

Tài liệu TV1-CNGD hiện có một số ngữ liệu chưa phù hợp và chứa từ ngữ khó hiểu, không gần gũi với học sinh lớp 1, đặc biệt là những từ Hán-Việt và từ địa phương Ngoài ra, một số bài tập đọc và bài viết chính tả có nội dung dài và phức tạp, gây khó khăn cho các em học sinh.

Về thừa, thiếu giáo viên mầm non, phổ thông

5.1 Thực trạng đội ngũ hiện nay

Tính đến thời điểm ngày 15/8/2018, cả nước có tổng cộng 1.161.143 giáo viên mầm non, phổ thông, trong đó có 1.089.837 giáo viên bậc phổ thông và 71.306 giáo viên mầm non Cụ thể, giáo viên mầm non đạt 309.770 người (262.155 người công lập và 47.615 người ngoài công lập); giáo viên tiểu học là 395.848 người (390.873 người công lập và 4.975 người ngoài công lập); giáo viên trung học cơ sở có 305.815 người (300.990 người công lập và 4.825 người ngoài công lập); giáo viên trung học phổ thông là 149.710 người (135.819 người công lập và 13.891 người ngoài công lập).

Theo báo cáo của Cục Cán bộ Giáo dục Đào tạo, tính đến thời điểm 15/8/2018, so với nhu cầu sử dụng theo định mức quy định, số giáo viên còn thiếu là 75.989 người, trong đó mầm non là 43.732 người, tiểu học 18.953 người, THCS 10.143 người và THPT 3.161 người Ở cấp THCS, hiện có tình trạng thừa, thiếu cục bộ giữa các môn học tại một số cơ sở giáo dục và giữa các địa phương trong cùng một tỉnh, dẫn đến việc một số địa phương như Krông Pách (Đắk Lắk), Cà Mau, Thanh Oai (Hà Nội), Phú Yên, Quảng Ngãi, Hà Nội đã ký hợp đồng giáo viên ngoài chỉ tiêu biên chế được giao không đúng quy định hiện hành.

T nh, Ha i Dương, Thanh Ho a, Quảng Tri va mo t so đi a phương kha c Bất cập này do một số nguyên nhân sau:

Trước năm 2015, các địa phương thực hiện Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003 đã tự chủ phê duyệt biên chế Tuy nhiên, do công tác quy hoạch và dự báo chưa hiệu quả, nhiều địa phương đã tuyển dụng không đúng số lượng và cơ cấu, dẫn đến tình trạng thừa thiếu cục bộ Đặc biệt, từ năm 2011, việc chuyển đổi mô hình trường lớp bán công đã làm gia tăng số lượng giáo viên được tuyển dụng vào các trường công lập, nhiều nơi tuyển dụng vượt chỉ tiêu biên chế được giao.

33 Theo số liệu báo cáo cuối năm học 2017-2018 có 54,8 % các trường tiểu học với 43,5% số học sinh trong cả nước sử dụng Tài liệu TV1-CNGD

Sự gia tăng dân số cơ học tại các khu vực trung tâm và thành phố lớn đã tạo ra nhu cầu tăng cường số lượng lớp học và giáo viên Trong khi đó, các vùng miền núi, biên giới và vùng đặc biệt khó khăn lại gặp phải tình trạng có nhiều điểm trường lẻ với sĩ số học sinh ít, nhưng vẫn cần đảm bảo đủ giáo viên theo quy định Đặc biệt, việc thực hiện phổ cập giáo dục mầm non 5 tuổi đã làm gia tăng nhu cầu bổ sung giáo viên mầm non để đáp ứng số lượng trẻ em đến trường ngày càng tăng.

Tình trạng thừa thiếu giáo viên xảy ra ở cả các cấp học và trong cùng một cấp học, nhưng giáo viên dạy một môn không thể chuyển sang dạy môn khác nếu không đáp ứng đủ trình độ chuẩn Ngoài ra, việc điều chuyển giáo viên giữa các địa phương cũng gặp khó khăn do mỗi địa phương có quy trình tuyển dụng riêng.

Việc phân cấp trong tuyển dụng và sử dụng đội ngũ nhà giáo tại địa phương gặp nhiều bất cập, với sự tham gia của các cơ quan như Sở GDĐT và phòng GDĐT không phải là đơn vị chủ trì Điều này dẫn đến việc tuyển dụng giáo viên không đồng bộ, thiếu sự điều tiết về số lượng và cơ cấu đội ngũ theo môn học và cấp học Hơn nữa, một số nơi còn vi phạm quy định của pháp luật về tuyển dụng, bổ sung, phân công giáo viên, gây ra nhiều bức xúc trong đội ngũ giáo viên và xã hội.

Sau khi có Nghị quyết số 39-NQ/TW ngày 17/4/2015 của Bộ Chính trị

Mặc dù số lượng học sinh tại các địa phương tăng lên trong thời gian qua, hầu hết các tỉnh, thành vẫn không được giao thêm biên chế giáo viên trong bối cảnh tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức.

Việc thanh tra và kiểm tra quy trình tuyển dụng, sử dụng giáo viên và nhân viên tại các cấp quản lý hiện còn nhiều hạn chế Để khắc phục tình trạng này, cần có trách nhiệm rõ ràng và triển khai các giải pháp hiệu quả từ các cơ quan, ngành và địa phương.

Bộ Giáo dục và Đào tạo

Chương trình bổ sung giáo dục nghề nghiệp cần phải phù hợp với Bộ Nội vụ và các quy định hiện hành Điều này nhằm hướng dẫn rõ ràng về danh mục khung vị trí việc làm, định mức giáo viên, nhân viên và tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp Việc xây dựng các chương trình đào tạo nên dựa trên các tiêu chí này để đảm bảo chất lượng và hiệu quả trong công tác giáo dục.

Nghị định số 115/2010/NĐ-CP quy định rõ chức năng và nhiệm vụ của sở GDĐT trong công tác tuyển dụng và sử dụng giáo viên, bao gồm việc hướng dẫn, tổng hợp kế hoạch biên chế giáo dục hàng năm, phân bổ biên chế cho các cơ sở giáo dục, và thực hiện kiểm tra, thanh tra công tác tuyển dụng, sử dụng, đào tạo và bồi dưỡng giáo viên Bộ GDĐT đã thực hiện trách nhiệm quản lý nhà nước về giáo dục tương đối đầy đủ, tuy nhiên, công tác dự báo và phối hợp thực hiện vẫn chưa sát sao, trong khi việc thanh tra, kiểm tra tuyển dụng giáo viên còn hạn chế.

Bo GDĐT đa va đang chu đo ng trie n khai mo t so gia i pha p sau:

Chúng tôi sẽ thực hiện quy hoạch mạng lưới trường lớp và đào tạo giáo viên, đáp ứng nhu cầu giáo dục Đồng thời, sẽ tổ chức tuyển sinh cho các trường sư phạm phù hợp với nhu cầu sử dụng Việc quy hoạch hệ thống cơ sở đào tạo giáo viên sẽ được triển khai, bao gồm ban hành quy định về trình độ đào tạo bằng tốt nghiệp thứ hai, trình độ đại học và cao đẳng ngành đào tạo giáo viên Điều này nhằm tạo cơ sở cho việc đào tạo và nâng cao chất lượng giáo viên ở các cấp THPT, THCS, đồng thời điều chuyển giáo viên dạy mầm non và tiểu học Chúng tôi cũng sẽ xây dựng phần mềm quản lý và thống kê đội ngũ giáo viên để kịp thời phát hiện và xử lý khi có bất kỳ vấn đề nào xảy ra.

Chỉ đạo các sở GDĐT triển khai thực hiện Chuẩn hiệu trưởng và Chuẩn nghề nghiệp giáo viên để đánh giá thực trạng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục hiện có Từ đó, xác định nhu cầu đào tạo và bồi dưỡng nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ Đồng thời, ban hành kế hoạch chi tiết đào tạo, bồi dưỡng giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục đáp ứng yêu cầu của Chương trình giáo dục phổ thông mới.

Xây dựng phần mềm thống kê giúp theo dõi số lượng và cơ cấu giáo viên theo cấp học và môn học tại từng cơ sở giáo dục Phần mềm này cũng thống kê trình độ giáo viên dựa trên chuẩn nghề nghiệp, từ đó cung cấp thông tin hữu ích cho việc nghiên cứu và phát triển các chương trình đào tạo, bồi dưỡng giáo viên phù hợp.

Các địa phương cần rà soát và từng bước thực hiện việc dồn dịch các điểm trường lẻ về trung tâm, nhằm giảm bớt sự phân tán và manh mún của các điểm trường Điều này sẽ giúp giảm số lượng nhân viên hỗ trợ, đồng thời khuyến khích việc thực hiện kiêm nhiệm Hợp đồng với các cơ sở y tế địa phương cũng cần được thực hiện để đảm bảo công tác y tế trường học tại những nơi đủ điều kiện, từ đó góp phần tinh giản biên chế trong ngành giáo dục.

Thông tư liên tịch số 06/2015/TTLT-BGDĐT-BNV ngày 16/3/2015 của Bộ GDĐT và Bộ Nội vụ quy định rõ danh mục khung vị trí việc làm và định mức số lượng người làm việc tại các cơ sở giáo dục mầm non công lập Bên cạnh đó, Thông tư số 16/2017/TT-BGDĐT ngày 12/7/2017 của Bộ GDĐT hướng dẫn danh mục khung vị trí việc làm và định mức số lượng người làm việc trong các cơ sở giáo dục phổ thông công lập.

36 Công văn số 3043/BGDĐT-NGCBQLGD ngày 20/7/2018

- Thực hiện nghiêm túc Nghị định số 127/2018/NĐ-CP ngày 21/9/2018 quy định trách nhiệm quản lý nhà nước về giáo dục (thay thế

Về cơ sở vật chất

Thời gian qua, Chính phủ và các địa phương đã chú trọng đầu tư vào cơ sở vật chất và trường lớp học Tuy nhiên, nhiều cơ sở giáo dục, đặc biệt tại các vùng Đông Bắc, Tây Bắc, Tây Nguyên và Tây Nam Bộ, vẫn còn sử dụng phòng học tranh tre nứa lá, bán kiên cố và phòng học tạm thời Tình trạng thiếu phòng học, đặc biệt ở cấp mầm non và tiểu học, cũng như thiếu các phòng chức năng cho cấp THCS và THPT, vẫn tồn tại ở một số địa phương Nhiều thành phố lớn đông dân cư đang phải đối mặt với tình trạng quá tải, khi các trường thiếu phòng học mà không còn quỹ đất để mở rộng Bên cạnh đó, chất lượng nhà vệ sinh và công trình nước sạch chưa đạt tiêu chuẩn, và nhiều công trình trường lớp học đã xuống cấp nhưng chưa được nâng cấp kịp thời.

Cả nước hiện có khoảng 587.147 phòng học, trong đó 436.685 phòng học kiên cố, đạt tỷ lệ 74,4% Tỷ lệ trung bình phòng học trên lớp là 0,92, với tỷ lệ cụ thể cho từng cấp học: mầm non 0,95, tiểu học 0,92, trung học cơ sở 0,90 và trung học phổ thông 0,92.

Để cải thiện cơ sở vật chất giáo dục, cần đầu tư khoảng 150.452 phòng học nhằm thay thế các phòng tranh tre, nứa lá, bán kiên cố và tạm bợ Cụ thể, trong đó có 54.700 phòng cho mầm non, 71.289 phòng cho tiểu học, 21.700 phòng cho trung học cơ sở và 2.763 phòng cho trung học phổ thông.

Nhu cầu cần đầu tư thêm khoảng 8.046 phòng học cấp mầm non và 22.937 phòng học cấp tiểu học để bảo đảm học 2 buổi/ngày

Tổng số phòng học bộ môn cấp THCS hiện có là 47.574 phòng tại 10.582 trường, đạt tỷ lệ 4,49 phòng/trường, trong đó chỉ 33.274 phòng đáp ứng quy định tại Quyết định 37/2008/QĐ-BGDĐT, chiếm 69,9% tổng số phòng Đối với cấp THPT, có 13.019 phòng tại 2.463 trường, tương đương 5,34 phòng/trường, với 9.968 phòng đạt tiêu chuẩn, chiếm 76,6% tổng số phòng Để đáp ứng nhu cầu giáo dục, cần đầu tư thêm khoảng 59.844 phòng học bộ môn cho cả cấp THCS và THPT.

Theo khảo sát đến tháng 8 năm 2018, cả nước có 90.451 nhà vệ sinh cho học sinh ở các cấp tiểu học, THCS và THPT, trong đó tiểu học có 47.519 nhà, THCS có 30.689 nhà và THPT có 12.243 nhà Tuy nhiên, chỉ khoảng 67,3% số nhà vệ sinh đang sử dụng tốt, nhiều nhà không đáp ứng nhu cầu và không đảm bảo vệ sinh, đặc biệt ở các vùng sâu, vùng xa Tại đây, nhà vệ sinh thường được xây dựng tạm bợ bằng tranh, tre, nứa và thiếu nước sạch, với chỉ khoảng 85% trường có công trình nước sạch.

6.2 Tồn tại và nguyên nhân

Vẫn còn nhiều phòng học tranh tre nứa lá tại các địa phương, đặc biệt là ở cấp mầm non và tiểu học, nhất là ở những tỉnh có điều kiện kinh tế khó khăn và miền núi Tình trạng thiếu phòng học cho cấp mầm non và tiểu học, cũng như thiếu phòng chức năng cho cấp THCS và THPT vẫn tồn tại ở một số nơi Nhiều thành phố lớn đông dân cư đang gặp tình trạng quá tải, với các trường học thiếu phòng học trong khi quỹ đất để xây dựng thêm không còn Tỷ lệ nhà vệ sinh và công trình nước sạch chưa đạt chuẩn vẫn còn cao, và trang thiết bị dạy học còn thiếu và lạc hậu, không đáp ứng được yêu cầu hiện tại.

Việc quy hoạch và thực hiện mạng lưới cơ sở giáo dục chưa theo kịp với sự phát triển giáo dục tại nhiều địa phương, dẫn đến tình trạng thiếu đầu tư cơ sở vật chất Nhiều địa phương khó khăn gặp hạn chế trong huy động nguồn vốn, chủ yếu phụ thuộc vào ngân sách trung ương, khiến đầu tư không đáp ứng nhu cầu Tại các thành phố lớn đông dân cư, một số trường học thiếu phòng học do không còn quỹ đất để xây thêm Thêm vào đó, thiên tai phức tạp cũng đã ảnh hưởng nặng nề đến các cơ sở giáo dục.

6.3 Tra ch nhie m và giải pháp cu a ca c bo , nga nh, đi a phương

Bộ GDĐT đã ban hành các chuẩn và tiêu chuẩn về cơ sở vật chất cũng như thiết bị dạy học cho chương trình giáo dục mầm non và phổ thông Đồng thời, bộ cũng hướng dẫn các địa phương thực hiện các tiêu chuẩn này Ngoài ra, Bộ GDĐT tham mưu với Chính phủ và Quốc hội để ban hành các chính sách hỗ trợ cho những địa phương đặc biệt khó khăn, các vùng thường xuyên bị thiên tai và khu vực đồng bào dân tộc thiểu số, nhằm tăng cường cơ sở vật chất và thiết bị cho trường học.

Bộ GDĐT đã phối hợp với Chính phủ và Quốc hội để triển khai nhiều chính sách hỗ trợ địa phương nâng cao cơ sở vật chất và thiết bị dạy học Các chương trình bao gồm kiên cố hóa trường/lớp học giai đoạn 2008-2012, 2014-2015 và 2017-2020, cùng với các chương trình ODA, mục tiêu giáo dục miền núi, nông thôn mới và giảm nghèo bền vững Đặc biệt, Bộ đã trình Thủ tướng Chính phủ Đề án đảm bảo cơ sở vật chất cho giáo dục mầm non và phổ thông.

Bộ GDĐT đã ban hành quy định về chuẩn và tiêu chuẩn cơ sở vật chất cùng thiết bị dạy học cho trường mầm non và phổ thông, kèm theo hướng dẫn cho các địa phương thực hiện.

Bộ GDĐT đã yêu cầu các tỉnh, thành phố rà soát và đầu tư cải tạo nhà vệ sinh cùng cung cấp nước sạch trong trường học Giám đốc sở giáo dục và đào tạo cần chỉ đạo các cơ sở giáo dục cung cấp thông tin vào "Phiếu điều tra thông tin về nhà vệ sinh trường học" và nhập dữ liệu vào phần mềm tại http://csdl.moet.gov.vn/ để Bộ GDĐT có thể kiểm tra và giám sát Để triển khai chương trình và sách giáo khoa mới, Bộ GDĐT đã ban hành văn bản hướng dẫn thực hiện Đồng thời, tăng cường thanh tra, kiểm tra việc thực hiện các quy định về cơ sở vật chất và nhà vệ sinh trong trường học nhằm phát hiện và khắc phục kịp thời các vi phạm, hỗ trợ địa phương và trường học giải quyết khó khăn.

Bộ Tài chính và Kế hoạch Đầu tư đã hướng dẫn các địa phương lập kế hoạch ngân sách hàng năm và trung hạn, bao gồm ngân sách cho giáo dục Đồng thời, bộ cũng chú trọng đến việc cân đối bố trí ngân sách hỗ trợ cho các tỉnh chưa tự cân đối được ngân sách.

UBND cấp tỉnh có trách nhiệm đảm bảo các điều kiện cần thiết cho giáo dục tại địa phương, bao gồm đầu tư cơ sở vật chất phù hợp với yêu cầu giáo dục Cơ quan này cũng phải quy hoạch và thực hiện quy hoạch giáo dục gắn liền với sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương Họ cần bố trí ngân sách địa phương đầy đủ cho giáo dục theo quy định, đồng thời lồng ghép hiệu quả các nguồn vốn từ các chương trình và đề án đã được phê duyệt Việc sử dụng đúng mục đích các nguồn lực cho giáo dục và bố trí đủ quỹ đất cho giáo dục cũng là những nhiệm vụ quan trọng mà UBND cấp tỉnh cần thực hiện.

Thời gian tới, đề nghị các địa phương

Cần khẩn trương và quyết liệt thực hiện việc rà soát quy hoạch mạng lưới trường lớp học, đảm bảo phù hợp với điều kiện kinh tế và quy mô phát triển giáo dục của địa phương.

Các công văn của Bộ Giáo dục và Đào tạo từ năm 2017 đến 2018 đã đưa ra nhiều chỉ đạo quan trọng nhằm tăng cường cơ sở vật chất cho các cơ sở giáo dục mầm non và phổ thông Công văn số 1428/BGDĐT-CSVCTBTH nhấn mạnh việc nâng cao cơ sở vật chất, trong khi công văn số 6088/BGDĐT-CSVC yêu cầu rà soát thực trạng và nhu cầu đầu tư Công văn số 64/BGDĐT-CSVC đề cập đến việc cải tạo và bảo trì cơ sở vật chất trường học để đảm bảo an toàn cho học sinh Công văn số 2064/BGDĐT-CSVC khuyến nghị chuẩn bị điều kiện cơ sở vật chất cho việc triển khai chương trình giáo dục mới, bao gồm cải tạo nhà vệ sinh và cung cấp nước sạch Tiếp theo, công văn số 3232/BGDĐT-CSVC thu thập thông tin về nhà vệ sinh của các cơ sở giáo dục, trong khi công văn số 3712/BGDĐT-CSVC hướng dẫn sắp xếp lại các cơ sở giáo dục Cuối cùng, công văn số 4470/BGDĐT-CSVC nhấn mạnh nhiệm vụ về cơ sở vật chất và thiết bị dạy học trong các cơ sở giáo dục.

Ngày đăng: 29/04/2022, 23:24

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w