TỔNG QUANTÀILIỆU
Khái quát vềvi-rút HPV
Vi-rút HPV (Human papillomavirus) là một loại vi-rút gây u nhú ở người, có kích thước nhỏ, đường kính khoảng 45-55 nm và không có vỏ ngoài Lớp vỏ protein của vi-rút bao bọc nucleic acid, được cấu thành từ 72 capsomer, mỗi capsomer gồm hai loại protein là L1 và L2 Hiện nay, đã xác định gần 120 loại HPV, trong đó khoảng 30-40 loại lây truyền qua đường tình dục Chỉ có 12 loại HPV có nguy cơ cao gây ung thư cổ tử cung, bao gồm các type 16 và 18, cũng liên quan đến các ung thư vùng sinh dục nam và nữ.
Virus HPV được chia thành ba nhóm dựa trên nguy cơ gây ung thư, bao gồm nhóm chưa xác định được nguy cơ (HPV 3, 7, 10, 13, 27, ) và nhóm có nguy cơ thấp Mỗi loại HPV có sự thích nghi cao với một loại biểu mô nhất định, điều này ảnh hưởng đến khả năng gây bệnh của chúng.
Tầng suất nhiễm các loại HPV khác nhau giữa các vùng địa lý, nhưng HPV 16 và 18 thường là nguyên nhân chính gây ung thư cổ tử cung (UTCTC) trên toàn cầu Cụ thể, tại khu vực Châu Á-Thái Bình Dương, nghiên cứu cho thấy HPV 18 và 16 chiếm lần lượt 75% và 58% trong tổng số trường hợp ung thư cổ tử cung.
1.1.1 Các đường lây truyền củaHPV
HPV lây truyền chủ yếu qua đường tình dục Hoạt động tình dục đồng giới hay khác giớiđềucóthểlâytruyềnHPVtrựctiếpquađườngsinhdục,miệngvàhậumôn[24], [25].
HPV có thể lây truyền trực tiếp qua da, qua niêm mạc miệng và niêm mạc bộ phận sinh dục do tiếp xúc với vết thương hở ở bộ phận sinh dục, thông qua hành vi tình dục như sờ, chạm vào bộ phận sinh dục bằng tay hoặc bằng miệng từ người bệnh sang người lành Ngoài ra, HPV cũng có thể lây truyền qua các vật dụng như quần áo hay bề mặt tiếp xúc, mặc dù cơ chế lây truyền vẫn chưa được làm rõ Một số tác giả cho rằng HPV có thể lây truyền từ mẹ sang con trong thời kỳ trước và sau sinh, tuy nhiên các trường hợp này khá hiếm gặp.
Hầu hết những trường hợp nhiễm HPV là tạm thời, không có biểu hiện lâm sàng và thườngtựkhỏisaukhoảngvàithángđến2năm[4].Tuynhiênnhữngtrườnghợpnày cóthểtáinhiễmhoặcbịnhiễmmộtloạiHPVkhác.Khoảng10%sốtrườnghợpnhiễm
HPVcònlạigâybệnhcóbiểuhiệnlâmsàng.Cáctổnthươngbệnhnặngnhấtlàcổtử cung, gây UTCTC xâm lấn nếu không được phát hiện và điều trị kịp thời[38], [39]
NhiềunghiêncứucũngchỉrarằngnhiễmHPVlàyếutốnguycơmắcmộtsốloạiung thư khác như ung thư âm đạo, âm hộ ở phụ nữ, ung thư dương vật ở nam giới hoặc ungthưda,tổchứcliênkết,vòmhọng,trựctràng,hậumônvàhầuhọngởcảphụnữ và nam giới[12],[30].
Virus HPV rất nguy hiểm vì hầu hết các trường hợp nhiễm HPV không có triệu chứng rõ ràng, khiến người nhiễm khó nhận biết tình trạng của mình Điều này có thể dẫn đến việc vô tình lây truyền virus cho bạn tình hoặc vợ/chồng.
HPV có thể gây ra mụn cóc ở cơ quan sinh dục, chiếm 90% trường hợp mắc chủng nguy cơ thấp 6 và 11, cũng như mụn cơm ở họng, tay và chân Mặc dù không đe dọa đến tính mạng, nhưng những triệu chứng này có thể gây khó chịu, ảnh hưởng đến sinh hoạt hàng ngày và giảm chất lượng cuộc sống của người nhiễm HPV.
Để phòng ngừa nhiễm HPV, việc thực hiện các biện pháp tình dục an toàn là rất quan trọng Điều này bao gồm việc chung thủy với một bạn tình, sử dụng bao cao su và duy trì vệ sinh cá nhân Mặc dù việc sử dụng bao cao su có thể giảm nguy cơ lây nhiễm HPV, nhưng không đảm bảo phòng bệnh hoàn toàn 100%.
Ngoài ra, có thể dự phòng nhiễm HPV một cách chủ động bằng tiêm vắc-xin phòngHPV.
HPV và Ung thư cổtửcung
UTCTC, hay ung thư cổ tử cung, hình thành từ vùng chuyển tiếp giữa biểu mô trụ và biểu mô vảy Quá trình phát triển của bệnh bắt đầu từ tổn thương tiền ung thư, tiến triển thành ung thư tại chỗ, sau đó là ung thư vi xâm nhập và cuối cùng là ung thư xâm nhập Nghiên cứu toàn cầu đã chỉ ra rằng HPV có liên quan chặt chẽ đến tổn thương cổ tử cung và UTSDN Tỷ lệ dương tính HPV trong các mô tổn thương cổ tử cung gia tăng theo mức độ tổn thương tế bào, từ dưới 10% trong cộng đồng đến 20%.
Khoảng 30% ở đối tượng gái mại dâm và dao động từ 80-98% ở những bệnh nhân ung thư cổ tử cung (UTCTC) có liên quan đến HPV Crosbie đã mô tả chi tiết các giai đoạn tổn thương sinh dục nữ do HPV gây ra Những tổn thương này ở lớp biểu mô tạo điều kiện thuận lợi cho HPV xâm nhập và nhân lên ở lớp tế bào đáy Các tế bào mang hạt vi-rút thể hiện nhiều hình thái tổn thương khác nhau HPV có khả năng biến nạp vào nhiễm sắc thể chủ, tồn tại như thể nhẫn và phân chia cùng với sự phân bào của tế bào chủ Các hình thái tổn thương từ mức độ nhẹ như loạn sản (CIN1) cho đến mức độ nặng (CIN3) có thể dẫn đến sự xâm nhập xuống lớp dưới biểu mô Khi HPV thoát khỏi sự kiểm soát của hệ thống miễn dịch, nó sẽ tồn tại dai dẳng trong cơ thể và có khả năng gây bệnh lý ung thư.
UTCTC gây tổn thương nghiêm trọng đến tử cung, nơi tinh trùng và trứng phát triển, dẫn đến việc nhiều phụ nữ phải cắt bỏ tử cung để bảo toàn tính mạng, từ đó mất khả năng sinh sản Trong những trường hợp bệnh nặng, UTCTC có thể gây tử vong Tuy nhiên, nếu được phát hiện sớm thông qua khám sàng lọc, UTCTC có thể được điều trị hiệu quả.
Hầu hết các trường hợp nhiễm HPV không có triệu chứng và tự khỏi, nhưng viêm nhiễm kéo dài với các loại HPV có nguy cơ cao có thể dẫn đến bất thường tiền UTCTC Khoảng 5% đến 10% phụ nữ nhiễm HPV nguy cơ cao sẽ phát triển viêm nhiễm kéo dài, làm tăng nguy cơ xuất hiện tổn thương tiền UTCTC Nếu không được điều trị, các tổn thương này có thể tiến triển thành UTCTC Mặc dù không phải ai nhiễm HPV cũng sẽ phát triển UTCTC, nhưng đến 95% trường hợp UTCTC phát hiện có DNA của HPV.
Triệu chứng của ung thư cổ tử cung (UTCTC) thường không rõ ràng và phát triển âm thầm qua các giai đoạn, từ nhiễm HPV đến những bất thường ở cổ tử cung, rồi tiến triển thành ung thư Giai đoạn tiền ung thư hầu như không có triệu chứng, khiến nhiều người không nhận biết mình mắc bệnh nếu không đi khám phụ khoa Khi bệnh đã ở giai đoạn muộn, bệnh nhân có thể gặp phải các biểu hiện như ra huyết trắng có mùi hôi, có lẫn máu, chảy máu âm đạo sau giao hợp hoặc sau khi làm việc nặng, và có thể có dịch âm đạo lẫn máu, kèm theo đau bụng, lưng, vùng chậu và chân.
Điều trị ung thư cổ tử cung thường gặp khó khăn do việc phát hiện muộn và khả năng di căn, cùng với các biến chứng khác Các phương pháp như phẫu thuật, xạ trị và hóa trị không luôn đạt hiệu quả cao do sức chịu đựng của bệnh nhân và gánh nặng tài chính Tuy nhiên, ung thư cổ tử cung là một trong những loại ung thư có thể phòng ngừa được thông qua hai chiến lược chính: Dự phòng cấp 1, bao gồm việc tiêm vắc-xin ngừa HPV và thực hiện quan hệ tình dục an toàn Các biện pháp thay đổi hành vi như không quan hệ tình dục hoặc duy trì mối quan hệ chung thủy, cũng như sử dụng bao cao su, đã được đề xuất, mặc dù hiệu quả của bao cao su trong việc ngăn ngừa lây nhiễm HPV vẫn chưa được chứng minh rõ ràng.
Tăng cường sử dụng vắc-xin phòng ngừa HPV là một trong những biện pháp quan trọng trong chiến lược dự phòng bệnh WHO khuyến nghị thực hiện các biện pháp dự phòng cấp 1 như giáo dục nâng cao nhận thức để giảm hành vi quan hệ tình dục có nguy cơ, áp dụng chiến lược thay đổi hành vi phù hợp với từng khu vực, và phát triển cách giới thiệu vắc-xin hiệu quả Bên cạnh đó, cần khuyến khích cộng đồng hạn chế hút thuốc lá và duy trì chế độ dinh dưỡng hợp lý Đối với dự phòng cấp 2, việc phát hiện và điều trị sớm tiền ung thư cổ tử cung thông qua khám sàng lọc, như xét nghiệm Pap smear, xét nghiệm HPV và khám cổ tử cung với test acetic, được xem là chiến lược hiệu quả nhất trong việc ngăn ngừa ung thư cổ tử cung.
Các vấn đề liên quan đến vắc xinhiệnnay
Trong gần 10 năm qua, nghiên cứu vắc-xin phòng ngừa HPV đã có những bước tiến đáng kể Mặc dù chủ yếu diễn ra ở các quốc gia phát triển, nhưng những thành công trong nghiên cứu này hứa hẹn sẽ mang lại lợi ích lớn cho các quốc gia đang phát triển, nơi đang phải đối mặt với tỷ lệ ung thư cổ tử cung cao.
Công ty Merck và GlaxoSmithKline (GSK) đã phát triển hai loại vắc-xin dự phòng HPV thế hệ đầu tiên, với nhiều thử nghiệm lâm sàng pha I và II được thực hiện từ năm 1997 đến 2004 Các vắc-xin này dựa trên cấu trúc capsid của virus, được gọi là “thể tương tự virus” (Virus-like particle - VLP) Protein L1 của HPV có khả năng tự kết hợp thành VLP trong môi trường không có sản phẩm protein khác của virus, trong khi protein L2 gắn kết với L1 theo tỷ lệ 1:30 VLP có hình dạng giống hệt virion lây nhiễm và sau khi tiêm, L1 VLP kích thích tạo ra kháng thể cao, có khả năng trung hòa HPV in vitro Đến nay, Merck đã hoàn thành hai thử nghiệm lâm sàng pha III cho vắc-xin Gardasil™ với hơn 25.000 phụ nữ tuổi 16-23, trong khi GSK đang kết thúc thử nghiệm pha III cho vắc-xin Cervarix™ với hơn 18.000 phụ nữ tuổi 18-25.
Vào ngày 8/6/2006, Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ đã cấp phép lưu hành vắc-xin Gardasil™ của Merck, được chỉ định cho trẻ em gái và phụ nữ từ 9 đến 26 tuổi Vắc-xin này giúp bảo vệ chống lại 4 chủng virus HPV, bao gồm 6, 11, 16 và 18, trong đó 2 chủng 6 và 11 gây ra hơn 90% các trường hợp sùi mào gà sinh dục, còn 16 và 18 chịu trách nhiệm cho hơn 70% các ca ung thư cổ tử cung Vắc-xin được tiêm thành 3 liều vào các tháng 0, 2 và 6, với tổng chi phí tại Hoa Kỳ là 360 USD cho 3 liều.
Mặc dù đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể, vẫn còn nhiều vấn đề liên quan đến vắc-xin HPV cần được làm rõ và giải đáp trong thời gian tới.
Độ tuổi, số liều và thời điểm tối ưu để chủngngừa.
Khả năng chủng ngừa vắc-xin HPV đồng thời với các loại vaccin khác trongm ộ t lần chủng.
Cần chú ý rằng các vắc-xin hiện tại chỉ chống lại 2 chủng HPV nguy cơ cao là 16 và
Khoảng 30% các ung thư cổ tử cung (UTCTC) được gây ra bởi các chủng virus khác nhau, với sự khác biệt nhỏ giữa các vùng trên thế giới Do đó, trong nhiều thập kỷ tới, vẫn cần duy trì các phương pháp sàng lọc truyền thống hiện đang được áp dụng để phát hiện và phòng ngừa bệnh.
Ủy Ban Cố Vấn về Thực Hành Chủng Ngừa (ACIP) khuyến cáo tiêm chủng HPV cho cả nam và nữ đến 26 tuổi, với liều đầu tiên được khuyến nghị từ 11 đến 13 tuổi, có thể bắt đầu từ 9 tuổi Trẻ nhỏ dưới 14 tuổi cần tiêm 2 liều cách nhau 1 năm, trong khi những người từ 15 tuổi và những người suy giảm miễn dịch cần 3 liều cách nhau 6 tháng Mặc dù FDA đã chấp thuận tiêm chủng cho độ tuổi từ 27 đến 45, ACIP và ACOG chỉ khuyến cáo tiêm chủng cho nhóm tuổi này dựa trên ảnh hưởng tiềm tàng của vắc-xin đối với việc ngừa ung thư cổ tử cung Họ không khuyến cáo tiêm ngừa cho độ tuổi từ 27 đến 45, nhưng nhận thấy rằng những người chưa tiêm chủng đầy đủ có nguy cơ nhiễm các chủng HPV mới, do đó việc tiêm chủng vẫn mang lại nhiều lợi ích.
Từ năm 2009, Việt Nam chưa đưa vắc-xin HPV vào Chương trình tiêm chủng quốc gia, mặc dù chương trình tiêm chủng mở rộng quốc gia đã rất thành công Vắc-xin được quản lý bởi Bộ Y tế và triển khai qua nhiều bên liên quan như Viện Vệ sinh dịch tễ Trung ương Việt Nam là một trong bốn quốc gia tham gia chương trình toàn cầu về UTCTC, nhằm giảm tỷ lệ bệnh thông qua tiêm vắc-xin và sàng lọc Chương trình này được tài trợ bởi quỹ Bill & Melinda Gates Foundation, với sự triển khai của PATH và các đối tác khác Vắc-xin Gardasil® được tiêm cho học sinh lớp 6 tại trường và trẻ em gái 11 tuổi tại trạm y tế, với hơn 6.400 trẻ em gái đã nhận ít nhất một liều vắc-xin Độ bao phủ tiêm chủng đạt khoảng 94% cho học sinh tiêm tại trường và 98% tại cơ sở y tế trong năm thứ hai triển khai Phòng chống ung thư là động lực chính để các bậc phụ huynh, cán bộ y tế và giáo viên tham gia chương trình Vắc-xin HPV hiện cũng được cung cấp dưới dạng dịch vụ cho trẻ em gái và phụ nữ từ 9-26 tuổi với liều tiêm trong vòng 6 tháng.
Việt Nam đã nhập khẩu 514.000 liều vắc-xin Cervarix và 811.000 liều vắc-xin Gardasil, với khoảng 350.000-400.000 phụ nữ được tiêm chủng Chi phí cho liệu trình 3 mũi tiêm dao động từ 2.400.000 đến 4.000.000 đồng Gần đây, vào ngày 10/11/2016, Hội thảo phổ biến kế hoạch hành động Quốc gia về dự phòng và kiểm soát ung thư cổ tử cung đã ước tính tổng nhu cầu kinh phí cho giai đoạn 2016-2025 là 200 tỷ đồng.
Thực trạng và nghiên cứu vềvi-rútHPV
1.4.1 Thựctrạng và nghiên cứu về kiến thức về vi-rút HPV ở sinh viên trong nước
Cho đến nay, các nghiên cứu tại Việt Nam về HPV chưa thật sự nhiều Nghiên cứu vềkiếnthứcvềHPVtrênsinhviênlạicàngít hơnnữa.Vàbêncạnh đó,kiếnthứcvề
Tỷ lệ nhiễm Human Papilloma virus (HPV) khác nhau giữa các vùng miền ở Việt Nam, với mức cao nhất tại Huế là 19,57%, tiếp theo là Thành phố Hồ Chí Minh với 10,84%, Tiền Giang 11,73% và Hải Phòng 7,1% Nghiên cứu năm 2020 về kiến thức của nữ sinh viên khoa Dược năm thứ 5 tại Đại học Nguyễn Tất Thành cho thấy sự cần thiết trong việc nâng cao nhận thức về ung thư cổ tử cung và tiêm vắc-xin ngừa HPV.
Phần lớn sinh viên chỉ có kiến thức hạn chế về bệnh ung thư cổ tử cung (UTCTC) và các tác nhân chính gây ra bệnh này Nhiều sinh viên vẫn có những hiểu lầm nghiêm trọng, chẳng hạn như cho rằng HPV lây truyền qua đường máu (79%), lây từ mẹ sang con (71%), chỉ xảy ra ở phụ nữ (66,5%), hoặc rằng HPV là nguyên nhân gây ung thư buồng trứng (90,6%) và ung thư vú (77,4%) Những hiểu lầm này cho thấy cần có thêm thông tin và giáo dục về bệnh UTCTC cho sinh viên.
Hơn 50% sinh viên tại UTCTC không nhận biết giai đoạn biểu hiện của bệnh Trong số 146 sinh viên đã tiêm ngừa, chiếm 33,3%, còn lại 292 sinh viên chưa tiêm ngừa, chiếm 66,7% Đáng chú ý, trong 292 trường hợp chưa tiêm, có 13% không có kế hoạch tiêm, với lý do chính là giá cả cao, chiếm 45,1%.
Nghiên cứu về "Kiến thức, thái độ và thực hành về phòng chống ung thư cổ tử cung của sinh viên nữ năm thứ 3 đại học khoa học xã hội và nhân văn năm 2014" cho thấy 60% đối tượng nghiên cứu nhận biết các dấu hiệu nghi ngờ mắc ung thư cổ tử cung, trong đó chảy dịch hôi qua âm đạo là dấu hiệu phổ biến nhất (29%) Biện pháp phòng bệnh được biết đến nhiều nhất là khám sức khỏe định kỳ (82,2%) và tiêm phòng vắc-xin HPV (81,64%) Khi có dấu hiệu bất thường, 92,66% đối tượng nghiên cứu chọn đến cơ sở y tế để khám và điều trị kịp thời Tuy nhiên, tỷ lệ sinh viên đi khám sức khỏe định kỳ và tiêm vắc-xin HPV vẫn rất thấp, dưới 20%.
Theo dữ liệu từ Globocan, năm 2018 ghi nhận 569.847 ca mắc mới ung thư cổ tử cung trên toàn cầu, dẫn đến 311.365 ca tử vong Đây là loại ung thư đứng thứ 4 về số trường hợp mắc mới và cũng đứng thứ 4 về số ca tử vong ở phụ nữ.
Nghiên cứu cộng đồng cho thấy tỷ lệ nhiễm virus HPV dao động khoảng 10%, tuy nhiên con số này khác nhau tùy theo khu vực và quốc gia Cụ thể, tỷ lệ nhiễm tại Châu Phi là 22,12%, trong khi Châu Mỹ ghi nhận 12,95%, và Châu Âu cùng Châu Á có tỷ lệ khoảng 8%.
Nghiên cứu về kiến thức, thái độ và thực hành liên quan đến HPV, vắc-xin HPV và ung thư cổ tử cung (UTCTC) trong sinh viên đại học Ấn Độ cho thấy mức độ hiểu biết về các chủng HPV và vắc-xin HPV còn hạn chế Đặc biệt, sinh viên chuyên ngành sinh học có kiến thức và nhận thức về UTCTC (81,89%, p