TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
Quan điểm về đa dạng sinh học
Bảo vệ đa dạng sinh học đã trở thành một vấn đề nghiên cứu quan trọng trong những năm gần đây Mặc dù nhận được sự chú ý đáng kể, nhưng vẫn còn nhiều quan điểm chưa thống nhất và thiếu rõ ràng về khái niệm đa dạng sinh học.
Theo WWF (1989), đa dạng sinh học được định nghĩa là sự phong phú của sự sống trên trái đất, bao gồm hàng triệu loài thực vật, động vật và vi sinh vật Nó không chỉ là các loài mà còn là những gen chứa đựng trong chúng và các hệ sinh thái phức tạp tồn tại trong môi trường.
Theo IUCN (1994), đa dạng sinh học được định nghĩa là sự phong phú của sự sống trên trái đất, bao gồm hàng triệu loài thực vật, động vật, vi sinh vật cùng với nguồn gen của chúng và các hệ sinh thái mà chúng thuộc về Đa dạng sinh học phản ánh sự đa dạng của các sinh vật từ mọi nguồn, bao gồm các hệ sinh thái trên cạn, dưới biển và các thủy vực khác, cũng như các phức hệ sinh thái mà chúng tạo thành Nó bao gồm sự đa dạng của loài, sự đa dạng giữa các loài và hệ sinh thái.
Trong tác phẩm "Đa dạng cho sự phát triển" của Viện Tài nguyên gen thực vật quốc tế (IPGRI), đa dạng sinh học được định nghĩa là toàn bộ các biến thể trong tất cả các cơ thể sống cùng với các hệ sinh thái mà chúng tồn tại Đa dạng sinh học được chia thành ba cấp độ chính: đa dạng hệ sinh thái, đa dạng loài và đa dạng di truyền.
Chương trình hành động đa dạng sinh học quốc gia Việt Nam định nghĩa đa dạng sinh học là tổng hợp tất cả nguồn sinh vật sống trên hành tinh, bao gồm các loài động vật, thực vật, và sự đa dạng trong từng loài cũng như giữa các loài Tuy nhiên, định nghĩa này còn dài và thiếu rõ ràng, gây nhầm lẫn giữa tính phong phú và tính đa dạng, đồng thời chỉ chú trọng đến động vật và thực vật, mà chưa đề cập đến các quần xã sinh vật khác.
Tại Hội nghị thượng đỉnh toàn cầu ở Rio De Janeiro năm 1992, công ước về bảo tồn đa dạng sinh học đã định nghĩa đa dạng sinh học là sự biến đổi giữa các sinh vật ở mọi nguồn, bao gồm hệ sinh thái trên đất liền, biển và nước Định nghĩa này nhấn mạnh sự đa dạng trong từng loài, giữa các loài và trong các hệ sinh thái, cung cấp một cái nhìn tổng quát và rõ ràng về khái niệm này.
Tuy có nhiều định nghĩa khác nhau về đa dạng sinh học nhưng nhìn chung các định nghĩa đều có điểm chung đó là:
Đa dạng di truyền là biểu hiện của sự phong phú về gen trong mỗi loài, cho phép sự thay đổi vật liệu di truyền diễn ra Điều này đóng vai trò quan trọng trong quá trình tiến hóa của loài thông qua cơ chế chọn lọc tự nhiên.
- Đa dạng về loài bao gồm toàn bộ các sinh vật sống trên trái đất từ vi khuẩn đến các loài động vật, thực vật và các loài nấm
Đa dạng hệ sinh thái được thể hiện qua sự khác biệt giữa các quần xã sinh vật, nơi mà các loài cư trú và tương tác với nhau Mỗi quần xã sinh học bao gồm các loài sinh vật phân bố trong một sinh cảnh cụ thể, tạo ra những mối quan hệ tương tác phong phú giữa chúng.
Đến nay, con người đã biết và mô tả khoảng 1,4 triệu loài sinh vật, chủ yếu là những loài có giá trị Tuy nhiên, vẫn còn nhiều loài chưa được phát hiện và mô tả Mức độ đa dạng của các loài sinh vật này thay đổi tùy theo điều kiện sống khác nhau.
Nghiên cứu đa dạng sinh học trên thế giới
Nghiên cứu về các hệ thực vật toàn cầu đã tồn tại từ lâu, nhưng những công trình nghiên cứu có giá trị chủ yếu được phát triển vào thế kỷ XIX.
Các tác phẩm tiêu biểu về thực vật học bao gồm: "Thực vật chí Hong Kong" (1861), "Thực vật chí Australia" (1866), "Thực vật chí rừng Tây Bắc và trung tâm Ấn Độ" (1874), bộ "Thực vật chí Ấn Độ" gồm 7 tập (1872 – 1897), "Thực vật chí Miến Điện" (1877) và "Thực vật chí Malaysia".
(1892 – 1925), Thực vật chí Hải Nam (1972 – 1977), Thực vật chí Vân Nam
Năm 1907, H Lecomte đã công bố công trình "Thực vật chí Đông Dương", trong đó các tác giả người Pháp đã thu thập mẫu và phân loại các loài thực vật có mạch trên toàn bộ lãnh thổ Đông Dương Từ 1928 đến 1932, tại Nga, thời kỳ này được xem là khởi đầu cho nghiên cứu hệ thực vật cụ thể Tolmachop A.I nhấn mạnh rằng chỉ cần khảo sát trên một diện tích đủ lớn để phản ánh sự phong phú của môi trường sống mà không cần chú trọng vào sự phân hoá địa lý, ông gọi đó là hệ thực vật cụ thể.
Tolmachop đã đưa ra một nhận định là số loài của một hệ thực vật cụ thể ở vùng nhiệt đới ẩm thường là 1500- 2000 loài
Năm 1965, Pócs Tamás thống kê miền Bắc được 5190 loài
Xây dựng cơ sở dữ liệu:
Hiện nay, trên thế giới có nhiều Trung tâm Đa dạng sinh học, không chỉ lưu trữ và bảo quản tiêu bản mà còn hoạt động như trung tâm đào tạo, nghiên cứu và hợp tác quốc tế Các trung tâm này áp dụng phương pháp quản lý và lưu trữ thông tin tiên tiến, với tiêu bản được sắp xếp khoa học theo hệ thống phân loại Đặc biệt, phương pháp bảo quản tiêu bản tại các trung tâm, như Trung tâm Đa dạng sinh học Hà Lan, không sử dụng foocmon, tạo ra môi trường an toàn cho nhân viên bảo quản.
Hệ thống thông tin đa dạng sinh học của Trung Quốc (CBIS) cung cấp dữ liệu từ năm lĩnh vực chính: thực vật, động vật, thủy sinh, vi sinh vật và sinh vật biển Ngoài ra, CBIS còn sở hữu cơ sở dữ liệu về tiêu bản, vườn thực vật, khu dự trữ sinh quyển, ngân hàng giống và ngân hàng gen Website của CBIS cho phép người dùng tra cứu thông tin miễn phí về các loài sinh vật bằng cách tìm kiếm theo từ khóa như tên khoa học, tên thường gọi và tên tiếng Anh.
Bảo tàng thiên nhiên quốc gia Inđônêsia, hay còn gọi là bảo tàng Cibinong, là bảo tàng thiên nhiên lớn nhất Đông Nam Á với tổng cộng 7,5 triệu tiêu bản Trong đó, có 2 triệu tiêu bản thực vật, 2,7 triệu tiêu bản động vật và 2,8 triệu tiêu bản côn trùng.
Bảo tàng sinh vật học của Malaysia đã lưu trữ được trên 300000 tiêu bản thực vật, mô tả và giám định được trên 15000 loài phân bố khắp Malaysia
Hiện nay, nhiều bảo tàng và trung tâm đa dạng sinh học đã áp dụng phần mềm quản lý cơ sở dữ liệu về đa dạng sinh học, giúp quá trình làm, bảo quản, lưu trữ và quản lý mẫu đạt tiêu chuẩn cao Tuy nhiên, việc chia sẻ thông tin đa dạng sinh học giữa các quốc gia vẫn gặp nhiều khó khăn do cơ sở dữ liệu chưa được cập nhật thường xuyên Do đó, việc xây dựng và chia sẻ cơ sở dữ liệu về đa dạng sinh học đang được nhiều quốc gia chú trọng.
Nghiên cứu đa dạng thực vật ở Việt Nam
Tại Việt Nam, đã có nhiều nghiên cứu quan trọng về hệ thực vật, trong đó có nhiều công trình có giá trị đáng kể.
Công trình “Thực vật chí Đông Dương” được xuất bản từ năm 1907 đến 1952 dưới sự chủ biên của nhà thực vật học H Lecomte, bao gồm 7 tập chính và 1 tập bổ sung Tác phẩm này đã thu thập, định danh và mô tả 7004 loài thực vật bậc cao có mạch tại Đông Dương, trong đó có Việt Nam Dựa trên tài liệu này, Thái Văn Trừng (1978) trong “Thảm thực vật rừng Việt Nam” đã thống kê 7004 loài thực vật bậc cao có mạch thuộc 1850 chi và 289 họ Ông cũng khẳng định rằng ngành Hạt kín chiếm ưu thế trong hệ thực vật Việt Nam với 6336 loài (90,9%), 1727 chi (93,4%) và 239 họ (82,7%).
Vào năm 1965, Pooc Tamas đã ghi nhận 5.190 loài thực vật ở miền Bắc Việt Nam Đến năm 1969, Phan Kế Lộc đã bổ sung và nâng tổng số loài lên 5.609, thuộc 1.660 chi Sự thống kê này phản ánh sự đa dạng sinh học phong phú của miền Bắc Việt Nam trong giai đoạn này.
Năm 1976, Nhà xuất bản Khoa học kỹ thuật đã phát hành bộ sách “Cây cỏ thường thấy ở Việt Nam” gồm 6 tập, do Lê Khả Kế làm chủ biên Cùng thời điểm này, tác giả Phạm Hoàng Hộ cũng công bố tác phẩm “Cây cỏ miền Nam Việt Nam” với 2 tập, trong đó ghi nhận 5326 loài thực vật ở miền Nam, bao gồm 60 loài thực vật bậc thấp, 20 loài rêu, và 5246 loài thuộc các ngành thực vật có mạch.
Giữa năm 1991 và 1993, tác giả Phạm Hoàng Hộ đã công bố bộ sách "Cây cỏ Việt Nam" gồm 3 tập, trong đó thống kê và mô tả 10.419 loài thực vật bậc cao có mạch tại Việt Nam Đến năm 1999-2000, tác giả đã chỉnh lý, bổ sung và tái bản bộ sách, nâng tổng số loài lên 11.611, thuộc 3.179 chi, 295 họ và 6 ngành.
Ngoài các nghiên cứu về hệ thực vật trên toàn quốc và tại hai khu vực Bắc, Nam Việt Nam, còn có nhiều công trình nghiên cứu khu hệ thực vật ở các vùng miền khác Chẳng hạn, hệ thực vật Tây Nguyên đã được công bố với 3.754 loài thực vật có mạch do Nguyễn Tiến Bân, Trần Đình Đại và Phan Kế Lộc chủ biên vào năm 1984 Danh lục thực vật Phú Quốc của Phạm Hoàng Hộ (1985) và nghiên cứu hệ thực vật vùng núi cao Sa Pa - Phan Xi Phăng của Nguyễn Nghĩa Thìn và Nguyễn Thị Thời (1998) đã giới thiệu 2.024 loài thực vật bậc cao thuộc 771 chi và 200 họ trong 6 ngành thực vật tại khu vực núi cao của dãy Hoàng Liên.
Nghiên cứu về tính đa dạng thực vật tại các vườn quốc gia ở Việt Nam đã có nhiều tiến bộ, đặc biệt là tại VQG Cúc Phương Các công trình nghiên cứu đã cung cấp cái nhìn sâu sắc về sự phong phú của hệ thực vật nơi đây Công việc lập danh mục thực vật tại VQG Cúc Phương đã được khởi động từ năm trước, góp phần quan trọng vào việc bảo tồn và phát huy giá trị đa dạng sinh học.
Từ năm 1971 đến 1997, đã có bốn danh mục về đa dạng sinh học được công bố, trong đó nổi bật là các nghiên cứu của Nguyễn Nghĩa Thìn và cộng sự về VQG Cúc Phương Những chuyên đề báo cáo về đa dạng thực vật, nguồn gen cây có ích và các quần xã thực vật cho thấy sự tâm huyết và công phu của tác giả trong lĩnh vực này Đặc biệt, cuốn “Cẩm nang nghiên cứu về đa dạng sinh vật” xuất bản năm 1997 đã cung cấp các mẫu chuẩn hữu ích cho nghiên cứu đa dạng thực vật ở nhiều vùng khác nhau của Việt Nam.
Nguyễn Bá Thụ trong luận án phó Tiến sỹ khoa học Nông nghiệp đã thực hiện nghiên cứu về tính đa dạng thực vật tại VQG Cúc Phương, ghi nhận 1944 loài thực vật bậc cao thuộc 911 chi và 219 họ Công trình này đã bổ sung 270 loài thực vật mới cho hệ thực vật Cúc Phương so với danh lục thực vật năm 1971, đồng thời cung cấp phân tích chi tiết về sự đa dạng dạng sống và các yếu tố địa lý liên quan.
Vào năm 2004, công trình "Danh lục thực vật có hạt ở vườn Quốc gia Cúc Phương" đã được công bố, thuộc dự án nghiên cứu tính đa dạng thực vật tại Việt Nam và Lào Dự án này nằm trong khuôn khổ hợp tác Quốc tế nghiên cứu đa dạng sinh học (ICBG), nhằm ghi nhận và bảo tồn sự đa dạng sinh học tại vườn Quốc gia Cúc Phương.
Các nghiên cứu này đóng vai trò quan trọng trong việc bảo tồn đa dạng sinh học tại Việt Nam, cung cấp nền tảng cho việc xây dựng các chiến lược quốc gia về bảo tồn, đặc biệt là đối với thực vật Ngoài ra, đây cũng là tài liệu quý giá, hỗ trợ cho việc nghiên cứu và phân tích tính đa dạng của thực vật thân gỗ trong khu vực nghiên cứu của tôi.
Nghiên cứu thực vật ở Núi luốt
Vào năm 1997 và 1998, Lê Mộng Chân đã thực hiện đề tài “Phúc tra quy hoạch và thiết kế sơ bộ Vườn sưu tập và bảo tồn nguồn gen cây rừng” tại Trung tâm Nghiên cứu Thực nghiệm của Trường Đại học Lâm nghiệp, trong đó đã tiến hành thống kê các nguồn gen cây rừng.
250 loài cây bản địa thuộc 68 họ thực vật bậc cao có mạch
Năm 2003, Trần Ngọc Hải và Nguyễn Văn Huy trong đề đài “ Đánh giá tính đa dạng sinh học khu hệ động thực vật ở núi Luốt” đã thống kê được
342 loài cây bản địa thuộc 257 chi, 90 họ và 3 ngành thực vật bậc cao có mạch
Năm 2005, Trần Văn Quỳnh đã thực hiện chuyên đề “Điều tra thành phần, tình hình sinh trưởng và đặc điểm trồng các loài cây bản địa thuộc lô C khoảnh 3”, trong đó ông đã thống kê được 69 loài cây bản địa.
Năm 2005, Lê Sĩ Việt cùng các cộng sự đã thực hiện đề tài “Xây dựng cơ sở dữ liệu các khu rừng thực nghiệm của trường Đại học Lâm nghiệp”, tạo ra bộ dữ liệu phong phú về điều kiện tự nhiên, trạng thái rừng, thổ nhưỡng và các yếu tố kinh tế xã hội trong khu vực nghiên cứu.
Năm 2006, Phùng Văn Phê đã thực hiện chuyên đề cấp khoa về "Đánh giá hiện trạng các loài cây bản địa được trồng tại lô A khoảnh 3" và thống kê được 283 loài cây.
Từ năm 2006 đến 2009, Vũ Thị Thuần đã tiến hành đánh giá hiện trạng và sinh trưởng của một số loài cây ở tầng cây cao, bao gồm Bạch đàn, Keo tai tượng, Keo lá tràm, và Thông Bên cạnh đó, bà cũng khảo sát các loài cây bản địa như Dẻ, Đinh thối, Re hương, Lát hoa, Lim xẹt, Gội, Trám đen, cùng với một số loài cây bụi thảm tươi.
Năm 2009, Nguyễn Văn Thanh đã nghiên cứu khu vực núi Luốt và núi Voi, phát hiện 415 loài thực vật thuộc 282 chi và 98 họ Cụ thể, núi Luốt có 397 loài thuộc 272 chi và 95 họ, trong khi núi Voi có 198 loài thuộc 157 chi và 61 họ Đặc biệt, trong số đó, 346 loài thực vật có giá trị sử dụng, chiếm 83,37% tổng số loài đã được điều tra.
Mặc dù các nghiên cứu đã lập danh mục, nhưng vẫn thiếu hình ảnh, tiêu bản và cơ sở dữ liệu, dẫn đến tính khoa học và tính thuyết phục chưa cao Điều này đặc biệt ảnh hưởng đến việc chia sẻ, trao đổi và nghiên cứu hợp tác trong lĩnh vực này.
Xây dựng cơ sở dữ liệu:
Ông Jean Baptiste Louis Pierre, một nhà tiên phong trong lĩnh vực cơ sở dữ liệu đa dạng sinh học tại Việt Nam, là người Pháp (1833 - 1905) và là người sáng lập Thảo Cầm Viên Sài Gòn Ông đã để lại một bộ sưu tập hơn 100.000 tiêu bản thực vật, hiện đang được lưu giữ tại Bảo tàng thực vật thuộc Viện Sinh Học Nhiệt Đới Thành phố Hồ Chí Minh, cùng với nhiều cây rừng tự nhiên được bảo tồn tại Thảo Cầm Viên Sài Gòn.
Trường Đại học Lâm nghiệp hiện đang lưu giữ gần 4000 mẫu tiêu bản thực vật, 68 loài thú và 82 loài chim Tuy nhiên, phần lớn các mẫu này có chất lượng kém và nhiều loài chưa được xác định tên, với hơn 1000 mẫu thực vật thu hái từ những năm 1960 đến 1980 vẫn chưa được giám định.
Bảo tàng động vật Khoa sinh học Trường đại học khoa học tự nhiên,
Hà Nội, thành lập từ năm 1926, hiện có Bảo tàng động vật khoa sinh với bộ sưu tập đa dạng, bao gồm 1200 tiêu bản cá nước ngọt và cá biển, 3400 tiêu bản chim, 970 tiêu bản thú lớn, hơn 700 tiêu bản thú nhỏ cùng nhiều loài thực vật khác nhau.
Viện Sinh học Nhiệt đới Việt Nam (mã quốc tế VNM) hiện đang quản lý khoảng 100.000 mẫu tiêu bản thực vật, được thu thập từ Lào, Campuchia và Việt Nam trong suốt hơn 100 năm qua.
Các bảo tàng hiện nay chủ yếu chỉ mang tính chất lưu trữ thông tin trên giấy tờ và máy tính, thiếu dữ liệu về các loài cụ thể và không được kết nối Internet Điều này gây khó khăn cho việc học tập, nghiên cứu và hợp tác trong lĩnh vực đa dạng sinh học.
ĐỐI TƯỢNG, MỤC TIÊU, NỘI DUNG, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là tập đoàn cây gỗ bản địa tại rừng thực nghiệm Trường đại học Lâm nghiệp.
Mục tiêu nghiên cứu
- Đánh giá được tính đa dạng của thành phần cây gỗ bản địa tại khu vực nghiên cứu
- Xây dựng được bộ cơ sở dữ liệu các loài cây gỗ quý hiếm tại khu vực nghiên cứu
- Đề xuất được giải pháp nhằm sử dụng hiệu quả hơn rừng thực nghiệm trong nghiên cứu khoa học và đào tạo tại Trường Đại học Lâm nghiệp.
Nội dung nghiên cứu
- Điều tra xây dựng được danh lục các loài cây gỗ bản địa tại khu vực nghiên cứu
Nghiên cứu về sự đa dạng của các loài cây gỗ bản địa trong khu vực nghiên cứu, bao gồm thành phần loài, công dụng, giá trị bảo tồn và dạng sống, là rất quan trọng để hiểu rõ hơn về hệ sinh thái địa phương Việc này không chỉ giúp bảo tồn nguồn gen quý báu mà còn góp phần vào phát triển bền vững và bảo vệ môi trường.
- Xây dựng được bộ cơ sở dữ liệu và bản đồ phân bố các loài cây gỗ quý hiếm tại khu vực nghiên cứu
- Đề xuất giải pháp nhằm sử dụng hiệu quả hơn rừng thực nghiệm trong nghiên cứu khoa học và đào tạo tại Trường Đại học Lâm nghiệp.
Phương pháp nghiên cứu
Muốn đạt được các mục tiêu trên ta cần thực hiện nội dung theo các phương pháp sau:
Nghiên cứu đa dạng sinh học là một lĩnh vực khoa học quan trọng, tập trung vào sinh thái và các loài bản địa, nhằm tìm ra loại cây trồng phù hợp cho từng khu vực theo nguyên tắc "đất nào cây ấy" Điều này không chỉ giúp sinh viên nâng cao hiểu biết mà còn có ý nghĩa trong việc bảo tồn thực vật Nghiên cứu này tổng hợp các yếu tố cấu thành của hệ sinh thái và mối quan hệ giữa chúng, từ đó đề xuất các biện pháp cải thiện kiến thức và bảo tồn tài nguyên thực vật cho sinh viên.
2.4.2.1 Công tác chuẩn bị Để đạt được kết quả tốt trong thời gian nghiên cứu cần phải làm tốt công tác chuẩn bị:
- Chuẩn bị các tài liệu có liên quan, bản đồ của khu vực núi Luốt
- Chuẩn bị đầy đủ các loại bảng biểu, sổ ghi chép để ghi lại những kết quả điều tra được
- Chuẩn bị các dụng cụ cần thiết như: Thước dây, Máy ảnh, địa bàn, kẹp kính, dụng cụ lấy mẫu, kẹp tiêu bản
2.4.2.2 Phương pháp kế thừa tài liệu
- Kế thừa tài liệu về điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của khu vực
- Kế thừa những tài liệu, đề tài nghiên cứu về thực vật ở núi Luốt
Mục đích của điều tra sơ thám là xác định ranh giới và điều kiện địa hình thực tế của khu vực nghiên cứu Qua đó, việc này giúp xác định vị trí đặt các tuyến và ô điều tra sao cho vừa mang tính đại diện, vừa thuận lợi cho quá trình điều tra.
Các tuyến điều tra được lập dựa vào bản đồ địa hình và địa hình thực tế đã qua điều tra sơ thám của khu vực nghiên cứu
Trên mỗi tuyến tiến hành điều tra tất cả các loài thực vật nằm trong phạm vi 10 m về cả hai phía
Với diện tích nghiên cứu khoảng 107 ha và địa hình thuận lợi, chúng tôi đã thực hiện 15 tuyến khảo sát để bao quát hầu hết khu vực này.
Kết quả điều tra được ghi vào mẫu biểu:
Số hiệu tuyến Chiều dài tuyến Điểm bắt đầu Điểm kết thúc………
Người điều tra Ngày điều tra Địa điểm điều tra:………
STT Tên loài Tên họ Dạng sống
Để thực hiện điều tra theo ô tiêu chuẩn (OTC), tôi đã thiết lập 30 ô tiêu chuẩn với diện tích 500 m² (20 x 25) ngẫu nhiên trên khu thực nghiệm Mục tiêu của việc này là khảo sát chi tiết về các loài cây, tình hình sinh trưởng, dạng sống của chúng và xác định phân bố các loài cây gỗ bản địa có giá trị bảo tồn cao.
Trên các OTC, tiến hành điều tra toàn bộ các loài thực vật thân gỗ bằng cách đo đường kính và chiều cao, đồng thời đánh giá sinh trưởng thông qua ba chỉ tiêu cụ thể.
Số liệu được ghi vào các mẫu biểu
Số hiệu ÔTC: ……… … ……… Độ dốc: Diện tích: Độ cao: Hướng phơi: Ngày điều tra: … ……… Địa điểm điều tra:…… ………… ………
STT Tên loài Dạng sống
* Lấy mẫu, và mô tả
Dùng túi nilon để đựng mẫu, bút chì mềm 2B để ghi nhãn, sổ tay ngoại nghiệp để mô tả các đặc điểm của loài
Mẫu thu phải đủ cành, lá (cả lá non và lá già), hoa, quả (nếu có); mỗi loài lấy 5 mẫu
Các tiêu bản lấy cùng một cây phải ghi cùng số hiệu
Sau khi lấy mẫu và xử lý xong, chúng ta tiến hành giám định mẫu bằng các phương pháp như tra cứu tài liệu, so sánh với các tiêu bản trong phòng và phương pháp chuyên gia Mục tiêu là xác định tên phổ thông và tên khoa học của loài.
+ Xác định và kiểm tra tên khoa học Để định được tên tôi làm theo các bước sau:
Để xác định tên sơ bộ cho các mẫu, trước tiên, chúng tôi so sánh chúng với bộ mẫu tại phòng tiêu bản thực vật của trường Đại học Lâm nghiệp Đối với những mẫu chưa rõ tên, chúng tôi sẽ tiếp tục xác định bằng cách tra cứu tài liệu chuyên khảo hoặc tham khảo ý kiến từ các chuyên gia.
+ Kiểm tra lại tên khoa học:
Sau khi xác định tên các loài, cần kiểm tra lại tên khoa học để giảm thiểu nhầm lẫn và sai sót Việc so sánh và điều chỉnh tên theo các danh mục thực vật Việt Nam từ nhiều tác giả cũng như trên các trang web sẽ giúp xác định tên khoa học của loài một cách chính xác và cập nhật nhất.
Xây dựng danh lục và đánh giá đa dạng hệ thực vật
Chỉnh lý tên khoa học và xây dựng danh lục:
Tên đầy đủ của loài được xác định dựa trên Danh lục các loài thực vật Việt Nam (tập I – 2001, tập II – 2003 và tập III – 2005), Tên cây rừng Việt Nam, cùng với thông tin từ trang web quốc tế về tên thực vật www.ipni.org.
Danh lục cây gỗ bản địa tại khu vực nghiên cứu được xây dựng theo hệ thống phân loại của Takhtajan (2009), bao gồm các họ, chi và loài được sắp xếp theo thứ tự ABC Danh mục này cung cấp thông tin chi tiết về tên khoa học, tên Việt Nam, dạng sống, giá trị sử dụng và mức độ đe dọa của từng loài.
* Đánh giá đa dạng về phân loại: Theo Nguyễn Nghĩa Thìn (1997) , bao gồm:
+ Thống kê và đánh giá thành phần loài, chi, họ của các ngành từ thấp đến cao và tính tỷ lệ phần trăm
+ Tính chỉ số đa dạng ở cấp họ (số loài trung bình của một họ), cấp chi (số loài trung bình của một chi)
+ Đánh giá đa dạng các họ, chi: thống kê 10 họ, 10 chi giàu loài nhất, tiêu biểu cho hệ thực vật
* Đánh giá sự đa dạng về dạng sống:
Dạng sống là đặc trưng quan trọng phản ánh bản chất sinh thái của hệ thực vật và thảm thực vật trong một hệ sinh thái Mỗi hệ sinh thái được hình thành từ sự tương tác giữa các loài và các yếu tố sinh thái của môi trường sống Điều này được thể hiện qua từng cá thể loài, tạo nên các quần xã sinh vật đặc trưng cho môi trường Để phân tích bản chất sinh thái của các hệ thực vật, đặc biệt là ở vùng nhiệt đới, người ta thường sử dụng hệ thống phân loại dạng sống của Raunkiaer (1943) theo ghi chép của Thái Văn Trừng (1999).
Đánh giá tài nguyên thực vật thân gỗ bản địa trong khu vực nghiên cứu dựa trên các tài liệu chuyên ngành như “Từ điển cây thuốc Việt Nam”, “1900 loài cây có ích”, và “Danh lục các loài thực vật Việt Nam” Các nguồn tài liệu này cung cấp thông tin chi tiết về công dụng và giá trị của các loài thực vật, bao gồm “Tài nguyên cây gỗ rừng Việt Nam” và “Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam”, giúp xác định tiềm năng sử dụng và bảo tồn tài nguyên thực vật địa phương.
* Đánh giá về giá trị bảo tồn:
Kiểm tra tên các loài trong bảng danh lục dựa trên danh sách các loài đã được chỉ định trong các tài liệu như Sách Đỏ Việt Nam 2007, Nghị định 32 CP của chính phủ và Danh sách Đỏ IUCN 2012.
Xây dựng bản đồ phân bố và bộ cơ sở dữ liệu về các loài cây gỗ có giá trị bảo tồn cao:
Sử dụng các tài liệu về thực vật như: Thực vật rừng của Lê Mông Chân,
Lê Thi Huyên năm 2000, cây gỗ rừng Việt Nam, Sách đỏ Việt Nam năm
Năm 2007, Danh lục đỏ IUCN được cập nhật vào năm 2012, cùng với Nghị định 32 CP và tài liệu "Cây gỗ rừng Việt Nam và Lào" của Hoàng Văn Sâm và cộng sự, đã cung cấp thông tin quan trọng về các loài cây gỗ quý hiếm Ngoài ra, các tài liệu tra cứu từ các trang web như www.vfu.edu.vn, www.botany.vn, www.ipni.org cũng được sử dụng Để mô tả đặc điểm nhận biết, sinh học và tình trạng bảo tồn của từng loài, nghiên cứu còn kết hợp với điều tra thực địa tại khu vực nghiên cứu.
Xây dựng bản đồ phân bố từ dữ liệu định vị GPS trong quá trình khảo sát thực địa, sau đó sử dụng phần mềm MapInfo để xử lý và in ấn bản đồ.
- Cấu trúc hệ thống cơ sở dữ liệu
Hệ thống cơ sở dữ liệu được xây dựng theo tiêu chuẩn đã và đang được các nước áp dụng
Ví dụ về Thực vật: Trong bộ dữ liệu về Thực vật thì được phân chia làm các ngành thực vật
Trong ngành thì gồm các họ thực vật
Trong các họ thì có các loài và cấu trúc thông tin từng loài theo hệ thống sau:
Hình ảnh minh họa Đặc điểm hình thái Đặc điểm sinh học, sinh thái học
ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN VÀ KINH TẾ XÃ HỘI
Điều kiện tự nhiên
Núi Luốt nằm trong khuôn viên trường Đại học Lâm nghiệp, tọa lạc tại thị trấn Xuân Mai, huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội Vị trí của Núi Luốt cách Hà Đông 22km về phía Đông Nam và cách thị xã Hoà Bình 40km về phía Tây Bắc.
Toạ độ địa lý: 20 0 50 ’ 30 ’’ vĩ độ Bắc; 105 0 30 ’ 45 ’’ kinh độ Đông
Phía Tây và Tây Bắc giáp xã Hoà Sơn, huyện Lương Sơn, tỉnh Hoà Bình
Phía Nam giáp thị trấn Xuân Mai và quốc lộ 6
Phía Đông giáp quốc lộ 21A
Phía Bắc giáp đội 6 Nông trường chè Cửu Long
Khu thực nghiệm núi Luốt nằm ở vùng chuyển tiếp giữa đồng bằng phía Đông và đồi núi phía Tây, với địa hình đơn giản và đồng nhất Khu vực này bao gồm hai quả đồi nối tiếp, tạo thành một dải dài, trong đó đỉnh cao nhất đạt 133 m so với mực nước biển, trong khi đỉnh thứ hai cao 90 m Độ dốc trung bình của khu vực nghiên cứu là 15 độ.
Theo nghiên cứu của bộ môn Đất trường Đại học Lâm nghiệp, đất khu vực núi Luốt có nguồn gốc từ đá mẹ chủ yếu là đá Poocfiarit, với một tỷ lệ nhỏ đá Poocfia thạch anh Đá Poocfiarit là loại đá mắc ma trung tính, chứa các thành phần chính như Al2O3, FeO, MgO, CaO, NaCl, SiO2 và Fe2O3 Trong điều kiện khí hậu nhiệt đới gió mùa nóng ẩm và mưa nhiều, đá Poocfiarit dễ bị phong hoá, dẫn đến tầng C dày và dễ bóp vụn Đá lộ đầu chủ yếu xuất hiện ở đỉnh và sườn đỉnh của đỉnh 133 m, trong khi rất ít gặp ở đỉnh 90 m.
Đất ở khu vực nghiên cứu có tính đồng nhất, phát triển trên cùng loại đá mẹ và điều kiện môi trường tương tự Theo nghiên cứu của bộ môn Đất trường Đại học Lâm nghiệp, đất núi Luốt thuộc loại Feralit nâu vàng, hình thành trên đá mẹ Poocfiarit Màu sắc đất dao động từ vàng nâu đến nâu vàng, với tầng đất từ trung bình đến dày Tầng đất mỏng chủ yếu tập trung ở đỉnh đồi, sườn Đông Bắc của đồi thấp và sườn Tây Bắc của đồi cao, trong khi những khu vực có tầng đất dày chủ yếu nằm ở chân hai quả đồi Đất trong khu vực có độ chặt khá cao, đặc biệt là lớp đất mặt ở chân đồi và lớp đất sâu tại khu vực đỉnh Kết von thật và giả xuất hiện phổ biến, với một số nơi có kết von thật chiếm ưu thế.
Đất có chứa 60 - 70% trọng lượng, cho thấy sự tích luỹ sắt phổ biến và nghiêm trọng Đá ong được tìm thấy ở nhiều khu vực, chủ yếu tập trung tại chân đồi phía Tây Nam và Đông Nam Hơn nữa, hàm lượng mùn trong đất nhìn chung thấp, cho thấy quá trình tích lũy mùn kém.
Những đặc điểm trên phần nào nói lên mức độ Feralít khá mạnh trong khu vực núi Luốt
Quá trình xói mòn và rửa trôi trong những năm qua diễn ra nghiêm trọng, thể hiện qua cấu trúc phẫu diện đất với tầng A mỏng và có tỷ lệ sét cao, khiến đất dính khi mưa Tầng B có độ sâu từ 10 - 110 cm với tỷ lệ sét 25 - 26%, trong khi tầng C dày và chứa đá lẫn đã bị phong hoá, tạo thành tầng BC xen kẽ Đất có hàm lượng dinh dưỡng cao, mùn từ 2 - 4% và độ ẩm từ 6 - 9%, với tỷ lệ đá lẫn ở mức trung bình.
Nghiên cứu của Trạm Thủy văn Trường Đại học Lâm nghiệp từ năm 1996 đến 2007 chỉ ra rằng khu vực Xuân Mai, thuộc tiểu vùng khí hậu 3 miền Bắc Việt Nam, có hai mùa rõ rệt mỗi năm.
- Mùa mưa bắt đầu từ giữa tháng 4 đến tháng 10
- Mùa khô bắt đầu từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau Trong thời gian này lượng mưa nhỏ hơn lượng bốc hơi
- Nhiệt độ trung bình năm là 23,9 0 C
- Nhiệt độ trung bình tháng nóng nhất (tháng 6): 28,5 0 C
- Nhiệt độ trung bình tháng lạnh nhất (tháng 1):15,7 0 C
Bảng 3.1: Một số chỉ tiêu Khí hậu - Thuỷ văn khu vực Xuân Mai (1996-2007)
(Theo trạm khí tượng thuỷ văn trường Đại học Lâm nghiệp)
Tháng Nhiệt độ ( o C ) Lượng mưa (mm) Độ ẩm không khí (%)
Lượng mưa trung bình năm là 1677,7 mm Phân bố không đều qua các tháng trong năm
- Lượng mưa trung bình tháng cao nhất (tháng 7): 304,3 mm
- Lượng mưa bình quân tháng thấp nhất (tháng 1): 13,8 mm
- Số ngày mưa trong năm 210 ngày
Khu vực nghiên cứu có độ ẩm không khí tương đối cao nhưng phân bố không đều giữa các tháng trong năm
- Độ ẩm không khí trung bình năm là 81,6%
- Tháng có độ ẩm không khí bình quân cao nhất (tháng 3): 85,5%
- Tháng có độ ẩm không khí bình quân thấp nhất (tháng 12): 78,4%
Khu vực nghiên cứu chịu ảnh hưởng của hai luồng gió chính:
- Gió Đông - Bắc thổi từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau
- Gió Đông - Nam thổi từ tháng 4 đến tháng 7
- Ngoài ra từ tháng 4 đến tháng 6 khu vực còn chịu ảnh hưởng của gió Lào
Trước năm 1984, khu vực này chủ yếu có các loài cây bụi như Sim, Mua, Cỏ tranh, Cỏ lào, và Xấu hổ Sau năm 1984, Trường Đại học Lâm nghiệp đã bắt đầu trồng rừng để phủ xanh đất trống và đồi núi trọc, với các loài cây chủ yếu là Thông đuôi ngựa (Pinus massonianna Lamb), Keo lá tràm (Acacia auriculiformis Cunn), và Keo tai tượng (Acacia mangium Will) Đến năm 1993, Trung tâm Lâm nghiệp xã hội và nghiên cứu thực nghiệm rừng thuộc Trường Đại học Lâm nghiệp đã tiến hành trồng thử nghiệm.
Nhìn chung, thảm thực vật gây trồng đa dạng phong phú, phát huy tốt tác dụng phòng hộ và cải thiện môi trường sinh thái của khu vực.
Điều kiện kinh tế xã hội
Núi Luốt nằm trong khu vực đông dân cư với nhiều thành phần như cán bộ công chức, sinh viên, bộ đội, dân buôn bán và nông dân Trong khi cán bộ công chức và dân buôn bán có thu nhập ổn định, thì người lao động nông nghiệp lại có thu nhập thấp, dẫn đến việc khu vực này thường bị ảnh hưởng bởi các hoạt động chăn thả trâu bò và lấy củi, gây tác động xấu đến rừng và đất rừng Khu vực này tiếp giáp với xã Hoà Sơn, huyện Lương Sơn, tỉnh Hoà Bình, nơi người dân chủ yếu sống dựa vào sản xuất nông lâm nghiệp Mặc dù diện tích đất lâm nghiệp khoảng 543 ha, nhưng nghề rừng chưa phát triển, ảnh hưởng đến đời sống người dân Do đó, cần tạo điều kiện cho người dân tham gia vào nghề rừng nhằm nâng cao đời sống và bảo vệ rừng tại Núi Luốt.
Điều kiện tự nhiên tại khu vực này rất lý tưởng cho sự sinh trưởng và phát triển của nhiều loài thực vật Tuy nhiên, việc người dân thường xuyên vào rừng để kiếm củi, tàn phá lớp cây bụi và chăn thả gia súc đã gây ra nhiều khó khăn trong công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu tính đa dạng thành phần loài các loài cây gỗ bản địa tại rừng thực nghiệm Trường Đại học Lâm Nghiệp
4.1.1 Đa dạng về thành phần loài
Rừng Núi Luốt là khu rừng thực nghiệm phục vụ cho việc học tập và nghiên cứu khoa học của giảng viên, cán bộ và sinh viên Nơi đây có sự đa dạng về thực vật, đặc biệt là các loài cây bản địa, được trồng nhằm hỗ trợ cho công tác nghiên cứu và giảng dạy.
Sau quá trình điều tra thực địa, nhóm nghiên cứu đã ghi nhận 241 loài thực vật thân gỗ bản địa thuộc 164 chi và 55 họ tại khu vực rừng thực nghiệm núi Luốt, Trường Đại học Lâm Nghiệp.
Số liệu được thống kê trong danh lục thực vật núi Luốt (phụ lục 01), và bảng thống kê số loài của các họ thực vật trong phụ lục 02
Nhiều họ thực vật có số lượng loài lớn, điều này cho thấy khả năng thích nghi của từng loài với môi trường sống tại khu vực Bảng 4.1 thống kê các họ có số lượng loài phong phú.
Bảng 4.1: Tỷ lệ các họ có số loài nhiều ở núi Luốt
TT Tên họ thực vật
Số loài Tỷ lệ % Tên khoa học Tên Việt Nam
Khu vực nghiên cứu cho thấy sự đa dạng phong phú của thực vật thân gỗ với nhiều thành phần loài, chi và họ Trong đó, họ Thầu dầu có 25 loài, chiếm 10,37%; họ Re có 21 loài, chiếm 8,71%; và họ Vang với 13 loài, chiếm 5,39% tổng số loài Tuy nhiên, cũng tồn tại những họ chỉ có một loài như họ Chẩn, họ Hồ đào, và họ Thanh thất, điều này ảnh hưởng lớn đến đa dạng sinh học của thực vật, đặc biệt là cây bản địa, vì sự mất mát của một loài sẽ dẫn đến sự biến mất của cả họ đó.
Trong 10 họ có số lượng loài nhiều nhất ở trên cho ta thấy chỉ có một họ có số loài chiếm 10% của tổng số loài trong khu vực Kết quả này phù hợp với nhận định của Tolmachop A.L cho rằng ở vùng nhiệt đới thành phần các họ thực vật khá đa dạng Thể hiện ở chỗ là rất ít họ chiếm tới 10% tổng số loài của hệ thực vật và tổng tỷ lệ phần trăm của 10 họ giàu nhất chỉ đạt 40 – 50% tổng số loài của hệ thực vật và họ giàu có nhất cũng không vượt quá 10% Khác hẳn với vùng ôn đới nhất là hàn đới, tỷ lệ này giao động từ 65 – 76% và họ giàu loài nhất chiếm đến 13% Tổng tỷ lệ phần trăm của 10 họ giàu loài nhất của núi Luốt đạt 50,61% tổng số loài của khu vực, một lần nữa chứng tỏ tính đa dạng của hệ thực vật nơi đây đặc trưng cho khu vực nhiệt đới gió mùa như nước ta
Việt Nam nổi bật với sự đa dạng sinh học phong phú, đặc biệt là tại Núi Luốt, nơi có diện tích chỉ khoảng 107 ha nhưng lại sở hữu nhiều loài, chi, họ thực vật Địa điểm này đóng góp quan trọng vào công tác bảo tồn thực vật và phát triển đa dạng sinh học, với tỷ lệ loài rất cao so với toàn quốc Thông tin chi tiết được trình bày trong bảng 4.2.
Bảng 4.2: So sánh một số họ TV thân gỗ giàu loài tại KVNC với Việt Nam
Họ Khu vực nghiên cứu Việt Nam Tỉ lệ %
Khu vực núi Luốt có sự đa dạng sinh học phong phú, với các họ thực vật có số loài phong phú nhất, đồng thời cũng là những loài bản địa phát triển tốt nhất nhờ điều kiện khí hậu và đất đai thuận lợi Việc trồng các loài này không chỉ phục vụ cho nghiên cứu và học tập mà còn góp phần cải tạo đất, bảo vệ môi trường sinh thái, và bảo tồn đa dạng sinh học, đặc biệt là các loài nguy cấp quý hiếm.
4.1.2 Đa dạng về dạng sống
Khí hậu nhiệt đới ẩm ướt tại đây tạo điều kiện cho sự phát triển đa dạng của rừng, không chỉ về số lượng loài mà còn về các dạng sống khác nhau Đặc biệt, thành phần cây gỗ phong phú với nhiều tầng thứ khác nhau, được phân chia thành nhiều dạng sống độc đáo.
MM- Cây gỗ lớn và vừa có chồi trên mặt đất cao > 30m
Mi- Cây gỗ nhỏ có chồi trên mặt đất cao từ 8 – 25m
Trong số 241 loài thực vật thân gỗ bản địa tại núi Luốt tôi điều tra được
92 loài thuộc nhóm Mi chiếm 38,17%, 105 loài thuộc nhóm MM chiếm 43,57%, 44 loài thuộc nhóm Na chiếm 18,26%
1 Nhúm cõy gỗ lớn và vừa cú chồi trờn mặt đất Megaphanerophytes và Mesophanerophytes- MM
Nhóm cây này bao gồm 105 loài, chiếm 43,57% tổng số loài được điều tra trong khu vực Hầu hết các loài trong nhóm đều là cây gỗ lớn có giá trị kinh tế cao, đóng vai trò quan trọng trong tầng tán của rừng, như Lim xanh, Trầm hương, Nghiến, Sưa, Chò chỉ, Trám trắng và Chò nâu.
Các họ có số loài nhiều nhất thuộc nhóm này là:
2 Nhóm cây nhỏ có chồi trên mặt đất Microphanerophytes –Mi
Nhóm này bao gồm 92 loài, chiếm 38,17% tổng số loài được khảo sát trong khu vực nghiên cứu Các loài này chủ yếu sống ở tầng dưới của rừng, thỉnh thoảng xuất hiện ở tầng tán, nhưng thường không có giá trị kinh tế cao.
Các họ có số loài Mi chiếm tỉ lệ cao là
3 Nhóm cây gỗ thấp có chồi trên mặt đất Nanophanerophytes – Na
Nhóm cây này bao gồm 44 loài, chiếm 18,26% tổng số loài được khảo sát trong khu vực nghiên cứu Các loài này chủ yếu phát triển dưới tán rừng và có giá trị cao trong việc làm cảnh cũng như làm dược liệu.
Các họ có nhiều loài thuộc nhóm này:
4.1.3 Đa dạng về công dụng của các loài
Rừng là nguồn tài nguyên quý giá, không chỉ góp phần bảo vệ môi trường sinh thái mà còn mang lại nhiều giá trị cho cuộc sống con người Từ gỗ được sử dụng để sản xuất đồ dùng hàng ngày, đồ gia dụng và trang trí nội thất, đến các loại rau củ và thuốc chữa bệnh, rừng đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp thực phẩm và nguyên liệu thiết yếu cho con người.
Trong quá trình điều tra, nhóm nghiên cứu đã ghi nhận 241 loài thực vật, với 100% tổng số loài được khảo sát có giá trị sử dụng Các loài này được phân thành 5 nhóm công dụng chính: cây cho gỗ (G), cây làm thuốc (T), cây ăn được (Q), cây làm cảnh và cho bóng mát (C), cùng với cây cho nhựa (N) Nhóm cây cho gỗ (G) bao gồm 241 loài, chiếm toàn bộ thực vật thân gỗ bản địa, nhưng chủ yếu là gỗ không quý, trong khi một số loài quý hiếm lại sinh trưởng chậm Nhóm cây làm thuốc (T) có 45 loài, chiếm 18,67% tổng số loài, cho thấy sự phong phú của dược liệu từ thực vật nơi đây, với nhiều bài thuốc được sử dụng trong đông y Ngoài ra, khu vực còn có 28 loài cây có khả năng làm cảnh và tạo bóng mát, góp phần làm phong phú thêm giá trị sinh thái.
Nghiên cứu sự phong phú của các loài cây gỗ quý hiếm tại khu vực nghiên cứu
Nhóm cây ăn được bao gồm 25 loài, chiếm 10,37% tổng số loài được điều tra, với các bộ phận như quả, thân và rễ được con người sử dụng trong sinh hoạt hàng ngày Ngoài ra, nhóm cây cho nhựa có 5 loài, chiếm 2,07% tổng số loài được điều tra.
Bảng 4.3 : Thống kê giá trị công dụng của thực vật tại khu vực núi Luốt
Công dụng Ký hiệu Số lượng %
4.2 Nghiên cứu sự phong phú của các loài cây gỗ quý hiếm tại khu vực nghiên cứu
Núi Luốt là một khu vực nghiên cứu với hệ thực vật đa dạng và phong phú, không chỉ có giá trị khoa học mà còn giá trị kinh tế cao Tại đây, có 17 loài thực vật quý hiếm, chiếm 7,05% trong tổng số 241 loài thuộc 12 họ, và 21,82% trong tổng số 55 họ của khu vực Mặc dù chỉ là một khu rừng thực nghiệm, núi Luốt đóng vai trò quan trọng trong giảng dạy, học tập và bảo tồn các loài quý hiếm, thể hiện sự phong phú về thành phần loài và chủng loại Khu vực này góp phần vào công tác bảo tồn nguồn gen, phục vụ cho nghiên cứu và học tập của sinh viên Trường Đại học Lâm Nghiệp.
Bảng 4.4: Thành phần loài thực vật qúy hiếm của khu vực núi Luốt
STT Tên khoa học Tên thông dụng
1 Canarium tramdenum Dai et Jakovl
2 Erythrophleum fordii Oliv Lim xanh MM G IIA ĐH
Gụ lau MM G EN IIA
6 Vatica subglabra Merr Táu nước MM G EN ĐH
7 Hopea odorata Roxb Sao đen MM G, C EN EN
Sưa bắc bộ Mi G VU EN IA
Dẻ phảng MM G EN ĐH
Chò đãi MM G EN EN
13 Michelia balansae Dandy Giổi lông MM G,C VU
Lát hoa MM G LR VU
Sến mật MM G VU EN
17 Aquilaria crassna Perre Trầm hương MM G,N CR EN
Theo bảng thống kê, nhiều loài thực vật trong sách đỏ hiện đang ở cấp EN (nguy cấp), chiếm 10/17 loài như Gụ lau, Táu nước, và Sưa bắc bộ, với nguy cơ tuyệt chủng cao do phân bố hẹp và bị khai thác trái phép Các loài này có giá trị kinh tế cao, dẫn đến tình trạng săn lùng gia tăng Để bảo tồn và phát triển, cần có các phương án cụ thể Bên cạnh đó, 6 loài ở cấp VU (sắp nguy cấp) như Trám đen và Dầu rái cũng cần được bảo vệ, trong khi 1 loài ở cấp CR (Trầm hương) yêu cầu can thiệp pháp luật theo Nghị định 32/2006/NĐ-CP Đặc biệt, Dalbergia tonkinensis Prain (sưa bắc bộ) thuộc nhóm IA bị nghiêm cấm khai thác thương mại, trong khi 4 loài ở nhóm IIA như Lim xanh và Nghiến cần hạn chế khai thác và sử dụng.
Nhiều loài động vật quý hiếm tại Việt Nam không chỉ nằm trong danh sách sách đỏ mà còn thu hút sự chú ý toàn cầu do số lượng giảm sút nghiêm trọng và môi trường sống bị thu hẹp.
Theo IUCN và sách đỏ Việt Nam năm 2007, có 17 loài quý hiếm được liệt kê, trong đó 6 loài được ghi tên trong sách đỏ thế giới như Sao đen, Sưa bắc bộ, Chò đãi, Lát hoa, Sến mật và Trầm hương Ngoài ra, 3 loài là đặc hữu của Việt Nam gồm Lim xanh, Táu nước và Dẻ phảng Điều này khẳng định rằng Việt Nam, đặc biệt là khu vực núi Luốt, sở hữu hệ thực vật rất đa dạng.
Xây dựng cơ sơ dữ liệu các loài thực vật qúy hiếm tại khu vực núi Luốt
Để bảo tồn các loài thực vật nguy cấp và quý hiếm, việc giúp nhà bảo tồn nhận diện các loài này qua hình thái và giá trị sinh thái là rất quan trọng.
Dưới đây là đặc điểm của một số loài thực vật quý hiếm ở khu vực rừng thực nghiệm Trường Đại học lâm nghiệp:
4.3.1 TRÁM ĐEN – Canarium tramdenum Dai et Jakovl
Họ Trám - Burseraceae Đặc điểm hình thái: Cây gỗ lớn có thể cao 25 – 30m, đường kính
Cây có chiều cao khoảng 90cm, thân thẳng và phân cành cao Vỏ cây có màu xám nâu, với các vết nứt chảy nhựa màu nâu đen Cành khô có màu tím nâu Lá cây là lá kép lông chim một lần lẻ, với 9–13 lá chét Lá chét có hình trái xoan thuôn, đầu nhọn gấp và có mũi lồi ngắn, đuôi gần tròn và lệch rõ rệt Kích thước phiến lá dao động từ 6-17cm chiều dài và 2–7,5cm chiều rộng Lá có kết cấu ròn, mặt trên nhẵn, với 8–11 đôi gân cấp hai Mép lá nguyên, không có lá kèm.
Hoa tự hình xim viên chùy, thường xuất hiện ở nách lá gần đầu cành với chiều dài lớn hơn Hoa có tính đơn tính cùng gốc, kích thước nhỏ khoảng 6-7mm Hoa đực có ống đài xẻ thùy nông và 6 nhị hợp gốc, trong khi hoa cái có ống đài nguyên và chỉ nhị hợp trên nửa chiều dài Triền hoa hình cốc, cao từ 0,5-1mm với nhụy ngắn.
Quả hình trái xoan dài, dài 3-4cm, rộng 1,7-2cm, hai đầu gần tròn, khi chín màu tím đen Hạt 1-3 trong một hạch
Hình 4.1 Hình thái Trám đen Đặc tính sinh học và sinh thái học: Cây mọc nhanh, mùa hoa tháng 4
Quả chín từ tháng 8 đến tháng 11 thường phát triển trên cây ưa sáng, thích hợp với nhiệt độ trung bình năm khoảng 22°C và tháng lạnh nhất là 13°C Cây cần lượng mưa hàng năm từ 1500 đến 2000mm và độ ẩm 80%, nhưng không chịu được sương muối và giá rét Về yêu cầu đất, cây không quá khắt khe, thường phát triển tốt nhất trên đất sét pha có tầng dày và độ pH từ 4,5 đến 5,0.
Trám đen là loài cây thường mọc rải rác trong các khu rừng nguyên sinh và thứ sinh tại miền Bắc và Tây Nguyên của Việt Nam Trên thế giới, chúng phân bố chủ yếu ở nam Trung Quốc và các nước Đông Dương.
Gỗ có màu nâu vàng, dễ chế biến, thường được sử dụng trong xây dựng và sản xuất đồ dùng hàng ngày Quả chín không chỉ là nguồn thực phẩm mà còn có thể ép lấy dầu ăn và dùng để đánh bóng Ngoài ra, quả và rễ của cây còn được ứng dụng trong y học để chữa bệnh.
Tình trạng: Trám đen đang bị khai thác mạnh, trong sách đỏ Việt Nam phân hạng của chúng ở cấp VU
Tại Núi Luốt, việc trồng Trám đen diễn ra nhưng số lượng cây còn hạn chế và không phát triển thuận lợi Hầu hết các cá thể đều nhỏ, cong queo, khó phát triển tán và thân Cây sinh trưởng tốt nhất chỉ đạt đường kính 11cm và chiều cao 7m.
4.3.2 LIM XANH – Erythrophloeum fordii Olv
Họ Vang - Caesalpiniaceae Đặc điểm hình thái: Cây gỗ lớn, cao trên 30m, đường kính có thể tới
Cây có thân thẳng tròn, cao khoảng 1,2m, với gốc có bạnh vè nhỏ và tán xòe rộng Vỏ cây màu nâu, có nhiều nốt sần màu nâu nhạt, thường bong ra thành mảng hoặc vẩy lớn, lớp vỏ trong có màu nâu đỏ Cây thường mọc lẻ, phân cành thấp với cành non màu xanh lục Lá kép lông chim hai lần, mọc cách, có 3–4 đôi cuống cấp 2, mỗi cuống mang 9–13 lá chét hình trái xoan hoặc trứng trái xoan, đầu nhọn và đuôi gần tròn, kích thước dài 4,5–6cm, rộng 3–3,5cm, với bề mặt nhẵn bóng và gân lá nổi rõ Hoa có hình chùm kép, dài 20–30cm, với hoa lưỡng tính gần đều, đài 5 cánh hình chuông, tràng màu xanh vàng với 5 cánh hẹp và dài, nhị 10 với chỉ nhị rời, bầu phủ nhiều lông Quả đậu có hình trái xoan thuôn, dài.
20–25cm, rộng 3,5–4cm Hạt dẹt màu nâu đen, xếp lợp lên nhau; vỏ hạt cứng, dây rốn dầy và to gần bằng hạt
Cây Lim xanh có đặc tính sinh học và sinh thái học đặc trưng, mọc chậm với tốc độ phát triển thay đổi theo tuổi và vùng phân bố Trong 10 năm đầu, cây tăng trưởng chiều cao từ 0,5–0,7m và đường kính từ 0,5–0,7cm mỗi năm, sau đó có thể phát triển nhanh hơn Mùa ra hoa diễn ra từ tháng 3 đến tháng 5, trong khi quả chín vào tháng 10 và tháng 11 Cây ưa sáng nhưng có thể chịu bóng khi còn nhỏ, phát triển tốt trong điều kiện khí hậu nhiệt đới ẩm với nhiệt độ trung bình năm từ 22,4°C đến 24,1°C Lim xanh có thể chịu đựng nhiệt độ cao nhất lên đến 42,3°C và thấp nhất là -1,4°C, với lượng mưa trung bình hàng năm từ 1500 đến 2859mm và có thể trải qua từ 3 đến 9 tháng khô Cây thường phân bố trên đất sét hoặc đất sét pha sâu dày, phát triển tốt ở độ cao dưới 300m và có khả năng tái sinh hạt và chồi mạnh mẽ.
Lim xanh, một loài cây đặc hữu của Việt Nam, phân bố từ biên giới Việt - Trung đến các tỉnh Quảng Nam và Đà Nẵng Loài cây này chủ yếu tập trung ở các tỉnh như Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Bắc Ninh, Bắc Giang, Thanh Hóa, Nghệ An và Hà Tây.
Gỗ Lim có giá trị cao với giác màu xám vàng nhạt dày, lõi màu xanh vàng sau nâu sẫm, dăm thô và thớ xoắn, nặng và chịu được thời tiết khắc nghiệt Mặc dù giác dễ bị mối mọt, gỗ Lim vẫn được ưa chuộng trong xây dựng các công trình lớn, làm nhà, đóng tàu, bàn ghế và tà vẹt Than Lim cũng mang lại chất lượng cao, trong khi vỏ gỗ chứa nhiều chất chát có thể dùng làm thuốc nhuộm.
Tình trạng: Là loài cho giá trị kinh tế cao, đã và đang bị khai thác mạnh, nhóm IIA trong Nghị định 32/CP
Núi Luốt Lim xanh được trồng phổ biến tại khu vực ngã tư Yên Ngựa và chân đỉnh 133, hiện đang phát triển tốt dưới tán Để đảm bảo sự phát triển bền vững cho cây, cần áp dụng các biện pháp can thiệp phù hợp trong giai đoạn tiếp theo.
4.3.3 GỤ LAU – Sindora tonkinensis A.Chev
Họ Vang (Caesalpiniaceae) là cây gỗ lớn, cao từ 20–25m hoặc hơn, với đường kính thân 0,6-0,8m và lá kép lông chim một lần, chẵn Lá chét có 4-5 đôi, hình bầu dục, dài từ 6–12cm và rộng 3,5–6cm, có chất da và nhẵn Cuống lá chét dài khoảng 5mm Cụm hoa hình chùy, dài từ 10–15cm, được phủ đầy lông nhung màu hung vàng.
Lá bắc hình tam giác, dài 5–10mm Lá đài phủ đầy lông nhung Cánh hoa 1 (-
Quả đậu có hình dạng gần tròn hoặc bầu dục rộng, kích thước khoảng 7cm dài và 4cm rộng, với mỏ thẳng và không có gai Bầu quả có cuống ngắn, được phủ đầy lông nhung, trong khi vòi quả cong, dài từ 10 đến 15mm và có núm hình đầu Hạt bên trong quả thường có 1, đôi khi là 2-3 hạt.
Gụ lau là một loài cây có đặc tính sinh học và sinh thái học đặc trưng, với mùa hoa từ tháng 3 đến tháng 5 và mùa quả chính từ tháng 7 đến tháng 9 Loài cây này tái sinh chủ yếu bằng hạt và thường mọc rải rác trong các khu rừng rậm nhiệt đới thường xanh Gụ lau ưa thích môi trường ẩm ướt, đặc biệt là trong mùa mưa, và phát triển tốt ở độ cao không quá 600m trên những loại đất tốt, có tầng dày và thoát nước tốt.
Phân bố: Việt Nam: Quảng Ninh (Uông Bí: Yên Lập), Hà Bắc, Nghệ
Xây dựng cơ sở dữ liệu trên trang Web Trung tâm đa dạng sinh học - Trường đại học Lâm Nghiệp
Nhóm nghiên cứu đã xây dựng cơ sở dữ liệu các loài thực vật có giá trị bảo tồn cao tại khu vực nghiên cứu và phối hợp với Trung tâm Đa dạng sinh học, Trường Đại học Lâm nghiệp để cập nhật dữ liệu lên internet Mục tiêu là tạo điều kiện thuận lợi cho việc học tập, nghiên cứu và chia sẻ thông tin Trong luận văn này, chỉ giới thiệu một số hình ảnh về bộ cơ sở dữ liệu trực tuyến.
* Sưa Bắc bộ (Dalbergia tonkinensis Prain)
* Giổi Lông (Michelia balansae (A.DC) Dandy)
* Nghiến (Burretiodendron hsienmu Chun et How
Một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng rừng thực nghiệm trong đào tạo và nghiên cứu
Quy hoạch thiết kế tổng thể và chi tiết cho rừng thực nghiệm nhằm đáp ứng yêu cầu đào tạo và nghiên cứu của một vườn thực vật hiện đại, bao gồm các khu vực trồng cây như Tuế, Thông, Họ Dầu, Họ Đậu, cùng với khu nhà kính và khu cây thuốc.
Lập hồ sơ quản lý cho từng loài cây bao gồm thời điểm trồng, nguồn gốc và toàn bộ thông tin liên quan Hồ sơ này sẽ tạo thành một cơ sở dữ liệu cho các loài cây quý hiếm, cung cấp thông tin về đặc điểm hình thái, sinh thái, bản đồ phân bố, giá trị sử dụng và hình ảnh minh họa.
- Có biển tên cây cho tất cả các loài cây hoặc ít nhất là các loài cây ven đường, ven lô
- Lập dự án trồng bổ xung thêm các loài cây bản địa tại khu vực nghiên cứu
- Xây dựng cơ sở dữ liệu trên mạng internet cho tất cả các loài cây tại rừng thực nghiệm
- Nhà trường cần tăng cường công tác bảo vệ rừng thực nghiệm để giảm thiểu các tác động tiêu cực vào tài nguyên rừng
Nhà trường cần xây dựng một kế hoạch bảo vệ môi trường hiệu quả, đồng thời tạo ra những điểm nhấn hấp dẫn để thu hút không chỉ sinh viên và các nhà nghiên cứu mà còn cả khách tham quan.
Mở rộng hợp tác với các cơ sở nghiên cứu và đào tạo cả trong và ngoài nước là cần thiết để chia sẻ thông tin, từ đó nâng cao hiệu quả trong công tác đào tạo và nghiên cứu khoa học.
KẾT LUẬN – TỒN TẠI – KHUYẾN NGHỊ
Thành phần cây gỗ bản địa tại khu vực rừng thực nghiệm đã khá đa dạng và phong phú với 241 loài thuộc 164 chi và 55 họ thực vật
- Trong tổng số 241 loài cây gỗ bản địa thì có 105 loài cây gỗ lớn, 92 loài cây gỗ nhỡ và 44 loài cây gỗ nhỏ
Khu vực nghiên cứu sở hữu sự đa dạng phong phú của thực vật thân gỗ bản địa, bao gồm 241 loài cung cấp gỗ, 45 loài có khả năng làm thuốc và 28 loài có giá trị làm cảnh.
25 loài ăn được và 5 loài cho nhựa
- Tại khu vực nghiên cứu có tới 17 loài thực vật thân gỗ bản địa có giá trị bảo tồn cao trong phạm vi quốc gia và quốc tế
Đề tài đã phát triển một bộ cơ sở dữ liệu chi tiết và bản đồ phân bố các loài cây gỗ bản địa có giá trị bảo tồn cao trong khu vực nghiên cứu.
- Đề xuất được một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng rừng thực nghiệm trong đào tạo và nghiên cứu
Đề tài mới đã xây dựng thành công cơ sở dữ liệu và bản đồ phân bố cho 17 loài cây quý hiếm, có giá trị bảo tồn cao Tuy nhiên, vẫn chưa hoàn thiện cơ sở dữ liệu cho toàn bộ các loài cây gỗ bản địa trong khu vực nghiên cứu.
Cần thiết lập một quy hoạch tổng thể và chi tiết cho rừng thực nghiệm, nhằm đáp ứng yêu cầu và nhiệm vụ đào tạo cũng như nghiên cứu của một vườn thực vật hiện đại.
Lập hồ sơ quản lý cho từng loài cây bao gồm thời điểm trồng, nguồn gốc cây và các thông tin chi tiết khác Điều này tạo thành một bộ cơ sở dữ liệu về các loài cây quý hiếm, bao gồm đặc điểm hình thái, sinh thái, bản đồ phân bố, giá trị sử dụng và hình ảnh minh họa.
- Xây dựng hệ thống biển tên cây cho tất cả các loài cây hoặc ít nhất là các loài cây ven đường, ven lô
- Lập dự án trồng bổ xung thêm các loài cây bản địa tại khu vực nghiên cứu
- Xây dựng cơ sở dữ liệu trên mạng internet cho tất cả các loài cây tại rừng thực nghiệm.