1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Công nhận sự thỏa thuận của các đương sự trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự

92 43 1

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 92
Dung lượng 2,09 MB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÔNG NHẬN SỰ THỎA THUẬN CỦA CÁC ĐƯƠNG SỰ TRONG GIAI ĐOẠN CHUẨN BỊ XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN DÂN SỰ (15)
    • 1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa việc công nhận sự thỏa thuận của các đương sự (16)
      • 1.1.1. Khái niệm công nhận sự thỏa thuận của các đương sự trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự (16)
      • 1.1.2. Đặc điểm công nhận sự thỏa thuận của các đương sự trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự (19)
      • 1.1.3. Ý nghĩa công nhận sự thỏa thuận của các đương sự thỏa thuận trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự (23)
    • 1.2. Quá trình hoàn thiện, phát triển chế định về công nhận sự thỏa thuận của các đương sự trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự (25)
    • 1.3. Quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về công nhận sự thỏa thuận của các đương sự trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự (28)
      • 1.3.1. Nguyên tắc công nhận sự thỏa thuận của các đương sự trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự (28)
      • 1.3.2. Phạm vi thỏa thuận (31)
      • 1.3.3. Thủ tục ra quyết định công nhận (33)
      • 1.3.4. Giá trị pháp lý (36)
  • CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH VỀ CÔNG NHẬN THỎA THUẬN CỦA CÁC ĐƯƠNG SỰ TRONG GIAI ĐOẠN CHUẨN BỊ XÉT XỬ VỤ ÁN DÂN SỰ VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT (15)
    • 2.1. Quyền thay đổi ý kiến của đương sự sau hòa giải thành (39)
      • 2.1.1. Bản chất của thỏa thuận giải quyết vụ án (39)
      • 2.1.2. Các quy định của pháp luật liên quan (40)
      • 2.1.3. Kinh nghiệm từ pháp luật nước ngoài (42)
      • 2.1.4. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật (43)
    • 2.2. Điều kiện phải thỏa thuận toàn bộ vụ án (43)
      • 2.2.1. Bản chất của thỏa thuận giải quyết một phần vụ án (44)
      • 2.2.2. Tôn trọng quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự (45)
      • 2.2.3. Kinh nghiệm của pháp luật liên quan (46)
      • 2.2.4. Kinh nghiệm rút từ thực tiễn (47)
      • 2.2.5. Kinh nghiệm từ pháp luật nước ngoài (49)
      • 2.2.6. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật (49)
    • 2.3. Trường hợp có đương sự vắng mặt tại phiên hòa giải (51)
      • 2.3.1. Thỏa thuận về việc giải quyết toàn bộ vụ án không ảnh hưởng đến quyền, nghĩa vụ của đương sự vắng mặt (51)
      • 2.3.2. Việc tiến hành hòa giải khi có đương sự vắng mặt (56)
    • 2.4. Kháng nghị theo theo tục tái thẩm quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự (58)
      • 2.4.1. Tính chất của tái thẩm (58)
      • 2.4.2. Quy định của pháp luật về đối tượng kháng nghị tái thẩm (59)
      • 2.4.3. Thực tiễn xét xử (60)
      • 2.4.4. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật (62)

Nội dung

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÔNG NHẬN SỰ THỎA THUẬN CỦA CÁC ĐƯƠNG SỰ TRONG GIAI ĐOẠN CHUẨN BỊ XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN DÂN SỰ

Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa việc công nhận sự thỏa thuận của các đương sự

sự trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự

Hòa giải là phương thức văn minh và hiệu quả trong việc giải quyết tranh chấp xã hội, được nhiều quốc gia khuyến khích, bao gồm cả Việt Nam Tại đây, hòa giải trong lĩnh vực dân sự đã được chú trọng và nhiều đạo luật liên quan đã được ban hành, đặc biệt là trong Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 Hòa giải được thực hiện qua hai hình thức: hòa giải trong Tòa án và hòa giải ngoài Tòa án Kết quả hòa giải ngoài Tòa án sẽ được Tòa án công nhận nếu có yêu cầu từ các bên, trong khi đó, tại Tòa án, nếu các đương sự đạt được thỏa thuận tự nguyện và không vi phạm pháp luật hay đạo đức xã hội trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm, Tòa án sẽ công nhận thỏa thuận đó Phần này sẽ làm rõ các quy định về công nhận sự thỏa thuận của các đương sự trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm.

1.1.1 Khái niệm công nhận sự thỏa thuận của các đương sự trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự

BLTTDS quy định hòa giải là một nguyên tắc quan trọng trong tố tụng dân sự, yêu cầu Tòa án thực hiện hòa giải và hỗ trợ các đương sự đạt được thỏa thuận trong việc giải quyết vụ án Mặc dù BLTTDS đã quy định nhiều điều luật tại các giai đoạn tố tụng khác nhau, bao gồm cả giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các bên thỏa thuận, nhưng vẫn thiếu một quy định rõ ràng về thuật ngữ liên quan đến hòa giải.

Nguyễn Hòa Bình (2018) nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đổi mới và tăng cường hòa giải, đối thoại trong giải quyết các tranh chấp dân sự và khiếu kiện hành chính Điều này không chỉ đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp mà còn góp phần nâng cao hiệu quả trong công tác giải quyết các vấn đề pháp lý Bài viết được đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân, số 13, trang 1.

11 ngữ CNSTTCCĐS, cũng như định nghĩa về việc CNSTTCCĐS trong giai đoạn CBXXST vụ án dân sự (VADS) Do đó, việc rút ra khái niệm này là cần thiết

 Dưới góc độ ngữ nghĩa tiếng Việt

Công nhận trong tiếng Việt có nghĩa là thừa nhận điều gì đó là đúng, hợp lý và phù hợp với thực tế Điều này bao gồm việc xác nhận rằng một điều gì đó là có thật, tuân thủ các quy tắc và quy định, đồng thời phù hợp với lẽ phải Tóm lại, công nhận là hành động thừa nhận sự đúng đắn và hợp lý của một vấn đề nào đó.

Thỏa thuận là quá trình đạt được sự đồng thuận sau khi đã cân nhắc và thảo luận kỹ lưỡng Sự thống nhất trong thỏa thuận thể hiện sự phù hợp và nhất trí giữa các bên, không có mâu thuẫn Do đó, thỏa thuận chính là kết quả của việc đạt được sự đồng thuận mà không có sự xung đột sau khi đã xem xét và trao đổi ý kiến.

Công nhận sự thỏa thuận đồng nghĩa với việc thừa nhận sự thống nhất ý chí giữa các bên, điều này phải phù hợp với các quy định và lẽ phải Khi các bên đạt được sự thống nhất ý chí, tức là họ đã đồng thuận mà không có mâu thuẫn.

Theo từ điển tiếng Việt, đương sự là người hoặc đối tượng liên quan trong một sự việc nào đó được giải quyết Từ điển Luật học của Viện Khoa học pháp lý (Bộ Tư pháp) định nghĩa đương sự là cá nhân hoặc pháp nhân tham gia tố tụng dân sự, có thể là nguyên đơn, bị đơn, hoặc người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan Đương sự là một phần quan trọng trong nhóm người tham gia tố tụng dân sự tại Tòa.

3 “Từ điển Tiếng Việt”, https://www.informatik.uni-leipzig.de/~duc/Dict/, truy cập ngày 11/5/2021

4 “Từ điển Tiếng Việt”, https://www.informatik.uni-leipzig.de/~duc/Dict/, truy cập ngày 11/5/2021

5 “Từ điển Tiếng Việt”, https://www.informatik.uni-leipzig.de/~duc/Dict/, truy cập ngày 11/5/2021

6 “Từ điển Tiếng Việt”, https://www.informatik.uni-leipzig.de/~duc/Dict/, truy cập ngày 11/5/2021

7 “Từ điển Tiếng Việt”, https://www.informatik.uni-leipzig.de/~duc/Dict/, truy cập ngày 11/5/2021

8 “Từ điển Tiếng Việt”, https://www.informatik.uni-leipzig.de/~duc/Dict/, truy cập ngày 11/5/2021

9 “Từ điển Tiếng Việt”, https://www.informatik.uni-leipzig.de/~duc/Dict/, truy cập ngày 11/5/2021

10 http://tratu.soha.vn/dict/vn_vn/%C4%90%C6%B0%C6%A1ng_s%E1%BB%B1, truy cập ngày 08/6/2021

12 án nhân dân trong các vụ kiện về dân sự, kinh doanh, thương mại, hôn nhân gia đình và lao động” 11

Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự là giai đoạn quan trọng trong quá trình tố tụng, bao gồm các hoạt động như thông báo thụ lý vụ án, xác minh và thu thập chứng cứ, tổ chức phiên họp kiểm tra việc giao nộp và công khai chứng cứ, cũng như hòa giải Giai đoạn này cũng liên quan đến việc giải quyết các yêu cầu về thủ tục tố tụng của đương sự, tống đạt văn bản tố tụng và ra các quyết định tố tụng cần thiết.

Công nhận sự thỏa thuận của các đương sự trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự thể hiện sự thống nhất ý chí, không còn mâu thuẫn giữa các bên Điều này phù hợp với quy định pháp luật và lẽ phải, cho thấy các bên đã đạt được sự nhất trí Việc công nhận này cần được thực hiện trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm để đảm bảo tính hợp pháp và công bằng trong quá trình tố tụng.

 Dưới góc độ khoa học pháp lý

Công nhận sự thỏa thuận của các đương sự trong vụ án dân sự (CNSTTCCĐS) có những đặc điểm riêng biệt: đầu tiên, đây là sự thỏa thuận giữa các bên liên quan trong VADS 12; thứ hai, việc công nhận phải được thực hiện bởi Tòa án theo trình tự nhất định; và thứ ba, quyết định công nhận cần được đảm bảo thi hành bởi quyền lực nhà nước Theo tác giả Lương Thị Thu Hà, CNSTTCCĐS được định nghĩa là hoạt động của Tòa án nhằm thừa nhận sự thống nhất ý chí của các đương sự trong việc giải quyết vụ án, và việc công nhận này phải được thể hiện bằng một văn bản pháp lý có giá trị bắt buộc.

11 Bộ Tư pháp - Viện Khoa học pháp lý (2005), Từ điển Luật học, Nxb Tư pháp, tr 278

Trong vụ án dân sự (VADS), khi có sự tranh chấp giữa các đương sự, Tòa án cần tạo điều kiện thuận lợi để họ có thể thương thảo và đạt được thỏa thuận giải quyết Điều này giúp giảm thiểu xung đột và tiến tới việc chấm dứt tranh chấp theo quy định của pháp luật.

Bản án và quyết định của tòa án đã có hiệu lực pháp luật cần được thi hành và tôn trọng bởi các cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan, theo quy định tại Điều 19 Bộ luật Tố tụng dân sự Việc chấp hành nghiêm chỉnh các bản án này là trách nhiệm của mọi bên liên quan.

13 theo thủ tục luật định, được đảm bảo thi hành bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước” 14

Quan điểm nêu trên khẳng định rằng việc công nhận sự thỏa thuận giữa các đương sự trong vụ án dân sự là sự thừa nhận thống nhất và không mâu thuẫn, phù hợp với các quy định pháp luật và lẽ phải Đồng thời, nó cũng nhấn mạnh rằng việc công nhận này phải được thực hiện bởi Tòa án theo trình tự, thủ tục luật định, và được đảm bảo thi hành bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước Do đó, định nghĩa này có giá trị tham khảo cao trong lĩnh vực pháp lý.

Khái niệm CNSTTCCĐS VADS áp dụng cho tất cả các giai đoạn tố tụng, nhưng trong giai đoạn CBXXST, khái niệm này chỉ mang tính chất chung và không thể hiện đầy đủ các đặc tính riêng biệt của giai đoạn này Việc công nhận sự thỏa thuận trong giai đoạn CBXXST cần diễn ra trong quá trình chuẩn bị xét xử sơ thẩm và phải thông qua hoạt động hòa giải.

Công nhận sự thỏa thuận của các đương sự trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự là một hoạt động quan trọng do Tòa án thực hiện, nhằm xác nhận rằng các đương sự đã đạt được sự đồng thuận về việc giải quyết vụ án Quá trình này cần thông qua hoạt động hòa giải và được ghi nhận bằng văn bản pháp lý có giá trị bắt buộc, tuân thủ theo thủ tục luật định, với sự bảo đảm thi hành bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước.

1.1.2 Đặc điểm công nhận sự thỏa thuận của các đương sự trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự

Quá trình hoàn thiện, phát triển chế định về công nhận sự thỏa thuận của các đương sự trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự

Nhìn chung, quá trình hoàn thiện và phát triển quy định về CNSTTCCĐS trong giai đoạn CBXXST VADS Việt Nam trải qua các giai đoạn sau:

Giai đoạn từ năm 1945 đến 1989, nền tư pháp của chế độ dân chủ nhân dân đã được hình thành và phát triển từng bước Theo Sắc lệnh số 47 ngày 10/10/1945, các luật lệ ở Bắc, Trung, Nam vẫn được giữ nguyên cho đến khi có bộ luật mới, miễn là không trái với nguyên tắc độc lập của nước Việt Nam và chính thể cộng hòa Do đó, các quy định liên quan đến CNSTTCCĐS trước đó vẫn được áp dụng trên toàn quốc nếu đáp ứng các yêu cầu này.

Sau đó, nhiều sắc lệnh quy định về việc cải cách tổ chức Tòa án đã được ban hành, trong đó có Sắc lệnh số 13/SL ngày 24/01/1946, nhằm thiết lập các quy định cụ thể cho hoạt động của Tòa án.

Nguyễn Hòa Bình (2018) trong bài viết “Đổi mới, tăng cường hòa giải, đối thoại trong quá trình giải quyết các tranh chấp dân sự, khiếu kiện hành chính đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp” đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân, số 13, trang 3-4, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đổi mới và tăng cường các phương thức hòa giải và đối thoại trong giải quyết tranh chấp dân sự và khiếu kiện hành chính, nhằm đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp hiện nay.

Chế định hòa giải trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam được phân tích một cách sâu sắc trong luận án Tiến sĩ của Trần Văn Quảng (2004), tập trung vào cơ sở lý luận và thực tiễn, góp phần làm rõ vai trò của hòa giải trong việc giải quyết tranh chấp dân sự Luận án này được thực hiện tại Trường Đại học Luật Hà Nội và có giá trị tham khảo quan trọng cho nghiên cứu pháp luật hiện hành.

Ban tư pháp xã có quyền hòa giải tất cả các vụ việc dân sự và thương mại Nếu hòa giải thành công, biên bản hòa giải sẽ được lập và có chữ ký của các ủy viên cùng những người liên quan Theo Sắc lệnh số 51/SL ngày 17/4/1946, khi nhận đơn khởi kiện, Thẩm phán sơ cấp phải yêu cầu hai bên thử hòa giải, và biên bản hòa giải có hiệu lực công chứng Sắc lệnh số 85/SL ngày 22/5/1950 quy định rằng Tòa án nhân dân huyện sẽ họp hội đồng hòa giải cho tất cả các vụ kiện dân sự và thương mại, trừ những vụ không có quyền điều đình Biên bản hòa giải là công chứng thư có thể thi hành ngay, nhưng Biện lý có quyền yêu cầu Tòa án sửa đổi nếu biên bản vi phạm trật tự chung Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 1960 quy định nhiệm vụ hòa giải cho Tòa án nhân dân huyện và các đơn vị hành chính tương đương Thông tư số 25-TATC ngày 30/11/1974 xác nhận rằng quyết định công nhận hòa giải thành có hiệu lực như bản án Từ năm 1975, miền Nam được giải phóng, có thêm quy định về việc công nhận thỏa thuận.

Bài viết của Nguyễn Phương Hạnh (2012) tập trung vào việc tìm hiểu quyền định đoạt của đương sự theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự Việt Nam Tác giả phân tích các quy định pháp lý liên quan và vai trò của đương sự trong quá trình tố tụng, nhấn mạnh tầm quan trọng của quyền này trong việc bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các bên liên quan Nghiên cứu này được xuất bản bởi NXB Chính trị Quốc gia – Sự thật, trang 32.

Sắc lệnh số 51/SL của Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngày 17/4/1946 quy định 26 điều về thẩm quyền của Tòa án, đồng thời xác định rõ sự phân công nhiệm vụ giữa các nhân viên trong Tòa án.

Sắc lệnh số 51/SL của Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngày 17/4/1946 quy định rõ thẩm quyền của Tòa án và phân công nhiệm vụ giữa các nhân viên trong Tòa án Điều 12 của sắc lệnh này nêu bật vai trò quan trọng của Tòa án trong việc duy trì công lý và quản lý các hoạt động tư pháp, đồng thời xác định trách nhiệm cụ thể của từng cá nhân trong hệ thống Tòa án, nhằm đảm bảo sự hiệu quả và minh bạch trong quá trình xét xử.

28 Điều 9 Sắc lệnh số 85/SL của Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngày 22/5/1950 về cải cách bộ máy tư pháp và luật tố tụng

29 Điều 10 Sắc lệnh số 85/SL của Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngày 22/5/1950 về cải cách bộ máy tư pháp và luật tố tụng

Lương Thị Thu Hà (2016) đã nghiên cứu về việc công nhận sự thỏa thuận của đương sự trong tố tụng dân sự tại Việt Nam trong luận văn thạc sĩ Luật học của mình, được thực hiện tại Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh Nghiên cứu này đóng góp vào việc hiểu rõ hơn về vai trò của sự thỏa thuận trong quy trình tố tụng dân sự, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc công nhận các thỏa thuận này để đảm bảo tính công bằng và hiệu quả trong hệ thống pháp luật.

21 nhiều văn bản trong các tranh chấp về thừa kế, lao động, hay giải quyết tranh chấp có yếu tố nước ngoài 31

Giai đoạn từ năm 1990 đến trước khi BLTTDS ra đời, ngày 07/12/1989,

Hội đồng Nhà nước đã ban hành Pháp lệnh số 27-LCT/HĐNN8 32, quy định thủ tục giải quyết các vụ án dân sự (VADS), đánh dấu văn bản pháp luật đầu tiên pháp điển hóa nội dung cơ bản của pháp luật tố tụng dân sự (TTDS) Điều 44 của Pháp lệnh nêu rõ rằng, khi các đương sự đạt được thỏa thuận trong vụ án, Tòa án sẽ lập biên bản hòa giải thành và gửi bản sao cho Viện kiểm sát cùng cấp và tổ chức xã hội khởi kiện vì lợi ích chung Nếu trong vòng mười lăm ngày có sự thay đổi ý kiến từ các đương sự hoặc phản đối từ Viện kiểm sát, Tòa án sẽ đưa vụ án ra xét xử Ngược lại, nếu không có sự thay đổi hay phản đối, Tòa án sẽ ra quyết định công nhận thỏa thuận, quyết định này có hiệu lực pháp luật.

Vào ngày 29/3/1994, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế đã được ban hành và chính thức có hiệu lực từ ngày 01/7/1994.

Theo quy định tại Điều 36, trước khi mở phiên toà, Toà án phải tiến hành hoà giải để các đương sự có thể thoả thuận về việc giải quyết vụ án Nếu các đương sự đạt được sự thoả thuận, Toà án sẽ lập biên bản hoà giải thành và ra quyết định công nhận sự thoả thuận này, quyết định có hiệu lực pháp luật Tương tự, Pháp lệnh thủ tục giải quyết tranh chấp lao động ngày 11/4/1996 cũng quy định tại Điều 38 rằng Toà án cần tiến hành hoà giải trước khi quyết định mở phiên toà, nhằm tạo điều kiện cho các bên thoả thuận về giải quyết vụ án Nếu hoà giải thành công, Toà án sẽ lập biên bản và ra quyết định công nhận sự thoả thuận, có hiệu lực pháp luật.

31 Xem thêm Lương Thị Thu Hà (2016), Công nhận sự thỏa thuận của đương sự trong tố tụng dân sự Việt

Nam, Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, tr 21-22

32 Có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/1990

Ngày 15/6/2004, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 được ban hành, nhấn mạnh quy định về CNSTTCCĐS Cụ thể, tại khoản 1 Điều 187, trong giai đoạn CBXXST, nếu sau bảy ngày kể từ ngày lập biên bản hòa giải thành mà không có đương sự nào thay đổi ý kiến về sự thỏa thuận, thì Thẩm phán chủ trì phiên hòa giải hoặc một Thẩm phán được Chánh án Tòa án phân công sẽ ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự.

Bài viết này tóm tắt quá trình hình thành và phát triển của các quy định về CNSTTCCĐS trong giai đoạn CBXXST của TTDS Việt Nam từ năm 1945 đến trước khi BLTTDS năm 2015 ra đời Phần tiếp theo sẽ phân tích cụ thể các quy định hiện hành.

THỰC TRẠNG ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH VỀ CÔNG NHẬN THỎA THUẬN CỦA CÁC ĐƯƠNG SỰ TRONG GIAI ĐOẠN CHUẨN BỊ XÉT XỬ VỤ ÁN DÂN SỰ VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT

Quyền thay đổi ý kiến của đương sự sau hòa giải thành

Theo quy định tại khoản 1 Điều 212 Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS), các đương sự có quyền thay đổi ý kiến sau khi hòa giải thành Cụ thể, nếu trong thời hạn 07 ngày kể từ khi lập biên bản hòa giải mà không có đương sự nào thay đổi ý kiến về thỏa thuận, Thẩm phán chủ trì hoặc Thẩm phán được phân công sẽ ra quyết định công nhận thỏa thuận của các bên Pháp luật không quy định Tòa án phải ra quyết định ngay lập tức nhằm đảm bảo quyền lợi của các đương sự trong quá trình hòa giải.

Quy định về việc CNSTTCCĐS phải chờ 07 ngày sau biên bản hòa giải thành nhằm tạo thời gian cho các đương sự xem xét thỏa thuận của mình, tuy nhiên, điều này có thể dẫn đến những sai lầm do sự chần chừ Việc ra quyết định CNSTTCCĐS ngay sau khi lập biên bản hòa giải thành sẽ hợp lý hơn, giúp bảo vệ quyền lợi chính đáng của các bên và tránh tình trạng thỏa thuận không đảm bảo quyền lợi do sự vội vàng.

2.1.1 Bản chất của thỏa thuận giải quyết vụ án

Pháp luật tôn trọng quyền tự quyết của đương sự, cho phép họ thỏa thuận về việc giải quyết vụ án, coi đó là một dạng giao dịch dân sự Sự thỏa thuận này được ghi nhận trong biên bản hòa giải thành và có hiệu lực từ thời điểm giao kết, theo nguyên tắc tôn trọng sự thỏa thuận của các bên Mọi sửa đổi hoặc chấm dứt phải tuân theo thỏa thuận tiếp theo giữa các bên, do đó, pháp luật không quy định Tòa án phải ngay lập tức công nhận sự thỏa thuận của đương sự.

67 Xem thêm Trần Anh Tuấn (2016), Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng dân sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, NXB Tư pháp, tr 504

68 Xem thêm Bùi Thị Huyền (2007), “Về sự thỏa thuận của các đương sự tại phiên tòa sơ thẩm dân sự”, Tạp chí Luật học, số 07, tr 25

69 Trừ khi luật có quy định khác

Việc quy định thời hạn 07 ngày sau khi lập biên bản hòa giải thành không phù hợp với bản chất thỏa thuận giữa các bên liên quan trong quá trình giải quyết vụ án.

Thời hạn 07 ngày kể từ ngày lập biên bản hòa giải nhằm mục đích cho các đương sự có thời gian suy nghĩ và cân nhắc kỹ lưỡng về thỏa thuận của mình Điều này giúp họ có cơ hội sửa chữa những sai lầm có thể xảy ra do sự vội vàng trong quá trình đưa ra quyết định Tuy nhiên, cách giải thích này vẫn chưa hoàn toàn thuyết phục.

Tòa án có trách nhiệm hòa giải và tạo điều kiện cho các đương sự thỏa thuận giải quyết vụ án Trong trường hợp các bên còn phân vân, Thẩm phán sẽ tổ chức các phiên họp tiếp theo để giúp họ đưa ra quyết định chắc chắn Việc tạo điều kiện cho các đương sự có thêm thời gian suy nghĩ có thể dẫn đến tâm lý vội vàng, không nghiêm túc trong phiên hòa giải, vì họ vẫn có "cơ hội" sửa chữa sai lầm Do đó, điều này sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng và hiệu quả của công tác hòa giải trong tố tụng dân sự.

Dựa trên các phân tích đã nêu, không có lý do hợp lý nào để trì hoãn quyết định công nhận thỏa thuận giữa các đương sự theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự hiện hành.

2.1.2 Các quy định của pháp luật liên quan

Theo Nghị định số 22/2017/NĐ-CP của Chính phủ về hòa giải thương mại, việc thỏa thuận giải quyết tranh chấp ngoài Tòa án được thể hiện qua biên bản hòa giải thành Khi các bên đạt được kết quả hòa giải, họ cần lập văn bản ghi nhận kết quả này, và văn bản này có hiệu lực thi hành đối với các bên theo quy định của pháp luật dân sự Điều này có nghĩa là văn bản hòa giải thành sẽ ràng buộc các bên trong việc thực hiện các cam kết đã thỏa thuận.

Chỉ thị số 04/2017/CT-CA của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, ban hành ngày 03/10/2017, nhấn mạnh việc tăng cường công tác hòa giải tại Tòa án nhân dân Mục tiêu của chỉ thị là nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp, giảm tải cho hệ thống tòa án, đồng thời khuyến khích các bên tự thương lượng và đạt được thỏa thuận Việc thực hiện hòa giải không chỉ giúp tiết kiệm thời gian và chi phí cho các bên liên quan mà còn góp phần xây dựng môi trường pháp lý hòa bình và ổn định.

71 Điều 15 Nghị định số 22/2017/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/2017 quy định về hòa giải thương mại

Khi một bên không thực hiện hoặc thực hiện không đúng kết quả hòa giải, bên đó sẽ phải chịu trách nhiệm pháp lý như vi phạm hợp đồng Để công nhận kết quả hòa giải ngoài Tòa án, các bên tham gia phải có đủ năng lực hành vi dân sự và quyền, nghĩa vụ liên quan đến thỏa thuận Nếu có quyền lợi của bên thứ ba, cần có sự đồng ý của họ Ngoài ra, phải có yêu cầu từ một hoặc cả hai bên và nội dung thỏa thuận phải hoàn toàn tự nguyện, không vi phạm pháp luật hay đạo đức xã hội Tòa án không xem xét việc thay đổi ý kiến của các bên và sẽ công nhận kết quả hòa giải nếu các điều kiện được đáp ứng, quyết định này sẽ được thi hành theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự.

Biên bản hòa giải thành ngoài Tòa án không cho phép các bên thay đổi ý kiến, và việc công nhận kết quả hòa giải chỉ nhằm đảm bảo thỏa thuận được thực hiện Ngược lại, biên bản hòa giải thành tại Tòa án không có giá trị pháp lý và luật cho phép các bên thay đổi ý kiến trong vòng 07 ngày kể từ ngày lập biên bản Nếu không có ai thay đổi ý kiến, Tòa án sẽ ra quyết định công nhận sự thỏa thuận, dẫn đến một sự "không công bằng" trong việc giải quyết vụ án.

Trong nghiên cứu về pháp luật Tố tụng dân sự (TTDS) Việt Nam giai đoạn trước, Sắc lệnh số 85/SL ngày 22/5/1950 đã quy định rằng biên bản hòa giải thành có hiệu lực pháp lý ngay lập tức Cụ thể, Tòa án nhân dân huyện sẽ họp thành hội đồng hòa giải để thử hòa giải tất cả các vụ kiện.

72 Điều 16 Nghị định số 22/2017/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/02/217 quy định về hòa giải thương mại

Biên bản hòa giải trong lĩnh vực dân sự và thương mại, bao gồm cả việc xin ly dị, có tính chất như một công chứng thư và có thể được thi hành ngay Tuy nhiên, trong thời gian chờ thi hành, nếu Biện lý nhận thấy biên bản vi phạm trật tự công cộng, họ có quyền yêu cầu Tòa án sửa đổi hoặc bác bỏ thỏa thuận giữa các bên Thời hạn kháng cáo là 15 ngày kể từ khi Biện lý nhận biên bản hòa giải thành Những quy định này được đưa ra trong bối cảnh Việt Nam vừa giành lại độc lập từ thực dân Pháp, có thể được ảnh hưởng bởi pháp luật Pháp Mặc dù tác giả không khẳng định điều này, nhưng có thể nhận thấy sự tương đồng giữa Sắc lệnh số 85/SL và pháp luật Pháp hiện hành.

Nghị định số 22/2017 và Sắc lệnh số 85/SL cần được xem xét kỹ lưỡng về giá trị pháp lý của biên bản hòa giải thành, đồng thời bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) cũng cần rút ra bài học để khắc phục những bất cập đã nêu.

2.1.3 Kinh nghiệm từ pháp luật nước ngoài

Khi nghiên cứu về pháp luật quốc tế, Điều 267 Luật TTDS Nhật Bản quy định rằng biên bản hòa giải có hiệu lực tương tự như phán quyết cuối cùng, cho phép cưỡng chế thi hành Biên bản này sẽ có hiệu lực ngay khi Thẩm phán đóng dấu, mà không cần đương sự lập giấy thỏa thuận hòa giải Tương tự, Điều 29 Luật Hòa giải tư pháp tranh chấp dân sự Hàn Quốc cũng nêu rõ rằng nội dung thỏa thuận giữa các đương sự sẽ được ghi vào biên bản hòa giải.

74 Điều 9 Sắc lệnh số 85/SL của Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngày 22/5/1950 về cải cách bộ máy tư pháp và luật tố tụng

75 Điều 10 Sắc lệnh số 85/SL của Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngày 22/5/1950 về cải cách bộ máy tư pháp và luật tố tụng

76 Tại Sắc lệnh số 47/SL của Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngày 10/10/1945 quy định:

Điều kiện phải thỏa thuận toàn bộ vụ án

78 Phan Thị Thu Hà, Hà Lệ Thủy (2019), “Chế định hòa giải gắn với Tòa án tại Hàn Quốc”, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 03, tr 41

79 Các Điều 130, 131 Bộ luật Tố tụng dân sự Cộng hòa Pháp (1998) (Bộ luật Tố tụng dân sự của nước Cộng hòa Pháp, NXB Chính trị Quốc gia, tr 37)

Điều 80 BLTTDS quy định về thủ tục Giải quyết tranh chấp để xem xét lại Quyết định công nhận sự thỏa thuận nếu có căn cứ cho rằng thỏa thuận đó được hình thành do nhầm lẫn, lừa dối, đe dọa, cưỡng ép hoặc vi phạm các điều cấm của pháp luật, trái với đạo đức xã hội.

Khoản 2 Điều 212 BLTTDS quy định “Thẩm phán chỉ ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự nếu các đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án” Điều này có nghĩa rằng nếu đương sự chỉ thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết một phần vụ án, còn phần khác không thỏa thuận được, thì Tòa án ghi những vấn đề mà các đương sự thỏa thuận được và những vấn đề không thỏa thuận được vào biên bản hòa giải và tiến hành ra quyết định đưa vụ án ra xét xử Có lẽ các nhà làm luật “không muốn” ban hành hai văn bản bao gồm Quyết định công nhận thỏa thuận của các đương sự và Bản án sơ thẩm giải quyết vụ án dân sự trong cùng một vụ án, bởi lẽ hai văn bản này “lệch pha” nhau về hiệu lực và cùng có ý nghĩa chấm dứt quy trình tố tụng giải quyết vụ án dân sự Tuy nhiên, tác giả cho rằng quy định này chưa thật sự thỏa đáng, đặc biệt là đối với những vụ án có nhiều phần hoặc nhiều quan hệ pháp luật tranh chấp có tính độc lập tương đối Sau đây, tác giả phân tích một số khía cạnh để chứng minh rằng việc phải tạo ra cơ chế công nhận sự thỏa thuận giải quyết một phần vụ án là cần thiết

2.2.1 Bản chất của thỏa thuận giải quyết một phần vụ án

Thỏa thuận giải quyết một phần vụ án được coi là một giao dịch dân sự, cụ thể là hợp đồng dân sự, và theo nguyên tắc tôn trọng thỏa thuận của các bên, hợp đồng hợp pháp sẽ có hiệu lực từ thời điểm giao kết Việc BLTTDS không công nhận thỏa thuận này là trái với bản chất của thỏa thuận giữa các đương sự Hậu quả là nếu trong phiên tòa sơ thẩm, một bên thay đổi ý kiến hoặc kháng cáo phần nội dung đã thỏa thuận, nguyên tắc tôn trọng cam kết sẽ bị vi phạm Pháp luật bảo vệ quyền tự định đoạt của các đương sự, yêu cầu họ phải tôn trọng thỏa thuận đã đạt được.

81 Khoản 2 Điều 3 Bộ luật Dân sự năm 2015

82 Xem thêm Phạm Thị Thúy (2018), “Giá trị pháp lý của thỏa thuận tiền tố tụng và thỏa thuận trong tố tụng”,

Tạp chí Tòa án nhân dân, số 23, tr 18

Quyền xác lập các giao dịch dân sự được nhà nước bảo vệ, tuy nhiên, khi một giao dịch dân sự đã có hiệu lực, việc sửa đổi hoặc chấm dứt giao dịch đó phải tuân theo quy định của pháp luật hoặc dựa trên thỏa thuận mới giữa các bên thay thế thỏa thuận ban đầu.

Có quan điểm cho rằng, khi các bên tranh chấp đạt được thỏa thuận về một phần nội dung, nhưng phần còn lại có liên quan chặt chẽ, Tòa án không thể vừa công nhận thỏa thuận vừa ra bản án giải quyết mối quan hệ pháp luật tranh chấp Điều này dẫn đến việc hiệu lực của quyết định công nhận sự thỏa thuận và hiệu lực của bản án sơ thẩm không đồng nhất.

Thỏa thuận giải quyết một phần vụ án được hiểu là việc các bên liên quan đạt được sự đồng thuận về một số nội dung tranh chấp có liên quan chặt chẽ với nhau Nếu các đương sự không thể giải quyết hết tất cả các nội dung này, Tòa án sẽ không công nhận quyết định hợp lý Tuy nhiên, trong trường hợp các đương sự đã thực sự giải quyết một phần của vụ án, không có lý do hợp lý nào để không công nhận các thỏa thuận này, ngay cả khi chúng chỉ giải quyết một phần vụ án.

2.2.2 Tôn trọng quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự Để giải thích quy định này, một số ý kiến cho rằng, tuy không ra quyết định công nhận thỏa thuận giải quyết một phần vụ án, nhưng toàn bộ nội dung vụ án vẫn được Tòa án đưa ra xem xét tại phiên tòa sơ thẩm và việc thỏa thuận của các đương sự giải quyết một phần vụ án cũng sẽ được Tòa án ghi nhận trong bản án nếu các bên vẫn không thay đổi ý kiến tại phiên tòa, từ đó vẫn đảm bảo được nguyên tắc tôn trọng quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự 86 Tuy nhiên, ý kiến này

83 Điều này đã được dẫn tại mục 2.1 chương này

84 Xem thêm Bùi Thị Huyền (2007), Về sự thỏa thuận của các đương sự tại phiên tòa sơ thẩm dân sự, Tạp chí

Trong vụ án có nhiều quan hệ tranh chấp độc lập, các đương sự có thể thỏa thuận giải quyết một trong những quan hệ tranh chấp đó.

86 Xem thêm Bùi Thị Huyền (2007), “Về sự thỏa thuận của các đương sự tại phiên tòa sơ thẩm dân sự”, Tạp

Việc giải quyết các vấn đề trong vụ án tại giai đoạn CBXXST và phiên tòa sơ thẩm dẫn đến hậu quả pháp lý khác nhau, ví dụ như tiền án phí có thể gấp đôi nếu các bên không thỏa thuận trước khi mở phiên tòa Quyết định công nhận STTCCĐS có hiệu lực ngay khi ban hành và không thể kháng cáo, trong khi bản án sơ thẩm không có hiệu lực ngay và cho phép kháng cáo Nguyên tắc tôn trọng quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự được thể hiện qua quy định về STTCCĐS, nhưng điều này không được đảm bảo khi CNSTTCCĐS được thông qua bản án sơ thẩm, dẫn đến việc không thể khẳng định rằng việc giải quyết toàn bộ vụ án tại phiên tòa sơ thẩm vẫn đảm bảo nguyên tắc này.

2.2.3 Kinh nghiệm của pháp luật liên quan

Theo khoản 6 Điều 32 Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án năm 2020, việc công nhận thỏa thuận giữa các bên chỉ được thực hiện khi nội dung thỏa thuận không liên quan đến các phần khác của tranh chấp Quyết định công nhận hòa giải thành tại Tòa án sẽ được thi hành theo quy định về thi hành án dân sự Mặc dù có sự tương đồng trong việc giải quyết vụ việc dân sự qua hòa giải, nhưng nếu áp dụng Luật Hòa giải, Tòa án có thể công nhận thỏa thuận giải quyết một phần vụ án, miễn là phần nội dung này không liên quan đến các phần tranh chấp khác Các luận điểm trong Bộ luật Tố tụng dân sự cũng có thể được tham khảo trong việc công nhận thỏa thuận tại phiên hòa giải.

87 Xem thêm Trần Anh Tuấn (2016), Bình luận khoa học BLTTDS của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt

Nam, NXB Tư pháp, tr 505

88 Khoản 2 Điều 35 Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án năm 2020

Hòa giải theo Luật Hòa giải và đối thoại tại Tòa án đều là những phương thức giải quyết tranh chấp, nhưng có sự khác biệt quan trọng Cụ thể, hòa giải theo Luật Hòa giải diễn ra trước khi Tòa án thụ lý vụ án, trong khi hòa giải theo Bộ luật Tố tụng dân sự được thực hiện sau khi vụ án đã được Tòa án thụ lý.

41 dân sự thì Tòa án không được ra quyết định công nhận thỏa thuận giải quyết một phần vụ án là một thiếu sót của BLTTDS

Luật hòa giải, đối thoại tại Tòa án năm 2020 cần được xem xét lại để cải thiện khả năng ra quyết định công nhận thỏa thuận giải quyết một phần vụ án Cần "học hỏi" từ những bất cập đã được nêu ra trong các luận điểm trước đó nhằm nâng cao tính hợp lý và hiệu quả của quy định này trong thực tiễn.

2.2.4 Kinh nghiệm rút từ thực tiễn

Hiện nay, pháp luật không cho phép Tòa án công nhận thỏa thuận giải quyết một phần vụ án, dẫn đến việc không có vụ án nào được công nhận theo hướng này Tuy nhiên, không phải tất cả các vụ án đều ghi nhận những vấn đề thỏa thuận và không thỏa thuận vào biên bản hòa giải, và Tòa án vẫn có thể ra quyết định đưa vụ án ra xét xử Trong nhiều trường hợp, Tòa án đã tách vụ án và công nhận thỏa thuận, tiếp tục xét xử phần còn lại mà các đương sự không đạt được thỏa thuận Để làm rõ thực tiễn xét xử này, cần xem xét một số ví dụ cụ thể.

Trong trường hợp A khởi kiện ly hôn B và yêu cầu chia tài sản chung, C đã yêu cầu A và B thanh toán khoản nợ 80 triệu đồng Tại phiên hòa giải, A và B đã thảo luận về vấn đề này.

B đã thỏa thuận trở về đoàn tụ nhưng C vẫn giữ nguyên yêu cầu đòi nợ 91

D đã khởi kiện ly hôn với E, liên quan đến việc tranh chấp nuôi con và chia tài sản chung Sau quá trình hòa giải, cả hai đã đồng ý ly hôn và thỏa thuận về việc nuôi con, chỉ còn lại tranh chấp về tài sản.

Trường hợp có đương sự vắng mặt tại phiên hòa giải

Khoản 3 Điều 212 BLTTDS quy định rằng: “trong trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 210 của Bộ luật này mà các đương sự có mặt thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án thì thỏa thuận đó có giá trị đối với những người có mặt và được Thẩm phán ra quyết định công nhận nếu không ảnh hưởng đến quyền, nghĩa vụ của đương sự vắng mặt Trường hợp thỏa thuận của họ có ảnh hưởng đến quyền, nghĩa vụ của đương sự vắng mặt thì thỏa thuận này chỉ có giá trị và được Thẩm phán ra quyết định công nhận nếu được đương sự vắng mặt tại phiên hòa giải đồng ý bằng văn bản” Quy định này có hai vấn đề được tác giả phân tích riêng biệt thành hai phần như sau:

2.3.1 Thỏa thuận về việc giải quyết toàn bộ vụ án không ảnh hưởng đến quyền, nghĩa vụ của đương sự vắng mặt

Khoản 3 Điều 212 BLTTDS quy định “trong trường hợp quy định tại khoản

Theo Điều 210 của Bộ luật này, nếu các đương sự có mặt thỏa thuận về việc giải quyết vụ án, thỏa thuận đó chỉ có giá trị với những người có mặt và cần được Thẩm phán công nhận, miễn là không ảnh hưởng đến quyền và nghĩa vụ của đương sự vắng mặt Tuy nhiên, hiện tại, Bộ luật Tố tụng dân sự chưa có hướng dẫn cụ thể về các trường hợp mà thỏa thuận giải quyết toàn bộ vụ án của đương sự có mặt sẽ không ảnh hưởng đến quyền, nghĩa vụ của đương sự vắng mặt, dẫn đến nhiều tranh cãi trong thực tiễn.

Trong nghiên cứu và tham khảo ý kiến từ những người làm công tác thực tiễn, tác giả đã đưa ra ba ví dụ điển hình để phân tích ảnh hưởng của thỏa thuận giải quyết vụ án giữa các đương sự có mặt đến đương sự vắng mặt Qua đó, tác giả chứng minh rằng việc xây dựng một văn bản hướng dẫn cho quy định này là cần thiết và hợp lý.

Trong một vụ án tranh chấp thừa kế, ông A và ông B đang tranh chấp về tài sản thừa kế là căn nhà do cha của họ để lại Ông A đã nộp đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giao cho ông quyền sở hữu căn nhà, đồng thời cam kết sẽ hoàn trả giá trị phần tài sản cho ông B Hiện tại, căn nhà này đang được ông C cư trú.

Tại phiên họp hòa giải đầu tiên, C đã vắng mặt không lý do, khiến A và B đề nghị hoãn phiên hòa giải Trong phiên họp kiểm tra giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ thứ hai, tình hình vẫn chưa được cải thiện.

C vẫn tiếp tục vắng mặt Tòa án tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ mà không tiến hành hòa giải

Trong quá trình kiểm tra giao nộp và tiếp cận công khai chứng cứ, A đã thay đổi yêu cầu khởi kiện từ việc chia tài sản theo hiện vật sang yêu cầu Tòa án xác định di sản là tài sản chung và quyền sở hữu của từng người A cũng yêu cầu Tòa án tiến hành hòa giải ngay Tòa án đồng ý hòa giải vắng mặt C, và A cùng B đã thống nhất thỏa thuận về việc xác định tài sản chung và phần sở hữu của mỗi người, cụ thể là một căn nhà Cuối cùng, Tòa án đã công nhận sự thỏa thuận của A và B theo đúng nội dung đã thỏa thuận.

Trong vụ án này, ông A yêu cầu Tòa án chia di sản thừa kế, nhận hiện vật và chia giá trị cho ông B Nếu Tòa án chấp thuận yêu cầu này, tài sản tranh chấp có thể bị thi hành án, ảnh hưởng đến C, người đang cư trú Do đó, C cần được đưa vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan.

Nếu C không có mặt tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, và cũng không gửi văn bản ý kiến về vụ án, Tòa án không thể tổ chức phiên hòa giải theo khoản 3 Điều 209 BLTTDS, vì điều này ảnh hưởng đến quyền và nghĩa vụ của đương sự vắng mặt Do đó, việc Tòa án hoãn phiên họp là đúng theo quy định của pháp luật.

Sau khi Tòa án mở lại phiên họp, C vẫn vắng mặt và không có văn bản ý kiến, do đó, Tòa án quyết định tổ chức phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ theo khoản 1 Điều 207 BLTTDS 99 mà không tiến hành hòa giải.

Tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận và công khai chứng cứ, A đã căn cứ theo điểm a khoản 2 Điều 210 BLTTDS để thay đổi yêu cầu khởi kiện Cụ thể, A đã chuyển đổi yêu cầu từ việc chia tài sản theo hiện vật và chia giá trị cho B sang yêu cầu Tòa án xác định di sản là tài sản chung, đồng thời xác định phần quyền sở hữu của từng bên.

Tác giả đã tiến hành khảo sát 98 tình huống tại Tòa án quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh Mặc dù không xác định được số hiệu vụ án, nhưng đây là một vụ án có thật, trong đó Thẩm phán đã ra quyết định về việc công nhận sự thật trong tranh chấp dân sự.

Theo Khoản 1 Điều 207 Bộ luật Tố tụng Dân sự, các vụ án dân sự không thể tiến hành hòa giải nếu bị đơn hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn cố tình vắng mặt.

47 người đã yêu cầu Tòa án ghi vào biên bản phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận và công khai chứng cứ, đồng thời yêu cầu Tòa án tổ chức hòa giải ngay lập tức.

Tòa án chấp nhận việc thay đổi yêu cầu khởi kiện của A trong phạm vi khởi kiện ban đầu, vì điều này không ảnh hưởng đến quyền lợi và nghĩa vụ của C trong toàn bộ vụ án Việc giải quyết yêu cầu khởi kiện mới sẽ không dẫn đến việc phát mãi tài sản, do đó, nếu A và B đạt được thỏa thuận về việc xác định tài sản chung và phần sở hữu của mỗi người, Tòa án có thể ra quyết định công nhận sở hữu tài sản chung Nếu C cảm thấy quyền lợi và nghĩa vụ của mình bị ảnh hưởng, C có quyền khởi kiện một vụ án khác.

Dựa trên những phân tích, việc thay đổi yêu cầu khởi kiện đã làm cho thỏa thuận giữa các đương sự có mặt không còn tác động đến quyền lợi và nghĩa vụ của đương sự vắng mặt Điều này chứng minh rằng quy định tại khoản 3 Điều 212 Bộ luật Tố tụng Dân sự có thể được áp dụng trong thực tiễn.

Kháng nghị theo theo tục tái thẩm quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự

Theo tác giả, về lâu dài, khi có điều kiện sửa đổi, bổ sung BLTTDS năm

2015 thì vấn đề này cần được luật hóa

2.4 Kháng nghị theo theo tục tái thẩm quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự

Khoản 2 Điều 213 BLTTDS quy định “quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự chỉ có thể bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm nếu có căn cứ cho rằng sự thỏa thuận đó là do bị nhầm lẫn, lừa dối, đe dọa, cưỡng ép hoặc vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội” Có thể thấy, theo quy định hiện hành thì thủ tục xét lại của quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự chỉ được quy định là thủ tục GĐT mà không đề cập đến khả năng tái thẩm của quyết định này Do đó, ngay từ khi BLTTDS ra đời, đã tồn tại quan điểm trái chiều về khả năng tái thẩm của quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự Tác giả cho rằng việc tái thẩm đối với quyết định này là hoàn toàn có thể, bởi những lý do như sau:

2.4.1 Tính chất của tái thẩm

Tái thẩm là quá trình xem xét lại bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật, khi có kháng nghị do phát hiện tình tiết mới có khả năng thay đổi nội dung cơ bản của bản án hoặc quyết định Những tình tiết này thường không được biết đến bởi Tòa án và các đương sự tại thời điểm ra quyết định.

Thủ tục tái thẩm được khởi động khi xuất hiện tình tiết mới, tức là những thông tin đã tồn tại trước đó nhưng không được Tòa án và các đương sự biết đến.

106 Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2020), Giáo trình Luật Tố tụng dân sự Việt Nam, Nhà

Khi Tòa án ra bản án hoặc quyết định và sau đó phát hiện tình tiết mới, nội dung bản án cần được điều chỉnh để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của đương sự Các vụ án được giải quyết bằng quyết định công nhận sự thỏa thuận vẫn có thể có tình tiết mới, dẫn đến việc cần xem xét lại theo thủ tục tái thẩm Mặc dù Điều 213 BLTTDS quy định rằng quyết định công nhận thỏa thuận chỉ có thể bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm trong trường hợp có nhầm lẫn hay lừa dối, nhưng vẫn có thể kháng nghị theo thủ tục tái thẩm khi có tình tiết mới xuất hiện Điều này đặc biệt quan trọng trong các vụ kiện thừa kế, nơi đương sự có thể phát hiện mình không có tên trong quyết định đã có hiệu lực pháp luật, gây ra sự xâm hại nghiêm trọng đến quyền lợi của họ Thủ tục tái thẩm cũng là giải pháp cho những thỏa thuận vi phạm pháp luật mà đương sự không nhận biết được để khiếu nại kịp thời, giúp khôi phục quyền lợi cho họ khi tranh chấp phát sinh sau thời gian dài.

2.4.2 Quy định của pháp luật về đối tượng kháng nghị tái thẩm

Khoản 2 Điều 213 BLTTDS không quy định rõ quyết định CNSTTCCĐS có thể bị xét lại theo thủ tục tái thẩm không, nhưng tại Điều 352 Bộ luật này đã có quy định đối tượng bị kháng nghị theo thủ tục tái thẩm là bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, mà quyết định CNSTTCCĐS là một quyết định của Tòa án nhằm giải quyết VADS Mặt khác, trong BLTTDS cũng không có quy định nào loại xuất bản Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam, tr 464

107 Xem thêm Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2020), Giáo trình Luật Tố tụng dân sự Việt Nam, Nxb Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam, tr 464

108 Nguyễn Nam Hưng (2018), “Căn cứ kháng nghị GĐT đối với quyết định CNSTTCCĐS”, Tạp chí Luật học, số 21, tr 56

Quyết định CNSTTCCĐS không nằm trong phạm vi điều chỉnh của Điều luật này, tạo cơ sở cho việc kháng nghị theo thủ tục tái thẩm theo Điều 352 BLTTDS, tương tự như các bản án và quyết định khác của Tòa án.

Trong thực tiễn xét xử, đã có nhiều trường hợp Tòa án thực hiện việc xét lại quyết định CNSTTCCĐS theo thủ tục tái thẩm Một ví dụ điển hình là Quyết định tái thẩm số 21/2020/DS-TT ngày 17/4/2020 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng liên quan đến tranh chấp quyền sử dụng đất Tòa án nhận thấy Quyết định CNSTTCCĐS số 52/2014/DS-ST ngày 25/9/2014 của Tòa án nhân dân huyện Ph, tỉnh Phú Yên được ban hành dựa trên Biên bản hòa giải không có chữ ký của nguyên đơn và thiếu tài liệu chứng minh Tòa án đã giao Biên bản hòa giải cho các bên liên quan Đây là tình tiết mới có thể làm thay đổi cơ bản nội dung quyết định của vụ án Do đó, Tòa án đã chấp nhận Quyết định kháng nghị tái thẩm số 05/2020/KN-DS ngày 16/01/2020 của Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng, hủy toàn bộ Quyết định CNSTTCCĐS số 52/2014/DS-ST.

Nguyên đơn Nguyễn Thị M khởi kiện Bị đơn Huỳnh Thị S vì cho rằng bà S đã lấn chiếm khoảng 230m2 đất của mình để xây dựng công trình phụ Bà M yêu cầu Tòa án buộc bà S phải tháo dỡ các công trình và trả lại diện tích đất lấn chiếm Trong quá trình giải quyết, xác định rằng thửa đất bà S đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và tách thành hai thửa riêng biệt, trong đó có 23,1m2 lấn chiếm của bà M Do đó, bà M yêu cầu ông Đ trả lại 23,1m2 đất lấn chiếm hoặc thanh toán giá trị tương ứng Bà M cũng đã rút yêu cầu khởi kiện đối với phần diện tích đất lấn chiếm của bà S.

Ông Trần Hữu Đ đã xác định rằng diện tích đất ông lấn chiếm của bà M là 23,1m2 và đồng ý thanh toán 15.000.000 đồng cho giá trị quyền sử dụng đất này Theo quyết định CNSTTCCĐS số 52/2014/DS-ST ngày 25/9/2014 của Tòa án nhân dân huyện Ph, tỉnh Phú Yên, sự thỏa thuận giữa bà M và ông Đ đã được công nhận.

Nguyễn Thị Xuân Ng được quyền quản lý 213,1m2 đất, bao gồm 23,1m2 đất vườn của bà Nguyễn Thị M Ông Trần Hữu Đ đã thanh toán 15.000.000 đồng cho bà M, qua đại diện là bà Hồ Thị Hoàng Anh, và hai bên đã giao nhận đầy đủ số tiền Ngày 16/01/2020, Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng đã ban hành Quyết định kháng nghị tái thẩm số 05/2020/KN-DS, đề nghị hủy Quyết định CNSTTCCĐS số 52/2014/DS-ST ngày 25/9/2014 của Tòa án nhân dân huyện Ph do quyết định này được ban hành dựa trên biên bản hòa giải không có chữ ký của nguyên đơn, và không có tài liệu chứng minh Tòa án đã giao biên bản hòa giải cho các đương sự, đây là tình tiết mới có thể làm thay đổi nội dung quyết định vụ án.

Tại Quyết định tái thẩm số 91/2018/DS-TT ngày 29/11/2018, Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng đã chỉ ra rằng trong quá trình giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất giữa ông C và tộc Phan, Tòa án đã không nhận ra sự chồng lấn một phần diện tích tại thửa 456 Do đó, Tòa án đã công nhận thỏa thuận giữa ông C và tộc Phan về diện tích 1.575 m2 tại thửa đất số 457, tờ bản đồ số 7 Theo hồ sơ cơ sở dữ liệu đất đai, thửa đất 456 tương ứng với thửa 132, trong khi thửa 457 được phân chia thành hai thửa 114.

Việc công nhận chuyển nhượng diện tích đất giữa tộc Phan và ông Lê Quang C đã ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của cụ Ước và cụ Say, là tình tiết mới mà Tòa án và các bên liên quan không thể biết trong quá trình giải quyết vụ án Do đó, cần chấp nhận Quyết định kháng nghị tái thẩm số 67/2018/KN-DS ngày 10/9/2018 của Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng, hủy quyết định công nhận sự thỏa thuận để giải quyết sơ thẩm lại theo đúng quy định pháp luật.

Thủ tục tái thẩm đối với quyết định công nhận sự thật của Tòa án cấp cao không được ghi nhận rõ ràng như thủ tục giám đốc thẩm Tuy nhiên, qua thực tiễn xét xử, quy trình này vẫn được áp dụng và có những điểm đáng chú ý.

Trong vụ án này, nguyên đơn là cụ Phan Bá P cho rằng thửa đất số 457, tờ bản đồ số 7, diện tích 3.575 m2 tại thôn An Tây, xã T1, huyện N, tỉnh Quảng Nam hiện do ông Phan Quang C quản lý là của tộc Phan Khi cụ Phan Q1, cha của ông C, kết hôn mà không có nơi ở, tộc Phan đã đồng thuận cho cụ Q1 xây nhà để ở và quản lý nhà thờ Ngày 10/9/1972, cụ P, với tư cách là trưởng tộc, đã đại diện cho tộc Phan giao hai bản trích lục thửa đất, bao gồm thửa có số hiệu 28 với diện tích 05 sào 01 thước 06 tấc và thửa số hiệu 19 với diện tích 02 sào.

Vào ngày 29/3/1977, cụ Q1 đã làm giấy nhận trích lục với thông tin đất đai liên quan đến thửa đất số 457, tờ bản đồ số 7, có diện tích 3.575m2 tại thôn An Tây, xã T1, huyện N Do cụ P bị ốm khi đăng ký, ông C đã trực tiếp thực hiện việc này Ngày 31/12/2001, Ủy ban nhân dân huyện N, tỉnh Quảng Nam đã cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Lê Quang C Hiện tại, cụ P yêu cầu Tòa án buộc ông C phải trả toàn bộ diện tích đất trên cho tộc Phan.

Ngày đăng: 26/04/2022, 23:17

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w