TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN KHOA LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ QUỐC TẾ Môn học Tư pháp quốc tế Giảng viên ThS NCS Trần Thị Nguyệt Lớp học phần Tư pháp quốc tế (121) 01 Hà Nội, ngày 22 tháng 4 năm 2022 Tình huống Chị Nguyễn Xuân A (quốc tịch Việt Nam, hộ khẩu thường trú tại huyện VX thuộc tỉnh L, Việt Nam) Trong khoảng thời gian từ tháng 12020, do đi sang thăm bạn bè ở Thủ Đô Viêng Chăn, Lào, chị quen và có quan hệ tình cảm với với anh M (quốc tịch Lào, có hộ khẩu tại thủ đô Viêng Chăn) và sau đ.
Vụ việc có thuộc phạm vi điều chỉnh của TPQT hay không?
Thứ nhất, Quan hệ xã hội giữa cháu Q và anh M thuộc quan hệ hôn nhân và gia đình.
Chị A tin rằng anh M là cha đẻ của con chị và mong muốn anh M thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng cho cháu Q Nếu cháu Q thực sự là con của anh M, anh sẽ có trách nhiệm hỗ trợ tài chính cho sự phát triển của cháu.
M có nghĩa vụ cấp dưỡng cháu Q Đây là quyền và nghĩa vụ cấp dưỡng.
Theo khoản 24 Điều 3 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, cấp dưỡng là nghĩa vụ của một người trong việc đóng góp tiền hoặc tài sản để đảm bảo nhu cầu thiết yếu cho người không sống chung, bao gồm những người có quan hệ hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng Điều này áp dụng cho người chưa thành niên, người đã thành niên không có khả năng lao động, không có tài sản tự nuôi sống, hoặc những người gặp khó khăn, túng thiếu theo quy định của luật.
Cha mẹ có trách nhiệm cấp dưỡng cho con chưa thành niên và con đã thành niên nhưng không có khả năng lao động hoặc tài sản để tự nuôi sống Nghĩa vụ này áp dụng trong trường hợp cha mẹ không sống chung với con hoặc sống chung nhưng không thực hiện đúng nghĩa vụ nuôi dưỡng.
110 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014).
Quan hệ cấp dưỡng thuộc về quan hệ tài sản, nằm trong phạm vi điều chỉnh của luật hôn nhân và gia đình Luật này quy định các quan hệ xã hội liên quan đến hôn nhân và gia đình, bao gồm quan hệ nhân thân và tài sản giữa vợ chồng, cha mẹ và con cái, cũng như giữa những người thân thích khác Quan hệ tài sản tập trung vào những quyền lợi và lợi ích tài sản phát sinh giữa các thành viên trong gia đình.
Thứ hai, Quan hệ giữa chị A và anh M là quan hệ hôn nhân gia đình có yếu tố nước ngoài
Trong tình huống này, mối quan hệ giữa chị A và anh M được xác định là hôn nhân gia đình có yếu tố nước ngoài, vì ít nhất một trong hai bên, cụ thể là anh M, là người nước ngoài Điều này dựa theo quy định tại khoản 25 Điều 3 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.
Quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài được định nghĩa là mối quan hệ trong đó ít nhất một bên là người nước ngoài hoặc người Việt Nam đang sinh sống ở nước ngoài.
Chị A đã kiện anh M lên tòa án nhằm yêu cầu anh M thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng cho cháu Q, dẫn đến việc xác định đây là một vụ việc dân sự Theo khoản 2 Điều 464 Bộ luật tố tụng dân sự 2015, vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài được xác định khi có ít nhất một bên tham gia là cá nhân nước ngoài Do đó, vụ kiện này có thể được coi là một vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài.
Kết luận, quan hệ giữa chị A và anh M là quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, thuộc phạm vi điều chỉnh của tư pháp quốc tế Các chủ thể trong quan hệ này bao gồm chị A (nguyên đơn), anh M (bị đơn) và cháu Q (người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan) Địa vị pháp lý của các chủ thể, tức là quyền và nghĩa vụ được pháp luật quy định, phụ thuộc vào hệ thống pháp luật điều chỉnh Quan hệ pháp luật này có thể bị điều chỉnh bởi nhiều hệ thống pháp luật khác nhau, như pháp luật Việt Nam (nơi cư trú của người yêu cầu cấp dưỡng) hoặc pháp luật Lào (nơi cư trú của người cấp dưỡng) Vì vậy, để xác định quyền và nghĩa vụ của từng chủ thể, cần làm rõ pháp luật của quốc gia nào sẽ điều chỉnh quan hệ này.
Các chủ thể trong tranh chấp hôn nhân gia đình này được xác định là:
Nguyên đơn: chị A, công dân Việt Nam.
Bị đơn: anh M, công dân Lào.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: cháu Q (11 tháng tuổi), con của hai người. Địa vị pháp lý của nguyên đơn
Nguyên đơn của tranh chấp này là chị A Chị A là một chủ thể của quan hệ tố tụng dân sự quốc tế.
Chị A là một chủ thể trong tư pháp quốc tế, với tư cách này được xác định bởi năng lực chủ thể, bao gồm năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự, cùng với việc tham gia vào các quan hệ pháp luật dân sự có yếu tố nước ngoài.
Theo Điều 17 Hiệp định tương trợ tư pháp giữa Việt Nam và Lào, năng lực pháp lý và năng lực hành vi dân sự của cá nhân được xác định theo pháp luật của quốc gia mà cá nhân đó mang quốc tịch Vì chị A là công dân Việt Nam, nên năng lực chủ thể của chị A sẽ được quyết định theo quy định của pháp luật Việt Nam.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, năng lực pháp luật dân sự của cá nhân được định nghĩa là khả năng có quyền và nghĩa vụ dân sự, và mọi cá nhân đều có năng lực này như nhau Năng lực pháp luật dân sự bắt đầu từ khi cá nhân sinh ra và kết thúc khi cá nhân qua đời Bộ luật Dân sự 2015, tại Điều 18, khẳng định rằng năng lực pháp luật dân sự của cá nhân không bị hạn chế, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Theo Điều 19 quy định về “Năng lực hành vi dân sự của cá nhân”, năng lực này được hiểu là khả năng của cá nhân thực hiện quyền và nghĩa vụ dân sự thông qua hành vi của mình Vì chị A được xác định có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, nên chị A cũng có năng lực tố tụng dân sự theo quy định của pháp luật Việt Nam.
Chị A hiện đang là nguyên đơn trong một vụ tranh chấp hôn nhân gia đình tại tòa án quốc tế, yêu cầu xác định cha cho con và yêu cầu cấp dưỡng nuôi con từ anh M.
Chị A hoàn toàn có đủ tư cách chủ thể để tham gia vào các quan hệ dân sự Do đó, chị A có quyền tham gia và thực hiện nghĩa vụ phát sinh từ những quan hệ này, đồng thời năng lực của chị A không bị hạn chế.
Quan hệ tranh chấp này thuộc sự điều chỉnh của pháp luật Việt Nam, xác định địa vị pháp lý của chị A Theo đó, chị A có một số quyền và nghĩa vụ nhất định theo quy định của pháp luật.
Quyền và nghĩa vụ của đương sự (Điều 70 BLTTDS 2015);
Quyền và nghĩa vụ của nguyên đơn (Điều 71 BLTTDS 2015);
Toà án nào có thẩm quyền giải quyết vụ án?
Cơ quan có thẩm quyền giải quyết vụ án trên là Tòa án nhân dân tỉnh L.
Hành vi khởi kiện yêu cầu cấp dưỡng của chị A là một hành vi dân sự có yếu tố nước ngoài và mang tính đơn phương, vì vậy thẩm quyền giải quyết vụ việc này thuộc về Tòa Án.
Các Hiệp định TTTP quy định rằng Tòa án tại nơi cư trú của nguyên đơn sẽ có thẩm quyền giải quyết các yêu cầu về cấp dưỡng nuôi con.
Theo các điều khoản trong các hiệp định quốc tế, như Điều 23.2 của Hiệp định Việt Nam - Cộng hoà Séc và Slovakia, Điều 30 của Hiệp định Việt Nam - Lào, Điều 29 của Hiệp định Việt Nam - Nga, Điều 18.8 của Hiệp định Việt Nam - Trung Quốc, cùng với Điều 40 và Điều 42 của Hiệp định Việt Nam - Lào và Việt Nam - Nga, các bên cam kết thực hiện các nghĩa vụ hợp tác và phát triển mối quan hệ song phương.
Theo Điều 29 của Hiệp định tương trợ tư pháp giữa Việt Nam và Lào, việc xác định cha mẹ cho con và truy nhận con ngoài giá thú phải tuân theo pháp luật của nước nơi người con cư trú tại thời điểm yêu cầu Cơ quan có thẩm quyền giải quyết vấn đề này là cơ quan của nước ký kết nơi người con đang sinh sống.
Theo đó, hiện cháu Q đang cư trú tại Việt Nam nên việc giải quyết vụ án trên sẽ tuân theo pháp luật Việt Nam
Theo Điều 30 của Hiệp định tương trợ tư pháp dân sự và hình sự giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, các bên cam kết hợp tác chặt chẽ trong việc hỗ trợ tư pháp, nhằm đảm bảo quyền lợi hợp pháp của công dân và nâng cao hiệu quả trong công tác điều tra, truy tố và xét xử.
“1 Nghĩa vụ cấp dưỡng giữa cha mẹ và con tuân theo pháp luật của Nước ký kết mà người yêu cầu cấp dưỡng là công dân.
Cơ quan có thẩm quyền giải quyết yêu cầu cấp dưỡng thuộc về nước ký kết nơi người yêu cầu cư trú.
Các cơ quan của các quốc gia ký kết cần thực hiện các biện pháp cần thiết theo pháp luật quốc gia của mình để đảm bảo việc thực hiện đầy đủ nghĩa vụ cấp dưỡng theo quyết định của Tòa án của các quốc gia ký kết.
Việc xác định cơ quan có thẩm quyền giải quyết đơn yêu cầu cấp dưỡng phụ thuộc vào nơi cư trú của người yêu cầu Chị Nguyễn Xuân A, người nộp đơn, hiện đang cư trú tại Việt Nam Theo quy định tại khoản 2 Điều 30, cơ quan có thẩm quyền giải quyết sẽ là cơ quan của nước CHXHCN Việt Nam.
(Ngoài ra: Nếu chị A đang cư trú tại Lào thì Cơ quan của Lào có thẩm quyền giải quyết)
Khoản 1 Điều 469 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 quy định về thẩm quyền chung của Tòa án Việt Nam trong việc giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài Điều này nhấn mạnh vai trò của Tòa án trong việc xử lý các tranh chấp liên quan đến các bên nước ngoài, đảm bảo tính công bằng và minh bạch trong quá trình tố tụng.
Tòa án Việt Nam có thẩm quyền giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài trong những trường hợp như sau: khi bị đơn là cá nhân cư trú lâu dài tại Việt Nam, hoặc là cơ quan, tổ chức có trụ sở hoặc chi nhánh tại Việt Nam; khi bị đơn có tài sản trên lãnh thổ Việt Nam; trong vụ việc ly hôn có liên quan đến công dân Việt Nam hoặc người nước ngoài cư trú tại Việt Nam; trong các vụ việc dân sự có liên quan đến tài sản hoặc công việc thực hiện trên lãnh thổ Việt Nam; và trong các vụ việc xảy ra ngoài lãnh thổ nhưng liên quan đến quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân Việt Nam.
Vụ việc này thuộc thẩm quyền của Tòa án Việt Nam Theo Khoản 1 Điều 37 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015, Tòa án Nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết các vụ việc theo quy định.
Tòa án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm các vụ việc liên quan đến tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, và lao động theo các Điều 26, 28, 30 và 32 của Bộ luật, ngoại trừ những tranh chấp thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện được quy định tại khoản 1 và khoản 4 Điều.
Theo Bộ luật này, các yêu cầu về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động được quy định tại các Điều 27, 29, 31 và 33, ngoại trừ những yêu cầu thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp huyện theo khoản 2 và khoản 4 Điều 35 Ngoài ra, cũng có các tranh chấp và yêu cầu được nêu tại khoản 3 Điều 35 của Bộ luật này.
Trọng tài không có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp hôn nhân gia đình tại Việt Nam, vì pháp luật trọng tài chỉ cho phép giải quyết các tranh chấp thương mại hoặc tranh chấp giữa các bên có hoạt động thương mại theo thỏa thuận Hợp đồng tương trợ tư pháp Việt Nam - Lào cũng không công nhận thẩm quyền của trọng tài trong các vụ án liên quan đến hôn nhân gia đình Theo Điều 2 của Luật trọng tài thương mại 2010, thẩm quyền của trọng tài chỉ áp dụng cho các tranh chấp thương mại.
“1 Tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại;
2 Tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt động thương mại;
3 Tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật quy định được giải quyết bằng trọng tài”.
Trọng tài quốc tế chỉ có thẩm quyền hợp pháp để giải quyết tranh chấp khi có thỏa thuận trọng tài hợp pháp giữa các bên Thỏa thuận này phải thể hiện sự thống nhất ý chí của các bên tranh chấp, không phải là ý chí đơn phương.
Pháp luật điều chỉnh
Trong một tranh chấp hôn nhân gia đình, vấn đề xác định cha cho con và nghĩa vụ cấp dưỡng của cha đối với con chưa thành niên mà không trực tiếp nuôi dưỡng sẽ được điều chỉnh bởi pháp luật Việt Nam.
Theo Hiệp định tương trợ tư pháp giữa Việt Nam và Lào năm 1998, nghĩa vụ cấp dưỡng giữa cha mẹ và con phải tuân theo pháp luật của quốc gia nơi người yêu cầu cấp dưỡng là công dân Ngoài ra, Điều 122 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định việc áp dụng pháp luật đối với quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài, đảm bảo quyền lợi hợp pháp cho các bên liên quan.
Các quy định pháp luật về hôn nhân và gia đình tại Việt Nam áp dụng cho các quan hệ có yếu tố nước ngoài, trừ khi có quy định khác trong Luật.
Trong trường hợp có sự khác biệt giữa quy định của Luật này và điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tham gia, quy định của điều ước quốc tế sẽ được áp dụng.
Theo quy định của Luật này, pháp luật nước ngoài sẽ được áp dụng khi các văn bản pháp luật khác của Việt Nam có dẫn chiếu và việc áp dụng đó không vi phạm các nguyên tắc cơ bản tại Điều 2 Ngược lại, nếu pháp luật nước ngoài dẫn chiếu về pháp luật Việt Nam, thì sẽ áp dụng các quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam.
Trong trường hợp Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tham gia vào điều ước quốc tế có quy định về việc áp dụng pháp luật nước ngoài, pháp luật nước ngoài đó sẽ được áp dụng.
Điều 128 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định về việc xác định quan hệ cha con có yếu tố nước ngoài trong trường hợp tranh chấp Luật này nêu rõ cách thức xác định cha, mẹ, con có yếu tố nước ngoài, nhằm đảm bảo quyền lợi hợp pháp của các bên liên quan trong các vụ việc tranh chấp.
Cơ quan đăng ký hộ tịch Việt Nam có thẩm quyền giải quyết việc xác định cha, mẹ, con trong các trường hợp không có tranh chấp, bao gồm công dân Việt Nam với người nước ngoài, công dân Việt Nam với nhau có một bên định cư ở nước ngoài, và giữa người nước ngoài với nhau có một bên thường trú tại Việt Nam, theo quy định của pháp luật về hộ tịch.
Tòa án Việt Nam có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp liên quan đến việc xác định cha, mẹ, con có yếu tố nước ngoài theo quy định tại các điều khoản 88, 89, 90, 97, và 98 của Luật này.
Tòa án nhân dân cấp tỉnh tại Việt Nam có thẩm quyền giải quyết các vụ việc liên quan đến việc xác định quan hệ cha, mẹ, con có yếu tố nước ngoài, đặc biệt trong trường hợp cha hoặc mẹ không thừa nhận con.
Trong trường hợp cha có quốc tịch Lào tại khu vực biên giới Việt Nam, Tòa án nhân dân cấp huyện nơi công dân Việt Nam cư trú sẽ có thẩm quyền giải quyết vấn đề nhận cha, mẹ, con.
Về vấn đề xác định nghĩa vụ cấp dưỡng Điều 129 Luật hôn nhân gia đình năm 2014 quy định như sau:
Nghĩa vụ cấp dưỡng phải tuân theo pháp luật của nước nơi người yêu cầu cư trú Nếu người yêu cầu không có nơi cư trú tại Việt Nam, thì sẽ áp dụng pháp luật của quốc gia mà họ là công dân.
Cơ quan có thẩm quyền giải quyết đơn yêu cầu cấp dưỡng là cơ quan tại nước nơi người yêu cầu cư trú.
Người cấp dưỡng ở đây là người mẹ, hiện đang có quốc tịch tại Việt Nam.
Ưu, nhược điểm của phương thức giải quyết tranh chấp bằng tòa án
Trong vụ việc của chị A nêu trên, một số ưu điểm của phương thức giải quyết bằng Tòa án và lý do chị A lựa chọn phương thức này là:
Tòa án, với vai trò là cơ quan xét xử đại diện cho quyền lực Nhà nước, có phán quyết mang tính cưỡng chế cao và được đảm bảo hiệu lực thi hành Quy trình và thủ tục tố tụng tại Tòa án được thực hiện một cách chặt chẽ, đảm bảo tính công bằng và minh bạch trong quá trình xét xử.
Tòa án là phương thức phổ biến để giải quyết các tranh chấp dân sự và hôn nhân gia đình, với phán quyết được đảm bảo thi hành bằng quyền lực của Nhà nước Nếu các bên không tuân thủ quyết định của Tòa, cơ quan thi hành án sẽ thực hiện cưỡng chế Do đó, bản án của Tòa, nếu không bị kháng cáo hay kháng nghị, sẽ buộc các bên phải thi hành.
Vì vậy, chị A sẽ chắc chắn rằng quyền và lợi ích chính đáng của mình sẽ được Nhà nước bảo vệ.
Về nguyên tắc xét xử công khai của Tòa án : có tính răn đe đối với những đối tượng vi phạm pháp luật
Khi đưa vụ việc ra Tòa án, chị A hy vọng rằng câu chuyện của mình sẽ khẳng định quyền được bảo vệ của công dân dưới sự bảo hộ của pháp luật Các chế tài pháp lý đối với hành vi vi phạm không chỉ mang tính răn đe mà còn là bài học cho mọi người, đặc biệt là những người cha đã chối bỏ trách nhiệm với con cái Tòa án đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì công bằng và nhắc nhở mọi người về nghĩa vụ của mình.
Về chi phí tố tụng tại Tòa án: chi phí thấp, tiết kiệm hơn cho với phương thức tố tụng
Hầu hết các vụ việc có thể được giải quyết qua Tòa án, nơi có chi phí tố tụng thấp hơn và tiết kiệm hơn so với giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài.
Như vậy, chị A vừa được giải quyết đơn khởi kiện của mình mà vừa tiết kiệm một khoản chi phí đáng kể
Phán quyết của Tòa án có thể bị kháng cáo và kháng nghị, cho phép các quyết định và bản án này được xem xét và thay đổi.
Nguyên tắc chế độ hai cấp xét xử là một quy định quan trọng của Tòa án, nhằm đảm bảo tính chính xác và khách quan trong phán quyết Để bảo vệ quyền tự do dân chủ của công dân, nhiều quốc gia áp dụng nguyên tắc cho phép tổ chức xét xử nhiều lần và xây dựng hệ thống Tòa án để thực hiện nguyên tắc này trong thực tế.
Chị A có quyền kháng cáo quyết định và bản án của Tòa để bảo vệ quyền lợi cho cháu Q và bản thân mình nếu có căn cứ cho rằng phán quyết của Tòa mắc phải nhầm lẫn hoặc sai sót.
Tòa án, đại diện cho chủ quyền quốc gia, có khả năng tiến hành điều tra hiệu quả hơn so với các trọng tài viên, nhờ vào quyền lực cưỡng chế và khả năng triệu tập bên thứ ba đến tham gia.
Tòa án quốc gia tại Việt Nam có thẩm quyền giải quyết vụ việc của chị A dựa trên các căn cứ pháp lý Vì chị A đang cư trú tại Việt Nam, quá trình làm việc với Tòa án sẽ thuận lợi hơn, bao gồm thủ tục gửi đơn kiện, triệu tập và lấy lời khai.
Việt Nam là thành viên của các Hiệp định tương trợ tư pháp và Công ước Tống đạt giấy tờ tư pháp, giúp đơn giản hóa các thủ tục tống đạt giấy tờ và thực hiện ủy thác tư pháp.
Nhược điểm của giải quyết tranh chấp bằng Tòa án:
Thủ tục tố tụng tại tòa án thường thiếu linh hoạt do được quy định chặt chẽ bởi pháp luật, khác với trọng tài Việc xét xử của Tòa án mang tính nghi thức và yêu cầu tuân thủ quy định pháp luật một cách nghiêm ngặt, đặc biệt là về địa điểm và chứng cứ Tòa án hoạt động nhân danh quyền lực nhà nước, do đó việc sử dụng quyền lực này phải tuân theo trình tự rõ ràng, không thể linh hoạt theo lựa chọn của các bên tranh chấp như trong tố tụng trọng tài Điều này có thể gây khó khăn cho đương sự, đặc biệt là những người không am hiểu về thủ tục tố tụng, như trường hợp của chị A, người có thể mất thời gian chuẩn bị giấy tờ cần thiết hoặc gặp khó khăn trong việc chứng minh nếu anh M không hợp tác.
Phán quyết của tòa án thường bị kháng cáo, dẫn đến việc quá trình tố tụng có thể bị trì hoãn và kéo dài hơn so với tố tụng trọng tài Thông thường, vụ án phải trải qua nhiều cấp xét xử, điều này làm cho quy trình tố tụng tại tòa án trở nên phức tạp và mất nhiều thời gian hơn.
Thứ nhất, các tòa án quốc gia bị quá tải công việc
Tòa án quốc gia bao gồm các cấp thẩm quyền như Tòa sơ thẩm, Tòa phúc thẩm và Tòa án tối cao, điều này tạo ra khả năng kháng cáo cho các đương sự, dẫn đến tổn thất về thời gian và chi phí Khi một bên như chị A có quyền kháng cáo, bên kia như anh M cũng có thể làm tương tự, kéo dài thời gian giải quyết vụ án.
Trình độ chuyên môn của thẩm phán thường không đạt yêu cầu cao như trọng tài viên, do thẩm phán tại Tòa án nhân dân các cấp được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật quốc gia Điều này dẫn đến việc họ chưa tích lũy được nhiều kinh nghiệm trong việc áp dụng pháp luật quốc tế khi xử lý các vụ tranh chấp thương mại.
Trong các vụ kiện kéo dài, có thể xảy ra tình huống nhiều thẩm phán khác nhau sẽ tham gia xét xử, điều này có thể ảnh hưởng đến tính liên tục và đồng nhất trong quá trình xét xử, điều mà trọng tài thường đảm bảo.
Thủ tục giải quyết vụ án
Người khởi kiện: Nguyễn Xuân A
Bước 1: Đơn khởi kiện và thông tin cần thiết tới Tòa án có thẩm quyền
Chị A có quyền khởi kiện vụ án tại Tòa án có thẩm quyền, có thể thực hiện điều này một mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình theo quy định tại Điều 186 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015.
Chị A có thể tự mình hoặc nhờ người khác làm đơn khởi kiện Trong đơn, cần ghi rõ họ tên và địa chỉ nơi cư trú của chị A ở mục tên, địa chỉ Cuối đơn, cá nhân thực hiện phải ký tên hoặc điểm chỉ Đơn khởi kiện cần đảm bảo các nội dung chính theo quy định.
Ngày, tháng, năm làm đơn khởi kiện.
Tên Tòa án nhận đơn khởi kiện.
Tên, nơi cư trú, làm việc của chị A
Trường hợp các bên thỏa thuận địa chỉ để Tòa án liên hệ thì ghi rõ địa chỉ đó:
Tên, nơi cư trú, làm việc của người có quyền và lợi ích được bảo vệ là cá nhân
Tên, địa chỉ nơi cư trú và nơi làm việc của anh M cần được ghi rõ Nếu không xác định được nơi cư trú hoặc nơi làm việc hiện tại, thì cần nêu rõ địa chỉ nơi cư trú, làm việc hoặc trụ sở cuối cùng của anh M.
Tên, nơi cư trú của cháu Q
Quyền, lợi ích hợp pháp của chị Xuân A bị xâm phạm; những vấn đề cụ thể yêu cầu Tòa án giải quyết đối với anh M, cháu Q
Họ, tên, địa chỉ của người làm chứng (nếu có).
Danh mục tài liệu, chứng cứ kèm theo đơn khởi kiện
Để khởi kiện, chị Xuân A cần nộp kèm theo đơn khởi kiện các tài liệu và chứng cứ chứng minh quyền lợi hợp pháp của mình bị xâm phạm Nếu gặp khó khăn trong việc cung cấp đầy đủ chứng cứ, chị A vẫn phải nộp những tài liệu hiện có để chứng minh quyền lợi của mình Trong quá trình giải quyết vụ án, chị A có thể bổ sung thêm tài liệu và chứng cứ theo yêu cầu của Tòa án.
Theo Điều 473 BLTTDS 2015, chị Xuân A cần ghi rõ họ, tên, địa chỉ và quốc tịch của anh M trong đơn khởi kiện, kèm theo các giấy tờ và tài liệu xác thực thông tin này.
Nếu không xác định được địa chỉ của anh M, chị Xuân A có thể yêu cầu Tòa án Việt Nam đề nghị cơ quan có thẩm quyền của Lào xác định địa chỉ của anh M Ngoài ra, chị cũng có thể yêu cầu cơ quan có thẩm quyền tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú hoặc yêu cầu Tòa án Việt Nam hoặc cơ quan có thẩm quyền của Lào tuyên bố anh M mất tích hoặc đã chết, theo quy định của pháp luật Việt Nam, pháp luật Lào, hoặc các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
Nếu cơ quan có thẩm quyền của Lào không xác định được địa chỉ của anh M hoặc không có phản hồi sau 06 tháng, Tòa án Việt Nam sẽ trả lại đơn khởi kiện và đơn yêu cầu.
Bước 2: Gửi đơn khởi kiện kèm theo tài liệu chứng cứ như nộp trực tiếp, dịch vụ bưu chính, gửi trực tuyến theo căn cứ Điều 190 BLTTDS 2015
Sau khi gửi đơn khởi kiện, chị A phải nộp án phí, lệ phí theo quy định của pháp luật.
Bước 3: Thủ tục nhận và xử lý đơn khởi kiện (Điều 191 BLTTDS 2015)
Tòa án có trách nhiệm tiếp nhận đơn khởi kiện do chị A nộp, cho dù là trực tiếp tại Tòa án, qua dịch vụ bưu chính hay gửi trực tuyến Đơn khởi kiện sẽ được ghi vào sổ nhận đơn, và nếu được gửi trực tuyến, Tòa án sẽ in ra bản giấy để lưu trữ.
Khi Tòa án nhận đơn khởi kiện nộp trực tiếp, họ phải cấp ngay giấy xác nhận cho chị A Nếu đơn được gửi qua dịch vụ bưu chính, Tòa án có trách nhiệm gửi thông báo nhận đơn cho chị trong vòng 02 ngày làm việc kể từ ngày nhận đơn.
Khi Tòa án nhận đơn khởi kiện qua hình thức gửi trực tuyến, cần thông báo ngay cho chị A về việc tiếp nhận đơn qua Cổng thông tin điện tử của Tòa án (nếu có).
Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đơn khởi kiện, Chánh án Tòa án phân công một Thẩm phán xem xét đơn khởi kiện.
Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày được phân công, Thẩm phán phải xem xét đơn khởi kiện và có một trong các quyết định sau đây:
Yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện.
Tiến hành thủ tục thụ lý vụ án có thể thực hiện theo hai hình thức: thủ tục thông thường hoặc thủ tục rút gọn Việc áp dụng thủ tục rút gọn chỉ diễn ra khi vụ án đáp ứng đủ điều kiện theo quy định tại khoản 1 Điều 317 của Bộ luật này.
Chuyển đơn khởi kiện cho Tòa án có thẩm quyền và thông báo cho người khởi kiện nếu vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án khác.
Trả lại đơn khởi kiện cho người khởi kiện nếu vụ việc đó không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.
Kết quả xử lý đơn của Thẩm phán theo khoản 3 Điều này cần được ghi chú vào sổ nhận đơn và thông báo cho chị A thông qua Cổng thông tin điện tử của Tòa án (nếu có).
Bước 4: Thụ lý vụ án và thông báo thụ lý vụ án (Điều 195 và 196 BLTTDS 2015)
Tòa án thụ lý vụ án, ngày mở phiên họp, phiên tòa được quy định tại Điều 476 BLTTDS 2015.
Tòa án cần gửi thông báo thụ lý vụ án cho anh M ở Lào, trong đó nêu rõ thời gian và địa điểm tổ chức các phiên họp liên quan đến việc kiểm tra giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, bao gồm cả việc mở lại phiên họp hòa giải và phiên tòa.
Thời hạn mở phiên tòa, phiên họp hòa giải được xác định như sau:
Phiên họp hòa giải phải được tổ chức trong khoảng thời gian từ 06 đến 08 tháng kể từ ngày thông báo thụ lý vụ án Nếu cần mở lại phiên họp hòa giải, thời gian ấn định không được vượt quá 01 tháng so với ngày phiên họp hòa giải đầu tiên.
Phiên tòa cần được tổ chức trong khoảng thời gian từ 09 đến 12 tháng kể từ ngày thông báo thụ lý vụ án Nếu có phiên tòa mở lại, thời gian ấn định phải cách ngày mở phiên tòa ban đầu không quá 01 tháng, trừ những trường hợp đặc biệt theo quy định.