TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ THUYẾT NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 10
VÀ CƠ SỞ LÝ THUYẾT NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
Nghiên cứu về trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hoạt động công chứng tại Việt Nam và quốc tế còn hạn chế, thiếu tính hệ thống và chuyên sâu Mỗi công trình và bài viết đều đề cập đến các khía cạnh khác nhau, đóng góp vào quá trình nghiên cứu và làm cơ sở cho việc đề xuất các giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật Chương này sẽ tổng quan theo nhóm vấn đề, đánh giá một số công trình nghiên cứu tiêu biểu trong và ngoài nước liên quan đến đề tài luận án, nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hoạt động công chứng hiện nay.
1 1 Tổng quan tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước liên quan đến đề tài luận án
1 1 1 Tình hình nghiên cứu lý luận về trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hoạt động công chứng theo quy định của pháp luật
1 1 1 1 Trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật dân sự
Trong luận văn Thạc sĩ luật học của tác giả Lê, đề tài "Bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng dân sự - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn" được phân tích sâu sắc, nhấn mạnh những khía cạnh lý luận và thực tiễn liên quan đến việc bồi thường thiệt hại trong các hợp đồng dân sự Tác giả không chỉ trình bày các quy định pháp lý hiện hành mà còn đưa ra những vấn đề thực tiễn mà người dân và doanh nghiệp thường gặp phải khi thực hiện quyền và nghĩa vụ hợp đồng Luận văn còn đề xuất các giải pháp nhằm cải thiện hệ thống pháp luật về bồi thường thiệt hại, góp phần bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các bên liên quan.
Nghiên cứu của Thị Yến (Trường Đại học Luật Hà Nội, 2013) tập trung vào trách nhiệm bồi thường thiệt hại (BTTH) do vi phạm hợp đồng dân sự theo Bộ luật Dân sự, chỉ ra bốn điều kiện phát sinh trách nhiệm BTTH: hành vi vi phạm hợp đồng, thiệt hại thực tế, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm và thiệt hại, cùng yếu tố lỗi Hành vi vi phạm hợp đồng là điều kiện tiên quyết để xem xét trách nhiệm BTTH, trong khi giá trị BTTH bao gồm các tổn thất thực tế như thu nhập bị mất, tài sản hư hỏng, và chi phí ngăn chặn thiệt hại Bên bị thiệt hại có nghĩa vụ và quyền chứng minh thiệt hại, đảm bảo quyền lợi được bồi thường tương xứng Ngoài ra, có bốn trường hợp miễn trách nhiệm BTTH: sự kiện bất khả kháng, hành vi vi phạm do lỗi bên kia, thỏa thuận trong hợp đồng, và hành vi vi phạm do quyết định của cơ quan nhà nước Tác giả cũng chỉ ra hai trường hợp giảm trách nhiệm BTTH: thỏa thuận trong hợp đồng và nghĩa vụ hạn chế tổn thất.
Trong cuốn sách “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng” của Phùng Trung Tập (2017), tác giả phân tích khái niệm và điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, cùng nguyên tắc bồi thường Tác giả chỉ ra hai loại trách nhiệm dân sự: thứ nhất là trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng, bao gồm hành vi vi phạm, thiệt hại xảy ra và mối quan hệ nhân quả giữa chúng; thứ hai là trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, phát sinh từ hành vi gây thiệt hại cho người khác về tài sản, tính mạng, sức khỏe và các lợi ích nhân thân khác Để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, cần có đủ bốn điều kiện: thiệt hại xảy ra, hành vi gây thiệt hại trái pháp luật, mối quan hệ nhân quả và lỗi của người gây thiệt hại Tác giả nhấn mạnh tầm quan trọng của việc xác định lỗi trong các hành vi gây thiệt hại.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng phát sinh trong quản lý hành chính, tố tụng và thi hành án theo Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước (có hiệu lực từ 01/01/2010) quy định mối quan hệ giữa các cơ quan công quyền và cá nhân, pháp nhân bị thiệt hại Khi cá nhân, tổ chức chịu thiệt hại về vật chất và tinh thần do hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ, trách nhiệm bồi thường sẽ thuộc về Nhà nước Điều này củng cố quan điểm rằng trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hoạt động công chứng không nằm trong phạm vi của Luật TNBTCNN.
Trong luận án Tiến sĩ luật học của Bùi Thị Thanh Hằng tại Trường Đại học Luật Hà Nội (2018) với đề tài “Bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng”, tác giả đã nghiên cứu các vấn đề cơ bản về bồi thường thiệt hại (BTTH) do vi phạm hợp đồng Tác giả định nghĩa BTTH là biện pháp khắc phục hậu quả từ hành vi vi phạm hợp đồng, nhằm bảo đảm trách nhiệm dân sự bằng cách bù đắp tổn thất do bên vi phạm gây ra cho bên bị vi phạm BTTH có bản chất là phương thức bảo vệ quyền lợi phát sinh từ hợp đồng, cho phép bù đắp toàn bộ thiệt hại mà bên bị thiệt hại phải chịu Để áp dụng biện pháp BTTH, tác giả xác định có bốn căn cứ: hành vi vi phạm hợp đồng, thiệt hại xảy ra, mối quan hệ nhân quả giữa vi phạm và thiệt hại, và lỗi của bên gây thiệt hại.
Thiệt hại được định nghĩa là bất kỳ tổn thất nào mà một người phải chịu do quyền, tài sản và lợi ích hợp pháp của họ bị xâm phạm Tác giả phân loại thiệt hại thành hai loại chính: thiệt hại trực tiếp và gián tiếp, cùng với thiệt hại vật chất và tinh thần Đặc biệt, thiệt hại do vi phạm hợp đồng cũng bao gồm thiệt hại tinh thần Tác giả nhấn mạnh rằng BLDS Việt Nam nên bổ sung quy định về thiệt hại tinh thần liên quan đến thiệt hại tài sản do vi phạm hợp đồng Về mức bồi thường, tác giả phân tích hai trường hợp: có và không có thoả thuận trước Trong trường hợp không có thoả thuận, mức bồi thường cần phải dựa trên hai điều kiện: thiệt hại phải chắc chắn và có thể dự đoán được.
Trong bài viết “Trách nhiệm pháp lý do vi phạm hợp đồng” của
PGS TS Phan Huy Hồng trong bài viết trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật (2018) nhận định rằng Bộ luật Dân sự năm 2015 đã kế thừa và bổ sung nhiều điểm mới quan trọng, đặc biệt trong quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại Ông nhấn mạnh rằng truyền thống pháp luật dân sự Việt Nam chịu ảnh hưởng lớn từ pháp luật dân sự châu Âu, trong đó chế định trách nhiệm hợp đồng dựa trên nguyên tắc lỗi Điều này thể hiện rõ trong Bộ luật Dân sự năm 1995 và tiếp tục được phát triển trong Bộ luật Dân sự năm 2015.
Theo Điều 308 Bộ luật Dân sự năm 2006, lỗi được xác định là một trong bốn căn cứ để phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại, bên cạnh hành vi vi phạm, thiệt hại và quan hệ nhân quả Tuy nhiên, tác giả đã phân tích và dẫn chứng một số nghiên cứu cho thấy yếu tố lỗi không còn là điều kiện bắt buộc để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại Cá nhân tác giả cũng bày tỏ quan điểm rằng việc quy định này trong Bộ luật Dân sự cần được xem xét lại.
Bộ luật Dân sự năm 2015 không còn quy định rõ ràng về yếu tố lỗi như các bộ luật trước đó, điều này cho thấy có thể không còn yêu cầu yếu tố lỗi để phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại Việc thiếu quy định này không nhất thiết đồng nghĩa với việc Bộ luật Dân sự năm 2015 đã từ bỏ truyền thống dân luật Việt Nam Tương tự, mặc dù Điều 303 của Luật thương mại năm 2005 không đề cập đến yếu tố lỗi, nhưng vẫn có quan điểm cho rằng luật này áp dụng nguyên tắc suy đoán lỗi thay vì từ bỏ yếu tố này.
Trong cuốn sách "Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2015", tác giả Nguyễn Minh Tuấn cùng tập thể đã phân tích các quy định trong BLDS 2015 Các vấn đề được nêu ra bao gồm: (i) Các điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại gồm thiệt hại thực tế, hành vi vi phạm nghĩa vụ, mối quan hệ nhân quả và lỗi của người vi phạm; (ii) Thiệt hại được bồi thường phải tương ứng với thiệt hại thực tế, bên yêu cầu phải chứng minh thiệt hại, nhưng có thể có thoả thuận khác về mức bồi thường; thiệt hại có thể là vật chất hoặc tinh thần, nhưng mức bù đắp tinh thần phụ thuộc vào đánh giá của từng hội đồng xét xử; (iii) Nghĩa vụ ngăn chặn, hạn chế thiệt hại không chỉ phụ thuộc vào hành vi vi phạm mà còn vào việc bên có quyền thực hiện các biện pháp ngăn chặn cần thiết; nếu bên vi phạm chứng minh bên có quyền không thực hiện biện pháp ngăn chặn, thì chỉ phải bồi thường phần thiệt hại do hành vi vi phạm.
Cuốn sách “Luật bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Việt Nam, bản án và bình luận án” (Tập 1; 2016) của Đỗ Văn Đại chỉ ra rằng có hai loại bồi thường thiệt hại trong khoa học pháp lý: bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng và bồi thường thiệt hại trong hợp đồng Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng đã được ghi nhận trong Bộ luật Dân sự, cụ thể là trong Chương 21 BLDS 2005 và Chương 20 BLDS 2015 với tiêu đề “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng” Tuy nhiên, bồi thường thiệt hại trong hợp đồng vẫn chưa được ghi nhận rõ ràng trong Bộ luật Dân sự.
Nguyễn Minh Tuấn (2016) trong tác phẩm "Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2015" đã phân tích sự khác biệt giữa trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng và trong hợp đồng Trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng phát sinh từ việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ hợp đồng, trong khi trách nhiệm ngoài hợp đồng thường liên quan đến hành vi trái pháp luật của một chủ thể không có quan hệ hợp đồng Tác giả chỉ ra rằng ranh giới giữa hai loại trách nhiệm này có thể khá mong manh, vì nhiều nghĩa vụ hợp đồng có thể do pháp luật quy định thay vì thỏa thuận giữa các bên Do đó, khi có thiệt hại xảy ra, việc xác định loại trách nhiệm nào áp dụng cần linh hoạt và nên đứng về phía nạn nhân Tác giả cũng nhấn mạnh rằng, mặc dù hai chế định này khác nhau về lý luận và quy định, nhưng sự khác biệt còn phụ thuộc vào từng hệ thống pháp luật và quan điểm.
1 1 1 2 Trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hoạt động công chứng theo quy định của pháp luật
Nghiên cứu về trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hoạt động công chứng theo quy định pháp luật đang thu hút sự chú ý của nhiều học giả cả trong và ngoài nước Các công trình nghiên cứu này có mối liên hệ trực tiếp với đề tài luận án, cung cấp tài liệu tham khảo hữu ích cho tác giả trong quá trình triển khai đề tài.
Công chứng là một hoạt động dịch vụ công quan trọng do Công chứng viên thực hiện, liên quan đến các hợp đồng và giao dịch dân sự, kinh tế, thương mại Quá trình công chứng bao gồm nhiều thủ tục phức tạp, từ việc tiếp nhận ý chí các bên đến xác định tư cách chủ thể, kiểm tra năng lực hành vi dân sự, và tính tự nguyện của các bên Ngoài ra, việc xác định nguồn gốc hợp pháp của đối tượng hợp đồng, cũng như thời gian và địa điểm giao kết hợp đồng là rất cần thiết Những yếu tố này không chỉ bảo đảm tính hợp lệ của hợp đồng mà còn tạo ra chứng cứ quan trọng trong trường hợp xảy ra tranh chấp giữa các bên hoặc với bên thứ ba.
Bài thuyết trình “Trách nhiệm dân sự của công chứng viên ở Pháp và các bảo đảm đối với khách hàng” của Công chứng viên Thierry Vachon tại
Nhà Pháp luật Việt Pháp trong cuộc hội thảo do Hội đồng Công chứng Paris tổ chức ngày 24/10/2011 [80] Bài thuyết trình của Công chứng viên Thierry