Khái quát chung về hợp đồng bảo hiểm nhân thọ
Khái niệm và đặc điểm của hợp đồng bảo hiểm nhân thọ
Bảo hiểm nhân thọ là một hình thức bảo hiểm cung cấp quyền lợi cho người được bảo hiểm trong trường hợp sống hoặc chết trong khoảng thời gian đã thỏa thuận giữa bên bảo hiểm và bên mua bảo hiểm Nghiệp vụ này được thực hiện thông qua hợp đồng giữa doanh nghiệp bảo hiểm và bên mua bảo hiểm, đảm bảo quyền lợi và trách nhiệm của cả hai bên.
Theo Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000, sửa đổi bổ sung năm 2010, hợp đồng bảo hiểm là thỏa thuận giữa bên mua bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm, trong đó bên mua phải đóng phí và doanh nghiệp sẽ bồi thường khi xảy ra sự kiện bảo hiểm Hợp đồng bảo hiểm được chia thành ba loại: bảo hiểm con người, bảo hiểm tài sản và bảo hiểm trách nhiệm dân sự Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ (HĐBHNT) thuộc nhóm bảo hiểm con người, với đối tượng bảo hiểm là tuổi thọ, tính mạng, sức khỏe và sự an toàn của con người Hiện tại, pháp luật Việt Nam chưa đưa ra định nghĩa cụ thể về HĐBHNT, do đó cần xem xét các đặc trưng cơ bản của loại hợp đồng này để hiểu rõ hơn.
Lê Thị Ngân Hà (2019) đã trình bày về quy định pháp luật liên quan đến mối quan hệ giữa bên mua bảo hiểm, người được bảo hiểm và người thụ hưởng trong hợp đồng bảo hiểm nhân thọ Bài viết nằm trong tài liệu hội thảo "Hoàn thiện pháp luật về hợp đồng bảo hiểm nhân thọ" tại Trường Đại học Luật Tp Hồ Chí Minh, trang 31.
Trần Linh Huân (2019) trong bài viết "Bất cập về nội dung, hình thức hợp đồng bảo hiểm nhân thọ và một số kiến nghị hoàn thiện" đã chỉ ra những vấn đề tồn tại trong hợp đồng bảo hiểm nhân thọ và đề xuất các giải pháp cải thiện Bài viết được trình bày tại hội thảo về hoàn thiện pháp luật liên quan đến hợp đồng bảo hiểm nhân thọ, diễn ra tại Trường Đại học Luật Tp Hồ Chí Minh, trang 84-85.
Thứ nhất, đối tượng của hợp đồng bảo hiểm nhân thọ là tuổi thọ và tính mạng của con người.
Theo Luật KDBH, đối tượng của hợp đồng bảo hiểm con người bao gồm tuổi thọ, tính mạng, sức khỏe và tai nạn Đặc biệt, trong hợp đồng bảo hiểm nhân thọ (HĐBHNT), đối tượng bảo hiểm chủ yếu là tuổi thọ và tính mạng của người được bảo hiểm Tuổi bảo hiểm được xác định vào ngày hợp đồng có hiệu lực, dựa trên lần sinh nhật gần nhất Do đó, độ tuổi của người được bảo hiểm ảnh hưởng đến việc xác định nhóm tuổi tham gia bảo hiểm và mức phí bảo hiểm Mức độ rủi ro thay đổi theo độ tuổi, được thể hiện qua Bảng tỷ lệ tử vong COS 1980 Độ tuổi có tỷ lệ tử vong cao sẽ dẫn đến mức phí bảo hiểm cao hơn Khi thiết kế hợp đồng, doanh nghiệp bảo hiểm (DNBH) sẽ quy định độ tuổi tối thiểu và tối đa của người được bảo hiểm Do đó, việc khai báo đúng tuổi của người được bảo hiểm là rất quan trọng; nếu thông tin không chính xác, DNBH có quyền xác minh và điều chỉnh mức phí bảo hiểm.
Theo Điều 34 Luật KDBH, độ tuổi của người được bảo hiểm ảnh hưởng lớn đến quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng bảo hiểm Điều này yêu cầu DNBH phải thông báo chính xác tuổi của người được bảo hiểm khi ký kết và thực hiện hợp đồng Nếu BMBH cung cấp thông tin sai về tuổi, DNBH sẽ có những lựa chọn khác nhau tùy theo từng trường hợp cụ thể.
Nếu tuổi của người được bảo hiểm không nằm trong nhóm tuổi đủ điều kiện, doanh nghiệp bảo hiểm có quyền hủy hợp đồng và hoàn trả phí bảo hiểm đã đóng, sau khi trừ các chi phí hợp lý Nếu hợp đồng đã có hiệu lực từ hai năm trở lên, doanh nghiệp bảo hiểm phải trả cho bên mua bảo hiểm giá trị hoàn lại của hợp đồng.
Trong trường hợp BMBH thông báo sai tuổi của người được bảo hiểm, dẫn đến việc giảm số phí bảo hiểm phải đóng, DNBH có quyền yêu cầu BMBH đóng phí bảo hiểm bổ sung tương ứng với số tiền bảo hiểm đã thỏa thuận trong hợp đồng Nếu tuổi đúng của người được bảo hiểm vẫn thuộc nhóm tuổi có thể được bảo hiểm, DNBH cũng có quyền giảm số tiền bảo hiểm đã thỏa thuận trong hợp đồng tương ứng với số phí bảo hiểm đã đóng.
Nếu BMBH thông báo sai tuổi của người được bảo hiểm, dẫn đến việc tăng phí bảo hiểm, nhưng tuổi thực tế vẫn nằm trong nhóm tuổi được bảo hiểm, DNBH có trách nhiệm hoàn trả số phí bảo hiểm thừa đã đóng hoặc điều chỉnh tăng số tiền bảo hiểm theo hợp đồng tương ứng với số phí đã đóng.
Tuổi thọ con người chịu ảnh hưởng từ nhiều yếu tố như sức khỏe, bệnh tật, thói quen sinh hoạt và gen di truyền Để bảo vệ quyền lợi của các bên liên quan, hợp đồng bảo hiểm nhân thọ thường được quy định chi tiết, chủ yếu do tính phức tạp của đối tượng bảo hiểm.
Tuổi thọ và tính mạng của người được bảo hiểm là yếu tố chính trong hợp đồng bảo hiểm nhân thọ (HĐBHNT), ảnh hưởng đến quyền và nghĩa vụ của cả doanh nghiệp bảo hiểm (DNBH) và bên mua bảo hiểm (BMBH).
Thứ hai, trong HĐBHNT, sự kiện bảo hiểm có thể gắn liền với yếu tố rủi ro và/hoặc sự tích lũy.
Sự kiện bảo hiểm là yếu tố quan trọng trong bảo hiểm, được xác định bởi thỏa thuận giữa các bên hoặc quy định pháp luật, và khi xảy ra, công ty bảo hiểm (DNBH) có trách nhiệm chi trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm Trong bảo hiểm trách nhiệm dân sự và bảo hiểm tài sản, mục tiêu chính là bảo vệ quyền lợi tài chính cho đối tượng bảo hiểm Đối tượng của hai loại hình này bao gồm trách nhiệm bồi thường thiệt hại và lợi ích tài chính liên quan đến tài sản được bảo hiểm Vì các đối tượng bảo hiểm có giá trị cụ thể, nên đây được xem là bảo hiểm thiệt hại đơn thuần DNBH chỉ phải chi trả khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra, và người được bảo hiểm cần chứng minh thiệt hại đã xảy ra để nhận tiền bồi thường.
Trong hợp đồng bảo hiểm nhân thọ, đối tượng bảo hiểm chính là tuổi thọ và tính mạng con người, những yếu tố mà doanh nghiệp bảo hiểm không thể định giá Mục đích của bảo hiểm nhân thọ không chỉ là lợi ích tài chính mà còn là quyền lợi từ sự tồn tại của con người thông qua việc đầu tư và tích lũy tài chính cho bản thân hoặc người thân Pháp luật cho phép doanh nghiệp bảo hiểm thiết kế sản phẩm bảo hiểm nhân thọ kết hợp giữa rủi ro và tích lũy, với nhiều loại hình như bảo hiểm sinh kỳ, bảo hiểm tử kỳ, bảo hiểm hỗn hợp, bảo hiểm trọn đời và bảo hiểm trả tiền định kỳ Đặc biệt, đối với bảo hiểm sinh kỳ, bảo hiểm hỗn hợp và bảo hiểm trả tiền định kỳ, doanh nghiệp bảo hiểm phải chi trả tiền bảo hiểm không chỉ khi xảy ra rủi ro dẫn đến tử vong mà còn khi hết thời hạn bảo hiểm, nếu người tham gia đã tích lũy đủ số tiền bảo hiểm.
Sản phẩm bảo hiểm nhân thọ An Bình Thịnh Vượng của Tổng Công ty Bảo Việt Nhân Thọ cung cấp quyền lợi bảo hiểm lên đến 400% số tiền bảo hiểm trong trường hợp người được bảo hiểm tử vong trong thời gian hợp đồng Ngoài ra, khi hợp đồng đáo hạn, khách hàng sẽ nhận được khoản chi trả từ 100% đến 200% số tiền bảo hiểm, thể hiện tính tích lũy của sản phẩm Đây là sự kết hợp hoàn hảo giữa bảo hiểm rủi ro và tích lũy tài chính.
Trong hợp đồng bảo hiểm nhân thọ (HĐBHNT), trách nhiệm chi trả tiền bảo hiểm của doanh nghiệp bảo hiểm (DNBH) không chỉ phát sinh khi người được bảo hiểm gặp rủi ro, mà còn xảy ra trong một số trường hợp khác, như khi HĐBHNT hết thời hạn hoặc khi DNBH phải trả giá trị hoàn lại cho các hợp đồng bảo hiểm có tính tích lũy.
Thứ ba, HĐBHNT là loại hợp đồng dài hạn.
Phân loại hợp đồng bảo hiểm nhân thọ
Trong hợp đồng bảo hiểm nhân thọ (HĐBHNT), đối tượng bảo hiểm chủ yếu là tuổi thọ và tính mạng của người được bảo hiểm Ngoài ra, sức khỏe và tai nạn cũng có thể được bảo hiểm nếu người mua bảo hiểm tham gia các sản phẩm bổ trợ Dựa vào các yếu tố này, doanh nghiệp bảo hiểm (DNBH) thiết kế nhiều loại hình bảo hiểm như bảo hiểm sinh kỳ, bảo hiểm tử kỳ, bảo hiểm hỗn hợp, bảo hiểm trọn đời, bảo hiểm trả tiền định kỳ và bảo hiểm liên kết đầu tư.
6Nguyễn Thị Thủy (2017), Pháp luật hợp đồng bảo hiểm con người, Nxb Hồng Đức, trang 44.
7Trần Vũ Hải (2006), Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ - những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb
Dựa trên tính chất của sự kiện bảo hiểm, hợp đồng bảo hiểm nhân thọ (HĐBHNT) được phân loại thành ba loại chính: hợp đồng bảo hiểm sinh kỳ, hợp đồng bảo hiểm tử kỳ và hợp đồng bảo hiểm hỗn hợp.
Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ được phân loại dựa trên thời hạn thực hiện, bao gồm hai loại chính: hợp đồng bảo hiểm có thời hạn và hợp đồng bảo hiểm không có thời hạn.
Hợp đồng bảo hiểm sinh kỳ bảo vệ tuổi thọ của người được bảo hiểm, với điều kiện họ phải sống đến thời điểm thỏa thuận trong hợp đồng Nếu người được bảo hiểm còn sống khi hết thời hạn, công ty bảo hiểm sẽ trả tiền bảo hiểm cho họ hoặc người thụ hưởng được chỉ định Ngược lại, nếu người được bảo hiểm qua đời trong thời gian hợp đồng, công ty bảo hiểm không có nghĩa vụ chi trả Mục tiêu của bảo hiểm này là bảo vệ sự sống, khuyến khích người được bảo hiểm ý thức về việc bảo vệ tính mạng để đảm bảo quyền lợi cho người thụ hưởng.
Hợp đồng bảo hiểm tử kỳ bảo vệ tính mạng của người được bảo hiểm, với điều kiện sự kiện bảo hiểm xảy ra khi người được bảo hiểm qua đời trong thời gian hợp đồng còn hiệu lực và không nằm trong các trường hợp loại trừ Trong trường hợp này, doanh nghiệp bảo hiểm có trách nhiệm chi trả số tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng.
Bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp là sự kết hợp giữa bảo hiểm sinh kỳ và bảo hiểm tử kỳ, thể hiện rõ nét sự kết hợp giữa rủi ro và tính tích lũy Trong thời gian bảo hiểm, nếu người được bảo hiểm tử vong do rủi ro bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm (DNBH) sẽ trả tiền bảo hiểm ngay cả khi người mua bảo hiểm (BMBH) mới chỉ đóng một phần phí Nếu hợp đồng bảo hiểm hết hạn và người được bảo hiểm còn sống, DNBH vẫn phải chi trả số tiền bảo hiểm theo cam kết, vì BMBH đã tích lũy được số tiền qua việc đóng phí bảo hiểm.
Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ xác định thời hạn là loại hợp đồng mà các bên đã thỏa thuận về thời gian hiệu lực cụ thể Trong suốt thời gian này, hoặc khi hợp đồng kết thúc, doanh nghiệp bảo hiểm có trách nhiệm chi trả tiền bảo hiểm nếu sự kiện bảo hiểm xảy ra.
Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ không xác định thời hạn là loại hợp đồng mà trách nhiệm bảo hiểm của doanh nghiệp bảo hiểm chỉ chấm dứt khi người được bảo hiểm qua đời hoặc người thụ hưởng đã nhận đầy đủ quyền lợi bảo hiểm Các sản phẩm bảo hiểm liên quan đến hợp đồng này bao gồm bảo hiểm trọn đời và bảo hiểm trả tiền định kỳ.
Hợp đồng bảo hiểm trọn đời bảo vệ mạng sống của người được bảo hiểm, với sự kiện bảo hiểm xảy ra khi người đó qua đời bất kỳ lúc nào trong đời Thời hạn và thời gian đóng bảo hiểm không xác định, mà phụ thuộc vào tuổi thọ của người được bảo hiểm.
Hợp đồng bảo hiểm trả tiền định kỳ là loại hợp đồng bảo hiểm bảo vệ sự sống của người được bảo hiểm trong thời gian thỏa thuận DNBH cam kết trả tiền định kỳ cho người thụ hưởng nếu người được bảo hiểm còn sống đến thời hạn quy định Việc chi trả này sẽ dừng lại khi người được bảo hiểm qua đời hoặc khi người thụ hưởng đã nhận đủ quyền lợi bảo hiểm Loại hình bảo hiểm này có nhiều điểm tương đồng với chế độ hưu trí trong bảo hiểm xã hội.
Một số nội dung cơ bản của hợp đồng bảo hiểm nhân thọ
1.1.3.1 Chủ thể của hợp đồng bảo hiểm nhân thọ
Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ (HĐBHNT) bao gồm hai nhóm chủ thể chính: nhóm bắt buộc, gồm bên bảo hiểm và bên mua bảo hiểm (BMBH), và nhóm có liên quan, bao gồm người được bảo hiểm và người thụ hưởng Ngoài ra, còn có các chủ thể tham gia vào quá trình xác lập và thực hiện HĐBHNT như đại lý bảo hiểm và môi giới bảo hiểm.
Bên mua bảo hiểm nhân thọ (BMBH) là cá nhân hoặc tổ chức ký hợp đồng với doanh nghiệp bảo hiểm (DNBH) nhằm đảm bảo quyền lợi tài chính cho bản thân hoặc người thân khi xảy ra sự kiện bảo hiểm Để hợp đồng có hiệu lực, BMBH cần có năng lực chủ thể, cụ thể là cá nhân phải từ đủ 18 tuổi và không bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, trong khi tổ chức phải tuân theo quy định của Bộ luật dân sự BMBH cũng cần có quyền lợi được bảo hiểm, bao gồm quyền sở hữu, quyền chiếm hữu và quyền tài sản đối với người được bảo hiểm, theo quy định tại Khoản 9 Điều 13 Luật Kinh doanh bảo hiểm.
- Bản thân bên mua bảo hiểm;
- Vợ, chồng, con, cha mẹ của bên mua bảo hiểm;
- Anh chị em ruột; người có quan hệ nuôi dưỡng, cấp dưỡng;
- Người khác, nếu bên mua bảo hiểm có quyền lợi được bảo hiểm 10
Khi người được bảo hiểm mua bảo hiểm cho bản thân hoặc cho vợ/chồng, không cần chứng minh lợi ích nào khác ngoài mối quan hệ giữa họ Tuy nhiên, nếu người mua bảo hiểm cho các đối tượng khác, họ phải chứng minh sự tồn tại quyền lợi bảo hiểm liên quan đến tính mạng của người được bảo hiểm; nếu không, hợp đồng bảo hiểm sẽ không có hiệu lực.
Khoản 9, Điều 13 Luật KDBH chỉ liệt kê các quyền lợi bảo hiểm mà không đưa ra định nghĩa chung hay danh sách đầy đủ, đặc biệt là trong bảo hiểm nhân thọ Ngoài các quyền lợi bảo hiểm đã nêu, còn tồn tại nhiều quyền lợi tài chính khác liên quan đến mối quan hệ giữa người cho vay và người đi vay, người sử dụng lao động và người lao động, cũng như các mối quan hệ kinh doanh giữa đối tác Những quyền lợi này được ghi nhận trong quy tắc và điều khoản của nhiều sản phẩm bảo hiểm, đồng thời cũng tuân thủ các quy định pháp luật khác như luật thuế.
9 Nguyễn Xuân Quang, Lê Nết, Hồ Thị Bích Hằng (2007), Luật Dân sự Việt Nam, Nxb Đại học
11 Khoản 3 Điều 3 Thông tư số 25/2018/TT-BTC của Bộ Tài chính ban hành ngày
Theo quy định ngày 16/03/2018, khoản chi vượt mức 03 triệu đồng/tháng/người cho việc trích nộp bảo hiểm nhân thọ cho người lao động không được khấu trừ thuế thu nhập doanh nghiệp, điều này cho thấy sự bất hợp lý trong quy định về quyền lợi bảo hiểm theo Luật KDBH Tác giả cho rằng cần sửa đổi khoản 9 Điều 3 và Điều 31 của Luật KDBH để mở rộng nội hàm quyền lợi bảo hiểm, bao gồm cả lợi ích vật chất và tinh thần Quyền lợi bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm nhân thọ khác với các hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự và tài sản, vì nó không chỉ mang lại lợi ích vật chất mà còn ảnh hưởng đến tinh thần của người khác, do đối tượng bảo hiểm là sự sống hoặc cái chết của một cá nhân.
Quyền lợi được bảo hiểm trong HĐBHNT phải đáp ứng các điều kiện sau:
Quyền lợi có thể được bảo hiểm phải gắn liền với người mua bảo hiểm từ khi hợp đồng được ký kết cho đến khi kết thúc Nếu trong thời gian thực hiện hợp đồng, quyền lợi này không còn tồn tại, hợp đồng bảo hiểm sẽ chấm dứt Chẳng hạn, bác ruột chỉ có thể mua bảo hiểm cho cháu nếu đang có nghĩa vụ nuôi dưỡng cháu Những quyền lợi chưa phát sinh không thể được bảo hiểm vì không chắc chắn xảy ra trong tương lai, và quyền lợi không còn tồn tại cũng không được xem là quyền lợi có thể bảo hiểm, như trường hợp cha mẹ không thể mua bảo hiểm cho thai nhi chưa sinh hoặc vợ chồng đã ly hôn.
Quyền lợi bảo hiểm là những quyền lợi hợp pháp được nhà nước công nhận, bao gồm các quyền lợi từ bảo hiểm nhân thọ cho người lao động Những quyền lợi này không chỉ phải tuân thủ mức quy định mà còn cần được ghi rõ trong các hồ sơ như hợp đồng lao động, thỏa ước lao động tập thể, hoặc quy chế tài chính của công ty, tổng công ty, tập đoàn.
12 Phan Phương Nam, “Tiếp tục hoàn thiện Luật Kinh doanh bảo hiểm”, http://lapphap.vn/Pages/tintuc/tinchitiet.aspx?tintucid!0755 , truy cập ngày 20/8/2021.
BMBH có quyền mua bảo hiểm cho bản thân và những người có mối quan hệ huyết thống như cha mẹ, con cái, anh chị em ruột, cũng như cho những người có mối quan hệ nuôi dưỡng, cấp dưỡng Luật pháp công nhận quyền quyết định của mỗi cá nhân về sự sống và cái chết của bản thân, do đó BMBH có thể tích lũy hoặc bảo đảm quyền lợi tài chính cho người khác khi sự kiện bảo hiểm xảy ra Mối quan hệ huyết thống được pháp luật cho phép mua bảo hiểm cho nhau, nhưng không quy định rõ về cha mẹ đẻ hay con đẻ, dẫn đến việc các doanh nghiệp bảo hiểm loại trừ quan hệ cha kế, mẹ kế với con riêng Quan hệ vợ chồng cũng được công nhận với các quyền lợi hợp pháp, cho phép họ mua bảo hiểm cho nhau để bảo vệ tài chính khi xảy ra rủi ro BMBH có thể mua bảo hiểm cho những người có lợi ích tài chính từ quan hệ nuôi dưỡng, cấp dưỡng, miễn là có chứng minh rõ ràng về mối quan hệ này Tuy nhiên, quyền lợi không hợp pháp từ các mối quan hệ hoặc hành vi không được pháp luật thừa nhận sẽ không được bảo hiểm.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 38 Luật KDBH, hợp đồng bảo hiểm nhân thọ cho trường hợp chết của người khác phải có sự chấp thuận bằng văn bản của người được bảo hiểm, trong đó ghi rõ số tiền bảo hiểm và người thụ hưởng Đối với những người chưa đủ năng lực hành vi dân sự, cần có sự đồng ý của cha mẹ hoặc người giám hộ hợp pháp Điều này nhằm bảo vệ quyền lợi của cá nhân và ngăn chặn việc lợi dụng bảo hiểm gây hại cho người được bảo hiểm cũng như xã hội.
Quyền lợi được bảo hiểm là yếu tố quan trọng trong hợp đồng bảo hiểm; nếu BMBH không có quyền lợi này, hợp đồng sẽ bị vô hiệu Để chứng minh quyền lợi được bảo hiểm, BMBH cần xác định mối quan hệ với người được bảo hiểm theo các mối quan hệ đã quy định Việc này không chỉ bảo vệ quyền lợi cá nhân của người được bảo hiểm mà còn giúp xác định rõ ràng quyền lợi mà người mua bảo hiểm có thể nhận.
Bên bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm nhân thọ (HĐBHNT) là đơn vị được thành lập và hoạt động theo quy định của Luật Kinh doanh bảo hiểm và các quy định pháp luật liên quan Để đủ điều kiện hoạt động, doanh nghiệp bảo hiểm (DNBH) không chỉ cần đáp ứng các yêu cầu chung về doanh nghiệp mà còn phải có khả năng tài chính, trình độ chuyên môn của người quản lý và loại hình doanh nghiệp phù hợp Đặc biệt, DNBH phải được Bộ Tài Chính cấp giấy phép hoạt động còn hiệu lực tại thời điểm ký kết hợp đồng và cần có vốn điều lệ để thành lập.
15 Điểm a, Khoản 1, Điều 22 Luật KDBH.
Theo Điều 15, Nghị định số 73/2016/NĐ-CP, các doanh nghiệp bảo hiểm (DNBH) phải có vốn pháp định tối thiểu là 600 tỷ đồng, đảm bảo khả năng tài chính để chi trả khi xảy ra sự kiện bảo hiểm DNBH chỉ được hoạt động dưới ba hình thức: công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn và hợp tác xã.
Luật Kinh doanh bảo hiểm quy định rằng doanh nghiệp bảo hiểm chỉ được hoạt động trong ba loại hình nhằm giảm thiểu rủi ro tài chính cho những người tham gia bảo hiểm.
Người quản trị và điều hành doanh nghiệp bảo hiểm cần đáp ứng các điều kiện chung theo quy định pháp luật, cùng với các yêu cầu riêng cho lĩnh vực này Cụ thể, Chủ tịch Hội đồng quản trị và Chủ tịch Hội đồng thành viên phải có ít nhất 05 năm kinh nghiệm làm việc trong lĩnh vực bảo hiểm, tài chính hoặc ngân hàng Trong khi đó, các thành viên Hội đồng quản trị, Hội đồng thành viên, Trưởng Ban kiểm soát, Kiểm soát viên (nếu không có Ban kiểm soát) và Trưởng Ban kiểm toán nội bộ cần có tối thiểu 03 năm kinh nghiệm trong cùng lĩnh vực hoặc kinh nghiệm quản lý điều hành tại doanh nghiệp hoạt động trong ngành bảo hiểm, tài chính, ngân hàng.
DNBH cần đảm bảo rằng người đại diện thực hiện quyền và nghĩa vụ trong việc ký kết hợp đồng bảo hiểm với BMBH có năng lực hành vi dân sự đầy đủ và thẩm quyền đại diện Có hai loại người đại diện: người đại diện giao dịch, thường là nhân viên hoặc đại lý bảo hiểm, và người đại diện ký kết, thường là người đại diện theo pháp luật hoặc người được ủy quyền Người đại diện giao dịch phải được đào tạo chuyên môn và có sự ủy quyền từ DNBH, trong khi người đại diện ký kết có trách nhiệm xác nhận tính ràng buộc của hợp đồng với DNBH.
(iii) Người được bảo hiểm
17 Điều 10, Nghị định số 73/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 của Chính Phủ Quy định chi tiết Luật
Kinh doanh bảo hiểm và Luật sửa đổi một số điều của Luật kinh doanh bảo hiểm.
18 Điểm 7 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Kinh doanh bảo hiểm.