1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Một số đặc điểm dịch tễ học, yếu tố nguy cơ gây nghe kém tiếp nhận và hiệu quả can thiệp đeo máy trợ thính ở trẻ em dưới 3 tuổi tại Bệnh viện Nhi Trung ương

133 21 1

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Một Số Đặc Điểm Dịch Tễ Học, Yếu Tố Nguy Cơ Gây Nghe Kém Tiếp Nhận Và Hiệu Quả Can Thiệp Đeo Máy Trợ Thính Ở Trẻ Dưới 3 Tuổi Tại Bệnh Viện Nhi Trung Ương
Tác giả Lại Thu Hà
Người hướng dẫn PGS.TS. Vũ Đình Thiểm, TS. Phan Hữu Phúc
Trường học Bệnh viện Nhi Trung ương
Chuyên ngành Dịch tễ học
Thể loại luận án tiến sĩ
Năm xuất bản 2021
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 133
Dung lượng 2,52 MB

Cấu trúc

  • Chương 1: TỔNG QUAN (15)
    • 1.1. Tình hình nghe kém của trẻ em trên thế giới và Việt Nam (15)
      • 1.1.1. Trên thế giới (15)
      • 1.1.2. Tại Việt Nam (19)
    • 1.2. Giải phẫu tai và sinh lý nghe (20)
      • 1.2.1. Giải phẫu tai (20)
      • 1.2.2. Sinh lý nghe (23)
    • 1.3. Nghe kém (24)
      • 1.3.1. Định nghĩa nghe kém (24)
      • 1.3.2. Nghe kém tiếp nhận (25)
      • 1.3.3. Các mức độ nghe kém (26)
    • 1.4. Các yếu tố nguy cơ cao của nghe kém (0)
    • 1.5. Can thiệp cho trẻ nghe kém tiếp nhận (37)
      • 1.5.1. Máy trợ thính cho trẻ em (38)
      • 1.5.2. Trị liệu ngôn ngữ (49)
  • Chương 2: ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU (50)
    • 2.1. Địa điểm nghiên cứu (50)
    • 2.2. Thời gian nghiên cứu (50)
    • 2.3. Đối tượng nghiên cứu (50)
      • 2.3.1. Mục tiêu 1 (50)
      • 2.3.2. Mục tiêu 2 (50)
      • 2.3.3. Mục tiêu 3 (51)
    • 2.4. Phương pháp nghiên cứu (51)
      • 2.4.1. Mục tiêu 1 (51)
      • 2.4.2. Mục tiêu 2 (54)
      • 2.4.3. Thiết kế nghiên cứu cho mục tiêu 3 (58)
    • 2.5. Kỹ thuật thu thập dữ liệu (65)
    • 2.6. Khắc phục sai số (65)
    • 2.7. Quản lý và xử lý số liệu (66)
    • 2.8. Khía cạnh đạo đức trong nghiên cứu (66)
  • Chương 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU (68)
    • 3.1. Một số đặc điểm dịch tễ học nghe kém của trẻ dưới 3 tuổi tại bệnh viện (68)
      • 3.1.1. Giới tính (68)
      • 3.1.2. Sàng lọc thính lực sơ sinh (68)
      • 3.1.3. Độ tuổi phát hiện (69)
      • 3.1.4. Nghe kém 1 tai/2 tai (69)
      • 3.1.5. Mức độ nghe kém (70)
      • 3.1.6. Mức độ nghe kém và tuổi thai (70)
      • 3.1.7. Mức độ nghe kém và cân nặng khi sinh (71)
      • 3.1.8. Tình trạng can thiệp trên trẻ nghe kém (72)
      • 3.1.9. Can thiệp đeo máy trợ thính (72)
      • 3.1.10. Can thiệp trên trẻ ở các mức độ nghe kém (73)
      • 3.1.11. Thời gian can thiệp trung bình với từng nhóm tuổi (74)
      • 3.1.12. Thời gian can thiệp trung bình với từng giới (75)
    • 3.2. Phân tích các yếu tố nguy cơ của nghe kém (75)
      • 3.2.1. Phân tích bằng hồi qui đơn biến (75)
      • 3.2.2. Phân tích yếu tố nguy cơ nghe kém bằng hồi qui đa biến (77)
      • 3.2.3. Các yếu tố nguy cơ của nghe kém sau ốc tai (ANSD) (78)
    • 3.3. Đánh giá hiệu quả sau can thiệp máy trợ thính (81)
      • 3.3.1. Cải thiện thính lực trung bình sau đeo máy trợ thính (81)
      • 3.3.2. Mức độ hiệu quả khi đeo máy trợ thính (81)
      • 3.3.3. Hiệu quả khi đeo máy trợ thính theo mức độ nghe kém (82)
      • 3.3.4. Hiệu quả khi đeo máy trợ thính tại vùng tần số 500 Hz (83)
      • 3.3.5. Hiệu quả khi đeo máy trợ thính tại tần số 1000 Hz (83)
      • 3.3.6. Hiệu quả khi đeo máy trợ thính tại tần số 2000 Hz (84)
      • 3.3.7. Hiệu quả khi đeo máy trợ thính tại tần số 4000 Hz (84)
      • 3.3.8. Cải thiện chỉ số SII sau khi can thiệp (%) (theo tai)- tính chỉ số (85)
      • 3.3.9. Cải thiện khả năng hiểu từ tối đa sau can thiệp (%) (theo tai)- tính chỉ số trung bình (85)
      • 3.3.10. Cải thiện khả năng hiểu câu tối đa sau can thiệp (%)(theo tai)- tính chỉ số trung bình (85)
      • 3.3.11. Phát hiện 6 ling (86)
      • 3.3.12. Nhắc lại 6 lings (89)
      • 3.3.13. Phân biệt 6 ling (90)
  • Chương 4: BÀN LUẬN (93)
    • 4.1. Đánh giá thực trạng nghe kém trên trẻ dưới 3 tuổi tại Trung tâm Thính học Bệnh viện Nhi trung ương (93)
      • 4.1.1. Phân bố theo tuổi, giới (93)
      • 4.1.2. Mức độ nghe kém (94)
      • 4.1.3. Thực trạng can thiệp cho trẻ nghe kém (95)
    • 4.2. Các yếu tố nguy cơ cao của nghe kém (98)
      • 4.2.1. Trẻ sinh non, nhẹ cân (98)
      • 4.2.2. Điều trị tại hồi sức sơ sinh (99)
      • 4.2.3. Gia đình có người nghe kém từ nhỏ (100)
      • 4.2.4. Ngạt sau sinh (101)
      • 4.2.5. Nghe kém sau ốc tai (103)
    • 4.3. Hiệu quả của đeo máy trợ thính cho trẻ nghe kém (105)
    • 4.4. Hạn chế của đề tài (110)
  • KẾT LUẬN (112)
  • PHỤ LỤC (0)

Nội dung

Tóm tắt những kết luận mới của luận án: 1.Tỉ lệ trẻ được sàng lọc thính lực sơ sinh ít (10,5%) dẫn tới trẻ nghe kém được phát hiện muộn. Độ tuổi hay phát hiện nghe kém nhất là từ 13-24 tháng (153 trẻ- 33%), tiếp theo là 25-36 tháng (123 trẻ-26,7%), đứng thứ 3 là 0-6 tháng (112 trẻ-24,3%). Điều này cách rất xa qui luật 1-3-6 của thế giới (sàng lọc trong 1 tháng tuổi, chẩn đoán trong 3 tháng tuổi và can thiệp trong 6 tháng tuổi) 2. Các yếu tố nguy cơ với nghe kém tiếp nhận gồm : giới tính nam (OR=1,5 [1,1-2,2]), ngạt sau sinh (OR=3,8 [1,2-12,2]),tiền sử nằm hồi sức sơ sinh (OR=4.0 [1,8-8,9]), trong gia đình có người nghe kém từ nhỏ (OR=20,5 [4,8-88,5]). Các yếu tố nguy cơ của nghe kém sau ốc tai gồm sinh non (OR=3,6 [1,1-11,5]), vàng da sơ sinh (OR=9 [3,8-21,1]), tiền sử nằm hồi sức sơ sinh (OR=3,3 [1,01-10,8]. Việc phát hiện các yếu tố nguy cơ góp phần xây dựng qui trình theo dõi các trẻ có yếu tố nguy cơ này nhằm phát hiện nghe kém sớm. 3. Máy trợ thính đạt hiệu quả tốt với các mức độ nghe kém từ trung bình đến nặng và đạt hiệu quả kém với nghe kém mức độ sâu. Tất cả trẻ nghe kém mức độ trung bình đều có hiệu quả rất tốt với máy trợ thính, nghe kém mức độ nặng là 50% trẻ và nghe kém mức độ sâu không có trẻ nào. Tuy nhiên vẫn có 31,4% trẻ nghe kém mức độ sâu có đáp ứng tốt với máy trợ thính. Vì vậy những trẻ nghe kém mức độ sâu vẫn cần được đeo máy trợ thính trong trường hợp gia đình không đủ điều kiện cấy điện cực ốc tai

TỔNG QUAN

Tình hình nghe kém của trẻ em trên thế giới và Việt Nam

Theo ước tính của WHO, năm 1995 có khoảng 120 triệu người trên toàn cầu bị nghe kém vĩnh viễn (> 40 dB HL) Đến năm 2005, con số này đã tăng gấp đôi lên 278 triệu Đến năm 2018, khoảng 466 triệu người bị nghe kém, chiếm hơn 6,1% dân số thế giới, trong đó có 432 triệu người lớn.

(93%) trong đó có 242 triệu đàn ông (chiếm 56%) và 190 triệu phụ nữ (chiếm

Khoảng 34 triệu trẻ em, tương đương 7%, đang gặp vấn đề về nghe Đặc biệt, một phần ba số người từ 65 tuổi trở lên cũng bị nghe kém Dự đoán rằng số lượng người bị nghe kém sẽ tiếp tục gia tăng trong tương lai.

630 triệu người vào năm 2030 và 900 triệu người vào năm 2050 [121]

Hình 1.1 Số người nghe kém năm 2018 trên thế giới [35]

Commented [P3]: Thiếu hẳn phần tổng quan các nghiên cứu trên y văn cho mục tiêu 2 (các yếu tố nguy cơ nghe kém) và mục tiêu 3

Trong bài viết này, tôi đã đề cập đến các yếu tố nguy cơ liên quan, tuy nhiên, vẫn còn nhiều nghiên cứu sâu hơn để khai thác Về phần can thiệp, tôi chỉ giới thiệu các phương pháp hiện có trên thế giới mà không đi sâu vào các nghiên cứu so sánh Dựa trên tìm kiếm trên PubMed, tôi nhận thấy rằng các nghiên cứu về máy trợ hình đã tập trung nhiều vào công nghệ, điều này khiến tôi không thể thực hiện theo hướng đó trong đề tài này.

Trong các vùng thì Nam Á (South Asia) có tỉ lệ người nghe kém cao nhất với 28,2%, tiếp đến là Đông Á (East Asia) với 21,6% Châu Á – Thái

Bình Dương và Châu Phi –sub Sahara lần lượt là 10,1% và 10,6% Tiếp theo là những nước có thu nhập cao với 9,9% dân số nghe kém Mỹ La Tinh và

Caribe có 8,6% dân số nghe kém Thấp nhất là vùng Trung Đông và Nam Phi với 3,5% dân số nghe kém

Hình 1.2 Tỉ lệ người nghe kém tại các vùng khác nhau [121]

Số người nghe kém càng ngày càng tăng, ước tính đạt hơn 900 triệu vào năm 2050

Hình 1.3 Ước lượng số người bị nghe kém đến năm 2050 [121]

Tỉ lệ trẻ em nghe kém ở các nước có thu nhập cao chỉ khoảng 0,5%, trong khi đó, tỷ lệ này ở các quốc gia thuộc khu vực Trung Đông và Nam Phi là khoảng 1%.

Vùng Nam Á có tỉ lệ trẻ nghe kém cao nhất gần 2,5% Vùng Châu Á-Thái

Bình Dương có tỉ lệ trẻ nghe kém đứng thứ 2 khoảng 2% Đứng thứ 3 là vùng

Châu Mỹ Latin và Caribe và Cent/Easr Europe và Cent Asia với 1,5%

Hình 1.4 Tỉ lệ nghe kém của trẻ em (0-15 tuổi) tại các khu vực [121]

Thu nhập bình quân đầu người (ngàn USD)

T ỉ l ệ tr ẻ ngh e k ém T ỉ l ệ tr ẻ n gh e k é m

Commented [LTH10R9]: Em đã ghi nguồn ạ

Hình 1.5 Tỉ lệ nghe kém của trẻ dưới 14 tuổi theo thu nhập bình quân đầu người năm 2016 [121]

Biểu đồ cho thấy mối liên hệ giữa tỷ lệ trẻ dưới 14 tuổi nghe kém và thu nhập bình quân đầu người Khu vực Nam Á có thu nhập bình quân đầu người thấp nhất, tương ứng với tỷ lệ trẻ nghe kém cao nhất là 2,4% Ngược lại, các nước có thu nhập từ 45.000 USD trở lên ghi nhận tỷ lệ trẻ nghe kém thấp nhất, chỉ 0,5% Đặc biệt, khu vực Đông Á với thu nhập bình quân đầu người 40.000 USD lại có tỷ lệ nghe kém lên đến 1,3%, cao hơn cả khu vực Trung Đông và Nam Phi, nơi thu nhập bình quân đầu người khoảng 15.000 USD nhưng chỉ có 0,9% trẻ dưới 14 tuổi bị ảnh hưởng.

Tầm quan trọng của vấn đề nghe kém trên trẻ được phản ánh qua những sự thật sau:

- Nghe kém là một khuyết tật bẩm sinh phổ biến nhất tại Mỹ

- Cứ 1000 trẻ được sinh ra thì có 2-5 trẻ bị nghe kém bẩm sinh nghiêm trọng vĩnh viễn cả 2 tai

- 3 trẻ nữa trong số 1000 trẻ này sẽ bị nghe kém mắc phải trong những năm tháng đầu đời hoặc ở độ tuổi đến trường [50]

- 33 trẻ được sinh ra mỗi ngày (12.000 trẻ/năm) tại Mỹ bị nghe kém vĩnh viễn [92]

- Những đứa trẻ có thời gian nằm hồi sức sơ sinh nằm trong nhóm nguy cơ cao của nghe kém với ít nhất 1/50 trẻ có nghe kém nghiêm trọng [104]

- Một vài trẻ được sinh ra với sức nghe bình thường nhưng có rất nhiều lý do để mắc nghe kém tiến triển khi trẻ bắt đầu học lớp 1

Nghiên cứu cho thấy rằng 90% kiến thức của trẻ nhỏ được hình thành từ việc nghe không chủ định những âm thanh xung quanh Do đó, việc học của trẻ sẽ bị ảnh hưởng tiêu cực nếu chúng gặp khó khăn trong việc nghe, ngay cả khi mức độ khiếm thính chỉ nhẹ.

- 17/1000 trẻ dưới 18 tuổi bị nghe kém

Ngày nay, số trẻ em bị khiếm thính nặng đã giảm so với trước đây, nhưng số trẻ nghe kém ở mức độ nhẹ đến trung bình lại tăng gấp 10 lần.

- Viêm tai giữa là một nhiễm trùng phổ biến nhất trên trẻ và là nguyên nhân hàng đầu gây nghe kém trên trẻ nhỏ

- Gần như mọi đứa trẻ đều có những quãng thời gian nghe kém liên quan đến viêm tai giữa từ khi sinh ra đến khi chúng được 10 tuổi

- 10-15% trẻ không vượt qua test sàng lọc thính lực tại trường

Năm 1989, chính phủ Mỹ đã cam kết giảm thiểu tác động của tình trạng nghe kém Trong bài phát biểu của mình, Everett Koop, đại diện của Dịch vụ Y tế Công cộng Hoa Kỳ, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc phát hiện sớm tình trạng nghe kém Quan điểm này vẫn tiếp tục có sức ảnh hưởng mạnh mẽ suốt 25 năm sau đó.

1.1.2 Tại Việt Nam Ở Việt Nam có rất ít nghiên cứu về vấn đề này Đa phần sử dụng các dụng cụ cảm quan hoặc test sàng lọc Năm 2001, tác giả Lê Thị Lan và cộng sự đã tiến hành nghiên cứu phản ứng thính giác trên 900 trẻ sơ sinh có nguy cơ cao tại bệnh viện Bảo vệ bà mẹ và trẻ em bằng chuông tự tạo Kết quả cho thấy tỷ lệ không đáp ứng với âm thanh trên nhóm trẻ này là 4,4% [12] Tác giả Phạm Thị Cơi và cộng sự dùng đánh giá âm ốc tai để đánh giá thính giác cho 823 trẻ dưới 5 tuổi tại Bắc Ninh, Thái Nguyên, Phú Thọ cho thấy 4,87% trẻ nghi ngờ có nghe kém [5] Tác giả Phạm Thu Thủy tiến hành đo thính lực cho 12202 trẻ sơ sinh tại Bệnh viện Phụ sản Hà Nội bằng nghiệm pháp đo âm ốc tai đã cho thấy có 3,4% trẻ không vượt qua test sàng lọc [18] Tác giả Nguyễn Tuyết Xương khi đánh giá thính lực trên nhóm trẻ mẫu giáo nội thành

Hà nội thì thu được kết quả như sau:

Quận Số lượng trẻ được sàng lọc

Số lượng trẻ nghe kém % nghe kém

Tổng 7191 314 4,4% Đối với trẻ có yếu tố nguy cơ cũng có rất ít nghiên cứu, nghiên cứu của

Lê Thu Hà năm 2011 trên 305 trẻ có yếu tố nguy cơ cao tại khoa sơ sinh chỉ ra tỉ lệ nghe kém trên nhóm trẻ này là 15,4 % [7].

Giải phẫu tai và sinh lý nghe

Tai gồm 3 phần: tai ngoài, tai giữa, tai trong

Tai ngoài gồm: vành tai và ống tai

Tai giữa gồm: vòi nhĩ, hòm tai và các xoang chũm

Hòm tai, hay còn gọi là hòm nhĩ, có hình dạng giống như một cái trống dẹt và được cấu tạo từ 6 thành phần Hòm nhĩ được chia thành hai tầng, trong đó tầng trên là thượng nhĩ, nơi chứa chuỗi xương con bao gồm xương búa, xương đe và xương bàn đạp.

Tai trong là một phần quan trọng của hệ thống thính giác, nằm trong xương đá và kéo dài từ hòm tai tới ống tai trong Nó bao gồm hai phần chính: mê nhĩ xương ở bên ngoài và mê nhĩ màng ở bên trong, giúp bảo vệ và hỗ trợ chức năng nghe.

Hình 1.7 Giải phẫu tiền đình, ốc tai

Mê nhĩ xương bao gồm tiền đình và ốc tai, với tiền đình kết nối với tai giữa qua cửa sổ bầu dục ở phía trước Trong cấu trúc này, có ba ống bán khuyên nằm trong ba bình diện không gian khác nhau Ốc tai có hình dạng giống như con ốc với hai vòng xoắn rưỡi, được chia thành vịn nhĩ và vịn tiền đình Vịn nhĩ kết nối với tiền đình, trong khi vịn nhĩ liên kết với hòm tai thông qua cửa sổ tròn, được che kín bởi màng nhĩ phụ Scarpa.

Mê nhĩ màng bao gồm hai túi là cầu nang và soan nang, cùng với ống nội dịch và ba ống bán khuyên màng Cầu nang và soan nang chứa các bãi thạch nhĩ, nơi tiếp nhận các kích thích chuyển động Loa đạo màng nằm trong vùng tiền đình, có cơ quan Corti chứa các tế bào lông, tế bào đệm và tế bào nâng đỡ Giữa mê nhĩ màng và mê nhĩ xương có ngoại dịch, trong khi mê nhĩ màng chứa nội dịch.

Cơ quan Corti là phần quan trọng trong hệ thống thính giác, nằm trong nội dịch của ốc tai Nó có cấu trúc phức tạp, bao gồm màng mái, các tế bào nâng đỡ và tế bào thần kinh, đóng vai trò thiết yếu trong quá trình nghe.

Màng mái (màng tectorial) là một phần quan trọng của cơ quan Corti, kéo dài toàn bộ chiều dài của nó và có độ dày cùng chiều rộng tăng dần từ đáy đến đỉnh ốc tai Bên trong màng mái có một trụ rung chuyển, tạo thành khung ở giữa cơ quan Corti với hai dãy trụ: trụ trong và trụ ngoài Sự sắp xếp của các trụ này hình thành một khoang tam giác được gọi là đường hầm Corti.

- Các tế bào nâng đỡ bao gồm tế bào nâng đỡ trong và tế bào nâng đỡ ngoài

- Các tế bào thần kinh

Các tế bào thần kinh bao gồm tế bào lông trong và tế bào lông ngoài, đóng vai trò quan trọng trong việc nhận cảm âm thanh Tổn thương các tế bào lông này có thể dẫn đến tình trạng nghe kém.

Hình 1.8 Cấu tạo cơ quan corti

(nguồn:sites.google.com) 1.2.2 Sinh lý nghe [16]

Vành tai với cấu trúc đặc biệt giúp thu và hướng sóng âm vào ống tai ngoài, nơi sóng âm được truyền đến màng nhĩ Màng nhĩ nhận sóng âm và chuyển đổi chúng thành rung động cơ học, được truyền và khuyếch đại qua chuỗi xương con vào tai trong qua cửa sổ bầu dục Tại tai trong, âm thanh mất 99% năng lượng khi chuyển từ không khí sang môi trường nước, dẫn đến cường độ giảm 30% Tuy nhiên, hệ thống màng nhĩ và xương con ở tai giữa hoạt động như một máy biến thế, bù đắp cho sự mất mát này, giúp người nghe cảm nhận âm thanh với cường độ tương tự như bên ngoài.

- Sự phát sinh xung động thần kinh từ ốc tai

Trong loa đạo, điện thế thường xuyên luôn hiện hữu, và khi có kích thích âm, điện thế vi âm xuất hiện cùng với điện thế tập hợp, dẫn đến sự giải phóng chất trung gian hóa học trong tế bào lông Điều này tạo ra điện thế hoạt động tại synap giữa tế bào lông và sợi thần kinh thính giác Từ đó, điện thế hoạt động được truyền dẫn dưới dạng xung động thần kinh qua dây VIII, đi qua các cấu trúc như nhân ốc tai, phức hợp nhân trám trên, dải Reil bên, củ não sinh tư dưới, thể gối giữa và cuối cùng đến vỏ não.

Hình 1.9 Đường dẫn truyền thính giác

Nghe kém

Nghe kém là sự suy giảm hoặc mất một phần hoặc toàn bộ khả năng nghe, khiến trẻ không thể nghe được ở khoảng cách và cường độ âm thanh bình thường Nghe kém có thể được phân loại thành nghe kém tiếp nhận, nghe kém dẫn truyền và nghe kém hỗn hợp Trong bài viết này, chúng tôi sẽ tập trung vào nghe kém tiếp nhận, còn gọi là nghe kém vĩnh viễn hoặc không hồi phục Mặc dù các thuật ngữ như điếc và khiếm thính thường được sử dụng, chúng chỉ chính xác với trường hợp nghe kém mức độ nặng – sâu Với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, trẻ em bị nghe kém có thể nghe lại như trẻ bình thường sau khi được can thiệp, vì vậy thuật ngữ khiếm thính không còn phù hợp Do đó, trong bài viết này, chúng tôi sẽ sử dụng thuật ngữ nghe kém tiếp nhận theo chuyên ngành Tai Mũi Họng.

Nghe kém tiếp nhận, hay còn gọi là sensoneural hearing loss, là thuật ngữ chuyên ngành chỉ tình trạng nghe kém do tổn thương tại ốc tai Tại Việt Nam, thuật ngữ này thường được gọi tắt là nghe kém tiếp nhận Hiện nay, thế giới đã phân biệt rõ giữa nghe kém tiếp nhận (senso hearing loss) và nghe kém sau ốc tai (neural hearing loss), với tổn thương ở dây thần kinh thính giác Việc phân khu tổn thương này đóng vai trò quan trọng trong việc tiên lượng và điều trị bệnh nhân sau này.

Nghe kém tại ốc tai có đặc điểm là âm thanh không được lọc qua ốc tai, dẫn đến kết quả đo thính giác hành vi ở trẻ lớn cho thấy cả đường khí và đường xương đều giảm xuống dưới mức bình thường, với khoảng cách giữa hai đường này (khoảng Rine) nhỏ hơn ngưỡng cho phép Đối với trẻ nhỏ không thể đo thính lực đơn âm, phương pháp đo ABR sẽ được sử dụng Mức độ nghe kém sẽ ảnh hưởng đến phản ứng của trẻ với âm thanh Máy trợ thính và điện cực ốc tai là những giải pháp hiệu quả cho loại nghe kém này.

Nghe kém sau ốc tai là tình trạng tổn thương dây thần kinh thính giác, ảnh hưởng đến khả năng truyền âm thanh từ tai lên não Trẻ em mắc bệnh này thường có ốc tai bình thường, dẫn đến khả năng phản ứng với âm thanh tương đối tốt, nhưng khả năng nghe hiểu lại kém do tín hiệu âm thanh không được truyền ổn định Khi sàng lọc âm, trẻ có thể pass, nhưng khi đo ABR sẽ không có sóng, chỉ xuất hiện Cochlear microphonic Kết quả từ các bài kiểm tra thính giác hành vi có thể thay đổi, và trẻ có thể thể hiện khả năng nghe khác nhau mỗi ngày Máy trợ thính thường không hiệu quả cho trẻ mắc bệnh này, trong khi một số trẻ có thể phản ứng tốt với điện cực ốc tai, nhưng một số khác lại không thấy hiệu quả từ phương pháp này.

1.3.3 Các mức độ nghe kém

Mức độ nghe kém được xác định qua chỉ số PTA (ngưỡng nghe trung bình âm đơn), là một công cụ đáng tin cậy để đánh giá sự thiếu hụt sức nghe Các chuyên gia lâm sàng tính toán PTA bằng cách lấy giá trị trung bình của ngưỡng nghe ở các tần số 500, 1000 và 2000 Hz.

Không nghe kém: ngưỡng nghe tốt hơn hoặc bằng 15 db

Nghe kém mức độ rất nhẹ: 16-25 dB

Nghe kém mức độ nhẹ: 20 - 40dB

Nghe kém mức độ trung binh: 41-55dB

Nghe kém mức độ trung bình nặng: 56-70 dB

Nghe kém mức độ nặng: 71-90 dB

Nghe kém mức độ sâu > = 91 dB

Nghe kém mức độ rất nhẹ (16-25dB) khiến trẻ mất 10% tín hiệu lời nói khi ở khoảng cách 1m và trong môi trường ồn ào Điều này làm cho trẻ khó nhận biết ý nghĩa hội thoại, dẫn đến việc ngại giao tiếp và ảnh hưởng tiêu cực đến khả năng học tập tại trường.

Nghe kém mức độ nhẹ (26-40dB) khiến trẻ mất từ 25-40% tín hiệu ngôn ngữ và ít nhất 50% thông tin trong lớp học Đây là giai đoạn đầu tiên dẫn đến hành vi tiêu cực ở trẻ, khi chúng bị cho là "chỉ nghe khi muốn" hoặc "không chú ý" Hậu quả là trẻ cảm thấy mệt mỏi sau một ngày học tại trường do phải liên tục tập trung nghe và đoán.

Nghe kém mức độ trung bình (41-55dB)

Trẻ em gặp khó khăn trong việc hiểu hội thoại ở khoảng cách 1-1,5m mà không có sự hỗ trợ của máy trợ thính, với khả năng nghe kém 40dB có thể mất từ 50-70% tín hiệu lời nói, trong khi mức độ nghe kém 50dB có thể mất tới 80-100% Hơn nữa, trẻ thường bị hạn chế về vốn từ vựng, nói ngọng và có giọng điệu không tự nhiên so với trẻ có sức nghe bình thường, dẫn đến sự tự ti trong giao tiếp.

Nghe kém mức độ trung bình nặng (56-70dB) ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng giao tiếp của trẻ Nếu không có máy trợ thính, trẻ chỉ có thể hiểu những hội thoại rất to Ở mức nghe kém 55dB, trẻ có thể mất tới 100% thông tin ngôn ngữ, dẫn đến chậm phát triển về ngôn ngữ, cú pháp, phát âm và chất lượng giọng nói tự nhiên.

Trẻ em bị khiếm thính mức độ nặng (71-90dB) sẽ chỉ nghe thấy giọng nói to khi ở khoảng cách gần, khoảng một bước chân Điều này dẫn đến khả năng ngôn ngữ của trẻ trở nên nghèo nàn nếu không được hỗ trợ bằng máy trợ thính.

Nghe kém mức độ sâu (91dB trở lên) chỉ phản ứng với âm thanh rất to và không phát triển ngôn ngữ, khiến giao tiếp phụ thuộc nhiều vào thị giác hơn là thính giác Ở mức độ này, máy trợ thính mang lại ít lợi ích, do đó trẻ cần cấy điện cực ốc tai để có thể nghe bình thường.

Nghe kém có nhiều mức độ khác nhau, không chỉ đơn thuần là không nghe thấy gì Trẻ em bị nghe kém ở mức độ nhẹ đến trung bình thường khó phát hiện vì vẫn có phản ứng tốt với âm thanh và gọi tên Tuy nhiên, sự phát triển ngôn ngữ của trẻ sẽ bị ảnh hưởng, dẫn đến chậm nói hoặc nói ngọng Do đó, khi tiếp xúc với trẻ có vấn đề về ngôn ngữ, các nhà lâm sàng cần thực hiện đánh giá thính lực để loại trừ khả năng nghe kém.

1.4 Các yếu tố nguy cơ của nghe kém

Năm 1982, Hiệp hội Thính lực Trẻ em Hoa Kỳ (JCIH) đã khuyến cáo 7 nhóm trẻ có nguy cơ nghe kém Đến năm 1990, phân loại yếu tố nguy cơ đã được mở rộng và đưa ra khuyến nghị về việc xác định và quản lý trẻ nghe kém Do đó, những trẻ có yếu tố nguy cơ cần được tiến hành sàng lọc thính giác.

* Sơ sinh (dưới 28 ngày tuổi)

Những yếu tố nguy cơ được xác định trên trẻ sơ sinh gồm:

- Trong gia đình có người bị nghe kém bẩm sinh hoặc tiến triển

- Bị nhiễm trùng trong thời kì mang thai, những bệnh mà có liên quan đến nghe kém như: toxoplasmosis, rubella, CMV, herpes, giang mai

- Bất thường sọ mặt bao gồm những bất thường về hình thái học của vành tai, ống tai, không có nhân trung, đường chân tóc thấp

- Cân nặng khi sinh dưới 1500 gr

- Bilirubin máu cao ở ngưỡng phải chỉ định thay máu

- Dùng kháng sinh nhóm aminoglycosis hơn 5 ngày (gentamycin, tobramycin, kanamycin, streptomycin) và dùng thuốc lợi niệu phối hợp với nhóm aminoglycosis

- Rất yếu khi sinh, có thể bao gồm những trẻ có điểm Apgar từ 0-3 điểm trong 5 phút hoặc những trẻ không tự thở trong 10 phút

- Những trẻ thở máy kéo dài từ 10 ngày trở lên

- Có dấu hiệu hoặc những triệu chứng liên quan đến một số hội chứng có nghe kém tiếp nhận như Waardenburg hoặc Usher

* Yếu tố nguy cơ với trẻ từ 29 ngày đến 2 tuổi

Những yếu tố nguy cơ gây nghe kém tiếp nhận bao gồm:

- Bố mẹ hoặc người chăm sóc trẻ có vấn đề về nghe, nói, ngôn ngữ hoặc chậm phát triển

- Những yếu tố nguy cơ từ thời kì sơ sinh có liên quan đến nghe kém tiếp nhận (CMV, thở máy kéo dài và các bệnh di truyền)

- Chấn thương đầu đặc biệt với những chấn thương gẫy dọc và ngang xương thái dương

- Có dấu hiệu hoặc những triệu chứng liên quan đến những hội chứng có suy giảm sức nghe như hội chứng Waardenburg hoặc Usher

- Dùng kháng sinh nhóm aminoglycosis hơn 5 ngày (gentamycin, tobramycin, kanamycin, streptomycin) và dùng thuốc lợi niệu phối hợp với nhóm aminoglycosis

- Trẻ với những bệnh thoái hóa thần kinh như u xơ thần kinh, động kinh, Friedreich’s ataxia, Huntington’s chorea, Werding-Hoffmann, Charcot- Marie- Tooth

- Những trẻ bị mắc các bệnh nhiễm trùng có gây ra nghe kém như quai bị, sởi

Ngạt (giảm oxy máu) là tình trạng giảm oxy và tăng CO2 trong máu và mô, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe của trẻ Nghiên cứu của D’Souza và cộng sự cho thấy trong số 26 trẻ bị ngạt nặng sau sinh, chỉ có 1 trẻ bị nghe kém, nhưng gần 1/3 trẻ gặp khó khăn về ngôn ngữ so với tiêu chuẩn Theo Simmons, thiếu hụt oxy máu là yếu tố nguy cơ nghiêm trọng hơn bất kỳ yếu tố nào khác trong tiền sử bệnh lý của trẻ, có thể dẫn đến suy giảm thính lực ở trẻ nhỏ.

Viêm màng não mủ là nguyên nhân gây nghe kém vĩnh viễn trên trẻ

Viêm màng não mủ thường do vi khuẩn Haemophilus influenzae và Streptococcus pneumoniae gây ra, dẫn đến việc vi khuẩn xâm nhập qua cống thần kinh ốc tai vào vòng đáy ốc tai, gây nghe kém do độc tố và viêm mê nhĩ Hiện tượng xơ hóa và vôi hóa ốc tai làm chết tế bào lông và bít lấp lòng ốc tai, gây khó khăn cho việc can thiệp cấy điện cực ốc tai, đặc biệt khi vôi hóa nặng Nghiên cứu của Husain và cộng sự tại Canada cho thấy 11,5% trẻ em bị viêm màng não mủ gặp phải tình trạng nghe kém, với mức độ từ nhẹ đến sâu, trong đó khoảng 5% trẻ bị nghe kém mức độ sâu.

Hình 1.10 Hình ảnh ốc tai bình thường trên phim chụp cắt lớp vi tính và cộng hưởng từ

(Nguồn: Bệnh nhân đến khám tại viện Nhi trung ương)

Hình 1.11 Hình ảnh ốc tai bị vôi hóa trên phim chụp cắt lớp vi tính và cộng hưởng từ

(Nguồn: Bệnh nhân đến khám tại viện Nhi trung ương)

Can thiệp cho trẻ nghe kém tiếp nhận

Ngày nay, sự phát triển của khoa học công nghệ đã giúp trẻ em nghe kém vượt qua rào cản này nhờ vào các thiết bị trợ thính Dù mức độ nghe kém là gì, máy trợ thính và điện cực ốc tai đều giúp trẻ có khả năng nghe như trẻ bình thường Việc này không chỉ mang lại lợi ích cho trẻ mà còn cho gia đình và xã hội Máy trợ thính phù hợp cho trẻ nghe kém từ nhẹ đến nặng, trong khi điện cực ốc tai dành cho trẻ nghe kém nặng-sâu Để trẻ phát triển ngôn ngữ hiệu quả, sau khi can thiệp, cần có trị liệu ngôn ngữ Đặc biệt, độ tuổi can thiệp cũng rất quan trọng vì não bộ ưu tiên phát triển ngôn ngữ trong những năm đầu đời.

1.5.1 Máy trợ thính cho trẻ em

Máy trợ thính là thiết bị chuyển đổi sóng rung động âm thanh từ không khí thành tín hiệu điện, sau đó tái tạo chúng thành âm thanh Nó không chỉ đơn thuần là thiết bị khuếch đại âm thanh mà còn có cấu trúc phức tạp hơn.

Máy trợ thính bao gồm ba phần chính: đầu thu (microphone), bộ khuếch đại và loa Microphone chuyển đổi âm thanh thành tín hiệu điện và ngược lại Âm thanh từ môi trường được thu nhận qua microphone, sau đó tín hiệu điện được khuếch đại và định hình qua bộ khuếch đại Tín hiệu này được chuyển đến loa, nơi nó được biến đổi trở lại thành âm thanh khuếch đại và truyền đến tai người dùng qua hệ thống núm tai Núm tai giữ máy trợ thính cố định trên tai và đảm bảo âm thanh được khuếch đại phù hợp, đặc biệt quan trọng cho trẻ nhỏ Hiện nay, hầu hết máy trợ thính đều là máy kỹ thuật số, cho phép điều chỉnh mức khuếch đại cụ thể cho từng tần số, đáp ứng tốt hơn nhu cầu nghe của trẻ.

Hình 1.13 Cấu tạo máy trợ thính

(Nguồn: maytrothinhthienduc.com.vn) Các loại máy trợ thính

• Máy trợ thính đường khí

- BTE (behind the ear): Máy trợ thính sau tai

- ITE (in the ear): Máy trợ thính trong tai

- ITC (in the canal): Máy trợ thính trong ống tai

- CIC (completely in the canal): Máy trợ thính hoàn toàn trong ống tai

- RIC (receiver in the canal): Máy trợ thính loa trong ống tai

Trẻ dưới 12 tuổi nên sử dụng máy trợ thính sau tai vì ống tai của trẻ vẫn đang phát triển, cho phép thay núm tai để tiếp tục sử dụng Với tính cách năng động, trẻ dễ làm rơi máy trợ thính trong tai mà không nhận ra Máy trợ thính sau tai có nhiều loại công suất, đặc biệt là dòng công suất nặng mà không dòng nào khác có được, làm cho đây trở thành lựa chọn hoàn hảo cho trẻ em.

Hình 1.14 Các loại máy trợ thính đường khí

*Máy trợ thính đường xương (bone conduction hearing aids)

Máy trợ thính đường xương là giải pháp cho trẻ em nghe kém không thể sử dụng máy trợ thính đường khí, như trẻ bị dị dạng vành tai, ống tai hoặc nghe kém sâu một bên Nó cũng phù hợp cho người lớn sau phẫu thuật xương chũm hoặc viêm tai giữa mãn tính Thiết bị này chuyển đổi sóng âm thành rung động, truyền qua xương sọ đến ốc tai, bỏ qua các tổn thương ở tai ngoài và tai giữa Máy có thể được đặt ở nhiều vị trí trên đầu, phổ biến nhất là sau tai hoặc trên trán, và được giữ bằng vòng co dãn hoặc miếng dán Khi trẻ trên 5 tuổi, có thể tiến hành phẫu thuật cấy implant vào xương chũm, kết nối với máy trợ thính Hiện nay, loại implant mới nằm hoàn toàn trong da đầu và kết nối qua nam châm, giúp giảm nguy cơ nhiễm trùng.

Máy trợ thính cắm sâu vào xương chũm mang lại khả năng dẫn truyền âm thanh tốt hơn so với các loại chỉ đeo trên đầu bằng dây mềm Hai loại máy trợ thính đường xương phổ biến nhất hiện nay là BAHA của Cochlear và Pronto của Oticon Tương tự như máy trợ thính đường khí, máy trợ thính đường xương cũng có nhiều loại công suất khác nhau.

Hình 1.15 Máy trợ thính đường xương

- Hiệu chỉnh máy trợ thính cho trẻ em [52]

Trong những năm đầu triển khai chương trình sàng lọc thính lực sơ sinh, các nhà thính học đã gặp nhiều thử thách trong việc hiệu chỉnh máy trợ thính cho trẻ nhỏ, bao gồm việc xử lý núm tai rất nhỏ, tai mềm, và thu thập ngưỡng nghe từ các bài test thính giác khách quan do trẻ không thể hợp tác trong các bài test chủ quan Qua thời gian, họ đã phát triển quy trình hiệu chỉnh hiệu quả cho trẻ nhỏ, với một máy trợ thính được hiệu chỉnh tốt dựa trên các yếu tố như kết quả đo thính lực chính xác, công suất máy phù hợp, chất lượng núm tai tốt, công thức hiệu chỉnh thích hợp, và việc sử dụng REM và RECD để tính toán mức độ khuếch đại cần thiết cho trẻ.

Công thức chỉnh máy hiện nay khuyến cáo sử dụng DSLv5 thay vì phần mềm NAL1, NAL2 như trước đây DSLv5 là chương trình hiệu chỉnh âm thanh tiên tiến, mang lại khả năng khuếch đại âm thanh cao nhất cho trẻ em.

Phương pháp REM (Real Ear Measurement) là kỹ thuật quan trọng trong việc điều chỉnh máy trợ thính cho trẻ em, nhằm đảm bảo âm lượng khuếch đại phù hợp với tai của trẻ Do ống tai của trẻ nhỏ hơn người lớn, cùng một cường độ âm thanh có thể gây ra cảm giác to hơn cho trẻ Mặc dù phần mềm trong máy trợ thính có phân chia theo độ tuổi, nhưng sự khác biệt về thể tích và hình dạng ống tai của từng trẻ dẫn đến âm thanh khuếch đại mà trẻ nghe được có thể khác nhau Phương pháp REM đo thể tích ống tai và kết hợp với ngưỡng nghe của trẻ để xác định mức âm thanh mục tiêu mà máy trợ thính cần đạt được Điều này không chỉ giúp tăng cường độ rõ nét của âm thanh mà còn giảm thiểu tác hại do khuếch đại quá mức Phương pháp này thích hợp cho trẻ lớn có khả năng ngồi yên trong khoảng thời gian từ 10 đến 15 phút trong quá trình hiệu chỉnh.

- RECD (Phương pháp hiệu chỉnh máy trợ thính dựa trên sự khác biệt giữa tai thật và 2cc coupler)

Phương pháp này được áp dụng cho trẻ nhỏ không thể ngồi yên trong 10-15 phút để điều chỉnh máy trợ thính Đầu tiên, thể tích ống tai thật của trẻ sẽ được đo, sau đó máy sẽ so sánh với thể tích của 2cc coupler Thay vì yêu cầu trẻ ngồi yên để điều chỉnh trực tiếp, các nhà thính học sẽ sử dụng 2cc coupler để thực hiện điều chỉnh Nguyên tắc chính là đảm bảo máy trợ thính đạt đến ngưỡng mục tiêu mà trẻ cần.

Trẻ nghe kém cần được can thiệp sớm, theo quy tắc 1-3-6, không muộn hơn 6 tháng tuổi Nếu phát hiện muộn, can thiệp nên diễn ra trước 2 tuổi để đảm bảo sự phát triển não bộ, đặc biệt là vùng thính giác Việc đeo máy trợ thính hoặc cấy điện cực ốc tai trong 2 năm đầu đời kích thích não bộ, giúp tăng cường khả năng tiếp nhận thông tin thính giác Trẻ được can thiệp sớm có khả năng phát triển ngôn ngữ tốt hơn so với trẻ can thiệp muộn Đánh giá hiệu quả của máy trợ thính dựa vào mức độ khuếch đại và sự phát triển ngôn ngữ, nhưng điều này phụ thuộc vào nhiều yếu tố Biểu đồ “Dots audiogram” và chỉ số SII (speech intelligible index) được sử dụng để đánh giá khả năng hiểu lời của trẻ Trong khi người lớn cần chỉ số SII tối thiểu là 60% để giao tiếp, trẻ em cần đạt ít nhất 80%.

Hình 1.16 Biểu đồ dạng chấm

Hình 1.17 Cách tính chỉ số SII dựa vào biểu đồ dạng chấm

Tần số (Hz) Tần số (Hz)

Hình 1.18 Khả năng hiểu từ và câu tối đa theo chỉ số SII trên trẻ em và người lớn

Test 6 âm Lings (Lings 6 sounds test) Đây là một test quan trọng với cách thức thực hiện đơn giản để đánh giá khả năng nghe của trẻ sau can thiệp Test này bao gồm 6 âm, mỗi âm tương ứng với một vùng tần số Thông qua việc đánh giá khả năng nghe thấy các âm này mà các nhà thính học và trị liệu ngôn ngữ sẽ biết được ngưỡng nghe của trẻ ở các vùng tần số Từ đó lên kế hoạch hiệu chỉnh thiết bị trợ thính giúp trẻ có được sức nghe tốt nhất Sáu âm đó là /u/ (/oo/), /m/, /e/ (i), /sh/, /s/

Âm / u / được sử dụng để kiểm tra khả năng nghe các âm thanh tần số rất thấp, bao gồm tất cả các nguyên âm thấp Việc phát hiện âm thanh này giúp đánh giá khả năng nghe nhạc, với tần số phản ánh trong khoảng 350-900 Hz.

- / m /: Âm này dùng để kiểm tra các âm thanh tần số thấp, như nguyên

T ầ n s ố (Hz) âm trong tất cả các từ mà chúng ta nghe Âm này phản ánh âm thanh trong vùng tần số 250-500 Hz

- / ah /: Âm thanh này dùng để kiểm tra các âm thanh tần số trung bình Âm này phản ánh âm thanh trong vùng tần số 700-1300 Hz

Âm thanh / sh / là âm có tần số cao, thường nằm trong khoảng 2000-4000 Hz Những người bị khiếm thính mức độ sâu có thể không nghe thấy âm thanh này nếu không được cấy điện cực ốc tai.

Âm thanh /s/ có tần số rất cao, thường nằm trong khoảng 3500-7000 Hz Những người bị khiếm thính ở mức độ sâu có thể không nghe thấy âm này nếu không có sự hỗ trợ từ cấy điện cực ốc tai.

ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

BÀN LUẬN

Ngày đăng: 14/04/2022, 12:19

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Tạ Thị Ngọc Ẩn, Đoàn Thị Ngọc Diệp và Trương Hữu Khanh (2010), “Đặc điểm của viêm màng não mủ do Haemophilus Influenzae type B tại Bệnh viện Nhi đồng I từ 2005-2008”, Tạp chí Y học thành phố Hồ Chí Minh, 14(1), tr.19-22 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đặc điểm của viêm màng não mủ do Haemophilus Influenzae type B tại Bệnh viện Nhi đồng I từ 2005-2008”, "Tạp chí Y học thành phố Hồ Chí Minh
Tác giả: Tạ Thị Ngọc Ẩn, Đoàn Thị Ngọc Diệp và Trương Hữu Khanh
Năm: 2010
2. Nguyễn Huy Bạo và Nguyễn Công Nghĩa (2010), “Sàng lọc mất thính lực bẩm sinh ở sơ sinh”, Tạp chí Y học, 14(2), tr.19-22 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Sàng lọc mất thính lực bẩm sinh ở sơ sinh”, "Tạp chí Y học
Tác giả: Nguyễn Huy Bạo và Nguyễn Công Nghĩa
Năm: 2010
3. Nguyễn Quảng Bắc (2012), Nghiên cứu tình trạng nhiễm Rubella ở phụ nữ mang thai có nguy cơ và hội chứng Rubella bẩm sinh tại bệnh viện phụ sản Trung ương, Luận án tiến sỹ Y học, Đại học Y Hà Nội, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghiên cứu tình trạng nhiễm Rubella ở phụ nữ mang thai có nguy cơ và hội chứng Rubella bẩm sinh tại bệnh viện phụ sản Trung ương
Tác giả: Nguyễn Quảng Bắc
Năm: 2012
4. Lương Sỹ Cần (1995), “Điếc và Nghễnh ngãng, một số điểm lịch sử về chuyên môn kĩ thuật”, Nội san Tai Mũi Họng, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Điếc và Nghễnh ngãng, một số điểm lịch sử về chuyên môn kĩ thuật”, "Nội san Tai Mũi Họng
Tác giả: Lương Sỹ Cần
Năm: 1995
6. Nguyễn Ngọc Hà (2017), Thực trạng hệ thống cung ứng dịch vụ can thiệp sớm cho trẻ khiếm thính và đánh giá hiệu quả một số giải pháp can thiệp tại Hải Phòng, Luận án tiến sĩ y học, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thực trạng hệ thống cung ứng dịch vụ can thiệp sớm cho trẻ khiếm thính và đánh giá hiệu quả một số giải pháp can thiệp tại Hải Phòng
Tác giả: Nguyễn Ngọc Hà
Năm: 2017
7. Lê Thị Thu Hà (2011), Nghiên cứu giảm thính lực ở trẻ sơ sinh có nguy cơ cao bằng phương pháp sàng lọc điện thính giác thân não tại Bệnh viện Nhi Trung ương, Đại học Y Hà Nội, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghiên cứu giảm thính lực ở trẻ sơ sinh có nguy cơ cao bằng phương pháp sàng lọc điện thính giác thân não tại Bệnh viện Nhi Trung ương
Tác giả: Lê Thị Thu Hà
Năm: 2011
9. Bùi Vũ Huy (2010), “Nghiên cứu căn nguyên gây viêm màng não nhiễm khuẩn ở trẻ em tại bệnh viện Nhi Trung ương”, Tạp chí Y học dự phòng, 20 (115), tr 45-49 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghiên cứu căn nguyên gây viêm màng não nhiễm khuẩn ở trẻ em tại bệnh viện Nhi Trung ương”, "Tạp chí Y học dự phòng
Tác giả: Bùi Vũ Huy
Năm: 2010
10. Phạm Kim (1984), Vấn đề phục hồi chức năng cho người điếc, Nhà xuất bản y học, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Vấn đề phục hồi chức năng cho người điếc
Tác giả: Phạm Kim
Nhà XB: Nhà xuất bản y học
Năm: 1984
11. Phạm Kim (1992), Kĩ thuật đo sức nghe, Nhà xuất bản y học, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Kĩ thuật đo sức nghe
Tác giả: Phạm Kim
Nhà XB: Nhà xuất bản y học
Năm: 1992
12. Lê Thị Lan (2001), Khảo sát tình hình phản ứng thính giác của trẻ sơ sinh Hà Nội, Đại học Y Hà Nội, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Khảo sát tình hình phản ứng thính giác của trẻ sơ sinh Hà Nội
Tác giả: Lê Thị Lan
Năm: 2001
13. Ngô Ngọc Liễn (1996), Giản yếu Tai-Mũi-Họng- Tập 1: Tai xương chũm, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giản yếu Tai-Mũi-Họng- Tập 1: Tai xương chũm, Nhà xuất bản Y học
Tác giả: Ngô Ngọc Liễn
Nhà XB: Nhà xuất bản Y học"
Năm: 1996
16. Nhan Trừng Sơn (2008), Tai mũi họng, Đại học y dược thành phố Hồ Chí Minh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tai mũi họng
Tác giả: Nhan Trừng Sơn
Năm: 2008
17. Bộ y tế, Tài liệu số 13: Phục hồi chức năng trẻ giảm thính lực, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội, 2008: p. 1-17 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tài liệu số 13: Phục hồi chức năng trẻ giảm thính lực
Nhà XB: Nhà xuất bản Y học
18. Nguyễn Thu Thủy (2005), Nghiên cứu giảm thính lực ở trẻ sơ sinh bằng đo âm ốc tai sàng lọc, bước đầu thiết lập chương trình can thiệp sớ, phục hồi chức năng cho trẻ khiếm thính, Luận văn thạc sỹ Y học, Đại học Y Hà Nội, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghiên cứu giảm thính lực ở trẻ sơ sinh bằng đo âm ốc tai sàng lọc, bước đầu thiết lập chương trình can thiệp sớ, phục hồi chức năng cho trẻ khiếm thính
Tác giả: Nguyễn Thu Thủy
Năm: 2005
20. Nguyễn Tuyết Xương (2014), Một số đặc điểm và yếu tố nguy cơ của nghe kém ở trẻ em từ 2 đến 5 tuổi tại các trường mẫu giáo nội thành Hà Nội, Luận văn tiến sũ y học,Viện vệ sinh dịch tễ trung ương, Hà nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Một số đặc điểm và yếu tố nguy cơ của nghe kém ở trẻ em từ 2 đến 5 tuổi tại các trường mẫu giáo nội thành Hà Nội, Luận văn tiến sũ y học
Tác giả: Nguyễn Tuyết Xương
Năm: 2014
5. Phạm Thị Cơi và Phạm Tiến Dũng (2004), Bước đầu đánh giá vai trò của âm ốc tai trong thính học tại cộng đồng, nghiên cứu 3 tỉnh phía bắc: Bắc Ninh, Thái Nguyên, Phú Thọ, Kỷ yếu công trình nghiên cứu khoa học 1969-2004 Khác
8. Đặng Xuân Hùng (2018), Thính học Lâm sàng chẩn đoán, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội Khác
14. Ngô Ngọc Liễn (2001), Thính học ứng dụng, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội Khác
15. Nguyễn Tấn Phong (2009), Phẫu thuật nội soi chức năng tai, Nhà xuất bản y học, Hà Nội Khác
19. Ngô Đức Xương (1997), Nghiên cứu tình hình suy giảm thính lực ở học sinh tiểu học Hải Phòng, Luận văn chuyên khoa II, Đại học Y Hải Phòng, Hải Phòng Khác

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

1.1. Tình hình nghe kém của trẻ em trên thế giới và Việt Nam - Một số đặc điểm dịch tễ học, yếu tố nguy cơ gây nghe kém tiếp nhận và hiệu quả can thiệp đeo máy trợ thính ở trẻ em dưới 3 tuổi tại Bệnh viện Nhi Trung ương
1.1. Tình hình nghe kém của trẻ em trên thế giới và Việt Nam (Trang 15)
Hình 1.3. Ước lượng số người bị nghe kém đến năm 2050 [121] - Một số đặc điểm dịch tễ học, yếu tố nguy cơ gây nghe kém tiếp nhận và hiệu quả can thiệp đeo máy trợ thính ở trẻ em dưới 3 tuổi tại Bệnh viện Nhi Trung ương
Hình 1.3. Ước lượng số người bị nghe kém đến năm 2050 [121] (Trang 16)
Hình 1.2.Tỉ lệ người nghe kém tại các vùng khác nhau [121] - Một số đặc điểm dịch tễ học, yếu tố nguy cơ gây nghe kém tiếp nhận và hiệu quả can thiệp đeo máy trợ thính ở trẻ em dưới 3 tuổi tại Bệnh viện Nhi Trung ương
Hình 1.2. Tỉ lệ người nghe kém tại các vùng khác nhau [121] (Trang 16)
Hình 1.4. Tỉ lệ nghe kém của trẻ em (0-15 tuổi) tại các khu vực [121] - Một số đặc điểm dịch tễ học, yếu tố nguy cơ gây nghe kém tiếp nhận và hiệu quả can thiệp đeo máy trợ thính ở trẻ em dưới 3 tuổi tại Bệnh viện Nhi Trung ương
Hình 1.4. Tỉ lệ nghe kém của trẻ em (0-15 tuổi) tại các khu vực [121] (Trang 17)
Hình 1.6. Giải phẫu tai - Một số đặc điểm dịch tễ học, yếu tố nguy cơ gây nghe kém tiếp nhận và hiệu quả can thiệp đeo máy trợ thính ở trẻ em dưới 3 tuổi tại Bệnh viện Nhi Trung ương
Hình 1.6. Giải phẫu tai (Trang 20)
1.2. Giải phẫu tai và sinh lý nghe - Một số đặc điểm dịch tễ học, yếu tố nguy cơ gây nghe kém tiếp nhận và hiệu quả can thiệp đeo máy trợ thính ở trẻ em dưới 3 tuổi tại Bệnh viện Nhi Trung ương
1.2. Giải phẫu tai và sinh lý nghe (Trang 20)
Hình 1.7. Giải phẫu tiền đình, ốc tai - Một số đặc điểm dịch tễ học, yếu tố nguy cơ gây nghe kém tiếp nhận và hiệu quả can thiệp đeo máy trợ thính ở trẻ em dưới 3 tuổi tại Bệnh viện Nhi Trung ương
Hình 1.7. Giải phẫu tiền đình, ốc tai (Trang 21)
Hình 1.8. Cấu tạo cơ quan corti - Một số đặc điểm dịch tễ học, yếu tố nguy cơ gây nghe kém tiếp nhận và hiệu quả can thiệp đeo máy trợ thính ở trẻ em dưới 3 tuổi tại Bệnh viện Nhi Trung ương
Hình 1.8. Cấu tạo cơ quan corti (Trang 23)
Hình thức chơi :Thực hiện theo tổ & - Một số đặc điểm dịch tễ học, yếu tố nguy cơ gây nghe kém tiếp nhận và hiệu quả can thiệp đeo máy trợ thính ở trẻ em dưới 3 tuổi tại Bệnh viện Nhi Trung ương
Hình th ức chơi :Thực hiện theo tổ & (Trang 24)
Hình 1.9. Đường dẫn truyền thính giác - Một số đặc điểm dịch tễ học, yếu tố nguy cơ gây nghe kém tiếp nhận và hiệu quả can thiệp đeo máy trợ thính ở trẻ em dưới 3 tuổi tại Bệnh viện Nhi Trung ương
Hình 1.9. Đường dẫn truyền thính giác (Trang 24)
Hình 1.13. Cấu tạo máy trợ thính - Một số đặc điểm dịch tễ học, yếu tố nguy cơ gây nghe kém tiếp nhận và hiệu quả can thiệp đeo máy trợ thính ở trẻ em dưới 3 tuổi tại Bệnh viện Nhi Trung ương
Hình 1.13. Cấu tạo máy trợ thính (Trang 39)
Hình 1.15. Máy trợ thính đường xương - Một số đặc điểm dịch tễ học, yếu tố nguy cơ gây nghe kém tiếp nhận và hiệu quả can thiệp đeo máy trợ thính ở trẻ em dưới 3 tuổi tại Bệnh viện Nhi Trung ương
Hình 1.15. Máy trợ thính đường xương (Trang 41)
Hình 1.16. Biểu đồ dạng chấm - Một số đặc điểm dịch tễ học, yếu tố nguy cơ gây nghe kém tiếp nhận và hiệu quả can thiệp đeo máy trợ thính ở trẻ em dưới 3 tuổi tại Bệnh viện Nhi Trung ương
Hình 1.16. Biểu đồ dạng chấm (Trang 45)
Hình 1.18. Khả năng hiểu từ và câu tối đa theo chỉ số SII trên trẻ em và người lớn - Một số đặc điểm dịch tễ học, yếu tố nguy cơ gây nghe kém tiếp nhận và hiệu quả can thiệp đeo máy trợ thính ở trẻ em dưới 3 tuổi tại Bệnh viện Nhi Trung ương
Hình 1.18. Khả năng hiểu từ và câu tối đa theo chỉ số SII trên trẻ em và người lớn (Trang 46)
Hình 1.19: Phân bố 6 lings theo tần số - Một số đặc điểm dịch tễ học, yếu tố nguy cơ gây nghe kém tiếp nhận và hiệu quả can thiệp đeo máy trợ thính ở trẻ em dưới 3 tuổi tại Bệnh viện Nhi Trung ương
Hình 1.19 Phân bố 6 lings theo tần số (Trang 48)

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w