1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Trách nhiệm xã hội của tổng công ty nhà nước ở việt nam nghiên cứu điển hình tập đoàn dệt may việt nam

201 11 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Trách Nhiệm Xã Hội Của Tổng Công Ty Nhà Nước Ở Việt Nam: Nghiên Cứu Điển Hình Tập Đoàn Dệt May Việt Nam
Tác giả Vũ Văn Hoản
Người hướng dẫn PGS.TS. Hoàng Văn Hải, TS. Đào Văn Tuấn
Trường học Đại học quốc gia Hà Nội
Chuyên ngành Quản trị kinh doanh
Thể loại luận án tiến sĩ
Năm xuất bản 2021
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 201
Dung lượng 2,53 MB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI CỦA (22)
    • 1.1. Các công trình nghiên cứu về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp theo hướng tổng quát và mối liên hệ đến kết quả hoạt động (22)
    • 1.2. Các công trình nghiên cứu về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp theo hướng tiếp cận hành vi (29)
    • 1.3. Các công trình nghiên cứu về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp nhà nước 21 1.4. Các công trình nghiên cứu về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp trong ngành dệt may (33)
    • 1.5. Khoảng trống nghiên cứu (39)
  • CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI (43)
    • 2.1. Doanh nghiệp nhà nước và trách nhiệm xã hội (43)
      • 2.1.1. Khái niệm trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (43)
      • 2.1.2. Lợi ích khi doanh nghiệp thực hiện trách nhiệm xã hội (45)
      • 2.1.3. Các yếu tố tác động đến trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (46)
      • 2.1.4. Khái niệm và vai trò của doanh nghiệp nhà nước, tổng công ty nhà nước (50)
      • 2.1.5. Đặc thù trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp nhà nước (54)
    • 2.2. Một số lý thuyết về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (56)
      • 2.2.1. Lý thuyết giá trị dành cho các cổ đông (56)
      • 2.2.2. Lý thuyết các bên có liên quan (58)
      • 2.2.3. Lý thuyết sự phụ thuộc nguồn lực (59)
      • 2.2.4. Lý thuyết bản sắc xã hội (60)
    • 2.3. Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, hành vi công dân tổ chức và sự hài lòng của nhân viên đối với doanh nghiệp (61)
    • 2.4. Mô hình và các giả thuyết nghiên cứu (63)
  • CHƯƠNG 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU LUẬN ÁN (67)
    • 3.1. Thiết kế nghiên cứu (67)
      • 3.1.1. Quy trình nghiên cứu (67)
      • 3.1.2. Thiết kế thang đo nghiên cứu (70)
    • 3.2. Các phương pháp nghiên cứu (76)
      • 3.2.1. Phương pháp nghiên cứu định tính (76)
      • 3.2.2. Phương pháp nghiên cứu định lượng (78)
      • 3.2.3. Các phương pháp phân tích dữ liệu (79)
    • 3.3. Đánh giá sơ bộ thang đo nghiên cứu (80)
      • 3.3.1. Đánh giá sơ bộ thang đo bằng phương pháp định tính (80)
      • 3.3.2. Đánh giá sơ bộ thang đo bằng phương pháp định lượng (80)
  • CHƯƠNG 4: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI CỦA TỔNG CÔNG TY NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM – NGHIÊN CỨU ĐIỂN HÌNH TẠI TẬP ĐOÀN DỆT MAY VIỆT NAM (87)
    • 4.1. Tổng quan về doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam (87)
      • 4.1.1. Phân loại doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam (87)
      • 4.1.2. Khái quát về tình hình hoạt động của doanh nghiệp nhà nước tại Việt Nam78 4.1.3. Khái quát về tình hình thực hiện trách nhiệm xã hội của các doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam hiện nay (90)
    • 4.2. Khái quát về Tập đoàn Dệt may Việt Nam (105)
      • 4.2.1. Quá trình hình thành và phát triển của Tập đoàn Dệt may Việt Nam (105)
      • 4.2.2. Các nguồn lực và lĩnh vực kinh doanh củaTập đoàn Dệt may Việt Nam (110)
      • 4.3.1. Chính sách đối với người lao động (112)
      • 4.3.2. Chính sách đối với khách hàng (116)
      • 4.3.3. Trách nhiệm đối với chính phủ (117)
      • 4.3.4. Hoạt động cộng đồng (117)
      • 4.3.5. Vấn đề môi trường và năng lượng (119)
    • 4.4. Phân tích kết quả khảo sát về trách nhiệm xã hội của Tập đoàn Dệt may Việt (122)
      • 4.4.1. Kết quả thống kê mô tả mẫu nghiên cứu (122)
      • 4.4.2. Kết quả kiểm định EFA thang đo (124)
      • 4.4.3. Kết quả kiểm định CFA thang đo (125)
      • 4.4.4. Kết quả phân tích thực trạng thực hiện CSR của Tập đoàn Dệt may Việt Nam, hành vi công dân tổ chức và sự hài lòng của nhân viên (127)
      • 4.4.5. Kết quả kiểm định mô hình cấu trúc tuyến tính (SEM) (133)
      • 4.4.6. Tổng hợp kết quả nghiên cứu và bình luận (135)
  • CHƯƠNG 5: CÁC ĐỀ XUẤT VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI CỦA TẬP ĐOÀN DỆT MAY VIỆT NAM (139)
    • 5.1. Định hướng phát triển của doanh nghiệp nhà nước, ngành dệt may ở Việt Nam và những vấn đề trách nhiệm xã hội liên quan (139)
    • 5.2. Các giải pháp nhằm nâng cao trách nhiệm xã hội của Tập đoàn Dệt May Việt (142)
      • 5.2.1. Tăng cường các hoạt động CSR đối với nhân viên (143)
      • 5.2.2. Chú trọng truyền thông về việc thực hiện các hoạt động CSR đối với khách hàng (146)
      • 5.2.3. Thúc đẩy các hoạt động CSR đối với môi trường (147)
      • 5.2.4. Đa dạng hóa các hoạt động CSR đối với cộng đồng (150)
      • 5.2.5. Duy trì thực hiện tốt các hoạt động CSR đối với Nhà nước (152)
      • 5.3.1. Cần xác định vấn đề CSR ƣu tiên theo lộ trình thực hiện (0)
      • 5.3.2. Thành lập ủy ban chuyên biệt phụ trách các hoạt động CSR của Tập đoàn142 5.3.3. Thúc đẩy công bố báo cáo CSR của doanh nghiệp (154)
    • 5.4. Kiến nghị đối với nhà nước (156)
      • 5.4.1. Hoàn thiện khung pháp lý liên quan đến CSR (156)
      • 5.4.2. Nâng cao hiểu biết của xã hội về CSR (158)
    • 5.5. Hạn chế của luận án và hướng nghiên cứu tiếp theo (159)
      • 5.5.1. Các hạn chế của luận án (159)
      • 5.5.2. Hướng nghiên cứu tương lai (161)
  • KẾT LUẬN (164)

Nội dung

TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI CỦA

Các công trình nghiên cứu về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp theo hướng tổng quát và mối liên hệ đến kết quả hoạt động

Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (CSR) đã trở thành một chủ đề nghiên cứu quan trọng, thu hút sự quan tâm từ giới học thuật, các nhà quản trị và cơ quan quản lý nhà nước trong nhiều năm Nghiên cứu về CSR ngày càng đa dạng và mở rộng, phản ánh sự phát triển của lĩnh vực này trong bối cảnh kinh tế và xã hội hiện đại.

Các nghiên cứu tổng quát về Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (CSR) đã chỉ ra nội hàm và các cách tiếp cận khác nhau đối với khái niệm này Capron và Francoise Quairel-Lanoizelée (2013) đã giới thiệu nhiều quan điểm khác nhau về CSR, phân tích tác động của các thành phần liên quan đến doanh nghiệp và thảo luận về vai trò của CSR trong việc đạt được các mục tiêu phát triển bền vững Nghiên cứu lý thuyết về CSR tại Việt Nam cũng đã làm rõ nội hàm của CSR và những vấn đề nổi cộm trong việc thực hiện nó tại quốc gia này.

Theo Phạm Văn Đức (2011), có hai quan điểm trái ngược về khái niệm CSR Quan điểm đầu tiên nhấn mạnh rằng trách nhiệm chính của doanh nghiệp chỉ là đối với cổ đông và người lao động mà doanh nghiệp thuê mướn.

Doanh nghiệp nộp thuế cho nhà nước, vì vậy nhà nước có trách nhiệm bảo vệ xã hội Khi tham gia sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp sử dụng nguồn lực xã hội và khai thác tài nguyên tự nhiên, đồng thời có thể gây ra những tác động tiêu cực đến môi trường và cộng đồng.

Doanh nghiệp cần nhận thức rõ rằng hoạt động của mình có thể gây hại cho môi trường tự nhiên Do đó, họ phải có trách nhiệm bù đắp cho những tổn hại đó và không chỉ dừng lại ở nghĩa vụ đóng thuế Trách nhiệm của doanh nghiệp còn bao gồm việc bảo vệ cộng đồng và chăm sóc cho người lao động, đảm bảo sự phát triển bền vững cho cả xã hội.

Gerd Mutz (2009) trong một nghiên cứu đã nhấn mạnh rằng Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (CSR) không chỉ bao gồm trách nhiệm đối với cộng đồng mà còn đối với môi trường Ông cho rằng CSR liên quan chặt chẽ đến các hoạt động kinh tế của doanh nghiệp, bao gồm việc thúc đẩy chương trình thương mại công bằng (FairTrade), cải thiện điều kiện làm việc, kiểm soát chuỗi giá trị, và áp dụng quy trình sản xuất thân thiện với môi trường tại các cơ sở trong và ngoài nước.

Trần Hồng Minh (2009) định nghĩa trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (CSR) hiện đại bao gồm những hành động quan trọng như: xây dựng hệ thống sản xuất sạch, không gây hại cho môi trường; thiết lập phúc lợi để đáp ứng nhu cầu vật chất và tinh thần của người lao động; đảm bảo không phân biệt đối xử về giới tính, dân tộc hay đặc điểm cá nhân; cung cấp sản phẩm chất lượng cao và an toàn cho người tiêu dùng; và hỗ trợ cộng đồng thông qua việc trích một phần lợi nhuận cho các hoạt động từ thiện.

Theo Đỗ Hoài Nam (2010), trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (CSR) bao gồm hai yếu tố nội bộ: xây dựng quan hệ tốt với người lao động và đảm bảo lợi ích cho cả cổ đông lẫn nhân viên Ngoài ra, CSR còn liên quan đến các yếu tố bên ngoài doanh nghiệp, bao gồm bảo vệ môi trường, thực hiện trách nhiệm đối với nhà cung cấp, đảm bảo lợi ích và an toàn cho người tiêu dùng, cùng với việc đóng góp cho cộng đồng xã hội.

Ngoài ra, trong nghiên cứu của Nguyễn Ngọc Hà (2010), tác giả khẳng định các doanh nghiệp cần phải thực hiện đầy đủ trách nhiệm về mặt

Pháp luật quy định rõ ràng trách nhiệm của Nhà nước và người lao động trong doanh nghiệp Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp hiện nay vẫn chưa tuân thủ các quy định pháp luật, thậm chí vi phạm mà không bị xử lý Ngoài việc tuân thủ pháp luật, doanh nghiệp còn cần đảm bảo quyền lợi cho người lao động, thể hiện qua các hành động cụ thể như tăng lương và các khoản phụ cấp.

Tác giả Nguyễn Thị Kim Chi (2016) nhấn mạnh trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp qua ba vị thế chính: đầu tiên, doanh nghiệp được xem như một thiết chế kinh tế thuộc cơ sở hạ tầng, có mối quan hệ với thượng tầng kiến trúc; thứ hai, doanh nghiệp là một thực thể xã hội, liên kết với môi trường tự nhiên; và cuối cùng, doanh nghiệp đóng vai trò là chủ thể trong xã hội, tương tác với các chủ thể khác.

Nghiên cứu của Nguyễn Đình Tài (2010) đã tổng quan về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (CSR), bao gồm khái niệm, lợi ích, quy tắc ứng xử và tiêu chuẩn liên quan Nghiên cứu cũng chỉ ra thực trạng pháp luật và triển khai CSR tại Việt Nam, đồng thời đề xuất giải pháp thúc đẩy CSR từ góc độ người tiêu dùng và quản lý nhà nước Kết quả cho thấy tầm quan trọng ngày càng tăng của CSR không chỉ đối với các công ty đa quốc gia mà còn với mọi loại hình doanh nghiệp trên toàn cầu Nội dung của CSR liên quan đến nhiều vấn đề, bao gồm quyền lợi của người lao động, nhà đầu tư, cộng đồng và các bên liên quan khác.

Nghiên cứu của Nguyễn Đình Tài (2010) chỉ ra rằng sự phát triển kinh tế của Việt Nam từ thập niên 80 đến nay đã dẫn đến nhiều vấn đề phát triển bền vững, bao gồm năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp còn yếu kém và ô nhiễm môi trường do quá trình sản xuất.

13 vấn đề này xuất phát từ sự tương tác giữa doanh nghiệp và xã hội, do đó, doanh nghiệp cần nhận thức rằng đây cũng là những vấn đề liên quan đến trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (CSR) cần được giải quyết.

Nghiên cứu của Bùi Loan Thùy (2012) nhấn mạnh rằng để phát triển và chiếm lĩnh thị trường, doanh nghiệp (DN) cần hiểu và thực hiện trách nhiệm xã hội (CSR), bao gồm việc tuân thủ các tiêu chuẩn bảo vệ môi trường và đảm bảo an toàn sức khỏe cho người lao động, đồng thời đóng góp cho cộng đồng để quảng bá thương hiệu Các nghiên cứu khác cho thấy, hoạt động CSR chủ yếu được thực hiện bởi các chi nhánh của tập đoàn đa quốc gia và DN xuất khẩu, trong khi DN nhỏ và vừa ít tham gia hơn Tại Việt Nam, khái niệm CSR ngày càng trở nên phổ biến trong 15 năm qua nhờ sự hiện diện của các công ty đa quốc gia Trần Ngọc Mai (2020) đã đánh giá thực trạng và kết quả thực hiện CSR của DN FDI tại Việt Nam giai đoạn 2010-2020, chỉ ra những vấn đề tồn đọng và mối quan hệ giữa CSR với danh tiếng DN Nguyễn Trung Thật (2020) thì nghiên cứu mối quan hệ giữa CSR và sự gắn kết tổ chức tại các DN FDI ở KCN Lê Minh Xuân, TP Hồ Chí Minh.

Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (CSR) là một khái niệm còn mới mẻ tại Việt Nam, dẫn đến nhận thức mơ hồ từ người dân, doanh nghiệp và các cơ quan quản lý nhà nước Nghiên cứu cho thấy "xã hội dân sự" đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy CSR, với Trung tâm phát triển và hội nhập (CDI) khẳng định sự ảnh hưởng tích cực của các tổ chức xã hội dân sự đối với việc thực hiện CSR tại Việt Nam.

Nghiên cứu cho rằng các tổ chức xã hội dân sự ở Việt Nam cần phối hợp với

Các công trình nghiên cứu về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp theo hướng tiếp cận hành vi

Nghiên cứu gần đây đã chỉ ra rằng việc áp dụng trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (CSR) có thể ảnh hưởng đến hành vi của tổ chức và người lao động Các nghiên cứu này dựa trên lý thuyết các bên liên quan và lý thuyết hành vi tổ chức để xây dựng khung lý thuyết và thang đo, nhằm đánh giá mối quan hệ giữa CSR với các yếu tố như sự cam kết và sự hài lòng của nhân viên.

Brammer và cộng sự (2007) đã xác định các thành phần của trách nhiệm xã hội doanh nghiệp (CSR), bao gồm trách nhiệm đối với cộng đồng, môi trường, khách hàng, các bên liên quan, pháp luật, chính sách công bằng và đào tạo nhân viên Nghiên cứu chỉ ra rằng có mối liên hệ giữa các thành phần CSR và sự gắn bó của nhân viên, trong đó công bằng trong chính sách có tác động mạnh nhất CSR bên ngoài và đào tạo nhân viên cũng ảnh hưởng đến mức độ gắn bó Thêm vào đó, nhân viên lớn tuổi có xu hướng gắn bó cao hơn, trong khi nhân viên bán thời gian có mức độ gắn bó thấp hơn so với nhân viên toàn thời gian; giới tính không ảnh hưởng đến mức độ gắn bó, và nhân viên ở vị trí cao hơn thường có sự gắn bó lớn hơn Nghiên cứu của Skudiene và Auruskeviciene (2012) cũng cho thấy kết quả tương tự.

Theo Turker (2009), trách nhiệm xã hội (CSR) bao gồm các thành phần như trách nhiệm đối với các bên liên quan xã hội và phi xã hội (chẳng hạn như môi trường và thế hệ tương lai), trách nhiệm đối với nhân viên, khách hàng và chính phủ Ông nhấn mạnh rằng các hoạt động xã hội của doanh nghiệp liên quan đến những thành phần này có tác động đáng kể đến mức độ gắn bó của nhân viên với tổ chức.

Nghiên cứu dựa trên lý thuyết bản sắc xã hội (SIT) cho thấy trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (CSR) đối với nhân viên có ảnh hưởng lớn nhất đến mức độ gắn bó của họ với tổ chức, nhờ vào các yếu tố như cơ hội nghề nghiệp, đào tạo, quyền bình đẳng và môi trường làm việc Tiếp theo, CSR đối với khách hàng cũng có tác động đáng kể, ảnh hưởng đến hình ảnh tổ chức và niềm tự hào của nhân viên Sau đó là CSR đối với các bên liên quan xã hội và phi xã hội, và cuối cùng là trách nhiệm xã hội đối với Nhà nước.

Ali và cộng sự (2010) xem xét ảnh hưởng của trách nhiệm xã hội của

Nghiên cứu này tập trung vào mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (CSR) và sự gắn bó của nhân viên với tổ chức, cũng như ảnh hưởng của chúng đến hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp Với mẫu khảo sát gồm 371 nhân viên từ các lĩnh vực khác nhau tại Pakistan, nghiên cứu chỉ ra rằng CSR có vai trò quan trọng trong việc nâng cao mức độ gắn bó của nhân viên với tổ chức, theo quan điểm của Ali và cộng sự (2010).

Doanh nghiệp (DN) không chỉ tập trung vào lợi ích của nhân viên mà còn chú trọng đến gia đình họ, qua đó gia tăng sự gắn bó của nhân viên Nghiên cứu cho thấy có mối liên hệ chặt chẽ giữa trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (CSR) và mức độ gắn bó của nhân viên Những hoạt động CSR tích cực không chỉ khuyến khích nhân viên giới thiệu công ty mà còn nâng cao niềm tự hào và năng suất lao động của họ Hơn nữa, CSR tạo dựng uy tín cho DN trong mắt khách hàng, nhà đầu tư, nhà cung cấp và chính phủ, từ đó ảnh hưởng tích cực đến quyết định kinh doanh Đặc biệt, CSR còn mang lại lợi thế cạnh tranh và cải thiện hiệu quả hoạt động của DN Các tổ chức có thể tăng cường sự gắn bó của nhân viên thông qua việc thúc đẩy các hoạt động có ích cho xã hội.

Xác định nhu cầu của cộng đồng và thực hiện chúng, tạo môi trường làm việc tốt hơn, tăng phúc lợi cho nhân viên và sản xuất các sản phẩm chất lượng cao là những yếu tố quan trọng Những hoạt động này không chỉ nâng cao sự gắn bó của nhân viên với tổ chức mà còn tác động tích cực đến năng suất lao động, từ đó cải thiện hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.

Nghiên cứu của Carroll và Shabana (2010) cùng DeTienne và cộng sự (2012) chỉ ra rằng các công ty thực hiện trách nhiệm xã hội (CSR) tốt sẽ giảm tỷ lệ nhân viên nghỉ việc và tăng khả năng thu hút nhân lực chất lượng cao trong tương lai Điều này được giải thích bởi Solomon và Hanson (1985), cho rằng các hoạt động CSR cải thiện tinh thần làm việc của nhân viên Hơn nữa, Falck & Heblich (2007) cho thấy rằng nhân viên tại các doanh nghiệp thực hiện CSR có mức độ thỏa mãn công việc cao hơn Kim và cộng sự (2012) cũng khẳng định rằng nhận thức của nhân viên về CSR có tác động tích cực đến hiệu quả hoạt động của các công ty Hàn Quốc và Trung Quốc, đồng thời cải thiện mối quan hệ giữa nhân viên và doanh nghiệp.

Một lĩnh vực nghiên cứu khác tập trung vào việc khám phá tác động của Trách nhiệm xã hội doanh nghiệp (CSR) đến hành vi của các bên liên quan, đặc biệt là khách hàng.

Nghiên cứu của Laili và cộng sự (2019), Fatma và Rahman (2016), cùng với Karaosmanoglu và cộng sự (2016) cho thấy rằng trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (CSR) không chỉ tăng cường sự hài lòng và lòng trung thành của khách hàng mà còn góp phần tăng doanh số bán hàng thông qua nhận thức của khách hàng Hơn nữa, Carroll và Shabana (2010) khẳng định rằng CSR có thể giúp doanh nghiệp thu hút khách hàng mới, từ đó nâng cao vị thế cạnh tranh trên thị trường.

Nguyễn Hồng Hà (2016) đã đề xuất một mô hình nghiên cứu nhằm phân tích tác động của trách nhiệm xã hội doanh nghiệp (CSR) đến lòng trung thành của khách hàng Mô hình này xác định ba biến trung gian quan trọng, bao gồm sự hài lòng của khách hàng, niềm tin của khách hàng và mối quan hệ cá nhân giữa khách hàng và doanh nghiệp.

Trong luận án của mình, tác giả Nguyễn Hồng Hà đã sử dụng mô hình cấu trúc tuyến tính (SEM) để kiểm định và đưa ra các giả thuyết mới Nghiên cứu này không chỉ phân tích các mối quan hệ giữa các biến số trong mô hình mà còn đề xuất các giải pháp cho doanh nghiệp trong ngành thức ăn chăn nuôi nhằm cải thiện lòng trung thành của khách hàng Qua đó, nghiên cứu hướng tới việc gia tăng hiệu quả hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp trong lĩnh vực này.

Hà & Tuyết Mai (2016) cũng khẳng định khách hàng sẽ thay đổi thái độ đối với

DN khi họ đƣợc tiếp cận thông tin về những hoạt động CSR mà DN thực hiện

Nguyễn Phương Mai (2015) đã nghiên cứu trách nhiệm xã hội của các doanh nghiệp sản xuất và chế biến thực phẩm tại Việt Nam từ góc độ người tiêu dùng, xây dựng mô hình và thang đo để đánh giá các nhân tố ảnh hưởng đến trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp Nghiên cứu chỉ ra rằng nhận thức về trách nhiệm cộng đồng, trách nhiệm kinh doanh trung thực và trách nhiệm đối với người lao động đều tác động tích cực đến thái độ của người tiêu dùng Thái độ này sau đó ảnh hưởng tích cực đến ý định mua sản phẩm của các doanh nghiệp thực hiện trách nhiệm xã hội và ý định tẩy chay sản phẩm của doanh nghiệp vi phạm Kết luận cho thấy, trong bối cảnh Việt Nam đang phát triển nhanh chóng, người tiêu dùng ngày càng tiếp cận thông tin về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, đặc biệt trong ngành thực phẩm, góp phần nâng cao nhận thức và hành vi tiêu dùng Phát hiện này có ý nghĩa thực tiễn quan trọng cho chính sách và chiến lược phát triển bền vững trong ngành thực phẩm.

Nghiên cứu đã chỉ ra rằng 21 doanh nghiệp trong ngành cần áp dụng các giải pháp để nâng cao chất lượng sản phẩm và xây dựng uy tín thương hiệu Đặc biệt, các yếu tố như giới tính, độ tuổi, trình độ học vấn và thu nhập không tạo ra sự khác biệt trong ý định hành vi của các nhóm người tiêu dùng Hơn nữa, giữa nhóm người tiêu dùng đã nghe nói đến CSR và nhóm chưa từng nghe cũng không có sự khác biệt về nhận thức, thái độ hay ý định hành vi.

Các công trình nghiên cứu về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp nhà nước 21 1.4 Các công trình nghiên cứu về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp trong ngành dệt may

Gần đây, nghiên cứu về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (CSR) không chỉ tập trung vào khu vực tư nhân mà còn mở rộng sang khu vực nhà nước Các nghiên cứu này có thể được phân loại thành hai nhóm chính: nghiên cứu lý thuyết và nghiên cứu thực nghiệm liên quan đến CSR trong khu vực nhà nước.

Nghiên cứu định tính về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (CSR) trong doanh nghiệp nhà nước (DNNN) đã chỉ ra rằng số lượng nghiên cứu trong lĩnh vực này còn hạn chế so với doanh nghiệp tư nhân (DNTN) Garde-Sanchez và cộng sự (2018) nhấn mạnh rằng hầu hết các nghiên cứu hiện tại chủ yếu mang tính chất mô tả Qua việc sàng lọc và phân loại các bài báo liên quan đến CSR, nhóm tác giả đã xác định được nhiều chủ đề quan trọng cần được khai thác sâu hơn trong tương lai.

Từ năm 2007 đến 2017, đã có 60 bài báo nghiên cứu về trách nhiệm xã hội doanh nghiệp (CSR) trong các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) Các tác giả phân loại các nghiên cứu và nhận thấy rằng CSR trong DNNN chủ yếu được nghiên cứu ở 15 quốc gia, với Trung Quốc là quốc gia có số lượng nghiên cứu cao nhất Đáng chú ý, hầu hết các nghiên cứu đều dựa trên lý thuyết các bên liên quan (stakeholder theory) làm nền tảng lý thuyết Ngoài ra, nghiên cứu của Rodríguez Bolívar và cộng sự (2015) đã khám phá cách mà các nhà quản trị tại DNNN nhận thức về vấn đề này.

CSR (Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp) đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng hình ảnh và uy tín của doanh nghiệp Các doanh nghiệp tham gia vào hoạt động CSR không chỉ để nâng cao trách nhiệm xã hội mà còn để tạo ra giá trị bền vững cho cộng đồng Việc tích hợp CSR vào hoạt động hàng ngày giúp doanh nghiệp cải thiện mối quan hệ với khách hàng, nhân viên và các bên liên quan, đồng thời thúc đẩy sự phát triển bền vững và khả năng cạnh tranh trên thị trường.

Hofman và cộng sự (2017) đã thảo luận về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (CSR) trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa, cũng như doanh nghiệp nhà nước (DNNN) tại Trung Quốc, giới thiệu khái niệm "CSR độc tài" Các tác giả nhấn mạnh rằng "chủ nghĩa tư bản thân hữu" không chỉ thúc đẩy sự phát triển kinh tế nhanh chóng của Trung Quốc trong 30 năm qua mà còn củng cố sự phát triển và quốc tế hóa CSR tại quốc gia này Trong khi đó, nghiên cứu của Roper và Schoenberger-Orgad (2011) về CSR trong DNNN ở New Zealand cho thấy rằng để thúc đẩy CSR trong khu vực này, cần phải nghiên cứu kỹ lưỡng hơn về các khái niệm "trách nhiệm giải trình" và "tính hợp pháp".

Nghiên cứu về đo lường trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (CSR) trong bối cảnh doanh nghiệp nhà nước (DNNN) đã chỉ ra mối liên hệ giữa hoạt động CSR và kết quả hoạt động của doanh nghiệp Zhu và cộng sự (2016) phát triển thang đo "7+2" để đánh giá CSR tại các DNNN, đồng thời xem xét lợi ích tài chính và xã hội từ các hoạt động này Qua phân tích báo cáo CSR năm 2011 của 100 DNNN Trung Quốc, nhóm tác giả nhận thấy rằng các DNNN chủ yếu chú trọng vào vấn đề môi trường, người lao động và quyền con người, trong khi các lĩnh vực như trách nhiệm trong chuỗi cung ứng, kinh doanh trung thực và phát triển cộng đồng cần được quan tâm hơn.

Al-Samman và Al-Nashmi (2016) đã áp dụng mô hình kim tự tháp CSR của Carroll để nghiên cứu mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội doanh nghiệp (CSR) và kết quả hoạt động phi tài chính của cả doanh nghiệp nhà nước (DNNN) và doanh nghiệp tư nhân (DNTN) tại Yemen Nghiên cứu cho thấy rằng, đối với DNNN, không có mối quan hệ đáng kể nào giữa CSR và kết quả hoạt động phi tài chính Tuy nhiên, khi xem xét riêng nhóm DNTN, kết quả có thể khác biệt.

Các doanh nghiệp tư nhân (DNTN) và doanh nghiệp nhà nước (DNNN) đều có mối quan hệ tích cực giữa các thành tố của trách nhiệm xã hội doanh nghiệp (CSR) và kết quả hoạt động phi tài chính của họ.

Gần đây, Zheng và Zhang (2016) đã phát triển thang đo CSR cho thị trường Trung Quốc, nghiên cứu sự khác biệt trong việc thực hiện CSR giữa doanh nghiệp nhà nước (DNNN) và doanh nghiệp tư nhân (DNTN) Kết quả khảo sát 333 doanh nghiệp từ 15 ngành công nghiệp tại 34 thành phố cho thấy, yếu tố chính giúp DNNN vượt trội hơn DNTN trong việc thực hiện CSR không phải do vấn đề sở hữu, mà là do quy mô của DNNN lớn hơn nhiều so với DNTN Đây là một phát hiện mới, bổ sung cho các nghiên cứu trước đây về CSR tại Trung Quốc.

Nghiên cứu của Hinz (2009) về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (CSR) trong doanh nghiệp nhà nước (DNNN) ở Trung Quốc cho thấy, từ năm 2005, các DNNN đã có nhận thức tốt hơn về CSR nhờ vào các hướng dẫn mới từ Chính phủ Các doanh nghiệp này cũng tích cực tham gia vào các sáng kiến CSR của các tổ chức quốc tế như Global Compact (GC) và Hội đồng doanh nghiệp bền vững thế giới (WBCSD) Tuy nhiên, thực tiễn thực hiện CSR vẫn còn yếu kém, thể hiện qua việc báo cáo CSR có chất lượng thấp và sự tuân thủ hạn chế các tiêu chuẩn quốc tế Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng cần có phương pháp so sánh tốt hơn để phân tích mục tiêu CSR của nhóm DNNN.

Nghiên cứu của Gao (2011) về báo cáo trách nhiệm xã hội doanh nghiệp (CSR) của các doanh nghiệp niêm yết tại Trung Quốc cho thấy rằng các vấn đề xã hội và các bên liên quan được đề cập khác nhau trong các báo cáo này Doanh nghiệp nhà nước (DNNN) có xu hướng thực hiện nhiều hoạt động xã hội hơn, cho thấy sự nhạy cảm chính trị cao hơn so với doanh nghiệp tư nhân (DNTN), do chính phủ đã kêu gọi các vấn đề xã hội trong những năm gần đây Ngược lại, DNTN thể hiện sự ưu việt hơn trong một số khía cạnh nhất định.

24 thực hiện các hoạt động CSR nhằm thỏa mãn mong muốn của các bên liên quan Nghiên cứu của W Li và Zhang (2010) cũng cho kết quả tương tự

Sanchez và cộng sự (2017) đã tiến hành nghiên cứu về mức độ thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (CSR) tại các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) ở Tây Ban Nha, sử dụng một bộ thang đo CSR Kết quả cho thấy các bên liên quan đang gây áp lực trực tiếp lên các DNNN trong việc xây dựng và thực hiện các chính sách CSR đối với nhà cung cấp và yêu cầu minh bạch thông tin Mặc dù đối mặt với áp lực lớn, các DNNN vẫn khẳng định hài lòng với những lợi ích đạt được từ việc thực hiện tốt CSR.

Trong những năm gần đây, đã có một số nghiên cứu về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (CSR) tại các doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) ở Việt Nam Đinh Thị Cúc (2014) chỉ ra rằng DNNN đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra của cải vật chất và làm giàu ngân sách Nhà nước Theo tác giả, DNNN không chỉ dẫn đầu trong việc phát triển kinh tế mà còn tạo ra nhiều công ăn việc làm mới với mức lương bình quân cao hơn so với các doanh nghiệp tư nhân trong nước.

Nghiên cứu của Nguyễn Thị Huệ (2016) so sánh việc thực hiện trách nhiệm xã hội doanh nghiệp (CSR) giữa hai tập đoàn lớn PVEP và VTC, cho thấy cả hai đều hiểu CSR theo định nghĩa của tiêu chuẩn ISO26000, nhấn mạnh mối quan hệ chặt chẽ giữa CSR và phát triển bền vững Họ xác định sứ mệnh trở thành doanh nghiệp có trách nhiệm Các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi trách nhiệm của PVEP và VTC bao gồm ban lãnh đạo công ty, văn hóa doanh nghiệp và áp lực từ bên ngoài như quy định pháp luật và cạnh tranh thị trường.

Tuy nhiên, nghiên cứu chuyên sâu về thực trạng việc thực hiện trách nhiệm xã hội trong doanh nghiệp nhà nước vẫn đang có nhiều khoảng trống

1.4 Các công trình nghiên cứu về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp trong ngành dệt may

Trong lĩnh vực dệt may, nghiên cứu về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (CSR) vẫn còn hạn chế Laudal (2011) đã khảo sát động lực và rào cản đối với CSR trong quá trình chuyển đổi từ doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME) thành doanh nghiệp đa quốc gia (MNE) thông qua một cuộc điều tra tổng quan với 47 bài viết Kết quả được xác thực bằng cách khảo sát các nhà quản lý trong ngành may mặc tại Na Uy Nghiên cứu cho thấy rằng các doanh nghiệp tham gia vào CSR khi họ tích hợp các yếu tố xã hội và môi trường vào hoạt động kinh doanh, từ đó cải thiện phúc lợi và đáp ứng hoặc vượt qua các tiêu chuẩn CSR quốc tế.

Khoảng trống nghiên cứu

Nghiên cứu về trách nhiệm xã hội doanh nghiệp (CSR) trong doanh nghiệp nhà nước (DNNN) tại Việt Nam theo hướng tiếp cận hành vi đang còn thiếu hụt và cần được khai thác Việc này là cần thiết vì nó sẽ giúp làm rõ hơn vai trò và tác động của CSR trong bối cảnh DNNN, đồng thời thúc đẩy sự phát triển bền vững trong lĩnh vực này.

Thứ nhất, các nghiên cứu trước đây chủ yếu tập trung vào CSR trong khu vực tư nhân

Trên toàn cầu, nhiều nghiên cứu về Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (CSR) đã được thực hiện, chủ yếu tập trung vào khu vực tư nhân Những nghiên cứu này không chỉ hệ thống hóa và bổ sung lý thuyết về CSR mà còn cung cấp tiêu chuẩn đo lường và xác định ảnh hưởng của CSR đến doanh nghiệp trong nhiều bối cảnh khác nhau Đặc biệt, các nghiên cứu về CSR rất phong phú tại các quốc gia phát triển như Hoa Kỳ và châu Âu, với nhiều hướng nghiên cứu đa dạng.

Nghiên cứu về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (CSR) trong khu vực tư nhân đã phát triển mạnh mẽ trong hơn 50 năm qua với nhiều chủ đề đa dạng Tuy nhiên, nghiên cứu về CSR trong doanh nghiệp nhà nước (DNNN) vẫn còn hạn chế và cần được làm rõ hơn về các loại trách nhiệm mà DNNN cần thực hiện (Cunningham, 2011) Điều này cho thấy còn nhiều khoảng trống trong nghiên cứu CSR tại DNNN, đặc biệt ở những quốc gia nơi nhà nước giữ vai trò kiểm soát Tại Việt Nam, tình hình nghiên cứu về CSR đang có xu hướng gia tăng trong những năm gần đây.

Nghiên cứu về Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (CSR) tại Việt Nam vẫn còn hạn chế và chưa được phát triển mạnh mẽ Mặc dù đã có một số công trình nghiên cứu và bài viết trao đổi được công bố trên các phương tiện thông tin, tạp chí chuyên ngành và diễn đàn về CSR, nhưng các nghiên cứu này vẫn còn tản mạn và có quy mô nhỏ Đặc biệt, nghiên cứu về CSR trong các Doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) lại càng hiếm hoi, cho thấy sự cần thiết phải tăng cường nghiên cứu và phát triển lĩnh vực này tại Việt Nam.

Thứ hai, các nghiên cứu về CSR theo tiếp cận hành vi còn khoảng trống

Nghiên cứu về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (CSR) trong doanh nghiệp nhà nước (DNNN) chủ yếu tập trung vào mối quan hệ giữa việc thực hiện CSR và kết quả hoạt động của doanh nghiệp Tuy nhiên, mối liên hệ giữa CSR trong DNNN với hành vi công dân tổ chức và sự hài lòng của nhân viên vẫn còn là một chủ đề mới mẻ tại Việt Nam Đây là một khoảng trống nghiên cứu mà các nghiên cứu sinh có thể khai thác trong luận án của mình.

Thứ ba, các nghiên cứu trước đây chủ yếu tập trung vào chủ thể là các đối tượng bên ngoài doanh nghiệp

Theo lý thuyết các bên liên quan, trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (CSR) bao gồm cả các bên liên quan nội bộ như người lao động và nhà quản trị, cùng với các bên liên quan bên ngoài như khách hàng, nhà cung ứng, chính phủ và môi trường Nghiên cứu trước đây chủ yếu tập trung vào các bên liên quan bên ngoài, với các hoạt động CSR được phân tích chi tiết Tuy nhiên, tại Việt Nam, các nghiên cứu về CSR liên quan đến người lao động và hành vi của họ vẫn còn hạn chế.

Thứ tư, thang đo nghiên cứu về CSR theo tiếp cận hành vi cần được kiểm chứng trong bối cảnh Việt Nam

Các thang đo về Trách nhiệm xã hội doanh nghiệp (CSR), hành vi công dân tổ chức và sự hài lòng của người lao động được phát triển dựa trên các nghiên cứu thực hiện tại nhiều quốc gia khác nhau.

Tại Việt Nam, các thang đo phát triển từ Mỹ và châu Âu cần được điều chỉnh và kiểm định trong bối cảnh nghiên cứu hiện tại nhằm đánh giá tính phù hợp và giá trị của chúng Các nghiên cứu trước đây chưa giải quyết vấn đề này, tạo ra nhu cầu cấp thiết cho các nghiên cứu mới.

Nghiên cứu này tập trung vào phân tích thực trạng trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (CSR) trong doanh nghiệp nhà nước (DNNN), với mục tiêu khám phá mối liên hệ giữa CSR và các biến số hành vi tổ chức Đây là một hướng đi mới, khác biệt so với các nghiên cứu trước đây tại Việt Nam, nhằm cung cấp cái nhìn sâu sắc hơn về vai trò của CSR trong DNNN.

Trong chương 1, tác giả đã hệ thống hóa các công trình nghiên cứu về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (CSR) theo các hướng nghiên cứu chính Tác giả phân tích nội dung cơ bản của các nghiên cứu tiên nghiệm và cách tiếp cận để giải quyết nhiệm vụ nghiên cứu Qua đó, tác giả xác định được khoảng trống trong nghiên cứu chưa được lấp đầy, từ đó đề xuất hướng nghiên cứu mới phù hợp cho đề tài này.

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI

Doanh nghiệp nhà nước và trách nhiệm xã hội

2.1.1 Khái niệm trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp

Trong nhiều thập kỷ qua, nghiên cứu về Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (CSR) đã chỉ ra rằng đây là một khái niệm phong phú, có thể được tiếp cận từ nhiều khía cạnh khác nhau.

Năm 1953, Bowen đã giới thiệu khái niệm chính thức về Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (CSR) trong cuốn sách "Trách nhiệm xã hội của doanh nhân" Ông cho rằng CSR thể hiện nghĩa vụ của doanh nhân trong việc theo đuổi các chính sách, đưa ra quyết định và thực hiện các hoạt động phù hợp với mong đợi của xã hội về mục tiêu và giá trị.

Sự phát triển mạnh mẽ về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp đã được nhấn mạnh bởi Johnson (1971), cho rằng người quản lý cần cân bằng lợi ích giữa các cổ đông, nhân viên, nhà cung cấp, đại lý và cộng đồng Tương tự, Davis (1973) khẳng định rằng doanh nghiệp phải xem xét ảnh hưởng đến hệ thống xã hội trong quá trình ra quyết định, nhằm đạt được lợi ích xã hội song song với lợi ích kinh tế truyền thống.

Theo Carroll (1979), trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (CSR) không chỉ bao gồm các trách nhiệm kinh tế, luật pháp, đạo đức mà còn cả trách nhiệm từ thiện, nhằm đáp ứng kỳ vọng của xã hội CSR phản ánh các chuẩn mực mà các bên liên quan, cả bên trong lẫn bên ngoài, coi là công bằng và đúng đắn, đồng thời thể hiện sự đáp ứng mong đợi của xã hội về quyền công dân Ngoài ra, CSR còn bao gồm các chương trình thúc đẩy phúc lợi và thiện chí cho cộng đồng.

Một quan điểm khác cho rằng Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (CSR) là việc các doanh nghiệp xem xét các yếu tố môi trường và xã hội trong hoạt động kinh doanh của họ, cũng như trong mối quan hệ với các bên liên quan, dựa trên tinh thần tự nguyện (Johansen, 2009).

Xu hướng nghiên cứu về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (CSR) đã có sự chuyển dịch mạnh mẽ, từ việc coi CSR là một khía cạnh đạo đức sang việc xem nó như một chủ đề gắn liền với doanh nghiệp và cơ chế quản trị Ngày nay, nhiều doanh nghiệp ở mọi quy mô đã áp dụng CSR như một triết lý trong hành vi và quản trị (Carroll, 1979) Nhiều doanh nghiệp thực hiện CSR theo kiểu tuân thủ pháp luật, đặc biệt trong lĩnh vực môi trường, trong khi một số khác tự nguyện đóng góp nguồn lực như tiền, thời gian hoặc nhân lực cho lợi ích cộng đồng (Schürnherr và cộng sự, 2017; Jean & Yazdanifard, 2015).

Hiện nay, doanh nghiệp đang chuyển dịch mạnh mẽ sang tiếp cận trách nhiệm xã hội (CSR) theo quan điểm chiến lược, thay vì chỉ dựa vào đạo đức kinh doanh như trước đây Theo định nghĩa của Liên minh châu Âu (2011), CSR là quá trình tích hợp các vấn đề xã hội, môi trường và đạo đức vào hoạt động kinh doanh và chiến lược, đồng thời tương tác chặt chẽ với các bên liên quan, vượt qua yêu cầu pháp luật và thỏa thuận tập thể Do đó, CSR được hiểu là những hành động nhằm nâng cao vị thế cạnh tranh và uy tín của công ty (Bianchi và cộng sự, 2019) Tại Việt Nam, các nghiên cứu về khái niệm CSR trong doanh nghiệp cũng đang ngày càng phát triển.

CSR thể hiện cam kết của doanh nghiệp đối với các bên liên quan nhằm đảm bảo lợi ích của họ Lê Đăng Doanh (2010) nhấn mạnh rằng CSR không chỉ là một khái niệm mà còn là một phạm trù đạo đức trong kinh doanh, liên quan chặt chẽ đến quá trình tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.

Tác giả trong nghiên cứu này kết hợp khái niệm Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (CSR) từ Liên minh châu Âu và Johnson (1971) như một khái niệm căn bản CSR được hiểu là quá trình mà doanh nghiệp tích hợp các vấn đề kinh tế, xã hội và môi trường vào chiến lược cũng như các hoạt động thường nhật, nhằm thỏa mãn lợi ích đa chiều của các bên liên quan.

2.1.2 Lợi ích khi doanh nghiệp thực hiện trách nhiệm xã hội

Các nghiên cứu nhƣ của Turban và Greening (1997), J Li và cộng sự,

2019), Orlitzky và cộng sự (2011) đã khẳng định khi DN thực hiện CSR sẽ có đƣợc những lợi ích hữu hình và vô hình nhất định

Doanh nghiệp sẽ củng cố uy tín trên thị trường và tạo dựng dấu ấn thương hiệu trong tâm trí khách hàng cũng như các bên liên quan.

Các doanh nghiệp (DN) có khả năng thu hút và giữ chân nhân tài thường sở hữu danh tiếng tốt, điều này khiến người lao động muốn làm việc cho họ hơn là những DN có danh tiếng kém.

Doanh nghiệp có thể tiết kiệm chi phí sản xuất bằng cách thực hiện tốt các tiêu chuẩn an toàn lao động và bảo vệ môi trường Điều này không chỉ giúp giảm chi phí mà còn nâng cao năng suất lao động nhờ vào điều kiện làm việc tốt, từ đó cải thiện hiệu quả sản xuất kinh doanh.

& Rashid, 2012) Mặt khác, DN cũng tiết kiệm đƣợc chi phí cho tuyển dụng,

34 đào tạo, bồi dƣỡng nhân viên khi họ có thể giữ chân đƣợc nhân sự nhờ các chính sách tốt về lao động

Việc thực hiện tốt trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (CSR) không chỉ mang lại hiệu quả trong hoạt động mà còn đem lại nhiều lợi ích cho doanh nghiệp, như tăng giá trị thị trường, theo nhiều nghiên cứu của các chuyên gia trong lĩnh vực này (Bianchi và cộng sự).

Việc giảm rủi ro và gia tăng động lực cho nhân viên sáng tạo không chỉ nâng cao năng suất lao động mà còn tăng cường lòng trung thành của họ, từ đó góp phần nâng cao danh tiếng và uy tín của công ty.

2.1.3 Các yếu tố tác động đến trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp

2.1.3.1 Các yếu tố bên ngoài

Thứ nhất, hệ thống pháp luật của quốc gia và luật pháp quốc tế

Hệ thống pháp luật quốc gia đóng vai trò thiết yếu trong việc điều tiết hành vi của các doanh nghiệp (DN) trong nền kinh tế, giúp khắc phục nhược điểm của nền kinh tế thị trường và đảm bảo công bằng xã hội Pháp luật hỗ trợ nhà nước giải quyết tranh chấp kinh tế một cách hiệu quả, đồng thời quy định và điều chỉnh hoạt động của DN theo các thông lệ quốc tế Nhờ có hệ thống pháp luật, môi trường pháp lý được hình thành, tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động kinh tế của tổ chức và cá nhân, từ đó nâng cao hiệu quả kinh tế Đối với các DN có quan hệ kinh doanh với đối tác nước ngoài hoặc mở rộng thị trường, các quy định luật pháp quốc tế trở nên quan trọng hơn so với những DN chỉ hoạt động trong thị trường nội địa.

Một số lý thuyết về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp

2.2.1 Lý thuyết giá trị dành cho các cổ đông Đây là một lý thuyết của Milton Friedman, một nhà kinh tế học Trong lý thuyết này, Friedman cho rằng ngoài trách nhiệm pháp lý, CSR của DN chỉ có thể thực hiện bằng các quyết định nhằm nâng cao khả năng sinh lời cho các

Cổ đông là những người sở hữu quyền lợi trong doanh nghiệp, và trách nhiệm chính của doanh nghiệp là tối đa hóa lợi nhuận cũng như gia tăng giá trị cho cổ đông, tất cả đều phải tuân thủ các quy định của thị trường.

Lý thuyết này khẳng định rằng trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (CSR) không chỉ tối đa hóa giá trị cho cổ đông mà còn phục vụ lợi ích công cộng, góp phần vào sự thịnh vượng chung của xã hội Xuất phát từ quan điểm của Adam Smith về "bàn tay vô hình", lý thuyết cho rằng mỗi cá nhân nỗ lực tối đa hóa giá trị vốn của mình mà không ý thức được sự đóng góp của mình cho xã hội Họ thường chỉ quan tâm đến lợi ích cá nhân, nhưng trong quá trình theo đuổi mục tiêu riêng, họ lại vô tình tạo ra lợi ích chung cho xã hội một cách hiệu quả hơn so với khi họ cố ý làm điều đó.

Ngày nay, nhiều nhà kinh tế học và chuyên gia tài chính ủng hộ lý thuyết giá trị dành cho cổ đông, nhấn mạnh rằng việc tối đa hóa giá trị cho cổ đông cũng đồng nghĩa với việc tạo ra giá trị cho nền kinh tế Theo Jensen (2001), nếu một công ty cố gắng thỏa mãn quá nhiều mục tiêu của các bên liên quan, điều đó có thể dẫn đến việc không có mục tiêu nào rõ ràng Điều này xảy ra bởi vì các bên liên quan thường có nhu cầu và kỳ vọng khác nhau, thậm chí mâu thuẫn, khiến cho việc tối đa hóa lợi ích cho tất cả trong cùng một thời điểm trở nên không khả thi Ví dụ, khách hàng mong muốn sản phẩm chất lượng với giá thấp, trong khi nhân viên lại đòi hỏi lương cao và môi trường làm việc thoải mái, và cộng đồng thì kỳ vọng doanh nghiệp thực hiện các hoạt động xã hội.

Các bên liên quan có những kỳ vọng khác nhau về phúc lợi xã hội, dẫn đến việc các doanh nghiệp sẽ tập trung tối đa hóa giá trị cho cổ đông, đặc biệt là trong ngắn hạn.

Theo Friedman, trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (CSR) được hiểu chủ yếu từ góc độ kinh tế, do đó, phạm vi của nó chủ yếu giới hạn trong các hoạt động kinh tế Mặc dù hoạt động kinh tế là bản chất cốt lõi của doanh nghiệp, nhưng các hoạt động CSR cũng cần được mở rộng để bao gồm các yếu tố xã hội và môi trường, nhằm tạo ra giá trị bền vững cho cả doanh nghiệp và cộng đồng.

Doanh nghiệp không chỉ tập trung vào các hoạt động kinh tế mang lại lợi ích tài chính mà còn phải chú trọng đến mối liên hệ chặt chẽ với xã hội Sự phát triển của doanh nghiệp chịu sự tác động từ môi trường xã hội, do đó, doanh nghiệp cần nhận thức rằng việc quan tâm đến cộng đồng là một trách nhiệm tự thân và cần thiết.

2.2.2 Lý thuyết các bên có liên quan

Lý thuyết của R Edward Freeman trong tác phẩm "Strategic Management: A Stakeholder Approach" nhấn mạnh rằng trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (CSR) không chỉ giới hạn trong mối quan hệ với cổ đông, mà cần mở rộng đến nhiều bên liên quan khác Các bên liên quan được định nghĩa rộng rãi, bao gồm người lao động, nhà cung cấp, chủ nợ và cộng đồng dân cư, trong đó cổ đông chỉ là một phần trong tổng thể Lợi ích của người lao động, chủ nợ và các bên liên quan khác cũng cần được xem xét khi doanh nghiệp đưa ra quyết định Điều này cho thấy doanh nghiệp tác động đến nhiều bên, và những quyết định liên quan đến giá cả hay chất lượng sản phẩm có thể ảnh hưởng đến người tiêu dùng Hệ thống dựa trên lý thuyết giá trị cổ đông không đủ khả năng giải quyết những vấn đề này.

Để đạt được thành công, các công ty cần chú trọng đến lợi ích của các bên liên quan, phản ánh xu thế xã hội hiện đại khi mà trách nhiệm xã hội ngày càng được coi trọng Nguồn lực con người được xem là tài sản quý giá nhất của công ty, do đó, việc kết hợp kiến thức và kinh nghiệm của nhân viên là điều cần thiết Các công ty nên xem xét lợi ích của người lao động bên cạnh lợi ích của cổ đông, nhằm thúc đẩy các chiến lược dài hạn Lý thuyết giá trị các bên liên quan không chỉ tập trung vào lợi nhuận mà còn vào những vấn đề rộng lớn hơn, ảnh hưởng đến sự thành công bền vững của doanh nghiệp.

2.2.3 Lý thuyết sự phụ thuộc nguồn lực

Lý thuyết sự phụ thuộc nguồn lực ra đời vào khoảng những năm 1950, và trải qua 4 giai đoạn phát triển cơ bản gồm (1) giai đoạn hình thành (từ

Trong lịch sử phát triển, có bốn giai đoạn chính: (1) giai đoạn khởi đầu từ 1950 đến 1960, (2) giai đoạn hoàng kim từ 1970 đến 1980, (3) giai đoạn đình trệ kéo dài từ giữa những năm 1980 đến đầu những năm 2000, và (4) giai đoạn tái hoàn thiện và áp dụng vào nhiều lĩnh vực từ những năm 2000 đến nay.

Theo lý thuyết sự phụ thuộc nguồn lực, doanh nghiệp (DN) có thể tham gia vào việc khai thác và sử dụng tài nguyên quốc gia thông qua môi trường hoạt động của mình Môi trường này tạo ra cơ hội để DN tiếp cận các nguồn lực như nguyên liệu thô, lao động, vốn, cơ sở vật chất và thiết bị sản xuất Các đối tác cung cấp nguồn lực bao gồm nhà cung cấp, khách hàng, đối thủ cạnh tranh và các nhóm lợi ích khác Bên cạnh đó, DN còn có thể thu nhận các nguồn lực vô hình thông qua tương tác với các đối tác khác nhau trong quá trình hoạt động.

Lý thuyết sự phụ thuộc nguồn lực nhấn mạnh rằng các doanh nghiệp cần có sự đồng thuận từ môi trường hoạt động, đặc biệt là từ nhóm cung ứng nguồn tài nguyên quan trọng Do đó, khi thực hiện trách nhiệm xã hội (CSR), doanh nghiệp cần tôn trọng và chú trọng đến vị thế của các đối tác cung cấp nguồn lực Mức độ phụ thuộc vào nguồn tài nguyên càng cao, doanh nghiệp càng phải ưu tiên thực hiện CSR đối với các đối tác này Hành động thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp chính là phản ứng trước sức ép và mong đợi từ các tác nhân cung cấp nguồn tài nguyên cần thiết cho sự tồn tại của mình.

2.2.4 Lý thuyết bản sắc xã hội

Bản sắc xã hội, theo quan điểm của tâm lý xã hội, được định nghĩa là cảm nhận về bản thân, hình thành từ kiến thức và cảm xúc của cá nhân về các đặc điểm chung của nhóm mà họ thuộc về.

Lý thuyết bản sắc xã hội (social identity theory) chỉ ra rằng động cơ tìm kiếm sự thỏa mãn tâm lý nội tại (self-esteem) từ việc là thành viên của nhóm chính là nguyên nhân dẫn đến sự thiên vị nhóm Khi bản sắc xã hội trở nên bền vững, con người có xu hướng: (1) nhìn nhận các thành viên trong nhóm giống như bản thân mình; (2) cảm thấy yêu thích các thành viên trong nhóm; và (3) đối xử công bằng và đầy lòng vị tha với họ.

Theo lý thuyết bản sắc xã hội, mỗi cá nhân xác định và phân loại bản thân vào một nhóm trong xã hội, qua đó hình thành sự tự nhận thức và gắn kết với nhóm đó Quá trình này mang tính tương đối và so sánh, không phụ thuộc vào các tiêu chuẩn hành vi cụ thể.

Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, hành vi công dân tổ chức và sự hài lòng của nhân viên đối với doanh nghiệp

Từ quan điểm hành vi tổ chức, Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (CSR) đã thu hút sự chú ý của giới học thuật như một tập hợp hành vi tổ chức ở cấp độ vĩ mô Ngược lại, hành vi công dân tổ chức (OCB) được nghiên cứu từ góc độ vi mô.

Hành vi công dân tổ chức (OCB) được hiểu là những hành vi của nhân viên vượt qua trách nhiệm và quy định của tổ chức mà không nhận được phần thưởng hay thù lao từ hệ thống (Turnipseed & Wilson, 2009) Theo Organ và cộng sự (2005), OCB thể hiện sự sẵn sàng của nhân viên trong việc thực hiện các hành vi vượt ngoài vai trò được phân công Ví dụ, nhân viên có thể dành thời gian giúp đỡ đồng nghiệp giải quyết các vấn đề công việc hoặc tuân thủ kỷ luật công ty ngay cả khi không có sự giám sát Những hành vi này thường xuất phát từ thái độ tích cực đối với công việc trong doanh nghiệp (Ko và cộng sự, 2018).

Trong khi Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (CSR) tập trung vào các hoạt động tự nguyện của doanh nghiệp liên quan đến cá nhân, nhóm và môi trường bên ngoài, thì Hành vi công dân tổ chức (OCB) chỉ nhấn mạnh đến những hành vi tự nguyện của nhân viên mà không được quy định trong hệ thống quy chế của doanh nghiệp (Ko và cộng sự, 2018).

Theo lý thuyết bản sắc xã hội, khi nhân viên nhận thức được các hoạt động CSR mà doanh nghiệp thực hiện, họ sẽ cảm thấy tự hào khi là một phần của tổ chức Sự tham gia vào các hoạt động trách nhiệm xã hội không chỉ nâng cao lòng tự hào mà còn củng cố sự gắn kết giữa nhân viên và doanh nghiệp Điều này dẫn đến việc tăng cường động lực làm việc và sự trung thành của nhân viên đối với tổ chức.

Cảm giác tự hào về tổ chức có trách nhiệm xã hội sẽ tạo ra thái độ tích cực ở nhân viên, từ đó thúc đẩy hành vi công dân tổ chức (OCB) và gia tăng sự gắn bó với tổ chức.

Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra mối quan hệ tích cực giữa Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (CSR) và Hành vi công dân tổ chức (OCB), như nghiên cứu của Rupp và cộng sự (2006), Gao và He (2017), và Newman và cộng sự (2015) Đặc biệt, Jones (2010) phát hiện rằng khi nhân viên tham gia vào các hoạt động từ thiện của công ty, họ không chỉ gắn bó hơn mà còn có xu hướng thực hiện OCB cao hơn.

Nghiên cứu với hơn 1.122 nhà quản trị cho thấy rằng việc thực hiện tốt trách nhiệm xã hội doanh nghiệp (CSR) giúp doanh nghiệp trở nên hấp dẫn hơn đối với người lao động Branco & Rodrigues (2006) khẳng định rằng CSR có ảnh hưởng tích cực đến sự trung thành và gắn bó của nhân viên với doanh nghiệp Một nghiên cứu khác với hơn 2.000 nhân viên tại các công ty lớn ở Mỹ cho thấy rằng các hoạt động CSR củng cố niềm tin của nhân viên vào doanh nghiệp, dẫn đến hành vi công dân tổ chức (OCB) tốt hơn, giảm tỷ lệ thôi việc và từ đó tăng lợi nhuận cũng như kết quả hoạt động của công ty (Hansen và cộng sự, 2011).

Nghiên cứu của Bozkurt và Bal (2012) chỉ ra rằng có mối quan hệ tích cực giữa hoạt động trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (CSR) và hành vi công dân tổ chức (OCB) trong các ngành dược phẩm, hàng tiêu dùng nhanh và ngân hàng Kết quả cho thấy rằng khi doanh nghiệp thực hiện các hoạt động CSR, điều này sẽ thúc đẩy OCB của nhân viên.

Sự hài lòng trong công việc được định nghĩa là trạng thái cảm xúc tích cực từ việc đánh giá tổng thể của nhân viên về công việc của họ (Locke, 1976) Nghiên cứu cho thấy có mối quan hệ tích cực giữa hoạt động CSR của doanh nghiệp và sự hài lòng của nhân viên Cụ thể, Vitell và Davis (1990) đã khám phá mối liên hệ giữa môi trường đạo đức của doanh nghiệp và sự hài lòng trong công việc, cho thấy rằng thái độ của nhân viên đối với CSR có thể ảnh hưởng trực tiếp đến mức độ hài lòng của họ.

Nghiên cứu cho thấy rằng các nhà quản trị có thể nâng cao sự hài lòng trong công việc của nhân viên bằng cách khuyến khích hành vi đạo đức và giảm thiểu cơ hội thực hiện hành vi phi đạo đức Cụ thể, nghiên cứu của Schwepker Jr (2001) chỉ ra rằng môi trường làm việc tích cực thúc đẩy hành vi đạo đức sẽ dẫn đến sự hài lòng cao hơn, tăng cường ý thức công dân tổ chức (OCB) và giảm ý định nghỉ việc của nhân viên Các nghiên cứu khác của Ko và cộng sự (2018), Rupp và cộng sự (2006), Bhattacharya và cộng sự (2008) tại các quốc gia như Hàn Quốc, Singapore và Mỹ cũng xác nhận mối quan hệ tích cực giữa trách nhiệm xã hội doanh nghiệp (CSR) và sự hài lòng của nhân viên trong tổ chức.

Mô hình và các giả thuyết nghiên cứu

Dựa trên tổng quan nghiên cứu và cơ sở lý thuyết từ chương 1 và 2, tác giả đề xuất một mô hình nghiên cứu nhằm phân tích tác động của việc thực hiện CSR của doanh nghiệp đến hành vi công dân tổ chức và sự hài lòng trong công việc của nhân viên Mô hình nghiên cứu được mô tả chi tiết trong Hình 2.1.

Hình 2.1: Mô hình nghiên cứu

(Nguồn: Tác giả tổng hợp, kế thừa và đề xuất)

Theo mô hình được trình bày, luận án đưa ra 05 giả thuyết nghiên cứu về ảnh hưởng của trách nhiệm xã hội doanh nghiệp (CSR) đến hành vi công dân tổ chức (OCB) của nhân viên tại Tập đoàn Dệt may Việt Nam, cùng với 01 giả thuyết về vai trò trung gian của OCB trong mối quan hệ giữa CSR và sự hài lòng của nhân viên trong công việc.

Trong nghiên cứu này, trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (CSR) được đánh giá qua năm khía cạnh, dựa trên các hoạt động đáp ứng kỳ vọng của các bên liên quan Bên cạnh đó, các nghiên cứu trước đây đã chỉ ra rằng lý thuyết bản sắc xã hội đóng vai trò quan trọng trong việc giải thích mối liên hệ giữa CSR và hành vi của người lao động.

Trong nghiên cứu này, tác giả giả định rằng có mối quan hệ tích cực giữa các hoạt động trách nhiệm xã hội doanh nghiệp (CSR) mà nhân viên quan sát và cảm nhận được với hành vi công dân tổ chức (OCB) của họ Dựa trên giả thuyết này, tác giả đã đề xuất các giả thuyết nghiên cứu liên quan đến tác động của CSR đến OCB trong doanh nghiệp.

H1: CSR đối với nhân viên có ảnh hưởng tích cực đến hành vi công dân tổ chức (OCB) tại Tập đoàn Dệt may Việt Nam Các hoạt động trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp không chỉ nâng cao sự hài lòng của nhân viên mà còn khuyến khích họ tham gia tích cực vào các hoạt động vì lợi ích chung của tổ chức Sự gắn kết này tạo ra một môi trường làm việc tích cực, thúc đẩy sự phát triển bền vững cho cả nhân viên và doanh nghiệp.

CSR đối với khách hàng tạo ra ảnh hưởng tích cực đến hành vi công dân tổ chức (OCB) của nhân viên tại Tập đoàn Dệt may Việt Nam Các hoạt động CSR không chỉ nâng cao sự hài lòng của khách hàng mà còn khuyến khích nhân viên tham gia tích cực vào các hoạt động của công ty Sự kết nối giữa CSR và OCB giúp xây dựng một môi trường làm việc tích cực, thúc đẩy sự gắn bó và trách nhiệm của nhân viên đối với tổ chức.

CSR của chính phủ có tác động tích cực đến hành vi công dân tổ chức (OCB) của nhân viên tại Tập đoàn Dệt may Việt Nam, góp phần nâng cao ý thức trách nhiệm và sự gắn bó của nhân viên với tổ chức Sự hỗ trợ từ chính phủ trong các hoạt động CSR không chỉ thúc đẩy sự phát triển bền vững mà còn tạo ra môi trường làm việc tích cực, khuyến khích nhân viên tham gia tích cực vào các hoạt động vì cộng đồng Điều này dẫn đến việc cải thiện hiệu suất làm việc và sự hài lòng của nhân viên, từ đó nâng cao hiệu quả hoạt động của Tập đoàn.

CSR đối với cộng đồng tạo ra ảnh hưởng tích cực đến hành vi công dân tổ chức (OCB) của nhân viên tại Tập đoàn Dệt may Việt Nam, góp phần nâng cao tinh thần làm việc và gắn kết của đội ngũ nhân viên Sự tham gia của công ty vào các hoạt động cộng đồng không chỉ thể hiện trách nhiệm xã hội mà còn khuyến khích nhân viên phát triển ý thức trách nhiệm và sự gắn bó với tổ chức.

CSR đối với môi trường có tác động tích cực đến hành vi công dân tổ chức (OCB) của nhân viên tại Tập đoàn Dệt may Việt Nam, góp phần nâng cao nhận thức và trách nhiệm của họ đối với môi trường Sự cam kết của doanh nghiệp trong việc bảo vệ môi trường không chỉ thúc đẩy tinh thần làm việc mà còn khuyến khích nhân viên tham gia vào các hoạt động bền vững, từ đó tạo ra một môi trường làm việc tích cực và hiệu quả hơn.

Nghiên cứu của Ellemers và cộng sự (2004), Rupp và cộng sự (2006), cùng với Ko và cộng sự (2018) cho thấy rằng khi người lao động thực hiện các hành vi vượt trên bổn phận tại doanh nghiệp, họ cảm thấy vui vẻ và thỏa mãn hơn với công việc của mình, đặc biệt khi những hành vi này được công nhận.

DN ghi nhận Do vậy, trong nghiên cứu này, tác giả đặt ra giả thuyết nhƣ sau:

H6: Hành vi công dân tổ chức (OCB) có ảnh hưởng tích cực (cùng chiều) đến sự hài lòng của người lao động tại Tập đoàn Dệt may Việt Nam

Trong chương 2, tác giả trình bày các vấn đề lý luận về Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (CSR) liên quan đến doanh nghiệp nhà nước (DNNN) và các lý thuyết cơ bản làm nền tảng cho luận án Hai lý thuyết chính được sử dụng là lý thuyết bản sắc xã hội và lý thuyết các bên liên quan, tạo cơ sở cho mô hình nghiên cứu Bên cạnh đó, tác giả cũng thảo luận về mối quan hệ giữa CSR, hành vi công dân tổ chức và sự hài lòng của nhân viên trong doanh nghiệp Dựa trên cơ sở lý thuyết và các nghiên cứu trước đó, tác giả đề xuất mô hình và các giả thuyết nghiên cứu cho luận án.

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU LUẬN ÁN

THỰC TRẠNG THỰC HIỆN TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI CỦA TỔNG CÔNG TY NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM – NGHIÊN CỨU ĐIỂN HÌNH TẠI TẬP ĐOÀN DỆT MAY VIỆT NAM

CÁC ĐỀ XUẤT VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI CỦA TẬP ĐOÀN DỆT MAY VIỆT NAM

Ngày đăng: 27/04/2022, 10:22

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Ban Chấp hành Trung ƣơng (2012). Nghị quyết số 15-NQ/TW ngày 01/6/2012 về một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012 - 2020, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghị quyết số 15-NQ/TW ngày 01/6/2012 về một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012 - 2020
Tác giả: Ban Chấp hành Trung ƣơng
Năm: 2012
2. Ban Chấp hành Trung ƣơng (2017). Nghị quyết số 12-NQ/TWHội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về về tiếp tục cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghị quyết số 12-NQ/TWHội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về về tiếp tục cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước
Tác giả: Ban Chấp hành Trung ƣơng
Năm: 2017
3. Ban Kinh tế Trung ƣơng và Đảng ủy Khối doanh nghiệp Trung ƣơng (2014). Phát huy vai trò của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Phát huy vai trò của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Tác giả: Ban Kinh tế Trung ƣơng và Đảng ủy Khối doanh nghiệp Trung ƣơng
Năm: 2014
4. Trần Đăng Bộ (2014). Kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tạp chí Học viện Chính trị, 26, 39-42 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tạp chí Học viện Chính trị, 26
Tác giả: Trần Đăng Bộ
Năm: 2014
5. Bộ Kế hoạch và Đầu tƣ (2015). Vai trò mới của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế - Kinh nghiệm và bài học cho Việt Nam, Kỷ yếu Hội thảo, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Vai trò mới của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế - Kinh nghiệm và bài học cho Việt Nam
Tác giả: Bộ Kế hoạch và Đầu tƣ
Năm: 2015
6. Chu Văn Cấp (2017). Không thể phủ nhận vai trò kinh tế nhà nước và tuyệt đối hóa kinh tế tƣ nhân. Báo Công an Nhân dân, (19) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Báo Công an Nhân dân
Tác giả: Chu Văn Cấp
Năm: 2017
7. Nguyễn Thị Minh Châu (2013). Trách nhiệm xã hội của các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh cá thể đối với người lao động: Nghiên cứu trường hợp ở thành phố Hồ Chí Minh. Tạp chí Khoa học Xã hội, 7, 9-18 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tạp chí Khoa học Xã hội, 7
Tác giả: Nguyễn Thị Minh Châu
Năm: 2013
8. Nguyễn Thị Kim Chi (2015), Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết học, Đại học quốc gia, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp Việt Nam hiện nay
Tác giả: Nguyễn Thị Kim Chi
Năm: 2015
9. Nguyễn Trọng Chuẩn (2008), "Kinh tế thị trường và trách nhiệm xã hội", Tạp chí Triết học, (2), tr.27-29 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Kinh tế thị trường và trách nhiệm xã hội
Tác giả: Nguyễn Trọng Chuẩn
Năm: 2008
10. Chương trình Phát triển của Liên Hợp quốc (UNDP) (2015), Báo cáo chỉ số phát triển con người năm 2014, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Báo cáo chỉ số phát triển con người năm 2014
Tác giả: Chương trình Phát triển của Liên Hợp quốc (UNDP)
Năm: 2015
11. Nguyễn Đình Cung, Lưu Minh Đức (2008). Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp: Một số vấn đề lý luận và yêu cầu đổi mới trong quản lý nhà nước ở Việt Nam. Tạp chí Quản lý kinh tế, 23, 45-48 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tạp chí Quản lý kinh tế, 23
Tác giả: Nguyễn Đình Cung, Lưu Minh Đức
Năm: 2008
12. Đặng Đình Cung (2009). Trách nhiệm xã hội doanh nghiệp. Thời Báo Kinh tế Sài Gòn, truy cập ngày 25/8/2019 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thời Báo Kinh tế Sài Gòn
Tác giả: Đặng Đình Cung
Năm: 2009
13. Đinh Thị Cúc (2014). Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay. Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay
Tác giả: Đinh Thị Cúc
Năm: 2014
14. Dương Công Doanh (2015). Nhận thức của người tiêu về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp. Tạp chí Kinh tế và phát triển, 217, 24-32 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tạp chí Kinh tế và phát triển, 217
Tác giả: Dương Công Doanh
Năm: 2015
15. Lê Đăng Doanh (2010). Một số vấn đề về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp Việt Nam, Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc tế, Viện Triết học, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Một số vấn đề về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp Việt Nam
Tác giả: Lê Đăng Doanh
Năm: 2010
16. Phạm Văn Đức (2011). Một số vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách trong việc thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp ở Việt Nam. Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế, 400, 55-58 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế
Tác giả: Phạm Văn Đức
Năm: 2011
17. Phạm Văn Đức (2011). Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp ở Việt Nam: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách. Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, 400, 20 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, 400
Tác giả: Phạm Văn Đức
Năm: 2011
18. Gerd Mutz (2009). Trách nhiệm doanh nghiệp ở Việt Nam: Sự thách thức đối với doanh nghiệp, chính phủ và xã hội dân sự. (Người dịch: Vũ Mạnh Toàn), Tạp chí Triết học, 2, 15-18 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tạp chí Triết học, 2
Tác giả: Gerd Mutz
Năm: 2009
19. Đặng Hoàng Giang, Phạm Minh Trí (2013). Đóng góp từ thiện của doanh nghiệp và cái nhìn về khối phi chính phủ ở Việt Nam. Báo cáo tháng 10 của VCCI, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đóng góp từ thiện của doanh nghiệp và cái nhìn về khối phi chính phủ ở Việt Nam
Tác giả: Đặng Hoàng Giang, Phạm Minh Trí
Năm: 2013
35. Ngô Quang Minh (2013). Đổi mới doanh nghiệp nhà nước ở nước ta hiện nay", tại trang http://www.tapchicongsan.org.vn, [truy cập 10/5/2019] Link

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w