Trong hoàn cảnh lịch sử đó, Mạnh Tử phát triển thêm tư tưởng của Khổng Tử với chủ trương dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh, ông cũng là người đưa ra thuyết tính thiện của con ngư
Trang 1Formatted: Right: 0.25"
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ HỒ CHÍ MINH
TIỂU LUẬN MÔN TRIẾT HỌC
TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI CỦA MẠNH TỬ VÀ
Ý NGHĨA CỦA NÓ ĐỐI VỚI VIỆC XÂY DỰNG NHÀ
NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
VIỆT NAM HIỆN NAY
GIẢNG VIÊN: TIẾN SĨ BÙI XUÂN THANH HỌC VIÊN: TRẦN THỊ THANH ANH
Lớp: 21C161000416 Khoá: CHK31.2_FN2 MSSV: 212111005
TP.HỒ CHÍ MINH - NĂM 2022
Style Definition: TOC 3: Font: Indent: Left: 0.33" Style Definition: TOC 1: Font:
Style Definition: Heading 5: Font: Bold, Left
Style Definition: Heading 3: Font: 12 pt, Bold, Italic,
Left
Style Definition: Heading 2: Font: Times New Roman,
12 pt, Bold
Style Definition: Heading 1: Font: Times New Roman,
12 pt, Bold, Font color: Blue, Outline numbered + Level:
1 + Numbering Style: I, II, III, … + Start at: 1 + Alignment: Left + Aligned at: 0" + Indent at: 0.3"
Style Definition: Normal: Font: 12 pt
Formatted: Don't add space between paragraphs of
the same style, Line spacing: 1.5 lines
Formatted: Space Before: 160 pt, After: 12 pt, Line
spacing: 1.5 lines
Formatted: Font: 18 pt, Bold
Formatted: Font: 18 pt, Bold
Formatted: Space Before: 24 pt, Don't add space
between paragraphs of the same style, Line spacing: 1.5 lines
Formatted: Space Before: 140 pt, Line spacing: 1.5
lines
Trang 2Formatted: Right: 0.25"
1 ĐỀ TÀI:
MỤC LỤC
I MỞ ĐẦU 1
II NỘI DUNG 1
2.1 NHỮNG CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI
CỦA MẠNH TỬ 1
2.1.1 Đặc điểm kinh tế - xã hội Trung Quốc thời Xuân thu - Chiến quốc hình
thành tư tưởng chính trị - xã hội của Mạnh Tử 1
Nguồn gốc lý luận tư tưởng chính trị - xã hội của Mạnh Tử 4
2.1.2 4
2.2 NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN TRONG TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ - XÃ
HỘI CỦA MẠNH TỬ 6
2.2.1 Từ “nhân nghĩa” đến “nhân chính” trong tư tưởng chính trị - xã hội của
Mạnh Tử 6
2.2.2 Dân bản – vấn đề cốt lõi trong tư tưởng chính trị - xã hội của Mạnh Tử 9
2.3 GIÁ TRỊ LỊCH SỬ TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI CỦA MẠNH
TỬ VỚI CÔNG CUỘC XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM HIỆN NAY 11
III KẾT LUẬN 12
Formatted: Don't add space between paragraphs of
the same style, Line spacing: 1.5 lines
Trang 3Formatted: Right: 0.25"
Tư tưởng chính trị của Mạnh Tử và ý nghiã của nó đối với việc xây dựng nhà nước
pháp quyền Việt Nam
Chương 1:
Mạnh Tử, tên là Mạnh Kha, tự là Tử Dư, sinh vào đời vua Liệt Vương, nhà Chu, quê
gốc ở đất Trâu, thuộc nước Lỗ, nay là thành phố Trâu Thành, tỉnh Sơn Đông, Trung
Quốc Mạnh Tử là đại biểu xuất sắc của Nho giáo thời Chiến Quốc, thời kỳ nở rộ các
nhà tư tưởng lớn với các trường phái như Pháp gia, Du thuyết, Nho gia, Mặc gia… (thời
kỳ bách gia tranh minh) Trong hoàn cảnh lịch sử đó, Mạnh Tử phát triển thêm tư tưởng
của Khổng Tử với chủ trương dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh, ông cũng là
người đưa ra thuyết tính thiện của con người rằng con người sinh ra đã là thiện rồi nhân
chi sơ bản tính thiện, tư tưởng này đối lập với thuyết tính ác của Tuân Tử rằng nhân chi
sơ bản tính ác
Mạnh tử cả đời vững tin vào chân lý, có trí tuệ dồi dào, giỏi trình bày và phân tích lý
luận triết học Ông kiên định khích lệ người ta làm điều thiện, lời nói nào cũng có tinh
thần cổ vũ và dẫn dắt người ta
2.1 NHỮNG Chương 1: CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ - XÃ
HỘI CỦA MẠNH TỬ
2.1.1
1.1 Đặc điểm kinh tế - xã hội Trung Quốc thời Xuân thu - Chiến quốc hình
thành tư tưởng chính trị - xã hội của Mạnh Tử
Thời Xuân thu, lực lượng sản xuất đã phát triển lên một trình độ mới cao hơn so với giai
đoạn trước đó Bắt đầu từ sự phát triển của công cụ lao động và tình hình chung của sự
phát triển lực lượng sản xuất trong các phương thức sản xuất Chế độ tỉnh điền không
phù hợp nữa vì nó bắt đầu cản trở quá trình phát triển sản xuất Sự tan rã dần của chế độ
tịnh điền là một xu thế của sự thay đổi hình thức sở hữu khi nó không còn phù hợp với
Formatted: Don't add space between paragraphs of
the same style, Line spacing: 1.5 lines
Formatted: Left: 1.18", Right: 0.79", Top: 0.98",
Bottom: 0.98", Width: 8.26", Height: 11.69"
Formatted: Font: 13 pt, Font color: Auto, Pattern: Clear Formatted: Justified, Line spacing: 1.5 lines
Formatted: Font: 13 pt, Pattern: Clear (White)
Formatted: Heading 1, Don't add space between
paragraphs of the same style, Line spacing: 1.5 lines
Formatted: Font: 13 pt
Formatted: Justified, Don't add space between
paragraphs of the same style, Line spacing: 1.5 lines
Formatted: Font: 13 pt, Font color: Text 1, Pattern: Formatted: Font: 13 pt, Pattern: Clear
Formatted: Font: 13 pt, Font color: Text 1 Formatted: Justified, Don't add space between
paragraphs of the same style, Line spacing: 1.5 lines,
No bullets or numbering
Formatted: Font: 13 pt, Font color: Text 1, Pattern: Formatted: Font: 13 pt, Font color: Text 1
Trang 4Formatted: Right: 0.25"
lực lượng sản xuất đã và đang trên đà phát triển Lúc này, tư hữu về ruộng đất là giải
pháp cần thiết để thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển đã được pháp luật nhà nước
thừa nhận và bảo vệ
Chế độ tư hữu ruộng đất hình thành và phát triển đã kéo theo sự thay đổi của chính sách
về thuế Nhà nước bắt đầu thi hành hình thức thu thuế mới đánh vào từng mẫu ruộng,
thay cho hình thức thu thuế cũ theo chế độ tỉnh điền (ruộng đất của công xã chia đều
cho nông nô và nông nô phải nộp một phần sản lượng nông phẩm thu hoạch được cho
công xã để nộp lên triều đình) Sự phát triển và phân công trong sản xuất thủ công nghiệp
là hệ quả tất yếu của sự phát triển và cải tiến công cụ lao động và việc mở rộng trao đổi
sản phẩm lao động Sự phát triển của thủ công nghiệp lại thúc đẩy sự cải tiến công cụ
lao động nói riêng và sự phát triển của lực lượng sản xuất nói chung Ngoài các nghề
mộc, nghề luyện sắt, nghề rèn, nghề làm đồ gốm, nghề nhuộm… Tất cả chúng từ đóng
vai trò quan trọng trong quá trình cải tiến công cụ lao động, từ đó có thể góp phần phát
triểnnông nghiệp
Xuân thu cũng là thời kỳ tiền tệ đã xuất hiện, trở thành vật trung gian trong trao đổi,
mua bán Mặc dù ở Trung Quốc thời bấy giờ nghề buôn bán bị coi là nghề rẻ mạt nhất,
nhưng sự hình thành của thương nghiệp, buôn bán đã tạo ra trong xã hội một tầng lớp
thương nhân giàu có Tầng lớp này do nắm trong tay kinh tế nên ngày càng có thế lực
và tham vọng về quyền lực chính trị, đe dọa đến quyền lực của giai cấp quý tộc cũ.Kết
quả của những biến động kinh tế đã dẫn đến sự biến đổi trong kết cấu giai tầng của xã
hội Ngoài tầng lớp thương nhân, nhiều giai tầng mới cũng xuất hiện trong đó nổi bật là
giai cấp địa chủ ngày càng giàu có và lấn át giai cấp quý tộc thị tộc cũ Ngoài ra, do
nhân dân được tự do khai thác ruộng đất nên một số bình dân đã trở thành phú gia, trở
nên giàu có
Theo đà quá trình tan rã của chế độ chiếm hữu nô lệ và phong kiến hóa, những mâu
thuẫn trong xã hội Trung Quốc thời Xuân thu ngày càng diễn ra gay gắt ở thời Chiến
quốc Tiếp tục ở giai đoạn Xuân thu, nhưng khác về cấp độ là do chiến tranh gia tăng
hơn với mức độ tàn khốc hơn, nhân dân cực khổ hơn, sự tranh giành quyền lực quyết
Trang 5Formatted: Right: 0.25"
liệt hơn… Đây là thời kỳ chế độ phong kiến sắp bước qua giai đoạn hình thành trong
chế độ chiếm hữu nô lệ, là giai đoạn quan trọng nhất của bước chuyển từ chế độ chiếm
hữu nô lệ sang chế độ phong kiến tập quyền
Chiến Quốc thông thường được coi là giai đoạn thứ hai của nhà Đông Chu, tiếp sau giai
đoạn Xuân Thu, dù chính nhà Chu đã kết thúc vào năm 256 TCN, 34 năm trước khi kết
thúc giai đoạn Chiến Quốc Thời kỳ này, Trung Quốc bị chia làm bảy nước lớn mạnh là
Tề, Sở, Yên, Tần, Hàn, Triệu, Ngụy cho đến khi nhà Tần tiêu diệt sáu nước, thống nhất
“thiên hạ” lập ra nước Tần vào năm 221(TCN).Trong lịch sử Trung Quốc cổ đại, thời
Chiến quốc là thời kỳ diễn ra những biến chuyển mạnh mẽ sâu sắc về mọi mặt mà tiền
đề của sự biến chuyển ấy đã được tạo ra từ giai đoạn Xuân thu So với giai đoạn Xuân
thu, cuộc đấu tranh giai cấp thời Chiến quốc ngày càng quyết liệt, tàn khốc Các nước
chư hầu không ngừng tổ chức những liên minh để thôn tính lẫn nhau Suốt thời Chiến
quốc xã hội Trung Quốc một mặt tiềm ẩn nguy cơ triệt tiêu lẫn nhau giữa các tập đoàn
vua chúa, mặt khác chiến tranh liên miên cùng với việc tăng cường hình pháp của giai
cấp thống trị làm cho đời sống của nhân dân hết sức cơ cực Hình ảnh toàn cảnh của xã
hội Trung Quốc đương thời gắn liền với sự chinh phạt, vơ vét của cải của các vương
hầu, lãnh chúa; đói rét, trộm cướp cùng với cảnh tôi giết vua, con giết cha, anh em,
chồng vợ chia lìa nhau, thường xuyên xảy ra
Như vậy, cơ sở khách quan hình thành tư tưởng chính trị - xã hội của Mạnh Tử là bối
cảnh lịch sử Trung Quốc thời Xuân thu - Chiến quốc Việc Mạnh Tử muốn kiến tạo một
ông vua nhân đức và xác lập mối quan hệ vua - dân, trong đó thân phận người dân được
chú ý và đề cao, trước hết là do sự chuyển biến mạnh mẽ về kinh tế và cơ cấu xã hội -
giai cấp thời kỳ này
Tuy nhiên, tư tưởng chính trị - xã hội của Mạnh Tử không chỉ hình thành phản ánh bối
cảnh lịch sử Trung Quốc thời Xuân thu - Chiến quốc, mà còn được ông xây dựng trên
cơ sở kế thừa tư tưởng đức trị của Khổng Tử
Formatted: Justified, Don't add space between
paragraphs of the same style, Line spacing: 1.5 lines, Pattern: Clear
Trang 6Formatted: Right: 0.25"
1.1.1
Sự hình thành, phát triển của tư tưởng đức trị trước đó Mạnh Tử đã kế thừa, đặc biệt là
tư tưởng đức trị của Khổng Tử Chúng ta không thể giải thích chính xác nội dung tư
tưởng chính trị - xã hội của Mạnh Tử nếu chỉ dựa vào tình hình kinh tế - xã hội Trung
Quốc thời Xuân thu - Chiến quốc
a Tư tưởng đức trị của Khổng Tử tác động đến tư tưởng chính trị - xã hội
của Mạnh Tử
Đức trị là chủ trương lớn của Khổng Tử dùng đức để cai trị xã hội Trước Khổng Tử
cũng đã có nhiều người không chỉ trong ý thức mà trên thức tế đã dung đức với ý trong
việc cai trị dân phải dùng Đức để làm cho dân theo và cũng mới tạo được hạnh phúc
cho dân, trong đó người cai trị phải dung đức để cảm hóa,giáo dục dân thành người tốt
và nhờ thế đất nước mới thịnh trị, nhưng phải đến Khổng Tử thì Nho giáo nói chung và
chủ trương dung đức trong cai trị dân mới được xây dựng thành học thuyết, thành giáo
lí Khổng Tử cho rằng trong đạo làm người chính trị là việc lớn và đối với con người
cái mau thành đật nhất cũng là chính trị Chính trị là nơi kì vọng nhất của nho gia và về
chính trị Khổng Tử là người nói nhiều nhất đến tư cách người cầm quyền, đến bổn phận
của họ phải sửa mình, phải làm gương cho dân, giáo hóa dân Ông Nhân mạnh đến mối
quan hệ gắn bó của đạo đức với chính trị và có thể nói ông đã đạo đức hóa chính trị
Ông phê phán xã hội Trung Quốc thời Xuân Thu là một xã hội “vô đạo” và ông muốn
lập lại một xã hội “có đạo”
Mạnh Tử đã cải biến tư tưởng “quân quân, thần thần” bằng tinh thần cách mạng của
ông Đối lập với tính ôn hòa, dè dặt của Khổng Tử khi đề cập đến quan hệ vua tôi, Mạnh
Tử tỏ rõ sự mạnh mẽ và cương quyết khi nói về quan hệ ấy Cương quyết tới mức độ tôi
có thể giết vua khi vua kém đức, không có nghĩa rằng Mạnh Tử xa rời đức nhân của
Khổng Tử Trái lại, đó chỉ là cái cách ông nhấn mạnh tầm quan trọng của nhân khi trong
thời đại ông vua chúa sống sa đọa hơn thời Khổng Tử Trên nền tảng tư tưởng đức trị
của Khổng Tử, Mạnh Tử chủ trương dùng nhân nghĩa trong chính trị; trên cơ sở đó ông
đề xuất quan điểm quý dân, trọng người hiền Nếu Khổng Tử nhấn mạnh vai trò của đức
nhân, gắn liền nhân với trí, dũng và đề cao vai trò của lễ, nhạc, thì Mạnh Tử lại đề cao
Formatted: Font: 13 pt Formatted: Font: 13 pt
Trang 7Formatted: Right: 0.25"
nghĩa, gắn liền nhân với nghĩa Ông quan tâm đến vấn đề xã hội hóa nhân, từ đó cụ thể
hóa tư tưởng đức trị của Khổng Tử thành đường lối nhân chính
b Cơ sở lý luận cho tư tưởng chính trị xã hội của Mạnh Tử
Điểm đáng lưu ý trong quan niệm về tính người của Khổng Tử là ông đã nhìn thấy phần
nào sự thật về quan hệ giữa con người với xã hội Theo ông, con người ta không thể
vượt qua cái “tập” – đó chính là sự tác động của tập quán, hoàn cảnh, điều kiện sống,
và nói rộng ra là sự chi phối của điều kiện lịch sử cùng với nhân sinh quan của chính
mình Luận điểm “tính tương cận dã, tập tương viễn dã” của ông đã cho thấy sự cần
thiết phải lập đạo cho con người, bởi lẽ con người có tính do trời phú nhưng không phải
ai cũng giữ được Khi người ta đuổi theo dục vọng, sống phóng túng thì tính không khỏi
rơi vào tình trạng biến chất Trong hoàn cảnh ấy con người sẽ đánh mất đức nhân và trở
thành vô đạo, ngay cả vua trị vì thiên hạ cũng có thể trở thành “hôn quân vô đạo” Con
người vô đạo sẽ dẫn đến cả nước vô đạo, từ đó kéo theo cả thiên hạ vô đạo Chính vì
vậy phải lập đạo cho mọi người hữu đạo, cả nước hữu đạo và cả thiên hạ hữu đạo
Miệng đối với vị ngon, mắt đối với sắc đẹp, tai đối với tiếng thanh, mũi đối với mùi
thơm, tay chân mình mẩy đối với sự an vui thong thả, thì ưa thích tự nhiên, đó là cái
tính vậy Nhưng cái tính dẫu ưa thích các món ấy, mà có người được, kẻ không, là vì
trong đó có cái mạng Cho nên người quân tử an tâm đối với cái mạng mà người chẳng
gọi là tính.Lòng nhân giữa cha và con, điều nghĩa giữa vua và tôi, tiết lễ giữa khách và
chủ, trí sáng ở trang hiền giả, bậc Thánh nhân giữ đạo Trời, đó đều thuộc về cái mạng
chính đáng vậy Nếu người ta cố sức ăn ở theo các đức hạnh ấy, thì thế nào cũng thu
hoạch được, vì đó là cái tính tự nhiên của mình, cho nên người quân tử khéo tồn dưỡng
cái tính mà người chẳng gọi là mạng
Xuất phát từ đó, Mạnh Tử đã xây dựng nên thuyết tính thiện nổi tiếng của mình Thuyết
tính thiện chính là nội dung cốt lõi mang tính nền tảng trong phần “Tâm học” độc đáo
của Mạnh Tử nên có thể nói, quan điểm bản tính thiện của con người là tiền đề lý luận
trực tiếp cho thuyết nhân chính của ông Xuất phát từ đó ông tiếp tục bổ sung, hoàn
thiện tư tưởng đức trị của Khổng Tử và kiên trì sử dụng nhân đức trong việc cảm hóa
Formatted: Heading 5, Justified, Indent: Hanging:
0.33", Don't add space between paragraphs of the same style, Line spacing: 1.5 lines
Formatted: Font: 13 pt
Formatted: Heading 5, Justified, Don't add space
between paragraphs of the same style, Line spacing: 1.5 lines
Trang 8Formatted: Right: 0.25"
nhân tâm, thu phục lòng người.Với Mạnh Tử, việc tồn tâm, dưỡng tâm trước hết là do
chính bản thân mình nên quá trình làm cho cho thiên hạ trở về hữu đạo phải là quá trình
thức tỉnh lương tâm mỗi người bằng sự giáo huấn tư tưởng, tuyên truyền đạo lý; và như
vậy, cách tốt nhất để đưa con người vào nền nếp kỷ cương là sử dụng đạo đức nhân
nghĩa chứ không phải dùng hình pháp Từ đó cho thấy, đường lối nhân chính trong tư
tưởng chính trị – xã hội của Mạnh Tử là hệ quả tất yếu của quan niệm về bản tính thiện
con người của ông Thuyết tính thiện mà Mạnh Tử xây dựng trên cơ sở kế thừa quan
niệm về “ tâm tính” của các nhà tư tưởng trước đó chính là cơ sở lý luận góp phần giải
thích tại sao Mạnh Tử lại phản đối hình pháp và chủ trương dùng nhân nghĩa trong công
việc trị nước của nhà cầm quyền
2.2 Chương 2: NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN TRONG TƯ TƯỞNG CHÍNH
TRỊ - XÃ HỘI CỦA MẠNH TỬ
2.2.1
2.1 Từ “nhân nghĩa” đến “nhân chính” trong tư tưởng chính trị - xã hội của
Mạnh Tử
Trong tư tưởng của Khổng Tử, nhân là phạm trù luân lý đạo đức căn bản nhất mang
nhiều nghĩa khác nhau Khổng Tử gắn liền nhân với thiên mệnh, và cho rằng tất cả
những gì thuộc về tiên nghiệm đều là cái trời phú cho con người, nó là hạt nhân của hệ
thống tri thức và đạo đức của con người
Thực ra học thuyết về lễ của Khổng Tử là nhằm bổ sung vào chỗ thiếu sót của tư tưởng
đức trị nên xét tới cùng, tư tưởng “lễ trị” của ông không phải là cái gì đó nhân từ Trong
“lễ trị” đã bao hàm cả hình phạt, chế độ đẳng cấp phân phong thế tập cùng với những
nghi thức, lễ tiết khắt khe của các quan hệ xã hội Với tư tưởng “lễ trị” và lập trường
“khắc kỷ phục lễ vi nhân”, Khổng Tử đã thể hiện hoài bão lớn lao của ông là phục hồi
lại chế độ nô lệ và bảo vệ địa vị cầm quyền của giai cấp quý tộc chủ nô Do đó, về thực
chất “lễ trị” chỉ là nền chuyên chính của giai cấp chủ nô đối với quần chúng nhân dân
lao động
Trong bối cảnh xã hội thời Chiến quốc, Mạnh Tử đã phát triển và làm rõ hơn nội dung
của nhân Ông khẳng định: “Nhân giả dã, nhân dã Hiệp nhi ngôn chi, đạo dã: Chữ nhân
(đức nhân) đồng với chữ nhân (người) vậy: hễ là người thì phải làm nhân Nói cho hợp
Formatted: Font: 13 pt, Font color: Text 1, Pattern:
Formatted: Font: 13 pt, Font color: Text 1
Trang 9Formatted: Right: 0.25"
nghĩa, nhân tức là đạo làm người vậy” Ông cũng chỉ rõ: “Nhân giả ái nhân; hữu lễ giả
kính nhân Ái nhân giả, nhân hằng ái chi; kính nhân giả, nhân hằng kính chi: Nhân tức
là thương người, còn lễ tức là
kính người Mình thương người ta thì người ta thường thương lại mình; mình kính người
ta thì người ta thường kính lại mình” Vẫn khẳng định nhân là thương người, nhưng
Mạnh Tử chú trọng hơn về nền tảng của đức nhân Theo ông, đầu mối của nhân là “lòng
trắc ẩn”, nhân đứng đầu trong tứ thiện đức và là đỉnh cao của tháp ngà đạo đức con
người, từ đó làm nảy sinh các đức tính khác
Chính vì lẽ đó, Mạnh Tử không gắn chặt nhân với lễ và cũng không đề cao lễ như Khổng
Tử Nếu như Khổng Tử dùng lễ để bổ sung cho chỗ thiếu sót của tư tưởng đức trị thì
Mạnh Tử coi đức trị là liều thuốc vạn năng để nhà cầm quyền trị nước, an dân, bình
thiên hạ Điều đó cắt nghĩa tại sao trong tư tưởng của ông, “kính người” và “thương
người” không quy định nhau, ràng buộc nhau chặt chẽ như trong tư tưởng của Khổng
Tử.Theo Mạnh Tử, nhân là lương tâm của con người, nhân gắn chặt với nghĩa Nghĩa
là con đường chính đại, là làm việc theo lẽ phải, không lầm đường, lạc lối Ông nói:
“Nhân, nhân tâm dã; nghĩa, nhân lộ dã Xả kỳ lộ nhi phất do, phóng kỳ tâm nhi bất tri
cầu, ai tai!… Học vấn chi đạo vô tha: Cầu kỳ phóng tâm nhi dĩ hỹ: Nhân là lương tâm
của con người; nghĩa là con đường chính đại của người Những ai bỏ con đường chính
đại của mình mà chẳng theo, những kẻ để thất lạc lương tâm của mình mà chẳng biết
tìm nó lại, thật đáng thương hại thay Bản tính của con người là thiện nhưng sở dĩ bất
thiện là do hoàn cảnh, và nhất là do không biết tồn tâm dưỡng tính để dục vọng tầm
thường, tức cái phần ty tiện nhỏ nhen như thú tính, che lấp mất phần cao đại, quý báu là
tính thiện Vì điều kiện, hoàn cảnh và những ham muốn của mỗi người sẽ ảnh hưởng
xấu tới việc giữ gìn đức nhân của họ nên sự giáo hóa đạo đức cho con người là hết sức
cần thiết để con người trở về tính thiện bẩm sinh Muốn giữ gìn đức nhân, con người
phải có nghĩa Nếu như đức nhân thể hiện trong những mối quan hệ của ta với người
khác thì đức nghĩa thể hiện trong khi ta tự vấn lương tâm mình
Kế thừa tư tưởng nhân của Khổng Tử nhưng Mạnh Tử đặc biệt nhấn mạnh vấn đề xã
hội hóa nhân Với ông, nhân không chỉ là đức tính của con người mà còn là hành động
Trang 10Formatted: Right: 0.25"
của họ Đã có nhân, nhưng điều quan trọng hơn là người ta phải biết chuyển hóa nhân
vào hành động của bản thân mình mới là người nhân Nói cách khác, nếu mỗi người chỉ
hiểu biết về nhân, thấm nhuần đức nhân trong suy nghĩ nhưng lại không biết lấy nhân
làm cơ sở cho hành động của mình thì cũng chỉ là sự hư văn, sáo rỗng, hình thức Những
người như thế, không phải là người có nhân Mà không có nhân thì không có nghĩa Mặt
khác, khi đã thấm nhuần nhân trong suy nghĩ và trong hành động thì khi ấy người ta đã
hiểu việc nào nên làm để làm, việc nào không nên làm để không làm, tức là đã có nghĩa
Một kẻ không phân biệt được việc nào nên làm, việc nào không nên làm, tiến hành
những việc lẽ ra chẳng nên làm là không có nghĩa nhân
Như vậy, trong bốn đức lớn do tứ đoan, vốn có ở tâm con người là: nhân, nghĩa, lễ, trí,
Mạnh Tử ít đề cập tới trí và lễ, mà đặc biệt đề cao nhân và nghĩa, kết hợp chúng thành
phạm trù nhân nghĩa Theo ông, trên mọi lĩnh vực của đạo làm người cũng như trong
mọi mối quan hệ giữa người với người trong xã hội, xét
tới cùng đều có hai mặt nhân nghĩa Nhân nghĩa cần thiết cho tất cả mọi người từ quần
chúng nhân dân đến nhà cầm quyền Khi nhà cầm quyền đem nhân nghĩa ứng dụng
trong việc trị nước thì thành nhân chính Nếu đem lòng nhân mà thi hành nhân chính thì
mọi việc sẽ trôi chảy, xã hội sẽ ổn định, thái bình
Trong tư tưởng chính trị - xã hội của Mạnh Tử, chính gắn liền với chính sự Khi nói đến
báu vật của các vua chư hầu, Mạnh Tử nêu rõ: “Chư hầu chi bảo tam: Thổ địa, nhân
dân, chính sự: Một vị vua chư hầu có ba của quý: Đất đai, nhân dân và chính sự” Từ đó
cho thấy, con người có hai loại: con người nhân dân và con người chính sự Con người
thi hành chính sự là vua, nói rộng ra là nhà cầm quyền – đó là những con người đảm
đương công việc trị nước, an dân, bình thiên hạ Họ có nhiệm vụ đề ra đường lối trị
quốc, dẫn dắt quần chúng nhân dân, thống nhất ý chí và hành động của quần chúng nhân
dân vào việc giải quyết những vấn đề then chốt nhằm đạt đến những mục tiêu cụ thể
Tóm lại, trong toàn bộ các phạm trù đạo đức của Nho gia, Mạnh Tử chủ yếu nói tới các
phạm trù nhân và nghĩa Với phong cách tư duy độc đáo của mình, ông đã thêm vào các