CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
CƠ SỞ LÝ LUẬN
Viêm phổi là bệnh lý viêm nhiễm ảnh hưởng đến các phế quản nhỏ, phế nang và mô xung quanh phế nang ở cả hai phổi, dẫn đến rối loạn trao đổi khí và có thể gây tắc nghẽn đường thở, làm tăng nguy cơ suy hô hấp và tử vong Theo một số tác giả, viêm phổi được định nghĩa là tình trạng nhiễm trùng nhu mô phổi, bao gồm phế nang, túi phế nang, ống phế nang, tổ chức liên kết và tiểu phế quản tận, kèm theo hiện tượng tăng tiết dịch trong phế nang, gây đông đặc nhu mô phổi.
Nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính là bệnh có tỷ lệ mắc và tử vong cao nhất ở trẻ dưới 5 tuổi, với khoảng 2 tỷ lượt trẻ mắc bệnh mỗi năm, theo số liệu của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) Trong số này, khoảng 40 triệu trẻ mắc viêm phổi, và hàng năm có khoảng 14 triệu trẻ em dưới 5 tuổi tử vong, trong đó 4 triệu trẻ chết do viêm phổi cấp tính Điều này tương đương với hơn 10.000 trẻ tử vong mỗi ngày, chủ yếu ở các nước đang phát triển Tại Châu Á, tỷ lệ mắc viêm phổi ở trẻ dưới 5 tuổi tại Đông Quan (Trung Quốc) là 74,6/100.000 trẻ, trong khi ở bang Punjab (Ấn Độ) là 94,1 trẻ/100.000 trẻ Nghiên cứu tại Bangladesh cho thấy 75,4% số ca tử vong liên quan đến viêm phổi, và tại Nepal, tỷ lệ này lên tới 79,8%.
1.1.2.2 Tại Việt Nam Ở Việt Nam, ngay từ năm 1984 đã có chương trìnhphòng chống viêm phổi ở trẻ em Việt Nam chính là quốc gia thứ nhì trên thế giới và đầu tiên ở châu Á có chương trình này Tuy vậy, hiện nay viêm phổi vẫn còn là vấn đề quan trọng ở nước ta Thật vậy, theo thống kê gần đây của WHO, Việt Nam có số trường hợp viêm phổi trẻ em nhiều thứ 9 trên thế giới, với khoảng 2,9 triệu trường hợp viêm phổi ở trẻ em hàngnăm Hàng năm vẫn có khoảng 4000 trẻ em Việt Nam chết vì viêm phổi, chiếm 12% tử vong chung ở trẻ dưới 5 tuổi [8], [9], [10] Tuy thế, hiện nay nhiều người vẫn chưa nhận thức đầy đủ, đúng mức về căn bệnh nguy hiểm này Mặc dù viêm phổi có thể phòng ngừa và điều trị được nhưng vẫn không được quan tâm đầy đủ Thậm chí, WHOvà UNICEF đã đánh giáviêm phổi như một “sát thủ bị lãng quên đối với trẻ em”.Như vậy,viêm phổi ở trẻ thực sự là vấn đề thời sự của nhiều nướctrên thế giới đặc biệt là các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam
1.1.3 Một số đặc điểm giải phẫu sinh lý bộ phận hô hấp của trẻ em
Bộ phận hô hấp của trẻ em có kích thước nhỏ hơn và đặc điểm giải phẫu, sinh lý riêng biệt so với người lớn, với các tổ chức tế bào chưa hoàn toàn biệt hóa Đường thở từ mũi đến thanh quản, khí quản và phế quản ở trẻ em tương đối hẹp và ngắn, dẫn đến nguy cơ cao mắc viêm nhiễm đường hô hấp Niêm mạc thanh khí phế quản dễ bị phù nề và xuất tiết trong quá trình bệnh lý Phổi trẻ nhỏ có nhiều mạch máu và mạch bạch huyết, nhưng lại ít tổ chức đàn hồi, khiến trẻ dễ bị xẹp phổi và giãn phế nang khi viêm phổi Mặc dù quá trình trao đổi khí ở phổi trẻ em mạnh hơn người lớn, nhưng sự cân bằng này dễ bị rối loạn, dẫn đến khó khăn trong hô hấp Những tổn thương ở phổi thường đi kèm với rối loạn tuần hoàn và giảm khả năng trao đổi khí, khiến trẻ dễ mắc các bệnh đường hô hấp, đặc biệt là viêm phế quản phổi.
1.1.4 Nguyên nhân gây bệnh viêm phổi
Virus là nguyên nhân chính gây viêm phổi, chiếm từ 60-70% trường hợp, thường xảy ra theo mùa hoặc trong các vụ dịch Bên cạnh virus, vi khuẩn như phế cầu, hemophilus influenza, tụ cầu, liên cầu và E.coli cũng là nguyên nhân phổ biến Các tác nhân này gây viêm ở phế quản nhỏ, phế nang và mô xung quanh phế nang, dẫn đến tổn thương phổi, tăng tiết đờm, phù nề niêm mạc phế quản, gây bít tắc đường thở và rối loạn thông khí, cuối cùng có thể dẫn đến suy hô hấp.
Theo nghiên cứu của WHO, viêm phổi ở trẻ em thường có những dấu hiệu như sốt, ho và thở nhanh Sốt là dấu hiệu phổ biến nhưng không đặc hiệu, vì có thể do nhiều nguyên nhân khác nhau Ho là triệu chứng thường gặp và có độ đặc hiệu cao trong các bệnh đường hô hấp, bao gồm viêm phổi Thở nhanh là dấu hiệu sớm để chẩn đoán viêm phổi ở trẻ em, với độ nhạy và độ đặc hiệu cao WHO quy định ngưỡng thở nhanh ở trẻ em như sau: trẻ dưới 2 tháng tuổi có nhịp thở ≥ 60 lần/phút được coi là thở nhanh.
Ở trẻ 12 tháng tuổi, nhịp thở nhanh được xác định khi có ≥ 50 lần/phút, trong khi đối với trẻ từ 1 đến 5 tuổi, ngưỡng này là ≥ 40 lần/phút Khi theo dõi nhịp thở, cần đếm khi trẻ nằm yên hoặc đang ngủ và phải thực hiện trong 1 phút Đối với trẻ dưới 2 tháng tuổi, nên đếm 2 lần vì nhịp thở có thể không đều; nếu cả 2 lần đều ≥ 60 lần/phút thì mới có giá trị Rút lõm lồng ngực là một dấu hiệu cần lưu ý.
Để phát hiện viêm phổi (VP) ở trẻ nhỏ, cần chú ý đến dấu hiệu lõm lồng ngực ở phần dưới lồng ngực khi trẻ thở vào Nếu chỉ thấy phần mềm giữa các xương sườn hoặc vùng trên xương đòn lõm, đó chưa phải là dấu hiệu rõ ràng Ở trẻ dưới 2 tháng tuổi, nếu chỉ lõm nhẹ thì chưa có giá trị chẩn đoán, vì lồng ngực của trẻ nhỏ thường mềm và có thể bị lõm khi thở bình thường Dấu hiệu chẩn đoán có giá trị khi lồng ngực lõm mạnh và dễ nhận thấy Nghe phổi có ran ẩm nhỏ hạt cũng là dấu hiệu của VP, nhưng độ nhạy thấp hơn so với chẩn đoán bằng X-quang Tím tái cũng là một triệu chứng cần lưu ý.
Dấu hiệu nguy kịch ở trẻ từ 2 tháng đến 5 tuổi: Trẻ không uống được hoạc bỏ bú;
Co giật, tình trạng trẻ ngủ li bì hoặc khó đánh thức, thể hiện khi gọi hoặc gây tiếng động mạnh nhưng trẻ vẫn không tỉnh Thêm vào đó, trẻ có thể thở rít khi nằm yên và có dấu hiệu suy dinh dưỡng nặng.
Dấu hiệu nguy kịch ở trẻ dưới 2 tháng tuổi bao gồm bú kém hoặc bỏ bú, co giật, ngủ li bì khó đánh thức, thở rít khi nằm yên, thở khò khè, và sốt hoặc hạ nhiệt độ.
1.1.5.3 Triệu chứng cận lâm sàng
X-quang phổi đóng vai trò quan trọng trong việc xác định sự tồn tại và vị trí tổn thương phổi, đánh giá mức độ lan rộng, phát hiện biến chứng và theo dõi đáp ứng điều trị Đối với viêm phổi thùy, tổn thương thường xuất hiện dưới dạng đám mờ đậm, đồng đều, hình tam giác với đỉnh quay về phía trung thất Trong trường hợp viêm phế quản phế viêm, có nhiều nốt mờ rải rác ở hai phổi, tập trung chủ yếu ở vùng cạnh tim và phía dưới, với mật độ và kích thước nốt mờ không đồng đều Xét nghiệm máu cho thấy số lượng bạch cầu tăng cao, đặc biệt là tỷ lệ bạch cầu trung tính Một số phương pháp chẩn đoán viêm phổi bao gồm soi và cấy đờm để tìm vi khuẩn gây bệnh, chọc hút qua khí quản để lấy dịch phế quản nuôi cấy, và cấy máu hoặc dịch màng phổi nếu có kèm theo.
Biến chứng phổ biến nhất của viêm phế quản phổi là nhiễm khuẩn huyết, có thể dẫn đến sốc nhiễm khuẩn Vi khuẩn có khả năng lây lan gây ra viêm màng não, viêm phúc mạc và viêm nội tâm mạc Trẻ bị viêm phổi có thể gặp phải tràn dịch màng phổi hoặc viêm mủ màng phổi Một biến chứng nghiêm trọng khác là áp xe phổi, nơi hình thành khoang chứa mủ do nhu mô phổi bị hoại tử Ngoài ra, tràn khí màng phổi cũng có thể xảy ra, thường do vỡ phế nang hoặc nhiễm vi khuẩn sinh khí.
Viêm phổi (VP) diễn biến nhanh chóng từ nhẹ đến rất nặng, do đó cần được điều trị sớm và kịp thời Phần lớn trường hợp VP do vi khuẩn gây ra, nhưng cũng có thể do virus, khiến việc xác định nguyên nhân trở nên khó khăn Do đó, việc chỉ định kháng sinh thường dựa vào kinh nghiệm lâm sàng Nguyên tắc điều trị bao gồm việc lựa chọn kháng sinh ban đầu dựa trên các yếu tố như nguy cơ của VP, mô hình tác nhân gây bệnh tại địa phương, mức độ nặng của bệnh, tuổi tác bệnh nhân, các bệnh lý kèm theo, cũng như tương tác và tác dụng phụ của thuốc.
2012) [11]; Hỗ trợ hô hấp nếu cần Điều trị biến chứng; Hỗ trợ dinh dưỡng [7]
1.1.7.1 VP ở trẻ từ 2 tháng đến dưới 5 tuổi
Khi trẻ có dấu hiệu viêm phổi rất nặng, cần nhập viện ngay lập tức để điều trị Nếu trẻ có triệu chứng suy hô hấp, cần hỗ trợ thở oxy và sử dụng kháng sinh, với Cephalosporin thế hệ III (Cefotaxim) là lựa chọn đầu tiên, liều 200 mg/kg/ngày chia 3-4 lần Các thuốc thay thế có thể là Chloramphenicol hoặc Ampicilin kết hợp với Gentamycin, thời gian điều trị kháng sinh tối thiểu là 10 ngày cho viêm phổi rất nặng và 7-10 ngày cho viêm phổi nặng Nếu trẻ sốt trên 38,5 độ C, có thể dùng Paracetamol với liều 15 mg/kg cân nặng và thuốc giãn phế quản Đối với trẻ viêm phế quản phổi nhẹ, có thể điều trị tại nhà với Amoxicillin, liều 50 mg/kg/ngày chia 2 lần Nếu tình trạng trẻ cải thiện, tiếp tục dùng kháng sinh trong 5 ngày; nếu triệu chứng không thuyên giảm sau 2 ngày điều trị tại nhà, cần đưa trẻ đi khám lại ngay.
Tất cả trường hợp trẻ dưới 2 tháng tuổi đều được coi là nặng và cần nhập viện để điều trị các nhiễm khuẩn nghiêm trọng Phác đồ kháng sinh ban đầu bao gồm Ampicillin (50 mg/kg mỗi 6-8 giờ) và Gentamycin (7,5 mg/kg một lần/ngày) hoặc Cephalosporin thế hệ thứ III như Cefotaxim (50 mg/kg mỗi 6-8 giờ) Nếu nghi ngờ nhiễm S.aureus, nên sử dụng Oxacillin (50 mg/kg mỗi 6-8 giờ) kết hợp với Gentamycin Ngoài ra, thuốc hạ sốt Paracetamol với liều 15 mg/kg cân nặng, thuốc ho long đờm và thuốc giãn phế quản cũng cần được sử dụng.
CƠ SỞ THỰC TIỄN
1.2.1 Các nghiên cứu đã thực hiện trên thế giới
Nhiều nghiên cứu toàn cầu đã chỉ ra thực trạng viêm phổi ở trẻ em và các biện pháp điều dưỡng nhằm ổn định tình trạng này Viêm phổi là bệnh phổ biến nhưng khó báo cáo chính xác, với phần lớn thống kê dựa trên ước đoán Nghiên cứu của Vinaykumar N và Maruti PJ (2020) cho thấy tỷ lệ nam giới mắc nhiễm trùng đường hô hấp dưới cấp tính (ALRI) cao hơn, với tỷ lệ nam/nữ là 1,3:1 Khoảng 16% trẻ em mắc viêm phổi, 61% bị viêm phổi nặng và 23% rất nặng Các yếu tố như cân nặng khi sinh, trình độ học vấn của mẹ, tình trạng kinh tế xã hội, điều kiện sống, tình trạng tiêm chủng, loại bếp và nhiên liệu nấu ăn, suy dinh dưỡng, thiếu máu và nhu cầu bổ sung oxy có liên quan đến sự xuất hiện của ALRI (P