TRẦN NGỌC MAI THY CÁC YẾU TỐ ẢNH HƢỞNG ĐẾN Ý ĐỊNH SỬ DỤNG VÍ ĐIỆN TỬ CỦA SINH VIÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CHUYÊN NGÀNH QUẢN TRỊ KINH DOANH MÃ SỐ 7340101 TP[.]
Tínhcấpthiếtcủa đềtài
Ngày nay, toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ trên mọi lĩnh vực, cùng với sự phát triển nhanh chóng của các kênh bán hàng trực tuyến Điều này dẫn đến khối lượng hàng hóa được trao đổi trong và ngoài nước ngày càng gia tăng Để đáp ứng nhu cầu này, cần có một công cụ thanh toán mới trong hệ thống thanh toán của nền kinh tế, đảm bảo tính nhanh chóng, chính xác, an toàn và hiệu quả, nhằm thỏa mãn yêu cầu thực tiễn của người sử dụng.
Trong thời đại công nghệ thông tin, sự phát triển nhanh chóng của các thiết bị điện tử như điện thoại di động đã thúc đẩy sự ra đời của dịch vụ ví điện tử (VĐT) Từ năm 2008 đến nay, Việt Nam đã có 34 tổ chức không phải ngân hàng được Ngân hàng Nhà nước cấp phép hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán, trong đó phần lớn là ví điện tử như MoMo, ZaloPay, Payoo Công nghệ thanh toán bằng ví điện tử ngày càng trở nên quen thuộc và quan trọng với cả người tiêu dùng và nhà cung cấp VĐT cung cấp phương thức thanh toán tiện lợi, cho phép người dùng thực hiện các giao dịch mà không cần sử dụng tiền mặt, đồng thời hỗ trợ các chủ cửa hàng, đặc biệt là cửa hàng nhỏ, trong việc xử lý thanh toán của khách hàng.
Số lượng giao dịch không dùng tiền mặt ở Việt Nam hiện thấp nhất trong các quốc gia Đông Nam Á, chỉ đạt 4,9% bình quân đầu người, so với 59,7% ở Thái Lan, 89% ở Malaysia và 26,1% ở Trung Quốc Tuy nhiên, thanh toán không dùng tiền mặt đang có xu hướng bùng nổ tại Việt Nam, với giá trị giao dịch tăng mạnh trong ba quý đầu năm 2018 Đặc biệt, thanh toán qua dịch vụ ngân hàng di động đã tăng 144% hàng năm trong năm năm qua, trong khi giao dịch qua ứng dụng di động và ví điện tử cũng ghi nhận mức tăng lần lượt là 126% và 161%.
Tỷ lệ sử dụng Internet ở Việt Nam đạt 69%, trong khi tỷ lệ người dùng điện thoại thông minh lên tới 72% vào tháng 1 năm 2019 Thương mại điện tử đang phát triển nhanh chóng, và sự gia tăng số lượng người dùng điện thoại thông minh sẽ là động lực chính thúc đẩy số lượng người dùng ví điện tử trong tương lai gần Điều này cũng góp phần làm giảm dần số lượng giao dịch bằng tiền mặt.
Vào tháng 1 năm 2017, Chính phủ Việt Nam đã khởi xướng một kế hoạch nhằm giảm giao dịch tiền mặt và nâng cao thanh toán điện tử vào năm 2020, với mục tiêu tổng giao dịch tiền mặt chiếm dưới 10% thị trường Kế hoạch này bao gồm việc tất cả siêu thị và trung tâm mua sắm chấp nhận thẻ tín dụng, 70% nhà cung cấp dịch vụ nước, điện và viễn thông chấp nhận thanh toán không dùng tiền mặt, và 50% hộ gia đình thành thị sử dụng phương thức thanh toán điện tử cho giao dịch hàng ngày Theo Ngân hàng Trung ƣơng, hiện có 127 nhà cung cấp dịch vụ thanh toán qua Internet và thiết bị di động, cùng với 34 tổ chức phi ngân hàng được cấp phép cung cấp dịch vụ trung gian thanh toán tính đến tháng 5/2020 Cuối năm 2019, cả nước có 88,5 triệu tài khoản ngân hàng cá nhân, tăng 11% so với năm 2018, và dự kiến đến cuối năm nay, 70% người Việt Nam sẽ có tài khoản ngân hàng Những con số này cho thấy xu hướng gia tăng sử dụng công cụ giao dịch điện tử, dẫn đến sự xuất hiện nhiều doanh nghiệp trong lĩnh vực này.
Năm 2018, ví điện tử MoMo được vinh danh trong danh sách 50 công ty mới nổi hàng đầu nhờ vào mô hình kinh doanh sáng tạo Đến tháng 10/2018, MoMo đã thu hút gần 10 triệu người dùng trên cả hai hệ điều hành iOS và Android, đồng thời đứng trong top 20 ứng dụng phổ biến nhất và dẫn đầu danh sách ứng dụng tài chính miễn phí trên Google Play Trong khi MoMo chiếm ưu thế trên thị trường, Airpay lại được ưa chuộng bởi người mua sắm trực tuyến, Zalo thu hút nữ giới với tính năng trò chuyện thân thiện, và Viettelpay nổi bật ở miền Bắc nhờ vào sức mạnh thương hiệu và chiến lược kinh doanh hiệu quả.
Thế hệ trẻ dưới 35 tuổi chiếm 60% dân số Việt Nam, với sự am hiểu về công nghệ và xu hướng kỹ thuật số, tạo ra một thị trường kinh doanh sôi động Sinh viên được xem là nhóm có tiềm năng cao trong việc chấp nhận và sử dụng ví điện tử (VĐT) Để hiểu rõ hơn về ý định sử dụng VĐT của nhóm này, cần thực hiện các nghiên cứu thực nghiệm nhằm giúp các nhà kinh doanh xây dựng các chính sách phù hợp.
Tôi đã chọn đề tài “Các yếu tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng ví điện tử của sinh viên Trường Đại học Ngân hàng Thành phố Hồ Chí Minh” cho khóa luận tốt nghiệp của mình dựa trên những cơ sở lý luận và thực tiễn liên quan đến sự phát triển của công nghệ tài chính và thói quen tiêu dùng của sinh viên.
Tổngquannghiêncứucủađềtài
Hiện nay, thương mại điện tử ở Việt Nam đang ngày một phát triển mạnhmẽ.
Sự phát triển của thương mại điện tử đã cách mạng hóa quy trình mua bán và giao nhận hàng hóa truyền thống tại Việt Nam, mang đến cho người tiêu dùng nhiều lựa chọn về sản phẩm và dịch vụ, đồng thời giúp tiết kiệm chi phí hiệu quả hơn Bên cạnh đó, sự ra đời và phát triển của các hình thức thanh toán hiện đại như điện tử cũng đồng hành với xu hướng này.
NgoàinhữnglợiíchmàVĐTmanglạichongườitiêudùngnhưtiếtkiệmchiphíđilại,tiếtkiệ mthờigian,cónhiềuưuđãi,…thì
Việc phát triển ví điện tử (VĐT) tại Việt Nam đang gặp nhiều thách thức, chủ yếu do thói quen giao dịch bằng tiền mặt và tâm lý lo ngại rủi ro trong thanh toán điện tử Để thúc đẩy sự phát triển bền vững của VĐT, các đơn vị cung cấp cần chú trọng vào việc tham khảo các nghiên cứu thị trường từ chuyên gia và tiến hành nghiên cứu thực tế để hiểu rõ nhu cầu và các yếu tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng ví điện tử, đặc biệt là trong nhóm đối tượng sinh viên.
Theo nghiên cứu đƣợc thực hiện bởi Sanuja Shree và ctg (2019), để xem xéthànhvi củathanhniênđối với ý địnhsửdụngngânhàngdiđộng ở thànhphố Tamil
Nghiên cứu tại Nadu, Chennai cho thấy rằng năm yếu tố chính ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ ngân hàng di động của thanh niên trong cuộc sống hàng ngày bao gồm: tiện lợi, lợi ích, cân nhắc, an toàn và niềm tin.
Nghiên cứu của Sahut (2008) đã áp dụng mô hình chấp nhận công nghệ (TAM) mở rộng để phân tích các yếu tố chính ảnh hưởng đến việc sử dụng ví điện tử Monéo tại Pháp Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng các yếu tố quan trọng dẫn đến sự thành công của ví điện tử này bao gồm bảo mật, tính ẩn danh của các giao dịch, chi phí giao dịch hợp lý, cùng với sự đa dạng của các chức năng như thanh toán, thẻ du lịch và chìa khóa điện tử để truy cập.
Nghiên cứu của Swilley (2010) đã thực hiện khảo sát với 226 sinh viên và 480 người tiêu dùng tại Mỹ, cho thấy cảm nhận về rủi ro có ảnh hưởng đáng kể đến thái độ của khách hàng đối với dịch vụ Mặc dù tính dễ sử dụng và hữu ích không được xem là yếu tố quan trọng, nhưng bảo mật và quyền riêng tư lại có tác động tiêu cực đến thái độ của người tiêu dùng, từ đó ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ trong tương lai.
Theo nghiên cứu của Shaw (2014) trên 284 sinh viên tại Đại học Canada, tính hữu dụng là yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến ý định sử dụng ví điện tử, bên cạnh đó, lòng tin cũng đóng vai trò đáng kể, đặc biệt liên quan đến bảo mật và sự riêng tư Nghiên cứu của Rathored (2016) với 150 người dùng ví điện tử sử dụng phương pháp phân tích ANOVA đã chỉ ra sự khác biệt giữa các yếu tố ảnh hưởng đến khách hàng trong việc áp dụng ví điện tử và những rủi ro, thách thức mà người dùng phải đối mặt Kết quả xác định ba yếu tố chính ảnh hưởng đến ý định sử dụng của người tiêu dùng đối với ví điện tử tại Ấn Độ là lòng trung thành, tính hữu dụng và sự thuận tiện trong việc mua sắm sản phẩm trực tuyến.
Nguyễn Duy Thanh và Cao Hào Thi (2011) thực hiện nghiên cứu đề xuất môhìnhchấpnhậnvàsửdụngngânhàngđiệntử(NHĐT)ởThànhphốHồChíMinh
Nghiên cứu tại TP.HCM đã chỉ ra rằng có 08 yếu tố ảnh hưởng đến sự lựa chọn Ngân hàng Điện tử (NHĐT), bao gồm hiệu quả mong đợi, khả năng tương thích, dễ dàng sử dụng, kiểm soát hành vi, chuẩn chủ quan, rủi ro giao dịch, hình ảnh ngân hàng, và yếu tố pháp luật Đỗ Hoài Linh và Nguyễn Phương Linh (2017) đã khảo sát 536 người để đánh giá ảnh hưởng của các yếu tố đến việc áp dụng Internet Banking tại Việt Nam, cho thấy bốn yếu tố chính tác động đến sự lựa chọn Internet Banking là hiểu biết và thu nhập, niềm tin và rủi ro, ngân hàng và chính phủ.
Sự phát triển của công nghệ thông tin đã thúc đẩy sự gia tăng của các hình thức thanh toán điện tử, trong đó dịch vụ ví điện tử (VĐT) ngày càng được khách hàng ưa chuộng nhờ vào tính tiện lợi mà nó mang lại Nhiều nghiên cứu đã được thực hiện trên toàn cầu và tại Việt Nam, tập trung vào VĐT cũng như các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định sử dụng dịch vụ này.
Tác giả nhận thấy chưa có nghiên cứu nào về các yếu tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng ví điện tử (VĐT) của sinh viên Đại học Ngân Hàng Do đó, nghiên cứu được thực hiện tại Đại học Ngân Hàng ở Thành phố Hồ Chí Minh nhằm xác định các yếu tố và mức độ tác động của chúng đến ý định sử dụng VĐT của sinh viên.
Câuhỏinghiêncứu
Mụctiêucủađềtài
Mụctiêuchung
Bài viết này tập trung vào việc xác định, phân tích và đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ vận tải (VĐT) của sinh viên Trường Đại học Ngân hàng TP HCM Qua đó, chúng tôi đề xuất các giải pháp cho các đơn vị cung cấp VĐT nhằm giữ chân khách hàng cũ và thu hút khách hàng mới.
Mụctiêucụthể
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận liên quan đến ý định sử dụng VĐT và các yếu tốcóliênquan.
- Xác định các yếu tố tác động đến ý định sử dụng VĐT cũng nhƣ mức độ tácđộngcủatừngyếutố.
- Đề xuất các hàm ý quản trị giúp cho các đơn vị cung cấp có thể cải thiện vàpháttriểnVĐT đểduytrìkháchhàngcũvàthuhútkháchhàngmớisử dụng VĐT.
Đốitƣợng,phạmvi nghiêncứu
Đối tƣợngnghiêncứu
Các nhân tố ảnh hưởng đến đến ý định sử dụng ví điện tử của sinh viênTrườngĐạihọcNgânhàng TPHCM.
Phạmvinghiêncứu
- Phạm vi không gian: Khảo sát sinh viên các khóa đang theo học tại trườngĐạihọcNgân hàngTPHCM.
- Phạm vi thời gian: Các dữ liệu thứ cấp đƣợc thu thập trong giai đoạn 2016 –2020cácdữliệusơcấpđƣợcthuthậpthôngquakỹthuậtphỏngvấn vàkhảosátcácsinhviêntừ tháng1/2021–2/2021.
Phươngpháp nghiêncứu
Phươngphápđiềutra,thuthậpdữliệu
Dữ liệu thứ cấp là thông tin được thu thập từ nhiều nguồn khác nhau như thư viện trường học, internet, các bài viết, báo cáo, tạp chí khoa học và mạng xã hội.
Dữ liệu sơ cấp được thu thập thông qua bảng khảo sát cấu trúc, được soạn thảo dựa trên các thang đo từ tài liệu và nghiên cứu khoa học, kết hợp với ý kiến từ chuyên gia Bảng câu hỏi được thiết kế và gửi đến đối tượng khảo sát bằng công cụ trực tuyến, sử dụng phương pháp chọn mẫu thuận tiện.
Phươngphápphântíchdữliệu
Nghiên cứu sử dụng phương pháp hỗn hợp kết hợp giữa định tính và địnhlượng,trongđóphươngphápđịnhlượngđóngvaitròchủyếu.
Mụcđíchchínhcủaviệcnghiên cứuđịnhtínhlàxâydựngcơsởlýthuyếtcho đềtài,điềuchỉnhthangđolườngýđịnhsửdụngVĐTvànhững yếutốtácđộngđến ý định sử dụng VĐT của sinh viên Trường Đại học Ngân hàng TPHCM Trêncơsởnghiêncứuđịnhtínhsẽxâydựngvàhoànthiện bảngkhảosát.
EFA) đểkiểmđịnhgiátrịhộitụ, giátrịphânbiệt vàphương saitríchcủacácthang đo.
- Phân tích mô hình hồi quy để kiểm định các giả thuyết nghiên cứu trong môhìnhlýthuyết.
Ýnghĩakhoahọcvàthực tiễncủa đềtài
Ýnghĩakhoahọc của đềtài
Nghiên cứu này hệ thống hóa lý thuyết về ý định sử dụng ví điện tử và các hình thức thanh toán trực tuyến Đề tài xây dựng mô hình lý thuyết để khảo sát các yếu tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng ví điện tử Kết quả nghiên cứu đóng góp thêm vào mô hình lý thuyết, giúp các nhà nghiên cứu tiếp theo tham khảo và áp dụng trong nghiên cứu của họ.
Ýnghĩathực tiễn của đề tài
Nghiên cứu này giúp các doanh nghiệp trong lĩnh vực thanh toán điện tử nhận diện các yếu tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng và hành vi sử dụng dịch vụ Từ đó, họ có thể thiết kế các hoạt động kinh doanh hiệu quả hơn, góp phần mở rộng các giao dịch thanh toán không dùng tiền mặt.
Kếtcấu củađềtài
Chương 1: Giới thiệu đề tài nghiên cứuChương2:CơsởlýthuyếtvềvíđiệntửChư ơng 3: Phương pháp nghiên cứuChương4:Kếtquảnghiêncứu
Chương 2 cung cấp cái nhìn tổng quan về dịch vụ ngân hàng điện tử và ví điện tử, đồng thời khảo sát các nghiên cứu trước đây liên quan đến ý định sử dụng ví điện tử Những thông tin này sẽ làm cơ sở lý thuyết để xây dựng mô hình và thang đo chính thức cho bài nghiên cứu.
Tổngquanvềvíđiệntử
Dịchvụngân hàng
Theo Khanh (2004), dịch vụ (DV) là công việc phục vụ trực tiếp cho nhữngnhucầunhấtđịnhcủasốđông,cótổchứcvàđƣợctrảcông.
Theo Luật Giá năm 2013, dịch vụ được định nghĩa là hàng hóa vô hình, trong đó quá trình sản xuất và tiêu dùng diễn ra song song Dịch vụ bao gồm nhiều loại hình khác nhau trong hệ thống ngành sản phẩm tại Việt Nam, tuân thủ theo các quy định của pháp luật.
Theo Nguyễn Thị Mơ (2005), dịch vụ là kết quả lao động của con người được thể hiện trong giá trị của các sản phẩm vô hình, không thể nắm bắt được Điều này giúp làm rõ bản chất của dịch vụ, cho thấy rằng dịch vụ chính là kết tinh sức lao động của con người trong những sản phẩm không có hình thức cụ thể.
Dịch vụ được định nghĩa là một loại sản phẩm đặc biệt, là kết quả của quá trình lao động xã hội Sản phẩm này không phải là vật thể hữu hình và không cần chuyển nhượng quyền sở hữu, nhưng vẫn đáp ứng nhu cầu sử dụng của con người trong cuộc sống và sinh hoạt hàng ngày.
Dùcónhiềukháiniệmkhácnhau,nhƣngDVđềucóchungcácđặcđiểmđólà:tínhvôhình,tínhk hôngđồngnhất,tínhkhôngthểcấttrữđƣợc,tínhkhôngthểtáchrời.
Dịchvụngânhàng(DVNH)đƣợchiểutheonghĩarộnglàtoànbộcácnghiệpvụngân hàng về vốn, tiền tệ, thanh toán… mà ngân hàng cung cấp cho khách hàng đápứngcácnhucầukinhdoanh,sinhhoạtvàtừđóngânhàngthulợinhuận(DavidCox,1997).
Theo định nghĩa của Tổ chức thương mại thế giới (WTO), dịch vụ tài chính bao gồm tất cả các dịch vụ có tính chất tài chính do một nhà cung cấp dịch vụ tài chính thực hiện Các dịch vụ tài chính này bao gồm dịch vụ bảo hiểm, các dịch vụ liên quan đến bảo hiểm, dịch vụ ngân hàng và các dịch vụ tài chính khác Do đó, dịch vụ ngân hàng là một bộ phận cấu thành quan trọng của dịch vụ tài chính.
Hiệp định chung về thương mại dịch vụ (GATS) của WTO không định nghĩa cụ thể về dịch vụ, mà thay vào đó phân loại dịch vụ thành 12 ngành lớn, mỗi ngành lại chia thành các phân ngành nhỏ hơn (55 phân ngành) và mỗi phân ngành có các hoạt động dịch vụ cụ thể (155 phân ngành) Theo GATS, các dịch vụ ngân hàng và tài chính (DVNH) bao gồm nhận tiền gửi, cho vay, cho thuê tài chính, chuyển tiền và thanh toán thẻ, bảo lãnh và cam kết, mua bán các công cụ thị trường tài chính, phát hành chứng khoán, môi giới tiền tệ, trung gian và hỗ trợ tài chính.
Tại Việt Nam, dịch vụ ngân hàng vẫn chưa có một định nghĩa chính thức rõ ràng Nhiều ý kiến cho rằng tất cả các hoạt động nghiệp vụ của ngân hàng thương mại, bao gồm tiền tệ và ngoại hối, đều được xem là dịch vụ ngân hàng Quan điểm này được hình thành dựa trên cách hiểu của thế giới, trong đó dịch vụ ngân hàng được xem là toàn bộ các hoạt động liên quan đến tiền tệ, tín dụng, thanh toán và ngoại hối của ngân hàng đối với doanh nghiệp và công chúng.
Theo Nguyễn Hồng Quân (2020), dịch vụ (DV) là sản phẩm đặc biệt với nhiều đặc tính khác biệt so với hàng hóa thông thường, bao gồm tính vô hình, không thể tách rời, không thể lưu trữ và không đồng nhất Giống như các loại hình dịch vụ khác, DVNH cũng mang những đặc trưng cơ bản riêng.
Dịch vụ ngân hàng (DVNH) có tính chất vô hình, khác biệt so với các sản phẩm hữu hình trong ngành sản xuất vật chất Các sản phẩm thông thường có các đặc tính vật lý và tiêu chuẩn kỹ thuật rõ ràng, trong khi DVNH không tồn tại dưới dạng vật chất cụ thể mà khách hàng không thể nhìn thấy hay cảm nhận trước khi sử dụng Đặc điểm này khiến cho DVNH phụ thuộc vào lòng tin của khách hàng, khi họ không thể chắc chắn về sự an toàn của tiền gửi hoặc tính chính xác của giao dịch Sự tin tưởng này là yếu tố quyết định trong mối quan hệ giữa khách hàng và ngân hàng.
Dịch vụ không đồng nhất do sự gắn bó chặt chẽ với người cung cấp và chất lượng phụ thuộc vào trình độ, kỹ năng của họ Chất lượng dịch vụ có thể thay đổi do nhiều yếu tố như thời gian, cảm xúc và trạng thái sức khỏe Dịch vụ nha khoa cũng không ngoại lệ, thường gặp sai sót hoặc chậm trễ trong quá trình thực hiện do lỗi kỹ thuật hoặc sự thiếu tập trung của người thực hiện dịch vụ (Quân, 2020).
Dịch vụ có tính không lưu trữ, nghĩa là quá trình sản xuất và tiêu dùng diễn ra đồng thời Khác với hàng hóa thông thường có thể được sản xuất và lưu kho để phục vụ nhu cầu, dịch vụ không thể được sản xuất hàng loạt và lưu trữ trước khi tiêu dùng Quá trình cung ứng dịch vụ luôn gắn liền với việc tiêu dùng ngay lập tức, điều này tạo ra sự khác biệt rõ rệt trong cách thức cung cấp và tiêu thụ dịch vụ.
(Quân, 2020) Chính vì thế, DVNH cũngkhôngthểlưukhođược.Trongkhiđónhucầudịchvụthườnggiaođộnglớncóthờiđiểm nhu cầu tăng đột biến, song các ngân hàng cũng không thể sản xuất sẵn rồiđemlưutrữđược.
Dịch vụ ngân hàng không thể tách rời giữa quá trình cung cấp và tiêu dùng, với sự tham gia trực tiếp của khách hàng Mỗi dịch vụ đều tuân theo quy trình nhất định, như quy trình thẩm định hay quy trình cho vay, không thể chia cắt thành các loại dịch vụ khác nhau Điều này dẫn đến việc dịch vụ ngân hàng không có dịch vụ dở dang hay dịch vụ lưu kho, mà cung cấp trực tiếp cho khách hàng ngay khi có nhu cầu (Quân, 2020).
Ngânhàngđiệntử
Ngân hàng điện tử là dịch vụ kết nối khách hàng với ngân hàng thông qua các phương thức điện tử như máy tính, ATM và điện thoại Dịch vụ này cung cấp một mô hình giao dịch hiện đại, tiện lợi cho người sử dụng (Phạm Thu Hương, 2012).
Ngân hàng cho phép khách hàng truy cập từ xa để thu thập thông tin, thực hiện giao dịch thanh toán và tài chính dựa trên các tài khoản lưu ký tại ngân hàng, cũng như đăng ký sử dụng các sản phẩm dịch vụ mới (Nguyễn Thị Minh Hiền, 2016).
Dịch vụ ngân hàng điện tử, theo NHNN Việt Nam (2016), bao gồm các dịch vụ ngân hàng và dịch vụ trung gian thanh toán được cung cấp qua Internet Theo Quyết định số 35/2006/QĐ-NHNN, hoạt động ngân hàng điện tử diễn ra thông qua các kênh phân phối điện tử, là hệ thống các phương tiện điện tử và quy trình tự động xử lý giao dịch mà tổ chức tín dụng sử dụng để tương tác với khách hàng Dịch vụ ngân hàng điện tử cho phép thực hiện các giao dịch giữa ngân hàng và khách hàng, dựa trên việc xử lý và chuyển giao dữ liệu số hóa Để sử dụng dịch vụ này, khách hàng cần có tài khoản ngân hàng với tên truy cập và mật khẩu, từ đó có thể truy vấn thông tin tài khoản, chuyển tiền, thanh toán hóa đơn, mở tài khoản trực tuyến và đăng ký các dịch vụ thẻ trực tuyến trên thiết bị điện tử có kết nối mạng.
NHĐT là hệ thống phần mềm điện tử cho phép khách hàng thực hiện và kiểm soát giao dịch tài chính và phi tài chính qua tài khoản ngân hàng Khách hàng có thể dễ dàng truy cập NHĐT từ máy ATM, máy tính hoặc điện thoại di động có kết nối mạng, mọi lúc, mà không cần đến trực tiếp quầy giao dịch của ngân hàng.
Ngân hàng điện tử (NHĐT) là kênh phân phối và trao đổi thông tin tài chính giữa khách hàng và ngân hàng, nhằm đáp ứng nhu cầu sử dụng dịch vụ ngân hàng một cách nhanh chóng, thuận tiện và an toàn Hiện nay, NHĐT đã trở nên phổ biến tại Việt Nam với nhiều kênh dịch vụ như ví điện tử, hệ thống máy giao dịch tự động (ATM Banking), hệ thống chấp nhận thẻ (POS Banking), ngân hàng trực tuyến (Internet Banking) và ngân hàng tại nhà (Home Banking).
; N g â n h à n g t ự động qua điện thoại (Phone Banking); Ngân hàng qua mạng thông tin di động(MobileBanking);CallCenter.
Dịch vụ ngân hàng điện tử qua hệ thống máy giao dịch tự động (ATM Banking) đã được cung cấp lần đầu tiên tại Việt Nam vào năm 2002 và hiện nay vẫn là dịch vụ phổ biến nhất, được nhiều khách hàng trong nước và quốc tế sử dụng Số lượng thẻ và máy ATM trên toàn quốc ngày càng gia tăng, với hơn 18.700 máy ATM tính đến cuối tháng 4/2019, tăng 4,25% so với cùng kỳ năm 2018 Đến cuối tháng 3/2019, tổng số thẻ do ngân hàng phát hành đạt khoảng 81,3 triệu thẻ, tăng 15,9% so với năm trước.
Dịch vụ ngân hàng điện tử qua hệ thống chấp nhận thẻ (POS Banking) cho phép giao dịch thanh toán tại các điểm bán hàng thông qua máy đọc thẻ Theo thống kê của Ngân hàng Nhà nước, tính đến cuối tháng 4/2019, cả nước đã có khoảng 266.700 máy POS được lắp đặt Hiện nay, máy POS đã có mặt tại hầu hết các cơ sở, chuỗi phân phối, bán lẻ và khách sạn lớn, đồng thời đang mở rộng đến các đơn vị cung cấp dịch vụ công.
Ngân hàng trên mạng Internet (Internet Banking) là dịch vụ ngân hàng điện tử cho phép khách hàng truy cập vào website của ngân hàng để thực hiện giao dịch Dịch vụ này cung cấp thông tin tài khoản và giao dịch tài chính tự động qua Internet, giúp phân phối đa dạng sản phẩm và dịch vụ ngân hàng đến khách hàng mọi lúc, mọi nơi Với một chiếc máy tính hoặc điện thoại di động kết nối Internet, khách hàng có thể đăng nhập bằng tên tài khoản và mật khẩu để thực hiện các giao dịch, kiểm tra số dư, đăng ký sản phẩm mới và in sao kê Internet Banking cũng là kênh hỗ trợ khách hàng giải đáp thắc mắc và tiếp nhận ý kiến đóng góp hiệu quả.
+K h á c hhàngcóthểgửitấtcảcácthắcmắc,gópývềsảnphẩm,dịchvục ủaNHvàsẽđƣợc giảiquyếtnhanhchóng.
Ngân hàng tại nhà (Home Banking) là dịch vụ ngân hàng điện tử được phát triển thông qua mạng nội bộ của ngân hàng, kết nối với máy tính của khách hàng tại nhà Dịch vụ này có chi phí lắp đặt ban đầu cao do yêu cầu hệ thống máy tính và đường truyền riêng cho từng khách hàng, chủ yếu nhắm đến đối tượng doanh nghiệp Mặc dù chi phí lắp đặt cao, Home Banking mang lại nhiều lợi ích thiết thực như tiết kiệm chi phí đi lại và thời gian cho khách hàng Sau khi lắp đặt, ngân hàng sẽ cung cấp tên đăng nhập, mật khẩu và chữ ký điện tử để khách hàng truy cập và thực hiện các giao dịch theo nhu cầu.
Dịch vụ Ngân hàng tại nhà (Home Banking) được phát triển dựa trên hai nền tảng chính: hệ thống phần mềm ứng dụng và nền tảng công nghệ web Thông tin tài chính được thiết lập, mã hóa và xác nhận yêu cầu sử dụng thông qua cài đặt trên máy chủ, Internet và máy tính của khách hàng Quy trình sử dụng dịch vụ này bao gồm ba bước cơ bản.
Bước đầu tiên trong quy trình kết nối với ngân hàng là thiết lập kết nối từ máy tính của khách hàng đến hệ thống máy chủ của ngân hàng qua Internet Khách hàng cần truy cập vào website của ngân hàng hoặc giao diện phần mềm sử dụng Sau khi đăng nhập, ngân hàng sẽ tiến hành kiểm tra và xác nhận danh tính khách hàng, đồng thời cài đặt một đường truyền bảo mật (https) để đảm bảo an toàn khi truy cập vào mạng máy tính của ngân hàng.
+Bước 2:Sử dụng các sản phẩm và dịchvụ màN H t ạ i n h à c u n g c ấ p , c ó đadạngcác dịchvụNHtạinhànhƣchuyểnvànhậptiền, thanhtoán điệntử…
Bước 3: Kiểm tra thông tin và xác nhận giao dịch thông qua chữ ký điện tử Sau khi hoàn tất giao dịch, khách hàng cần kiểm tra lại và thoát khỏi mạng để giảm thiểu rủi ro rò rỉ thông tin cá nhân Các chứng từ cần thiết sẽ được lưu trữ, quản lý cẩn thận và sẽ được gửi tới khách hàng khi có yêu cầu.
Ngân hàng qua mạng thông tin di động (Mobile Banking) là dịch vụ ngân hàng điện tử dựa trên công nghệ viễn thông không dây của mạng điện thoại di động Khách hàng có thể thực hiện các giao dịch tài chính và phi tài chính thông qua tin nhắn hoặc các ứng dụng phát triển bởi ngân hàng thương mại trên các thiết bị cầm tay thông minh như điện thoại di động và máy tính bảng.
Mobile Banking có những hình thái sau: Short Message Service (SMS),Mobile WebvàMobileClient:
Dịch vụ Tin nhắn Ngắn (SMS) đang được hầu hết các ngân hàng thương mại áp dụng để gửi yêu cầu và thông tin giao dịch SMS có ưu điểm là dễ sử dụng, phù hợp với nhu cầu người dùng và chi phí thấp, không cần cài đặt phần mềm hay kết nối mạng Tuy nhiên, nhược điểm lớn nhất của dịch vụ này là vấn đề bảo mật và khả năng lưu trữ thông tin hạn chế.
Web di động cho phép thực hiện giao dịch qua thiết bị di động thông minh có độ phân giải cao, mang lại kết nối bảo mật tốt hơn so với dịch vụ tin nhắn ngắn (SMS) Tuy nhiên, nó gặp phải hạn chế về tốc độ, băng thông và khả năng hoạt động khi không có kết nối Internet.
DịchvụVíđiệntử
Trong những năm gần đây, ví điện tử ngày càng trở nên phổ biến tại Việt Nam, thu hút nhiều người sử dụng và tạo cơ hội cho các tổ chức cung cấp dịch vụ trung gian thanh toán tham gia vào thị trường tiềm năng này Dịch vụ trung gian thanh toán được hiểu là hoạt động kết nối, truyền dẫn và xử lý dữ liệu điện tử trong các giao dịch thanh toán giữa các tổ chức cung ứng dịch vụ và người sử dụng (Luật NHNN, 2016) Hiện nay, Ngân hàng Nhà nước đã cấp phép cho 06 loại hình dịch vụ trung gian thanh toán, trong đó bao gồm cả dịch vụ ví điện tử.
Theo NHNN (2016), dịch vụ ví điện tử (VĐT) được định nghĩa là dịch vụ cung cấp cho khách hàng một tài khoản điện tử định danh, do các tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán tạo lập trên các thiết bị như chip điện tử, sim điện thoại di động, hoặc máy tính Dịch vụ này cho phép lưu giữ giá trị tiền tệ, được đảm bảo bằng số tiền tương đương được chuyển từ tài khoản thanh toán của khách hàng tại ngân hàng vào tài khoản đảm bảo thanh toán của tổ chức cung ứng dịch vụ VĐT với tỷ lệ 1:1.
Tuy nhiên, gần đây khái niệm về VĐT đã đƣợc định nghĩa lại là tiền điện tửdo tổ chức cung ứng trung gian thanh toánp h á t h à n h v à đ ị n h d a n h k h á c h h à n g thôngquatàikhoảnthanhtoáncủakháchhàngmởtạiNH(NHNN,2019)
Ví điện tử là một công cụ thanh toán bằng tiền điện tử, hoạt động như một thẻ thông minh với khả năng lưu trữ thông tin mua hàng trong tài khoản thả nổi tại các công ty chuyên ngành như ngân hàng hoặc đơn vị phát hành tiền điện tử Mỗi khi thực hiện giao dịch, tài khoản này sẽ được ghi nợ mà không cần sự can thiệp của nhà phát hành Ví điện tử mang lại nhiều lợi ích như bảo mật giao dịch, dễ sử dụng, phù hợp cho thanh toán vi mô và có phạm vi sử dụng rộng rãi, bao gồm cả thanh toán tại điểm bán hàng và qua Internet.
Theo Amoroso và Magnier – Watanabe (2012), ví điện tử được định nghĩa là một thẻ trả trước đa năng có thể nạp lại, sử dụng cho các giao dịch bán lẻ và thanh toán khác thay vì tiền mặt Khác với thẻ ghi nợ hay thẻ tín dụng, giao dịch bằng ví điện tử diễn ra ngoại tuyến mà không cần sự tham gia trực tiếp của các tổ chức tài chính, giúp giảm thiểu chi phí cố định cao.
TheoUpadhayaya (2012),VĐTlàvíkỹthuật sốđƣợctíchhợptrongcácứngdụng trên điện thoại di động hoặc đƣợc dùng để thanh toán thông qua các trang webtrựctuyến,chophépngườisửdụngthựchiệncácgiaodịchthươngmạiđiệntử.
VĐT, theo Shaw (2014), là hình thức thanh toán điện tử qua thiết bị di động, thay thế cho ví vật lý, cho phép giao dịch tại vị trí của người bán Hình thức này không chỉ lưu trữ dữ liệu thanh toán mà còn tích hợp thẻ khách hàng thân thiết và phiếu giảm giá, mang lại lợi ích cho người tiêu dùng.
Ví điện tử (VĐT) là tài khoản điện tử hoạt động như một chiếc ví, cho phép người dùng lưu trữ tiền từ các tài khoản ngân hàng trên ứng dụng điện thoại, đồng thời hỗ trợ thanh toán và giao dịch trực tuyến Các nhà cung cấp dịch vụ VĐT liên kết với ngân hàng thương mại để quản lý tiền của người dùng, giúp ngân hàng giảm bớt việc quản lý giao dịch thanh toán từ thẻ khách hàng, nhờ vào việc các giao dịch này được quản lý bởi đơn vị cung cấp ví điện tử.
Thị trường vay tiêu dùng đang trở nên sôi động, thu hút nhiều đơn vị dịch vụ trung gian thanh toán tham gia Từ ngày 01/03/2015 đến 30/06/2019, theo Thông tư số 39/2014/TT-NHNN, Ngân hàng Nhà nước đã tiếp nhận hồ sơ đề nghị cấp phép cho các đơn vị này.
Tính đến ngày 31/12/2018, đã có 82 tổ chức được cấp giấy phép hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán, trong đó 31 tổ chức đã thực hiện cấp phép, bao gồm 27 tổ chức cung cấp dịch vụ ví điện tử Hiện tại, có hơn 10.000 đơn vị chấp nhận thanh toán qua ví điện tử, với tổng số 4,24 triệu ví điện tử đã được xác thực và liên kết với tài khoản ngân hàng.
Theo báo cáo của các tổ chức trung gian thanh toán, năm 2018, tổng số lượng giao dịch bằng ví điện tử (VĐT) đạt hơn 214,639 nghìn giao dịch với tổng giá trị giao dịch trên 91,06 nghìn tỷ đồng, tăng 15,39% so với năm 2017, bình quân khoảng 424.253 đồng/giao dịch Trong quý I/2019, số lượng giao dịch bằng VĐT gần 77.454 nghìn giao dịch với tổng giá trị đạt gần 29,5 nghìn tỷ đồng, tăng 55,5% về số lượng và 77,7% về giá trị so với cùng kỳ năm 2018, bình quân khoảng 380.864 đồng/giao dịch Mỗi VĐT thực hiện khoảng 2,54 giao dịch/tháng với giá trị giao dịch bình quân hơn 966.000 đồng/tháng.
Hiện nay, người dùng Việt Nam đã quen thuộc với nhiều ví điện tử như Momo, Bank Plus, Zalo Pay, Moca, Airpay, VN Pay, và cũng có sự xuất hiện của các ví quốc tế như PayPal, AlertPay Để thực hiện thanh toán qua ví điện tử, người dùng thường phải nạp tiền từ tài khoản ngân hàng liên kết với ví Nhà phát hành ví cần có sự kết nối với các đơn vị bán hàng để chấp nhận thanh toán Hiện tại, các nhà bán hàng chỉ phải trả khoảng 1% doanh thu cho nhà phát hành ví, trong khi đó, nhà phát hành ví cũng phải trả phí cho ngân hàng và chiết khấu từ 2% đến 5% trên hóa đơn thanh toán cho khách hàng (Kim Chi, 2019).
+Thanhtoánhóađơnđiện,nước,cướcphíđiệnthoại,Internet+Nhậnvàchuyểntiềngiữacáctàikhoảnngânhàngnhƣmộttàikhoảnngânhàng bìnhthường.
Ví điện tử mang lại nhiều lợi ích cho khách hàng, giúp tiết kiệm chi phí đi lại và thời gian, đồng thời tạo sự thuận tiện và an toàn cho các giao dịch tài chính Ngoài ra, ví điện tử còn hỗ trợ người dùng kiểm soát tài khoản tiền của mình thông qua việc truy vấn tài khoản, lịch sử giao dịch và biến động trong tài khoản.
Tổngquancácnghiêncứu
Cácnghiêncứunướcngoài
Ví điện tử không phải là một chủ đề mới bởi vì trên thế giới đã có nhiềunghiêncứuvềcácyếutốảnhhưởngđếnýđịnhsửdụngVĐTtiêubiểunhư:
Nghiên cứu của Amin (2009) đã mở rộng mô hình chấp nhận công nghệ (TAM) bằng cách bổ sung ba yếu tố: nhận thức độ tin cậy, nhận thức về sự hữu ích và nhận thức dễ sử dụng Kết quả cho thấy rằng cả ba yếu tố này đều đóng vai trò quan trọng trong việc quyết định mức độ chấp nhận công nghệ.
NghiêncứucủaYadav(2017)đãxácđịnhđƣợcsáuyếutốlànhậnthứcđƣợcchấtlƣợngdịch vụ,nhậnthứcrủiro,nhậnthứctínhhữudụng,chiphícảmnhận,mứcđộdễsửdụngvàsựtintưởngđãthú cđẩyýđịnhsửdụngVĐTcủa350ngườitừtấtcảbốn khu vực Đông, Tây, Nam và Bắc ở Ấn Độ được chọn để khảo sát. Cũng trongnghiêncứunày,nhậnthứcsựhữuíchlàyếutốảnhhưởngtíchcựcđếnýđịnhsửdụngVĐT.
Nghiên cứu của Padiya và Bantwa (2018) về việc chấp nhận ví điện tử tại Ahmedabad, Ấn Độ đã thu thập 318 mẫu hợp lệ thông qua khảo sát Mục tiêu của nghiên cứu là xác định các yếu tố khuyến khích và cản trở việc sử dụng ví điện tử trong thành phố này Phân tích dữ liệu được thực hiện bằng cách sử dụng tỷ lệ phần trăm, bảng chéo và các công cụ thống kê như ANOVA, dựa trên mô hình công nghệ UTAUT Kết quả cho thấy người dùng ví điện tử rất coi trọng các thuộc tính bảo mật, mối quan tâm về riêng tư và phí giao dịch.
Một nghiên cứu gần đây của Lonare, Yadav và Sindhu (2018) đã thực hiện khảo sát 285 khách hàng tại Ấn Độ, sử dụng mô hình chấp nhận công nghệ TAM Kết quả cho thấy rằng nhận thức về tính dễ sử dụng và chi phí sử dụng có ảnh hưởng trực tiếp đến quyết định sử dụng ví điện tử.
Nghiên cứu thực nghiệm của Sujeet Kumar Sharma và ctg (2019) đã phát triển một mô hình kết hợp với Mô hình cấu trúc tuyến tính (SEM) để khảo sát các yếu tố dự báo dịch vụ thanh toán di động ở Oman Kết quả cho thấy sự tin tưởng, cảm nhận tính hữu ích và nhận thức tính bảo mật có ảnh hưởng tích cực đến ý định sử dụng dịch vụ thanh toán di động, trong khi cảm nhận tính dễ sử dụng không có tác động đáng kể đến quyết định của khách hàng Oman.
Nghiên cứu của Tamil Selvi và Balaji (2019) đã khám phá vai trò của hồ sơ nhân khẩu học đối với ý định hành vi áp dụng ngân hàng di động tại Chennai và Hyderabad Dữ liệu được thu thập thông qua bảng câu hỏi từ khách hàng ngân hàng khu vực tư nhân, nhằm tìm hiểu nhận thức của họ về ngân hàng di động Kết quả cho thấy tuổi tác, thời gian nỗ lực, động lực khoái lạc, sự tin tưởng và lòng trung thành có ảnh hưởng đáng kể đến ý định hành vi của khách hàng trong việc áp dụng ngân hàng di động.
Nghiên cứu của Lim và các cộng sự (2018) tập trung vào việc khám phá ảnh hưởng của nhận thức về bảo mật và kiến thức đối với dịch vụ thanh toán Fintech, đặc biệt là ý định sử dụng dịch vụ di động của khách hàng trẻ Các nhà nghiên cứu đã áp dụng mô hình phương trình cấu trúc để phân tích mối quan hệ giữa các biến trong nghiên cứu Kết quả cho thấy rằng kiến thức về dịch vụ Fintech, nhận thức bảo mật, tính hữu ích và sự hài lòng đều có ảnh hưởng đáng kể đến ý định liên tục sử dụng dịch vụ thanh toán di động của nhóm đối tượng khảo sát.
Gorbacheva, Niehaves, Plattfaut, & Becker (2011) đã nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến việc chấp nhận và sử dụng Internet Banking, tập trung vào những hiểu biết về tài khoản từ lý thuyết kỹ thuật số Các tác giả áp dụng mô hình lý thuyết thống nhất chấp nhận và sử dụng công nghệ (UTAUT) để phân tích nhận thức an ninh Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng yếu tố quyết định mạnh mẽ đến ý định sử dụng dịch vụ Internet Banking là mức độ tin tưởng vào tính an toàn của dịch vụ, và họ đã đề xuất cấu trúc nhận thức an ninh trong nghiên cứu của mình.
Nghiên cứu của Foon & Fah (2011) đã điều tra các yếu tố ảnh hưởng đến việc chấp nhận và sử dụng Internet Banking tại Malaysia với sự tham gia của 200 người Phân tích hồi quy tuyến tính được áp dụng để xác định các yếu tố dự báo việc sử dụng dịch vụ này Kết quả cho thấy năm yếu tố chính bao gồm nỗ lực kỳ vọng, ảnh hưởng xã hội, điều kiện thuận lợi, hiệu suất mong đợi và sự tin tưởng đều có mối quan hệ tích cực với ý định sử dụng Internet Banking.
Cácnghiêncứutrongnước
Nghiên cứu của Hồ Diễm Thuần (2012) đã phân tích chất lượng dịch vụ ngân hàng điện tử tại Đà Nẵng, sử dụng hai mô hình SERVPERF và GRONROOS Kết quả cho thấy có 06 yếu tố chính ảnh hưởng đến sự hài lòng của khách hàng, bao gồm: sự bảo đảm, khả năng đáp ứng, sự tin cậy, giá cả, phương tiện vật chất, và năng lực phục vụ Đặc biệt, khả năng đáp ứng và sự tin cậy được xác định là hai yếu tố có ảnh hưởng lớn nhất đến sự hài lòng của khách hàng khi sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử.
Nghiên cứu của Nguyễn Minh Hải (2014) đã khảo sát 300 mẫu phỏng vấn và ứng dụng mô hình công nghệ TAM để tìm hiểu các yếu tố ảnh hưởng đến sự chấp nhận sử dụng dịch vụ Internet Banking tại TPHCM Kết quả nghiên cứu xác định năm yếu tố chính tác động đến sự hài lòng của khách hàng, bao gồm sự hữu ích, lợi ích, thái độ, kiểm soát hành vi, rủi ro tài chính và tiêu chuẩn chủ quan, trong đó sự tin cậy là yếu tố có ảnh hưởng lớn nhất.
Nghiên cứu của Nguyễn Thị Hồng Hải (2016) áp dụng mô hình nhận thức rủi ro (TPR) và Mô hình thuyết hành động hợp lý (TRA) để phân tích 200 mẫu dữ liệu Mục tiêu của nghiên cứu là tìm hiểu các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định sử dụng dịch vụ Internet.
Dịch vụ Internet Banking tại Đà Nẵng đang ngày càng thu hút sự quan tâm của khách hàng cá nhân Năm yếu tố chính ảnh hưởng đến sự lựa chọn sử dụng dịch vụ này bao gồm sự thuận tiện, giao diện website thân thiện với người dùng, rủi ro cảm nhận, giá cả và truyền thông tiếp thị Trong số đó, truyền thông tiếp thị được xem là yếu tố có ảnh hưởng mạnh nhất đến quyết định sử dụng dịch vụ Internet Banking.
Trần Thị Diễm Phương (2015) đã áp dụng mô hình UTAUT để nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến việc chấp nhận sử dụng Internet Banking của khách hàng cá nhân tại TPHCM Qua khảo sát 200 mẫu dữ liệu, tác giả xác định được 5 yếu tố độc lập gồm hiệu quả sử dụng, nỗ lực sử dụng, ảnh hưởng xã hội, điều kiện hỗ trợ và rủi ro bảo mật Sau khi loại bỏ yếu tố bảo mật, kết quả cho thấy hiệu quả sử dụng là yếu tố có tác động mạnh nhất, tiếp theo là nỗ lực sử dụng, điều kiện hỗ trợ và ảnh hưởng xã hội.
Nguyễn Thị Thanh Nhàn (2015) đã thực hiện phỏng vấn sâu với 10 mẫu để nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ Internet Banking của khách hàng cá nhân tại Đà Nẵng Kết quả cho thấy có 4 yếu tố chính: thái độ, chuẩn chủ quan, tin tưởng và sự tự chủ, trong đó tin tưởng là yếu tố có tác động mạnh nhất Thêm vào đó, thái độ bị ảnh hưởng bởi 3 yếu tố: cảm nhận hữu ích, cảm nhận dễ sử dụng và chuẩn chủ quan, với cảm nhận dễ sử dụng là yếu tố có ảnh hưởng lớn nhất.
Nghiên cứu này tập trung vào đối tượng khách hàng cá nhân tại các thành phố lớn, đặc biệt là sinh viên tại Đại học Ngân hàng TPHCM Kết quả cho thấy các yếu tố chính ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ bao gồm bảo mật, niềm tin, sự hữu ích và cảm nhận dễ sử dụng Khóa luận nhằm tìm hiểu các nhân tố tác động đến ý định sử dụng dịch vụ của sinh viên, từ đó cung cấp cái nhìn sâu sắc hơn về hành vi tiêu dùng trong nhóm đối tượng này.
Cởsởlýthuyết vàđềxuấtcácmôhìnhnghiên cứu
Thuyếthànhvidự định(TPB)
Theo Ajzen (1991), sự phát triển của lý thuyết hành vi hợp lý cho thấy rằng hành vi của con người không chỉ phụ thuộc vào động cơ và thái độ, mà còn bị ảnh hưởng bởi các yếu tố bên ngoài Mặc dù có thể có ý định mạnh mẽ để thực hiện hành vi, nhưng những tác động từ môi trường có thể ngăn cản việc thực hiện đó Ajzen đã bổ sung thêm yếu tố kiểm soát hành vi nhận thức (Perceived Behavioral Control), nhấn mạnh rằng nhận thức về khả năng thực hiện hành vi ảnh hưởng đến quyết định hành động Các yếu tố như tiêu chuẩn, niềm tin về khả năng kiểm soát, và thái độ đều đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành ý định hành vi Nhận thức kiểm soát hành vi phản ánh mức độ dễ dàng hoặc khó khăn trong việc thực hiện hành vi, cũng như sự kiểm soát đối với hành vi đó.
Mô hình TPB (Thuyết Hành động có dự định) cho thấy động cơ hay ý định là yếu tố chính thúc đẩy hành vi tiêu dùng Ý định này được hình thành từ ba yếu tố cơ bản: thái độ, chuẩn chủ quan và kiểm soát hành vi nhận thức Sự dự đoán hành vi từ ý định phụ thuộc vào các yếu tố ngoài tầm kiểm soát cá nhân, ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa ý định và hành vi Thái độ và chuẩn chủ quan tác động trực tiếp đến dự định trước khi thực hiện hành vi ứng dụng công nghệ Mô hình TPB đã được áp dụng thành công trong nghiên cứu hành vi chấp nhận công nghệ, cho thấy tính hợp lý hơn so với các nghiên cứu trước đây Điểm mạnh của mô hình TPB là khả năng dự đoán và giải thích hành vi tiêu dùng trong cùng một bối cảnh nghiên cứu, khắc phục được nhược điểm của mô hình TRA bằng cách bổ sung yếu tố kiểm soát hành vi cảm nhận.
Mô hình TPB (Thuyết hành vi lý trí) gặp một số hạn chế trong việc dự đoán hành vi con người Đầu tiên, các yếu tố quyết định ý định không chỉ giới hạn ở thái độ, chuẩn chủ quan và kiểm soát hành vi cảm nhận Thứ hai, có thể xảy ra khoảng cách thời gian đáng kể giữa đánh giá ý định và hành vi thực tế, dẫn đến sự thay đổi trong ý định của cá nhân theo thời gian Cuối cùng, TPB dựa trên các tiêu chí nhất định để dự đoán hành động, nhưng thực tế cho thấy cá nhân không luôn hành xử theo những tiêu chí này (Ajzen, 2011).
Môhìnhlýthuyếtkhuếchtánsự đổimới –IDT
Lý thuyết lan tỏa đổi mới (Innovation Diffusion Theory - IDT), được điều chỉnh bởi Rogers vào năm 1995, tập trung vào việc hiểu cách thức, lý do và tốc độ lan truyền của các ý tưởng và đổi mới công nghệ trong hệ thống xã hội Thay vì chỉ tập trung vào việc thuyết phục cá nhân thay đổi, lý thuyết này nhấn mạnh rằng sự thay đổi chủ yếu liên quan đến việc "tái tạo" sản phẩm và hành vi để phù hợp hơn với nhu cầu của cá nhân và nhóm Trong quá trình lan tỏa đổi mới, chính bản thân sản phẩm mới là yếu tố thay đổi, trong khi sự lan tỏa diễn ra thông qua các kênh truyền đạt giữa các thành viên trong hệ thống xã hội.
Phản ứng của cá nhân đối với sự đổi mới phụ thuộc vào nhận thức về tính chất mới lạ của ý tưởng Dù cá nhân đó có cho rằng ý tưởng là mới hay không, nó vẫn được xem là sự đổi mới Sự thể hiện tính chất mới lạ của đổi mới có thể đến từ kiến thức, sự thuyết phục hoặc quyết định chấp nhận Phần lớn các ý tưởng mới thường liên quan đến những đổi mới công nghệ, dẫn đến việc từ "công nghệ" thường được sử dụng như một từ đồng nghĩa với "sự đổi mới" (Rogers, 1995).
Rogers(1995)chorằ ng quátrình chấpnhậnsảnphẩmmớicủangười tiêud ùngbaogồmnămgiaiđoạn:biếtđến,quantâm, đánhgiá,dùngthử, chấpnhận:
- Sau khi có những thông tin về sản phẩm, người tiêu dùng đánh giá và xemxétcónêndùngthử sảnphẩmmớikhông?
- Khisảnphẩm đãđạtsựhàilòngcủakháchhàng,họsẽquyếtđịnhthường xuyênsửdụngcácsản phẩmđó.
Giai đoạn thứ nhất, giai đoạn nhận thức, là bước khởi đầu trong quá trình hiểu biết về sự sáng tạo và đổi mới Trong giai đoạn này, các cá nhân chưa nhận được đủ kích thích để tìm kiếm thông tin về đổi mới, dẫn đến việc họ tiếp xúc với sự sáng tạo nhưng vẫn thiếu kiến thức về công nghệ đổi mới.
Giai đoạn thứ hai, hay giai đoạn thuyết phục, là thời điểm quan trọng để xây dựng niềm tin về sản phẩm hoặc dịch vụ mới Trong giai đoạn này, người tiêu dùng chủ động tìm kiếm thông tin liên quan để hiểu rõ hơn về sản phẩm, từ đó quyết định có nên tin tưởng và sử dụng sản phẩm, dịch vụ đó hay không.
Giai đoạn thứ ba, hay giai đoạn quyết định, là thời điểm mà người tiêu dùng đã nhận thức rõ về các ưu điểm và nhược điểm của sản phẩm mới Tại giai đoạn này, họ sẽ tham gia vào các hoạt động dẫn đến việc chấp nhận sản phẩm mới Đây là giai đoạn khó khăn nhất để đưa các đổi mới vào hoạt động thực tiễn.
Giai đoạn thứ tư của quá trình tiêu dùng là giai đoạn thực hiện, khi người tiêu dùng bắt đầu sử dụng sản phẩm hoặc dịch vụ mới với các mức độ khác nhau, tùy thuộc vào hoàn cảnh cụ thể Trong giai đoạn này, người tiêu dùng sẽ đánh giá tính hữu ích của sản phẩm mới và tìm hiểu thêm thông tin liên quan đến nó.
Giai đoạn thứ năm, hay giai đoạn xác nhận, cho phép cá nhân xem xét lại quyết định của mình thông qua các sản phẩm và dịch vụ mới Trong giai đoạn này, người dùng đánh giá những tác động tích cực và tiêu cực khi sử dụng, từ đó đưa ra quyết định tiếp tục sử dụng hoặc từ chối sản phẩm/dịch vụ đó.
Lý thuyết phổ biến về sự đổi mới được các nhà nghiên cứu sử dụng để giải thích quá trình tiếp nhận các cải tiến và đổi mới sản phẩm, dịch vụ Nghiên cứu cho thấy tính đổi mới của dịch vụ ảnh hưởng trực tiếp đến cảm nhận về tính dễ sử dụng, từ đó tác động gián tiếp đến dự định và hành vi sử dụng thực sự của khách hàng (Goldsmith, 2002; Kuo và Yen, 2009; Đào Trung Kiên và cộng tác, 2014).
Môhìnhchấpnhậncôngnghệ(TAM)
Mô hình chấp nhận công nghệ (Technology Acceptance Model - TAM) được Fred Davis giới thiệu lần đầu vào năm 1989, đã trở thành công cụ phổ biến trong việc khảo sát các yếu tố ảnh hưởng đến sự chấp nhận công nghệ của người dùng TAM giả định rằng nhận thức về tính dễ sử dụng và tính hữu ích đóng vai trò trung gian trong mối quan hệ phức tạp giữa các biến bên ngoài và khả năng sử dụng hệ thống Mô hình này dựa trên lý thuyết hành động hợp lý (Theory of Reasonable Action - TRA) và lý thuyết về hành vi có kế hoạch.
Hình2.2trìnhbàymôhìnhTAMđƣợcgiớithiệulầnđầuvàonăm1989củaDavischoth ấycó05biếnchính nhƣ:
- Biến bên ngoài (External Variables): là các biến của các nghiên cứu trướcđâynhưsựđàotạo,ýkiếnhoặckháiniệmkhácnhaukhi sửdụnghệ thốngVĐT.
Biến nhận thức hữu ích (Perceive Usefulness) là yếu tố nền tảng quyết định mức độ lòng tin của khách hàng vào khả năng nâng cao kết quả thực hiện khi sử dụng hệ thống đặc thù Yếu tố này bao gồm năm thành phần chính: yếu tố giao tiếp (communication), chất lượng hệ thống (system quality), chất lượng thông tin (information quality), chất lượng dịch vụ (service quality), và sự phù hợp giữa công việc và công nghệ (task-technology fit).
Biến nhận thức dễ sử dụng (Perceive Ease of Use) là yếu tố quan trọng, phản ánh mức độ tin tưởng của khách hàng vào khả năng sử dụng một hệ thống công nghệ, sản phẩm hay dịch vụ mới mà không gặp khó khăn Yếu tố này phụ thuộc vào thiết kế giao diện, ngôn ngữ và phần mềm trên thiết bị Cảm nhận dễ sử dụng ảnh hưởng trực tiếp đến cảm nhận về sự hữu ích; đôi khi, mặc dù khách hàng nhận thức được lợi ích của sản phẩm hay dịch vụ mới, họ vẫn từ chối sử dụng vì cảm thấy nó quá khó để thao tác.
Biến thái độ sử dụng là cảm giác tích cực hoặc tiêu cực về việc thực hiện hành vi nhằm mục tiêu Biến này bị ảnh hưởng trực tiếp bởi hai yếu tố: cảm nhận về hữu ích và cảm nhận dễ sử dụng Từ đó, nó tác động gián tiếp đến ý định sử dụng công nghệ và hình thành quyết định sử dụng thực sự Nếu người dùng nhận thấy rằng việc sử dụng công nghệ là dễ dàng và không cần nỗ lực nhiều, khả năng họ sẽ tiếp tục sử dụng công nghệ đó sẽ rất cao.
Biến ý định sử dụng (Behavioral Intention to Use) chịu ảnh hưởng lớn từ ba yếu tố: cảm nhận về hữu ích, cảm nhận dễ sử dụng và thái độ Trong đó, cảm nhận về sự hữu ích có tác động mạnh nhất đến ý định sử dụng Hơn nữa, ý định sử dụng cũng ảnh hưởng đến quyết định lựa chọn sử dụng thực tế của người tiêu dùng.
Mô hình TAM là công cụ quan trọng để đo lường và dự đoán mức độ sử dụng của hệ thống thông tin Do đó, TAM được áp dụng rộng rãi trong các nghiên cứu về hệ thống cụ thể, tập trung vào các yếu tố ảnh hưởng đến việc chấp nhận công nghệ thông tin, đặc biệt trong lĩnh vực thương mại điện tử.
Môhìnhhợpnhấtvềchấpnhậnvàsửdụngcôngnghệ
Mô hình UTAUT, hay còn gọi là mô hình chấp nhận và sử dụng công nghệ (Unified Theory of Acceptance and Use of Technology), được phát triển bởi Venkatesh và cộng sự vào năm 2003 nhằm kiểm tra sự chấp nhận công nghệ và cung cấp một cách tiếp cận thống nhất hơn Mô hình này được coi là sự kết hợp của tám mô hình trước đó, bao gồm Lý thuyết hành động hợp lý (Theory of Reasoned Action - TRA).
Lý thuyết hành vi dự định (Theory of Planned Behavior– TPB),Môhìnhchấpnhậncôngnghệ(TAM),Môhìnhđộngcơthúcđ ẩ y (Motivation
The article discusses various theoretical frameworks relevant to technology adoption and utilization, including the Model of Motivation (MM), the Model of PC Utilization (PCUM), and the Innovation Diffusion Theory (IDT) Additionally, it explores the Social Cognitive Theory (SCT) and the combined Technology Acceptance Model and Theory of Planned Behavior (C-TAM-TPB), highlighting their significance in understanding how users engage with new technologies.
Mô hình UTAUT, như trình bày trong Hình 2.3, được xây dựng dựa trên quan điểm nghiên cứu sự chấp nhận của người dùng đối với hệ thống thông tin mới Mô hình này bao gồm các thành phần chính nhằm phân tích và đánh giá yếu tố ảnh hưởng đến quyết định sử dụng công nghệ.
Kỳ vọng hiệu suất (PE) là mức độ mà cá nhân tin rằng việc sử dụng hệ thống sẽ giúp họ đạt được lợi ích trong công việc Theo Venkatesh và cộng sự (2003), PE được xác định là khả năng đạt được kết quả mong đợi từ việc sử dụng công nghệ Nhân tố này được tổng hợp từ các khía cạnh khác nhau của cảm nhận hữu ích trong mô hình TAM và lợi ích tương đối trong lý thuyết IDT.
EE (Kỳ vọng nỗ lực) là mức độ dễ dàng khi sử dụng các hệ thống, theo định nghĩa của Venkatesh và cộng sự (2003) Khái niệm này được tích hợp từ các khái niệm tương tự trong các mô hình khác như cảm nhận dễ sử dụng trong mô hình TAM và tính dễ sử dụng trong mô hình IDT.
SI(SocialInfluence)làảnhhưởngxãhộiđượcđịnhnghĩalà“mứcđộmàmộtcá nhânchorằngnhững ngườikhác tinrằnghọnênsửdụnghệ thốngmới”(Venkatesh và ctg,
Theo Venkatesh, ảnh hưởng xã hội được định nghĩa là tiêu chuẩn chủ quan trong các mô hình TRA, TAM, TPB và C-TAM-TPB, cũng như các yếu tố xã hội trong MPCU và hình ảnh trong IDT Những người có thể ảnh hưởng bao gồm ông chủ, đồng nghiệp, và cấp dưới.
FC (Facilitating Conditions) được định nghĩa là mức độ tin tưởng vào sự tồn tại của cơ sở hạ tầng kỹ thuật và tổ chức để hỗ trợ việc sử dụng hệ thống (Venkatesh và cộng sự, 2003) Ảnh hưởng của FC đến việc sử dụng sẽ được điều chỉnh theo độ tuổi, chi phí hàng tháng và kinh nghiệm của những người lớn tuổi, với sự gia tăng về kinh nghiệm.
Giới tính của người sử dụng dịch vụ ảnh hưởng đến kết quả và nỗ lực kỳ vọng, cũng như tác động xã hội Phụ nữ thường có xu hướng mua sắm nhiều hơn nam giới, điều này tạo ra cơ hội lớn hơn cho phụ nữ trong việc sử dụng dịch vụ.
Độ tuổi của người sử dụng dịch vụ đóng vai trò quan trọng trong việc điều tiết ảnh hưởng đến các biến kết quả kỳ vọng, nỗ lực kỳ vọng, ảnh hưởng xã hội và các điều kiện thuận lợi Sự khác biệt giữa các độ tuổi sẽ tạo ra những tác động khác nhau đến những yếu tố này.
Trải nghiệm của người tiêu dùng về ngân hàng di động được hình thành từ những lợi ích mà dịch vụ này mang lại và chi phí sử dụng Dựa trên những yếu tố này, người tiêu dùng sẽ đánh giá và quyết định xem có nên tiếp tục sử dụng dịch vụ ngân hàng di động hay không.
Hành vi dự định (BI) được định nghĩa bởi Fishbein và Dossett (1983) là mức độ người sử dụng có ý định chấp nhận và sử dụng hệ thống, đây chính là mục tiêu cuối cùng Venkatesh và các cộng sự (2003) cho rằng BI có ảnh hưởng tích cực đến việc sử dụng công nghệ.
Mô hình UTAUT được xây dựng từ nhiều mô hình dự báo hành vi khác nhau, đặc biệt là trong việc chấp nhận sản phẩm công nghệ Mô hình này được áp dụng rộng rãi để đo lường mức độ chấp nhận của người dùng đối với các sản phẩm và dịch vụ công nghệ mới, đặc biệt trong lĩnh vực công nghệ thông tin và viễn thông.
Đềxuấtmôhìnhnghiêncứu
Cơsởlựa chọnmôhình
Mô hình lý thuyết nghiên cứu kết hợp giữa mô hình Chấp nhận Công nghệ (TAM) và UTAUT, trong đó TAM được xem là mô hình chính ảnh hưởng đến hành vi chấp nhận công nghệ mới Mô hình này dựa trên lý thuyết hành động hợp lý (TRA), cho thấy rằng ý định hành vi của cá nhân dẫn đến hành vi thực tế, chịu ảnh hưởng bởi các chuẩn mực và thái độ chủ quan, cũng như niềm tin cá nhân Pikkarainen và cộng sự (2004) đã đề xuất một mô hình gồm sáu yếu tố quan trọng: cảm nhận tính hữu dụng, tính dễ sử dụng, mức độ thích thú, thông tin về ngân hàng trực tuyến, bảo mật và quyền riêng tư, cùng chất lượng kết nối internet để nghiên cứu sự chấp nhận ngân hàng trực tuyến Theo Shin (2009), xu hướng hiện nay là mở rộng TAM với các biến bổ sung, và nếu được điều chỉnh hợp lý, mô hình này sẽ là công cụ hiệu quả để khảo sát các yếu tố liên quan đến việc chấp nhận và sử dụng công nghệ mới.
Mô hình UTAUT, được đề xuất vào năm 2003, giải thích ý định của người dùng trong việc sử dụng hệ thống thông tin thông qua bốn yếu tố cốt lõi: kỳ vọng hiệu suất, kỳ vọng nỗ lực, ảnh hưởng xã hội và các điều kiện thuận lợi Nghiên cứu của Shin (2009) đã mở rộng mô hình này bằng cách kết hợp các yếu tố an ninh, lòng tin và tính hiệu quả UTAUT, được xem như một phần mở rộng của TAM, đã chứng minh giá trị trong việc giải thích sự chấp nhận công nghệ qua nhiều nghiên cứu trước đó Nghiên cứu hiện tại nhằm khảo sát các yếu tố ảnh hưởng đến thái độ và ý định của người tiêu dùng, đặc biệt là sinh viên, đối với việc sử dụng ví điện tử, từ đó lựa chọn các thuộc tính từ TAM và UTAUT để làm rõ các yếu tố tác động đến hành vi này.
Mô hình nghiên cứu được đề xuất dựa trên mô hình TAM và UTAUT bao gồm 06 biến độc lập: dễ sử dụng, tính hữu dụng, bảo mật, sự tin tưởng, ảnh hưởng xã hội, và thái độ, cùng với một biến phụ thuộc là ý định sử dụng ví điện tử.
H2 Ảnh hưởng xã hội Thái độ H6
Sự tin tưởng Ý định sử dụng Ví điện tử
Dữ liệu sau khi thu thập sẽ được xử lý bằng phần mềm thống kê SPSS 20.0, từ đó tiến hành phân tích và đánh giá về độ tin cậy của thang đo, kiểm định các giả thuyết và đưa ra nhận xét cùng kiến nghị phù hợp Để phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng ví điện tử, mô hình hồi quy biến có dạng sẽ được áp dụng.
YD=𝛽 0+ 𝛽 1DSD +𝛽 2HD +𝛽 3BM +𝛽 4NT +𝛽 5AHXH +𝛽 6TD +eiTrongđó: Ýđịnhsửdụng(YD)làbiếnphụthuộc.
Dễs ử d ụ n g ( D S D ) , T í n h h ữ u d ụ n g ( H D ) , B ả o m ậ t ( B M ) , S ự t i n t ư ở n g (STT),Ảnhhưởngxã hội(AHXH)vàThái độ (TD)làcácbiếnđộc lập.
Cácgiảthuyếtnghiêncứuđềxuất
Nhận thức về tính dễ sử dụng (Perceived Ease of Use - PE) đề cập đến mức độ tin tưởng của khách hàng rằng họ sẽ không gặp khó khăn khi học cách sử dụng một hệ thống công nghệ, sản phẩm hoặc dịch vụ mới (Davis và cộng sự, 1989).
Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng cảm nhận về tính dễ sử dụng có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến ý định sử dụng, như nghiên cứu của Davis và các cộng sự (1989) cũng như Venkatesh và Davis.
Nghiên cứu của Venkatesh và Morris (2000) chỉ ra rằng một hệ thống dễ sử dụng sẽ thúc đẩy người dùng thực hiện giao dịch nhiều hơn so với các hệ thống khó sử dụng.
Giả thuyết: Cảm nhận dễ sử dụng có ảnh hưởng cùng chiều đến ý định sửdụng
Cảm nhận tính hữu dụng (Perceived Usefulness - PU) là mức độ lòng tin của khách hàng rằng việc sử dụng hệ thống đặc thù sẽ nâng cao kết quả thực hiện của họ (Davis, 1989) Theo nghiên cứu của Kleijnen và cộng sự (2004), nhận thức về tính hữu dụng trong việc áp dụng dịch vụ di động được xác định dựa trên niềm tin của người tiêu dùng về khả năng tích hợp dịch vụ này vào các hoạt động hàng ngày.
Năm 2008, một nghiên cứu cho rằng trong bối cảnh thanh toán di động, mức độ tin tưởng của người tiêu dùng vào việc sử dụng ví điện tử có thể tăng cường giao dịch Các nghiên cứu trước đây đều chỉ ra rằng cảm nhận hữu dụng là yếu tố chính ảnh hưởng đến quyết định sử dụng công nghệ, như được thể hiện trong các nghiên cứu của Cheng và cộng sự (2006), Liu và cộng sự (2008), cùng Venkatesh và cộng sự (2012).
Giả thuyết: Cảm nhận tính hữu dụng có ảnh hưởng cùng chiều đến ý định sửdụng
Bảo mật (Security- SE) được hiểu là mức độ tin cậy mà tổ chức cam kết trong việc xử lý các giao dịch một cách an toàn và bảo vệ thông tin cá nhân của người dùng Theo nghiên cứu của Wadie và Mohamed (2014), bảo mật còn được xem là cảm nhận của người sử dụng về khả năng chống lại các mối đe dọa an ninh và kiểm soát thông tin cá nhân trong môi trường trực tuyến.
Giả thuyết 𝐻3 :Bảo mật cóảnh hưởngcùng chiềuđếný định sửdụng
Trong các giao dịch tài chính qua dịch vụ ngân hàng điện tử, yếu tố niềm tin (Perceived trust - PT) và độ tin cậy của người thực hiện giao dịch là rất quan trọng Để trở thành nhà cung cấp dịch vụ đáng tin cậy, cần vượt qua sự ngờ vực của người dùng Niềm tin vào thương mại di động được phân thành hai loại: niềm tin vào công nghệ di động và niềm tin vào nhà cung cấp dịch vụ Độ đáng tin của dịch vụ ảnh hưởng đến nhận thức về niềm tin của người tiêu dùng, và độ tin cậy có thể được hình thành khi khách hàng sử dụng dịch vụ thành công trong thời gian ngắn Khách hàng cần tin rằng mạng lưới là đáng tin cậy Nghiên cứu đã chỉ ra rằng niềm tin là yếu tố quyết định ảnh hưởng đến ý định sử dụng của người tiêu dùng khi thực hiện giao dịch thương mại điện tử.
Giả thuyết 𝐻4 cho rằng sự tin tưởng có ảnh hưởng tích cực đến ý định sử dụng Ảnh hưởng xã hội (Social image - SI) được định nghĩa là "áp lực xã hội nhận thức" để thực hiện hoặc không thực hiện hành vi (Aijen & Fishbein, 1980) Ảnh hưởng xã hội liên quan đến cách mà cá nhân bị tác động bởi môi trường xung quanh, dẫn đến sự thay đổi hành vi nhằm đáp ứng nhu cầu của môi trường đó Khách hàng thường bị ảnh hưởng bởi gia đình, bạn bè, đồng nghiệp và những người đã từng sử dụng sản phẩm, từ đó điều chỉnh hành vi tiêu dùng để phù hợp với sự phát triển công nghệ hiện đại Họ cảm thấy thoải mái khi chấp nhận một hệ thống công nghệ đã được xã hội công nhận, vì tin rằng trải nghiệm của họ sẽ tương đồng với những người đã sử dụng trước đó (Anandarajan và cộng sự, 2000).
Giảthuyết 𝐻5 : Ảnhhưởng xã hộicó ảnhhưởngcùng chiềuđến ýđịnhsử dụng
Thái độ (AU) là một công cụ hữu ích và là thuộc tính quan trọng của người tiêu dùng, theo Micheal Lancaster (1996) Triandis (1979) cho rằng thái độ cá nhân thể hiện qua hành vi tích cực hoặc tiêu cực trong việc thích ứng với công nghệ mới Tóm lại, thái độ là sự kết hợp giữa phản ứng và động lực bên trong mỗi cá nhân, đóng vai trò như một hình thức kích thích và ảnh hưởng đến sự thay đổi hành vi.
Trong mô hình TAM, thái độ của cá nhân được hình thành dựa trên những kết quả hành vi và sự đánh giá của họ về những kết quả đó Theo Davis (1989), thái độ không phải là yếu tố duy nhất quyết định việc sử dụng hệ thống, mà còn phụ thuộc vào tác động của hệ thống đến hiệu suất làm việc Do đó, khách hàng chỉ sử dụng hệ thống mới khi họ nhận thấy rằng nó cải thiện hiệu quả công việc của họ.
Giả thuyết 𝐻6 : Thái độ sử dụng cóảnh hưởngcùngchiều đến ýđịnhsử dụng Ýđịnhsửdụng
Hiện nay, nhiều nghiên cứu đã được thực hiện để khám phá tác động của các yếu tố đến ý định sử dụng (Intention to Use - IU) VĐT Bài khóa luận này tập trung vào việc phân tích ảnh hưởng của tính hữu dụng, tính dễ sử dụng, sự tin tưởng, bảo mật, ảnh hưởng xã hội và thái độ đối với ý định sử dụng VĐT.
Xâydựngthangđo
Dựa trên các biến quan sát từ những nghiên cứu trước, tác giả đã lựa chọn những biến phù hợp cho nghiên cứu của mình Qua đó, một thang đo nháp đã được hình thành để áp dụng cho nghiên cứu sơ bộ định tính (Phụ lục 01).
Nghiên cứu này được thực hiện trong môi trường đại học với đối tượng nghiên cứu là sinh viên, khác với các nghiên cứu trước đây tại Việt Nam, dẫn đến sự khác biệt về các yếu tố văn hóa, xã hội và kinh tế, cũng như hành vi tiêu dùng của khách hàng Để đảm bảo độ tin cậy, nghiên cứu đã tiến hành phỏng vấn ý kiến các chuyên gia nhằm thực hiện nghiên cứu định tính sơ bộ, từ đó xây dựng thang đo phù hợp với các đặc điểm người tiêu dùng và thị trường ví dụ như điện tử ở Việt Nam Kết quả phỏng vấn được tổng hợp chi tiết tại phụ lục 04, dưới đây là bảng tóm tắt kết quả phỏng vấn.
Thangđo Sốlƣợngbiến quansát Cácthayđổi,điềuchỉnh
Dễsửdụng 5 Điềuchỉnhn ội dung1b i ế n quansátchorõ ràngdễhiểu hơn.
Tínhhữudụng 5 Điềuchỉnộidung 2biếnquansátchongắn gọn,rõràngvàdễhiểu hơn.
Bảomật 4 Điềuchỉnh nộidung1 biếnquansátcho ngắngọnvàdễhiểuhơn
Sựtintưởng 4 Bỏbớt2 biếnquansát dotrùngnộidung và bổsung2biếnquansátchorõràng hơn. Ảnhhưởngxãhội 4 Điềuchỉnh nộidung1 biếnquansátcho ngắngọnvàdễhiểuhơn
Tháiđộ 3 Giữnguyêncácbiếnquansátban đầu Ýđịnhsửdụng 3 Giữnguyêncácbiếnquansátban đầu
DSD4 Tôithấythủtụcđăngký,giaodịchtrênV íđiệntửkháđơn giản
&TomEYoon(2012)DSD5 TôicóthểsửdụngVíđiệntửthành Bong-KeunJeong thạo &TomEYoon
Tôi thấy bảo mật của Ví điện tử rấtantoànđểthực hiệncácgiaodịch thanhtoáncủamình
Tôi tin rằng sử dụng Ví điện tử rấtđángtincậyđểthựchiệncácgiao dịchtàichính
STT3 Víđiệntử cungcấpthôngtin,chứng từgiaodịchrõràng,chínhxác
Ví điện tử ít khi xảy ra lỗi liên quanđếncôngnghệlàmmất tiềntrong tài khoảncủatôi
AHXH2 Thầy,côvàbạnbèkhuyên tôinên sử dụngVíđiệntử
AHXH4 Hầuhếtcáccửahàngđềuchấpnhận thanhtoán quaVí điện tử
TD1 TôithíchsửdụngVí điệntử Fishbeinvàcộng sự(1989)
TD3 Tôimong muốnhọccáchsử dụngVí điệntử
Lê Phan Thị DiệuThảo, NguyễnMinhSáng(2 012)
Chương 2 trình bày các cơ sở lý thuyết về dịch vụ ngân hàng, dịch vụ ngânhàng điện tử, Ví điện tử và tình hình hoạt động VĐT ở Việt Nam Bên cạnh đó, kháiquátcácnghiêncứutrongvàngoàinướccóliênquanđếnVĐT,đồngthờigiảithíchcác mô hình thuyết hành vi dự định, lý thuyết khuếch tán sự đổi mới, lý thuyết vềchấp nhận công nghệ (TAM) và lý thuyết về chấp nhận và sử dụng công nghệ(UTAUT).
Dựa trên cơ sở lý thuyết và các nghiên cứu trước đây, bài viết đề xuất mô hình nghiên cứu đánh giá mức độ tác động của 6 biến độc lập: Dễ sử dụng, Tính hữu dụng, Bảo mật, Sự tin tưởng, Ảnh hưởng xã hội và Thái độ đến ý định sử dụng VĐT Mô hình này được xây dựng dựa trên lý thuyết chấp nhận công nghệ (TAM) của Davis năm 1989 và mô hình UTAUT của Venkatesh năm 2003.