Với sự phát triển vượt bật và không ngừng tăng mạnh của Internet và kết nối toàn cầu như hiện nay, kéo theo đó là sự phát triển của xã hội như một quy luật tất yếu. Và những điều đó đã ảnh hưởng ít nhiều đến đời sống của mọi người, mạng xã hội hiện nay có thể nói là phương tiện kết nối toàn cầu, là ứng dụng, là phương tiện điện tử mà nhà nhà, người người quan tâm và sử dụng, trong đó phải kể đến cả báo điện tử. Các cơ quan báo chí đều thay đổi các dịch vụ truyền thống sang các phương tiện điện tử và rõ rệt nhất chính là việc mở ra các trang báo điện tử. Với sự phát triển như hiện tại, đặc biệt là trong bối cảnh mà dịch bệnh COVID19 vẫn còn căng thẳng, cộng với xu hướng công nghệ, các trang báo đã liên tục chỉnh sửa và cho ra mắt các dịch vụ báo điện tử mộ cách tốt nhất để không chỉ có giới trẻ ngày nay mà còn cả những người ngoài ngũ tuần, lục tuần đều sử dụng.
TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Lý do chọn đề tài nghiên cứu
Sự phát triển mạnh mẽ của Internet và kết nối toàn cầu đã tác động lớn đến đời sống xã hội, trong đó mạng xã hội trở thành phương tiện kết nối quan trọng Các cơ quan báo chí đã chuyển đổi từ dịch vụ truyền thống sang hình thức điện tử, đặc biệt là việc ra mắt các trang báo điện tử Trong bối cảnh dịch bệnh COVID-19 vẫn còn căng thẳng, các trang báo điện tử không ngừng cải tiến và cung cấp dịch vụ tốt nhất để phục vụ đa dạng đối tượng độc giả, từ giới trẻ đến những người ở độ tuổi trung niên.
Theo VNETWORK, đơn vị tiên phong trong an ninh mạng tại Việt Nam, tính đến tháng 1/2021, dân số Việt Nam đạt 97,8 triệu người, trong đó 68,17 triệu người sử dụng Internet, chiếm 70,3% dân số Thời gian trung bình người dùng trực tuyến là 6 giờ 47 phút mỗi ngày, chủ yếu để xem TV streaming và sử dụng mạng xã hội, với thời gian lần lượt là 2 giờ 40 phút và 2 giờ 21 phút Youtube đã trở thành mạng xã hội phổ biến nhất tại Việt Nam, vượt qua Facebook Tuy nhiên, người dùng chủ yếu vào mạng để xem phim và video, ít cập nhật tin tức từ báo chí Mặc dù có nhiều kênh Youtube cập nhật tin tức thường xuyên, nhưng chúng vẫn chưa thu hút được người đọc như các trang báo điện tử Do đó, người dùng nên dành thời gian cho việc đọc báo và cập nhật tin tức.
Báo online mang lại sự tiện lợi và hữu ích, cung cấp thông tin nhanh chóng cho người đọc Mọi người có thể tiếp cận các sự kiện, bất kể thời gian phát hành, một cách dễ dàng và kịp thời.
Báo điện tử cung cấp thông tin nhanh chóng, nhưng vẫn tồn tại nhiều bài viết kém chất lượng và thông tin sai lệch, đặc biệt là từ các trang báo "lá cải", gây khó khăn cho người lớn tuổi trong việc tiếp cận Trong bối cảnh COVID-19, việc cập nhật thông tin chính xác về lương thực, tác dụng phụ của vaccine, và tình hình dịch bệnh là vô cùng cần thiết Do đó, tôi quyết định nghiên cứu khả năng tiếp cận và thói quen đọc báo điện tử của mọi người.
Các cơ quan báo chí luôn mong muốn thu hút độc giả và khẳng định thương hiệu thông qua việc cung cấp thông tin chính xác Tuy nhiên, câu hỏi đặt ra là liệu độc giả đã lựa chọn được trang báo uy tín, chuyên nghiệp và chất lượng hay chưa, hay vẫn tiếp tục theo dõi những trang báo mà mọi người thường đồn thổi?
Báo lá cải thường không đáng tin cậy với những tiêu đề giật tít gây sự tò mò, dẫn đến nhiều suy luận sai lệch Trong khi báo chí truyền thống cung cấp thông tin, các trang mạng xã hội và công nghệ thông tin cũng mang lại nhiều tiện ích cho xã hội, hỗ trợ các hoạt động như kinh doanh và giao lưu Tuy nhiên, việc quá đắm chìm vào sự hấp dẫn của mạng xã hội có thể dẫn đến việc tiếp nhận thông tin sai lệch và không chính xác, ảnh hưởng tiêu cực đến thói quen đọc báo của mọi người.
Ngày nay, các trang báo điện tử được ưa chuộng nhờ khả năng cập nhật tin tức nhanh chóng và liên tục, phục vụ nhu cầu giải trí và đọc báo của mọi người Sự phát triển của Internet đòi hỏi mọi người phải thích nghi để theo kịp thời đại, khiến thời gian trở nên cấp bách hơn Thật khó để thấy giới trẻ cầm tờ báo in, trong khi nhiều người lớn tuổi cũng đã tìm hiểu và tự đọc báo điện tử một cách thành thạo.
Nghiên cứu hành vi đọc báo online hiện nay giúp chúng ta hiểu rõ hơn về thói quen của cả giới trẻ và người lớn tuổi trong việc tiêu thụ thông tin điện tử Việc này không chỉ phản ánh sự phát triển của công nghệ mà còn cho thấy sự thay đổi trong sở thích và nhu cầu đọc tin tức của từng độ tuổi.
Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu chính của nghiên cứu là nâng cao hiểu biết về thói quen đọc báo điện tử, đặc biệt trong giới trẻ, từ đó giúp các cơ quan báo chí đề xuất những giải pháp hiệu quả nhằm thu hút thêm độc giả cho các trang báo điện tử.
− Nghiên cứu về cơ sở lý luận và thực tiễn về hành vi đọc báo và các trang báo điện tử
− Phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến hành vi đọc báo và thực trạng đọc báo của mọi người hiện nay
Để nâng cao khả năng tiếp nhận thông tin và thu hút nhiều độc giả, đặc biệt là giới trẻ, các trang báo cần rút ra những kết luận và đề xuất giải pháp phù hợp.
Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu tập trung vào cơ sở lý thuyết và thực tiễn của việc đọc báo điện tử, bao gồm các giải pháp và phân tích nhằm nâng cao khả năng tiếp nhận thông tin và tìm kiếm nội dung trên các trang báo điện tử Nghiên cứu cũng xem xét các yếu tố và tác động ảnh hưởng đến hành vi đọc báo online của người dùng, từ đó cung cấp cái nhìn tổng quan về tỷ lệ đọc báo online trong cộng đồng Đối tượng khảo sát chính là mọi người trong xã hội, đặc biệt là sinh viên tại Trường Đại học Công Nghiệp Thực Phẩm TPHCM.
Thời gian: Số liệu sơ cấp đƣợc thu thập, tham khảo và phân tích khoảng 2 năm đổ lại và các số liệu đƣợc khảo sát từ (15/12/2021 – 31/12/2021)
Bài báo cáo được thực hiện tại trường Đại học Công Nghiệp Thực Phẩm TPHCM, tập trung vào nhiều độ tuổi, thành phần và nghề nghiệp khác nhau của người dân sống tại nhiều khu vực trên toàn quốc.
Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện với hai phương pháp định tính và định lượng
Cơ sở lý luận và thực tiễn thông quan các mô hình nghiên cứu liên quan
Tiến hành khảo sát và thu thập ý kiến từ cộng đồng nhằm tổng hợp và phân tích thông tin cho nghiên cứu, với mục tiêu hoàn thiện các mô hình thang đo.
Xây dựng các mô hình thang đo phù hợp với các thông tin và giả thuyết liên quan đến đề tài
Nghiên cứu khái quát bao gồm việc thu thập thông tin và tài liệu từ các bài báo để xây dựng câu hỏi khảo sát Qua đó, các ý kiến từ người tham gia sẽ được lấy ý kiến, giúp điều chỉnh và hoàn thiện bộ khảo sát nhằm thu thập dữ liệu hiệu quả.
Nghiên cứu chính được thực hiện bằng cách thu thập và xử lý dữ liệu từ khảo sát, sử dụng phần mềm SPSS 20.0 để thực hiện các phân tích như kiểm kê, tính toán độ tin cậy bằng hệ số Cronbach’s Alpha, phân tích nhân tố EFA, phân tích tương quan, phân tích hồi quy và kiểm định mô hình.
Phương pháp nghiên cứu chính sử dụng phần mềm SPSS 20.0 để xử lý dữ liệu và phân tích bảng câu hỏi nhằm thu thập thông tin Nghiên cứu tập trung vào việc khám phá các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi đọc báo điện tử của người dùng.
Đóng góp của nghiên cứu
Nghiên cứu này tổng hợp lý thuyết và thực tiễn thông qua khảo sát các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi đọc báo online Kết quả cho thấy tầm quan trọng của báo online trong việc tiếp nhận, xử lý và phân tích thông tin, góp phần nâng cao khả năng đọc báo của mọi người.
Bài viết này là tài liệu tham khảo hữu ích cho sinh viên trong ngành, giúp họ thực hiện các đề tài nghiên cứu liên quan Đề tài cung cấp cái nhìn về tỷ lệ đọc báo online và nâng cao khả năng tiếp cận thông tin chính xác cho giới trẻ, đặc biệt trong bối cảnh dịch COVID-19 Việc đọc báo thường xuyên không chỉ giúp mọi người cập nhật tình hình mà còn trang bị kiến thức về cách xử trí khi có trường hợp mắc bệnh trong gia đình và thông tin về vaccine Qua đó, bài viết góp phần nâng cao hiểu biết và khuyến khích thói quen đọc báo hấp dẫn cho tất cả mọi người.
Kết cấu của đề tài nghiên cứu
Khóa luận tốt nghiệp có các chương sau
Chương 1: Tổng quan về vấn đề nghiên cứu
Chương 2: Cơ sở lý luận và mô hình nghiên cứu
Chương 3: Phương pháp nghiên cứu
Chương 4: Kết quả nghiên cứu và thảo luận
Chương 5: Hàm ý quản trị và khuyến nghị
Trong chương này, tác giả nêu rõ lý do chọn đề tài, mục tiêu nghiên cứu, đối tượng và phạm vi nghiên cứu, cũng như những đóng góp của bài nghiên cứu Bên cạnh đó, tác giả cung cấp dữ liệu liên quan đến hành vi đọc báo điện tử và trình bày phương pháp nghiên cứu được áp dụng cho đề tài.
Nghiên cứu này tập trung phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi đọc báo online, nhằm đánh giá thực trạng đọc báo của người dân và đề xuất giải pháp cải thiện khả năng tiếp cận thông tin Trong chương 2, tác giả trình bày các lý thuyết liên quan đến hành vi đọc báo, đồng thời tham khảo các mô hình nghiên cứu từ các tác giả trong và ngoài nước Dựa trên những bài học và mô hình nghiên cứu trước đó, tác giả sẽ xây dựng mô hình nghiên cứu chính thức cho bài nghiên cứu của mình.
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU
Một số khái niệm
Hay theo NEU – EDUTOP đã có định nghĩa về mạng Internet nhƣ sau:
Internet là một mạng lưới toàn cầu kết nối hàng triệu máy tính thông qua cơ sở hạ tầng viễn thông, hình thành từ các mạng nhỏ hơn Đây là mạng của các mạng, trong đó các máy tính và thiết bị giao tiếp với nhau bằng bộ giao thức TCP/IP (Transmission Control Protocol – Internet Protocol).
Internet đã trở thành một công cụ hữu ích không thể thiếu trong thời đại kết nối toàn cầu, cho phép cập nhật nhanh chóng mọi thông tin từ khắp nơi trên thế giới Tuy nhiên, để sử dụng Internet một cách hiệu quả, người dùng cần nghiên cứu và tự kiểm soát hành vi của mình Sự ảnh hưởng của Internet đã lan rộng đến nhiều lĩnh vực, đặc biệt là báo chí và truyền thông.
Báo chí và xuất bản đang thích ứng nhanh chóng với công nghệ và Internet, bằng cách cải thiện các trang web báo điện tử theo mô hình blog và web feed, giúp cung cấp tin tức và thông tin trực tuyến một cách nhanh chóng và thuận tiện Internet đã nâng cao tốc độ truyền tải thông tin và tạo ra các hình thức tương tác cá nhân mới qua các bài viết, diễn đàn và mạng xã hội.
2.1.2.Khái niệm về hành vi sử dụng
Cho đến nay đã có nhiều bài nghiên cứu và có nhiều quan điểm khác nhau về hành vi sử dụng
Hành vi của người tiêu dùng là quá trình mà họ quyết định lựa chọn hoặc loại bỏ sản phẩm và dịch vụ Điều này thể hiện cách thức người tiêu dùng tương tác với thị trường và ảnh hưởng đến quyết định mua sắm của họ.
Hành vi người tiêu dùng đề cập đến các hành động mà người tiêu dùng thực hiện trong quá trình tìm kiếm, mua sắm, sử dụng và đánh giá sản phẩm cũng như dịch vụ, nhằm đáp ứng nhu cầu cá nhân của họ.
Hành vi sử dụng báo điện tử được hiểu là sự tương tác tích cực giữa các yếu tố như suy nghĩ, nhận thức, hành vi và môi trường, dẫn đến những thay đổi trong cuộc sống con người (Bennett, 1988, dẫn theo Trần Lê Trung Huy, 2011) Để khảo sát và đo lường khả năng đọc báo điện tử, người ta thường sử dụng chỉ số tần suất sử dụng báo trong một khoảng thời gian (Malthouse & Calder, 2002) Ngoài ra, việc đo lường cũng có thể dựa trên mức độ thường xuyên sử dụng báo điện tử, cũng như việc trò chuyện, phân tích và chia sẻ nội dung bài báo với người khác như gia đình, bạn bè và đồng nghiệp (Burgoon & Schoenbach, 1980, dẫn theo Lê Trần Trung Huy, 2011).
Hành vi người tiêu dùng là sự tương tác giữa các yếu tố ảnh hưởng, nhận thức, hành vi và môi trường, qua đó con người thay đổi cuộc sống của mình Nghiên cứu hành vi sử dụng nhằm giải thích quá trình quyết định mua hay không một loại hàng hóa, trong đó việc đo lường xu hướng tiêu dùng của khách hàng là yếu tố then chốt Xu hướng tiêu dùng được định nghĩa là sự nương theo cách chủ quan của người tiêu dùng đối với một loại hàng hóa, sản phẩm hoặc thương hiệu, và đã được chứng minh là yếu tố quan trọng để dự đoán hành vi sử dụng (Fishbein & Ajzen, 1975).
Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra các yếu tố ảnh hưởng đến việc chấp nhận và sử dụng công nghệ thông tin, với các lý thuyết như Lý thuyết hành động hợp lý (TRA), Thuyết hành vi dự định (TPB) và mô hình chấp nhận công nghệ (TAM) được áp dụng Các lý thuyết này đã được Venkatesh & Davis (2003) tổng hợp thành mô hình lý thuyết hợp nhất về chấp nhận và sử dụng công nghệ thông tin, gọi là Unified Theory of Acceptance and Use of Technology (UTAUT).
2.1.3.Tổng quan về việc đọc
Theo từ điển Merriam-Webster, "đọc" có nghĩa là "đọc to những từ được in hoặc viết," trong khi theo Từ điển Oxford, "đọc" được định nghĩa là "có khả năng nhìn và hiểu được ý nghĩa của các vấn đề được viết hoặc in." Những định nghĩa này đã được biết đến từ trước thế kỷ 12.
Đọc được định nghĩa là một hoạt động ngôn ngữ, chuyển đổi từ chữ viết sang âm thanh trong hình thức đọc thành tiếng, trong khi đọc thầm là quá trình chuyển đổi chữ viết thành lời nói mà không có âm thanh Hành động đọc không phải là bẩm sinh mà đã trải qua nhiều thay đổi quan trọng qua thời gian Theo Wolf, tổ tiên chúng ta mất khoảng 2.000 năm để phát triển bảng mã chữ cái, trong khi trẻ em chỉ cần khoảng 2.000 ngày để hiểu bảng mã này.
Việc đọc sách và báo chí không chỉ là nền tảng cho sự thành công trong học tập mà còn trong cuộc sống hàng ngày Thông qua việc đọc, chúng ta có thể tiếp thu kiến thức mới, cải thiện ngôn ngữ và vốn từ vựng Đọc sách còn mang lại niềm vui, mở rộng tầm nhìn và làm phong phú thêm cuộc sống Đặc biệt, đọc giữ vai trò quan trọng trong giáo dục và là phương thức giao tiếp trong xã hội văn minh Dù công nghệ phát triển, sách vẫn giữ được sự phổ biến trong giới trẻ và trong xã hội hiện đại.
Đọc sách là một phương tiện giao tiếp quan trọng, đóng vai trò then chốt trong việc tiếp nhận thông tin và kiến thức (Inderjit, 2014) Nghiên cứu của Guthrie (1984) cho thấy rằng việc đọc sách không chỉ góp phần vào sự phát triển nghề nghiệp mà còn giúp đạt được thành công trong công việc và khả năng thích ứng với thay đổi Từ đó, tầm quan trọng của việc đọc đã dẫn đến nhiều nghiên cứu nhằm hiểu rõ hơn về thói quen và hành vi đọc của con người Trong bối cảnh hiện nay, với sự gia tăng nội dung kỹ thuật số và thời gian đọc qua các phương tiện điện tử, môi trường số đang ngày càng ảnh hưởng đến thói quen và hành vi đọc của mọi người.
Báo điện tử
2.2.1.Khái niệm về Báo điện tử (Báo online)
Báo điện tử, ra đời sau báo giấy, hiện nay đã trở thành một phương tiện thông tin đại chúng đa nhiệm, kết hợp giữa phát thanh và truyền hình Với ưu thế về khả năng đa phương tiện, báo điện tử cung cấp thông tin nhanh chóng, tức thời và luôn cập nhật Ngoài ra, nó còn cho phép lưu trữ và phân loại thông tin, giúp người đọc dễ dàng tìm hiểu và nghiên cứu.
Khái niệm báo điện tử vẫn chưa được thống nhất và có nhiều tên gọi khác nhau như báo mạng, báo online, và báo chí Internet.
Thuật ngữ "báo trực tuyến" đã trở nên phổ biến trong lĩnh vực tin học, phản ánh các khía cạnh kỹ thuật và sự tương tác giữa con người "Báo mạng" là tên gọi tắt của "báo chí mạng Internet" Nhiều nhà nghiên cứu và khoa học đã tiến hành nghiên cứu về hình thức đọc báo này, và thuật ngữ "online" đã được áp dụng rộng rãi, đặc biệt là sau khi Internet phát triển mạnh mẽ, kể cả tại Việt Nam.
Hiện nay, thuật ngữ "báo điện tử" đã trở nên quen thuộc và phổ biến trong cộng đồng, thường đi đôi với khái niệm "online" Các trang web cũng sử dụng thuật ngữ này để mô tả các nền tảng tin tức trực tuyến.
Báo điện tử được định nghĩa là loại hình báo chí hoạt động trên mạng Internet, phục vụ như một sự tiếp nối của báo truyền thống hoặc các trang báo độc lập Những ví dụ tiêu biểu cho báo điện tử ở Việt Nam bao gồm Dân trí, Thanh niên, Vietnamnet, Lao động và VNExpress.
Báo điện tử, theo bộ luật sửa đổi bổ sung một số điều của luật báo chí năm 1999, được định nghĩa là loại hình báo chí hoạt động trên mạng thông tin máy tính bằng tiếng Việt, tiếng các dân tộc thiểu số và tiếng nước ngoài (Điều 3) Luật Báo chí 2016 cũng xác nhận rằng báo điện tử là loại hình báo chí sử dụng chữ viết, hình ảnh và âm thanh, được truyền dẫn trên môi trường mạng, bao gồm cả báo điện tử và tạp chí điện tử.
Vào năm 1997, nhà báo Phan Quang trong bài viết "Cần định nghĩa lại báo chí chăng?" trên báo Nhân dân đã nhấn mạnh sự phát triển nhanh chóng của báo điện tử bên cạnh các loại hình báo chí truyền thống như báo in, phát thanh và truyền hình Ông cho rằng báo điện tử áp dụng các tiến bộ về công nghệ thông tin, tạo ra sự khác biệt so với các phương thức truyền thống Cũng trong bối cảnh này, Tiến sĩ Thang Đức Thắng, Phó Giám Đốc FPT Internet và Tổng biên tập VNExpress, đã định nghĩa báo điện tử là "tờ báo thực hiện các chức năng báo chí bằng phương tiện Internet."
Trong nghiên cứu "Xuất bản báo chí và Mạng toàn cầu" của Michel H Jackson và Nora Paul (1998), đã đề xuất các tiêu chuẩn cần thiết cho một trang web báo điện tử Nếu một trang web vi phạm những tiêu chuẩn này, nó sẽ không được công nhận là một tờ báo điện tử chính thức.
− Trang web của một tổ chức truyền thông hay một công ty nào đó mà không cung cấp một sản phẩm riêng biệt để làm tờ báo
− Trang web đó không thể cập nhật thông tin trong vòng 15 ngày
− Trang web đó không có bản in tương tự
− Trang web chỉ đăng các quảng cáo, các bản tin rao vặt
− Trang web chỉ có mỗi một trang
− Trang web chỉ cung cấp các hạng mục mà không có nội dung liên quan
Thuật ngữ "báo điện tử" (Electronic Journal), "báo trực tuyến" (Online newspaper), "báo mạng" (Cyber Newspaper) và "báo chí Internet" (Internet Newspaper) đang trở nên phổ biến trong tiếng Anh Sự du nhập của tiếng Anh, được xem là ngôn ngữ toàn cầu, đã dẫn đến việc từ "Online" được sử dụng rộng rãi, đặc biệt tại Việt Nam Hiện nay, nhiều trang báo điện tử trong nước đã tích hợp từ "Online" vào tên gọi của mình, như ví dụ "Báo Tin Tức Online".
"Tuổi Trẻ Online", để chỉ phiên bản báo trực tuyến
Báo điện tử là hình thức báo chí được phát hành trên các nền tảng Internet, cho phép người dùng truy cập thông tin nhanh chóng và tiện lợi qua các thiết bị điện tử như máy tính, laptop và điện thoại Sự xuất hiện của báo điện tử đã thay đổi hành vi đọc và ảnh hưởng đến sự phát triển của báo giấy Hiện nay, khái niệm báo điện tử gắn liền với nhiều tờ báo lớn như Quê Hương điện tử, Nhân dân điện tử, và Lao động điện tử Thuật ngữ "báo điện tử" cũng đã được công nhận trong các văn bản pháp lý liên quan.
2.2.2.Sự ra đời và phát triển của báo điện tử tại Việt Nam
Vào đầu những năm 1990, sự phát triển nhanh chóng của Internet đã tạo ra một bước ngoặt lớn trong ngành báo chí, dẫn đến sự ra đời của báo điện tử Internet, được xem như một kỳ tích của nhân loại, đã thu hút 50 triệu người dùng chỉ trong 5 năm, vượt xa thời gian mà các phương tiện truyền thông khác như Radio và Tivi cần để đạt được con số này Hơn 20 năm trôi qua kể từ khi Internet xuất hiện, báo điện tử đã trở thành một phần quan trọng trong cục diện truyền thông hiện đại.
Sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ và Internet đã dẫn đến sự ra đời của báo điện tử, bắt đầu từ những năm 90 của thế kỷ XX Tờ báo điện tử đầu tiên, Chicago Tribune, được ra mắt vào tháng 5 năm 1992, và nhanh chóng phát triển Tiếp theo, CNN đã thử nghiệm phiên bản báo mạng vào năm 1993, theo sau là BBC từ Vương quốc Anh.
1994, cũng nhƣ các đài truyền hình lớn nhƣ: NBC, các tờ New York Times,
Báo điện tử, như Washington Post, đã ra đời để cạnh tranh và thích ứng với sự phát triển toàn cầu Khác với các trang web thông thường, báo trực tuyến thường xuyên cập nhật tin tức, đặc biệt là các tin tức thời sự và giật gân Điều này cho phép người dùng trên toàn thế giới tiếp cận thông tin nhanh chóng, không bị giới hạn bởi không gian và thời gian Sự bùng nổ của báo điện tử đã làm thay đổi thói quen đọc tin của người dân và ảnh hưởng đến sự phát triển của báo giấy truyền thống.
Sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ kết nối toàn cầu đã thúc đẩy nội dung báo chí, gia tăng tốc độ truyền tải và đa dạng hóa hình thức thông tin Báo điện tử không chỉ cho phép người đọc tiếp cận tin tức qua chữ viết mà còn cung cấp hình ảnh và video, tạo nên trải nghiệm phong phú mà báo truyền thống không thể đáp ứng Sự hiện diện và tăng trưởng nhanh chóng của báo điện tử đã thu hút một lượng lớn độc giả từ khắp nơi trên thế giới.
Sự tăng trưởng của báo điện tử tại Việt Nam
Internet chính thức xuất hiện tại Việt Nam vào ngày 19/11/1997, khi Tổng cục Bưu điện cấp phép cho các đơn vị như FPT, Saigonnet, Netnam và VDC cung cấp dịch vụ Ngay từ đầu, cơ quan quản lý nhà nước đã thực hiện cạnh tranh kinh doanh trong lĩnh vực này.
Các lý thuyết và mô hình thái độ
Trong nghiên cứu thị trường, thái độ đóng vai trò quan trọng trong việc hiểu các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi tiêu dùng Các nhà nghiên cứu có thể dễ dàng nắm bắt các khái niệm về thái độ để phân tích quyết định mua sắm của người tiêu dùng Athiyaman (2002) định nghĩa thái độ là sự đánh giá kết quả của hành vi, trong khi Schiffman và Kanuk (1987) cho rằng thái độ là biểu hiện cảm xúc phản ánh xu hướng đánh giá tích cực hoặc tiêu cực đối với một đối tượng cụ thể, như nhãn hiệu, dịch vụ hay sản phẩm Kết quả của quá trình tâm lý này cuối cùng thể hiện thái độ của người tiêu dùng.
21 ngắm một cách trực tiếp đƣợc, nhƣng thái độ có thể nhìn ra đƣợc từ hành vi và lời nói của mọi người
Các mô hình lý thuyết sau đây làm nền tảng tham khảo lý thuyết cho bài nghiên cứu Khóa luận
2.3.1.Mô hình thái độ đơn thành phần (Single component attitude model)
Mô hình thái độ đơn thành phần tập trung vào cảm xúc chính của người tiêu dùng, phản ánh thái độ của họ đối với sản phẩm hoặc thương hiệu thông qua việc đánh giá các thuộc tính mà họ quan tâm Theo Trần Lê Trung Huy (2011), mô hình này có ưu điểm là thiết kế bảng câu hỏi đơn giản, tiết kiệm thời gian và dễ thực hiện nghiên cứu Tuy nhiên, mô hình không cung cấp cái nhìn toàn diện về các yếu tố ảnh hưởng đến đánh giá của người tiêu dùng Chẳng hạn, hai cá nhân có thể chọn cùng một trang báo điện tử nhưng với lý do khác nhau, dẫn đến sự khác biệt trong cách đánh giá Hơn nữa, mối quan hệ giữa sự yêu thích và xu hướng mua sắm cũng không được mô hình này phân tích sâu sắc, cho thấy rằng các thành phần cảm xúc vẫn chưa đủ để ảnh hưởng đến quyết định của người tiêu dùng.
2.3.2.Mô hình thái độ ba thành phần (Tricomponent attitude model)
Mô hình thái độ ba thành phần đã khắc phục những nhược điểm của mô hình thái độ đơn thành phần Theo Schiffman và Kanuk (1987), thái độ được mô tả bao gồm ba thành phần chính: nhận thức (cognitive), cảm xúc hay sự yêu thích (feeling) và xu hướng hành vi (behavior).
Thành phần nhận thức gắn liền với sự hiểu biết và niềm tin của cá nhân về một đối tượng cụ thể Nhận thức được hình thành từ kiến thức và sự nhận biết của người tiêu dùng về sản phẩm, thông qua thông tin liên quan và kinh nghiệm sử dụng Qua quá trình xử lý thông tin, người tiêu dùng phát triển niềm tin đối với sản phẩm hoặc vấn đề đó.
Thành phần cảm xúc hay sự ưa thích phản ánh cảm giác chung của khách hàng đối với sản phẩm hoặc đối tượng mà họ quan tâm Sự ưa thích này không chỉ tập trung vào một thuộc tính nào mà là tổng thể những yếu tố liên quan đến đối tượng Đánh giá này có thể mang tính chất mơ hồ hoặc dựa trên những thuộc tính cụ thể của sản phẩm Cảm xúc thường được xem là yếu tố chính trong thái độ, do đó, một số nhà nghiên cứu coi đây là thành phần chủ yếu, trong khi các thành phần khác hỗ trợ cho cảm xúc.
Thành phần xu hướng hành vi, hay còn gọi là ý định sử dụng, phản ánh rõ nét xu hướng tiêu dùng của khách hàng Những đặc điểm riêng biệt của người tiêu dùng đối với sản phẩm hay dịch vụ mà họ quan tâm được thể hiện qua thành phần này Khách hàng thường quyết định sử dụng sản phẩm dựa trên các trào lưu hay xu hướng mà họ tin tưởng, cho rằng đó là những lựa chọn đúng đắn và được nhiều người xung quanh ủng hộ.
Nhƣợc điểm của mô hình chỉ là việc vẫn còn có khá nhiều hạn chế trong việc giải thích đến thái độ, xu hướng và hành vi mua
Hình 2.1 Mô hình ba thành phần của thái độ
2.3.3.Mô hình thái độ đa thuộc tính (Multi-attribute attitude model)
Mô hình thái độ đa thuộc tính, được phát triển bởi Fishbein và Ajzen vào năm 1975, nhằm khắc phục những nhược điểm của mô hình đơn thành phần và ba thành phần Mô hình này nhấn mạnh rằng thái độ của người tiêu dùng là sự đo lường nhận thức và đánh giá của họ đối với các sản phẩm và dịch vụ cụ thể, tập trung vào việc hiểu rõ nhận thức của khách hàng Khách hàng có khả năng phân biệt và nhận diện các tính năng của sản phẩm thông qua mức độ nhận thức của họ Khi quyết định tiêu dùng, việc nhận biết sản phẩm là cần thiết nhưng chưa đủ; khách hàng cũng thể hiện sự yêu thích thông qua việc đánh giá các thuộc tính của sản phẩm, dẫn đến những cảm xúc như cảm mến và yêu thích.
Ajzen và Fishbein đã chỉ ra mối liên hệ giữa nhận thức và sự yêu thích thông qua mô hình thái độ đa thuộc tính Kết quả cho thấy rằng sự tin tưởng vào các thuộc tính của sản phẩm của người tiêu dùng chủ yếu dựa vào sự ưa thích Do đó, người tiêu dùng có xu hướng lựa chọn sản phẩm mà họ yêu thích, với mỗi niềm tin gắn liền với một thuộc tính cụ thể của sản phẩm.
Sản phẩm báo điện tử gồm 24 loại, và sự tin tưởng của khách hàng đối với từng thuộc tính của chúng sẽ ảnh hưởng đến thái độ của họ Thái độ này phản ánh những niềm tin mà khách hàng đã xây dựng về chất lượng và độ tin cậy của báo điện tử.
Nhận thức đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành thái độ của khách hàng Khi một khách hàng có nhu cầu đọc báo và yêu thích một trang báo cụ thể, họ cần phải nắm rõ thông tin về trang báo đó cùng các đặc điểm nổi bật Những yếu tố này tạo ra xu hướng sử dụng dịch vụ, từ đó kinh nghiệm tiêu dùng giúp khách hàng xây dựng niềm tin vào sản phẩm Thái độ tích cực sẽ dẫn dắt họ đến hành vi lựa chọn và quyết định mua hàng.
Mô hình thái độ đa thuộc tính giúp đánh giá mạnh và yếu của sản phẩm thông qua các thuộc tính của nó Từ đó, có thể xác định những thay đổi cần thiết cho sản phẩm và xây dựng các chiến lược Marketing hiệu quả để hỗ trợ.
2.3.4.Thuyết hành động hợp lý (Theory of Reasoned Action – TRA)
Hình 2.2 Thuyết hành động hợp lý (TRA)
Năm 1967, hai nhà tâm lý học Martin Fishbein và Icek Ajzen đã phát triển học thuyết hành động hợp lý (TRA), dựa trên các nghiên cứu trước đó về tâm lý học xã hội và mô hình thuyết phục.
Mô hình TRA chỉ ra rằng xu hướng tiêu dùng là yếu tố dự đoán chính xác nhất về hành vi mua sắm Hai yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến xu hướng này là thái độ và chuẩn chủ quan, góp phần quyết định đến quyết định mua hàng của người tiêu dùng.
Thái độ được định nghĩa là sự phản ánh của cá nhân về một hành động hoặc hành vi, thể hiện qua những biểu hiện tích cực hoặc tiêu cực Theo thuyết hành động hợp lý, thái độ đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành ý định hành vi, phản ánh cảm nhận của một người đối với hành vi cụ thể Thái độ có thể được đo lường thông qua sức mạnh và đánh giá niềm tin của cá nhân.
Chuẩn chủ quan được định nghĩa là nhận thức của cá nhân về việc hành vi nên hay không nên được thực hiện, dựa trên ý kiến của những người tham khảo quan trọng như gia đình, bạn bè và đồng nghiệp (Fishbein & Ajzen, 1975) Xu hướng mua của người tiêu dùng chịu ảnh hưởng từ hai yếu tố chính của chuẩn chủ quan: mức độ ủng hộ hoặc phản đối đối với việc mua sắm và động cơ của người tiêu dùng để làm theo mong muốn của những người có ảnh hưởng Sự thân thiết với những người này càng lớn, thì ảnh hưởng đến quyết định mua sắm càng mạnh mẽ Niềm tin của người tiêu dùng vào những người có liên quan cũng góp phần quyết định xu hướng chọn lựa, cho thấy rằng ý định mua của họ có thể bị tác động mạnh mẽ hay mờ nhạt tùy thuộc vào sự ảnh hưởng của những người xung quanh.
Các công trình nghiên cứu trước đây
2.4.1.Mô hình nghiên cứu trên thế giới
Nghiên cứu của Sumit Kumar Pandey (2019) mang tên "Xu hướng đọc báo của giới trẻ trong thế kỷ 21" đã phân tích thói quen đọc báo của thanh niên tại Thành phố Varanasi, tập trung vào các tờ báo Thanh niên và Hàng ngày bằng tiếng Hindi Nghiên cứu này được công bố trong Tạp chí Quốc tế về Nghiên cứu Đổi mới và Tiến bộ, cung cấp cái nhìn sâu sắc về sự thay đổi trong cách tiếp cận thông tin của giới trẻ hiện nay.
Nghiên cứu này tập trung vào việc khám phá thói quen đọc báo của giới trẻ tại Varanasi, đặc biệt là sự ưa chuộng nhật báo tiếng Hindi trong thế kỷ 21 Kết quả cho thấy, mặc dù có sự phát triển của báo điện tử, nhiều bạn trẻ vẫn tiếp tục sử dụng báo in.
29 cho thấy được sự tồn tại mạnh mẽ của các phương tiện in ấn ngay cả trong thời đại internet phát triển nhƣ ngày nay
Hình 2.4 Mô hình các yếu tố ảnh hưởng đến xu hướng đọc báo của giới trẻ trong Thế kỷ 21
Phần lớn thanh niên (80%) vẫn ưa chuộng đọc tin tức trên báo in, trong khi chỉ một số ít sử dụng báo điện tử, điều này cho thấy giả thuyết 1 là sai Hầu hết thanh niên (55%) chỉ dành dưới 1 giờ để đọc báo, và giả thuyết 2 đã được chứng minh Về số lượng báo đọc trong ngày, 50% thanh niên chỉ đọc 1 tờ, 35% đọc 2 tờ và 15% đọc 3 tờ, cho thấy giả thuyết 3 có phần không chính xác Đặc biệt, 70% thanh niên thích đọc báo Dainik Jagran, chứng minh giả thuyết 4 là đúng Cuối cùng, 100% thanh niên đọc tin tức giáo dục, 90% đọc tin tức động lực, và 85% quan tâm đến nội dung xã hội và công nghệ, cho thấy giả thuyết 5 là khá đúng.
Nghiên cứu của Deborah S Chung và Chan Yun Yoo (2008) tại Đại học Kentucky tập trung vào động cơ sử dụng các tính năng tương tác của độc giả trên trang báo điện tử Bài viết phân tích sự khác biệt trong việc sử dụng các tính năng tương tác khác nhau, từ đó làm nổi bật vai trò của chúng trong việc thu hút và giữ chân độc giả Nghiên cứu này đóng góp vào lĩnh vực báo chí và viễn thông, giúp hiểu rõ hơn về hành vi và nhu cầu của người đọc trong môi trường số.
Hình 2.5 Mô hình các yếu tố tác động việc sử dụng tính năng tương tác của các trang báo điện tử
Nguồn: Deborah S Chung và Chan Yun Yoo (2008)
Nghiên cứu này khảo sát cách khán giả tương tác với báo điện tử thông qua một cuộc khảo sát trực tuyến với 542 người tham gia Kết quả cho thấy người dùng thường xuyên sử dụng các tính năng của báo mạng, với ba động lực chính bao gồm tìm kiếm/giám sát thông tin, ảnh hưởng xã hội và giải trí Mặc dù cả ba động lực đều liên quan đến việc sử dụng tính năng tương tác, nhưng tìm kiếm/giám sát thông tin không phải là yếu tố dự đoán quan trọng cho việc sử dụng các tính năng này.
Trong ba động lực chính, xã hội hóa và giải trí được xác định là những yếu tố dự báo quan trọng nhất Trong khi đó, tìm kiếm và giám sát không phải là yếu tố dự báo có ảnh hưởng lớn, ngoại trừ khi xét đến trình độ học vấn của cá nhân.
Trong nghiên cứu, có 31 yếu tố ảnh hưởng âm và phần còn lại ảnh hưởng dương Hệ số beta cho thấy ảnh hưởng của xã hội ( = 30) là yếu tố dự báo mạnh nhất, trong khi tính hữu ích của Internet ( = 11) là yếu tố dự báo yếu nhất về mức độ tương tác của con người Bên cạnh đó, giới tính và hiệu quả Internet cũng được xác định là hai yếu tố dự báo quan trọng trong tất cả các phân tích hồi quy.
Nghiên cứu của Klaus Schoenbach và Ester De Waal (2005) trong bài viết "Báo trực tuyến và báo in: Tác động của chúng đến phạm vi của chương trình nghị sự được công chúng nhận thức" đã chỉ ra sự khác biệt giữa báo trực tuyến và báo in trong việc hình thành nhận thức của công chúng Nghiên cứu này, được công bố trên Tạp chí Truyền thông Châu Âu, nhấn mạnh tầm quan trọng của các phương tiện truyền thông trong việc định hình chương trình nghị sự và ảnh hưởng đến cách mà công chúng tiếp cận thông tin.
Nghiên cứu này điều tra ảnh hưởng của báo in và báo trực tuyến đối với nhận thức của công chúng về các sự kiện và vấn đề xã hội trong cuộc sống hàng ngày Đặc biệt, nó xem xét cách mà các loại hình báo chí này tác động đến mức độ nhận thức của khán giả về các vấn đề quan trọng, với mẫu khảo sát gồm 986 người tham gia được chọn ngẫu nhiên.
Hình 2.6 Mô hình các tác động của báo trực tuyến và báo in đến phạm vi của chương trình nghị sự được công chúng nhận thức
Theo nghiên cứu của Klaus Schoenbach và Ester De Waal (2005), báo in đóng góp vào sự đa dạng của chương trình nghị sự, mặc dù hệ số beta thấp của tần suất đọc báo in mỗi tuần chỉ khoảng 0.07 cho thấy tác động không mạnh mẽ Giả thuyết 1 không bị bác bỏ, và phân tích tiếp theo cho thấy tác động của các chủ đề ưa thích của công chúng đối với báo in sẽ bị hạn chế.
Trong nghiên cứu về việc chọn đề mục yêu thích trên báo trực tuyến, sự đa dạng sở thích không phải là vấn đề lớn Số lượng vấn đề được nhận thức trung bình đạt khoảng 4.5 (trong thang điểm 6-7), cao hơn so với mức trung bình 4.1 (thang điểm 5) và mức dưới trung bình 3.5 (thang điểm 0-4), cho thấy vẫn còn tiềm năng cải thiện Do đó, giả thuyết thứ hai không được hỗ trợ, không chỉ với báo trực tuyến mà còn với báo in.
Nghiên cứu cho thấy rằng người dùng báo điện tử thường có trình độ học vấn cao hơn, với các nhóm độc giả gồm những người đã trải qua đào tạo nghề, đại học và sau đại học Họ dành nhiều thời gian hơn cho các trang báo trực tuyến Tuy nhiên, đối với báo in, trình độ học vấn không ảnh hưởng đến mức độ tiếp xúc Tóm lại, giả thuyết 3 được xác nhận một phần, chỉ áp dụng cho người dùng báo điện tử.
Nghiên cứu của Haluk Birsen (2003) tại Đại học Anadolu, Thổ Nhĩ Kỳ, đã chỉ ra sự khác biệt giữa báo in và báo mạng, tập trung vào thói quen và sở thích của độc giả các trang báo tại Thổ Nhĩ Kỳ.
Hình 2.7 Mô hình các yếu tố tác động đến mức độ tương tác của các trang báo điện tử tại Thổ Nhĩ Kỳ
Nghiên cứu này đo lường mức độ tương tác của các tờ báo trực tuyến tại Thổ Nhĩ Kỳ, đồng thời so sánh nội dung của 12 tờ báo trực tuyến với bản in và phân tích vai trò của công nghệ Internet trong việc cải thiện trải nghiệm đọc.
Giả thuyết đầu tiên không được ủng hộ, khi chỉ có ba trang báo điện tử Hurriyet, Radikal và Zaman có nhiều tin tức hơn bản in và thường cung cấp liên kết liên quan Giả thuyết thứ hai được chấp nhận, ngoại trừ Radikal, với năm tờ báo có số lượng phát hành từ 200.000 tờ trở lên có mức độ tương tác trung bình hoặc cao Giả thuyết thứ ba cũng không được hỗ trợ, khi chỉ có hai trong số mười hai tờ báo điện tử có đối tác khác với bản in, trong khi mười tờ báo còn lại có mức độ tương tác trung bình hoặc thấp và số lượng tin tức trên phiên bản in thường nhiều hơn trên phiên bản trực tuyến.
2.4.2.Mô hình nghiên cứu trong nước
Giả thuyết và mô hình nghiên cứu
Tác giả đã tiến hành quan sát và nghiên cứu để xây dựng một mô hình dựa trên lý thuyết hành vi dự định (TPB), tập trung vào các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi đọc báo của mọi người Mô hình này chú trọng đến thái độ, chuẩn chủ quan và kiểm soát hành vi cảm nhận, nhằm cung cấp cái nhìn sâu sắc về động lực đọc báo trong cộng đồng.
Bảng 2.1 Tổng quan về các mô hình nghiên cứu
Hình thức trang báo điện tử Ảnh hưởng xã hội
Kiểm soát hành vi cảm nhận
Thói quen của mọi người
Deborah S Chung và Chan Yun Yoo
Nguồn: Tác giả tự xây dựng
Theo mô hình lý thuyết thái độ của Ajzen (1991), xu hướng đọc báo điện tử của mọi người bị ảnh hưởng bởi các yếu tố như thái độ cá nhân, chuẩn chủ quan, thuộc tính của báo điện tử, kiểm soát hành vi cảm nhận và xu hướng chọn báo điện tử Kết quả khảo sát cho thấy độc giả rất quan tâm đến các yếu tố này trong hành vi đọc báo điện tử.
− Yếu tố chất lƣợng nội dung
− Yếu tố ảnh hưởng xã hội
− Yếu tố kiểm soát hành vi cảm nhận
− Yếu tố thói quen của mọi người
Yếu tố chất lƣợng nội dung
Nội dung bài báo đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp thông tin chính xác và đáng tin cậy, giúp độc giả tiếp thu kiến thức đúng đắn Chất lượng nội dung quyết định việc độc giả có quay trở lại với trang báo hay không Bên cạnh việc cung cấp tin tức hàng ngày về kinh tế, chính trị, các bài báo cũng bao gồm báo cáo, nghiên cứu và phân tích sự kiện xã hội, từ đó giúp mọi người nhận thức được giá trị cuộc sống cũng như cách sống và hoạt động hiệu quả.
Trong bối cảnh đại dịch COVID-19 và sự xuất hiện của các biến chủng mới, việc cung cấp thông tin chính xác và kịp thời đến mọi người là vô cùng quan trọng.
Xu hướng chọn đọc báo điện tử ngày càng phổ biến nhờ vào khả năng cung cấp thông tin nhanh chóng và hiệu quả Các trang báo điện tử không chỉ đáp ứng nội dung chính xác và đáng tin cậy mà còn nổi bật với tính kịp thời và nhạy bén Trong thời đại kết nối toàn cầu hiện nay, bài viết về các sự kiện có thể được cập nhật ngay khi sự kiện đang diễn ra, giúp độc giả nhận thông tin một cách nhanh chóng Điều này trở thành ưu thế cạnh tranh quan trọng giữa các trang báo điện tử.
Theo khảo sát, người dùng chọn đọc báo online dựa vào các tiêu chí chính như tính chính xác, độ tin cậy, khả năng cập nhật nhanh chóng, tính hữu ích, thường xuyên cập nhật kiến thức và tính thực tế cao.
− H1: Chất lượng nội dung ảnh hưởng cùng chiều đến hành vi đọc báo điện tử của mọi người
Độc giả hiện nay rất chú trọng đến giao diện của các trang báo điện tử, với yêu cầu về tính dễ nhìn, dễ tìm kiếm và hấp dẫn ngay từ trang bìa Hình ảnh, kiểu chữ, cỡ chữ và cách trang trí đa dạng là những yếu tố quan trọng để thu hút sự chú ý Tiêu đề cần ngắn gọn, súc tích nhưng vẫn đầy đủ ý nghĩa, đặc biệt trong các lĩnh vực thời sự, kinh tế và chính trị, như tình hình dịch bệnh COVID-19 Sự hài hòa về màu sắc cũng rất cần thiết để tránh gây rối mắt cho độc giả, từ đó tạo nên một trải nghiệm đọc báo dễ chịu và thu hút hơn.
− H2: Hình thức của trang báo điện tử ảnh hưởng cùng chiều đến hành vi đọc báo điện tử của mọi người
Yếu tố ảnh hưởng xã hội
Một số ít độc giả báo điện tử tiếp cận thông tin qua sự tác động của các yếu tố xã hội, đặc biệt là từ những người xung quanh như gia đình, bạn bè và đồng nghiệp Những nhận xét khách quan từ họ về các trang báo có thể ảnh hưởng mạnh mẽ đến quyết định đọc của cá nhân Khi thấy mọi người thảo luận về các vấn đề nóng hổi, đặc biệt trong bối cảnh COVID-19 ảnh hưởng đến nền kinh tế, độc giả sẽ cảm thấy tò mò và muốn tìm hiểu thêm Nhiều trang báo uy tín như Báo Mới, Quê Hương Online, VnExpress, Tuổi Trẻ Online, Dân Trí, Vietnamnet và Lao động điện tử đã cung cấp thông tin đáng tin cậy cho độc giả.
− H3: Ảnh hưởng của xã hội tác động cùng chiều đến hành vi đọc báo điện tử của mọi người
Yếu tố kiểm soát hành vi cảm nhận, theo lý thuyết TPB của Ajzen (1991), đề cập đến niềm tin của cá nhân về mức độ dễ dàng hoặc khó khăn khi thực hiện một hành vi Mức độ kiểm soát hành vi càng cao khi cá nhân sở hữu nhiều nguồn lực và cơ hội Các yếu tố kiểm soát bên trong bao gồm kỹ năng, kiến thức và sự hiểu biết, trong khi các yếu tố bên ngoài như thời gian, cơ hội và sự phụ thuộc vào người khác cũng đóng vai trò quan trọng Trong đó, thời gian và kiến thức được coi là những yếu tố then chốt.
− H5: Kiểm soát hành vi cảm nhận ảnh hưởng cùng chiều đến hành vi đọc báo điện tử của mọi người
Yếu tố thói quen của mọi người
Theo nghiên cứu của Limayem và cộng sự (2003, dẫn theo Schoneville, 2007), thói quen sử dụng được định nghĩa là mức độ mà cá nhân sử dụng hệ thống một cách tự nhiên trong những tình huống cụ thể.
Nghiên cứu năm 2007 cho thấy rằng những người sử dụng báo online như một thói quen thường có hành vi truy cập hoàn toàn tự động hoặc bản năng, và họ có xu hướng chọn báo điện tử đầu tiên khi cần thông tin.
− H5: Thói quen của độc giả tác động cùng chiều đến hành vi đọc báo điện tử của mọi người
2.5.2.Mô hình nghiên cứu đề xuất
Hình 2.11 Mô hình nghiên cứu đề xuất
Nguồn: Tác giả tự tổng hợp và đề xuất
Với mô hình nghiên cứu này, tác giả đã xây dựng đƣợc các giả thuyết nghiên cứu nhƣ:
− Giả thuyết 1: Chất lượng nội dung ảnh hưởng cùng chiều đến hành vi đọc báo điện tử của mọi người
− Giả thuyết 2: Hình thức của trang báo điện tử cùng chiều ảnh hưởng đến hành vi đọc báo điện tử của mọi người
− Giả thuyết 3: Ảnh hưởng của xã hội tác động cùng chiều đến hành vi đọc báo điện tử của mọi người
− Giả thuyết 4: Thói quen của độc giả tác động cùng chiều đến hành vi đọc báo điện tử của mọi người
− Giả thuyết 5: Kiểm soát hành vi cảm nhận cùng chiều ảnh hưởng đến hành vi đọc báo điện tử của mọi người
Chương 2 chủ yếu trình bày các lý thuyết có liên quan đến đề tài nghiên cứu bao gồm các khái niệm về Internet, hành vi tiêu dùng, báo điện tử,… Bên cạnh đó là giới thiệu mô hình các lý thuyết thái độ, thuyết hành động hợp lý TRA (Theory of Reasoned Action), thuyết hành vi dự định TPB (Theory of Planned Behaviour) và các mô hình nghiên cứu của các tác giả trước đó với mục đích tham khảo và làm tiền đề để ứng dụng vào mô hình nghiên cứu trong bài Khóa luận
Sau khi nghiên cứu, tác giả đã phát triển một mô hình gồm 5 yếu tố chính ảnh hưởng đến hành vi đọc báo online, bao gồm Chất lượng nội dung, Hình thức, Ảnh hưởng xã hội, Kiểm soát hành vi cảm nhận và Thói quen của người dùng.
Dựa trên lý thuyết và nghiên cứu đã đề cập, chương 3 sẽ trình bày quy trình nghiên cứu cùng hai phương pháp chính là định tính và định lượng, nhằm điều chỉnh mô hình và thang đo thông qua các nghiên cứu trước đó Tác giả sẽ xây dựng bảng câu hỏi, tiến hành khảo sát và phân tích dữ liệu Các công cụ phân tích dữ liệu sẽ được giới thiệu, sử dụng phần mềm SPSS 20.0, bao gồm thống kê mô tả, hệ số độ tin cậy Cronbach’s Alpha và phân tích yếu tố EFA.