1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

(LUẬN văn THẠC sĩ) nghiên cứu xác định tiêu chuẩn chọn đất và phân hạng đất trồng rừng bạch đàn urophylia làm nguyên liệu giấy và ván dăm tại tỉnh phú thọ​

66 6 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Nghiên Cứu Xác Định Tiêu Chuẩn Chọn Đất Và Phân Hạng Đất Trồng Rừng Bạch Đàn Urophylla Làm Nguyên Liệu Giấy Và Ván Dăm Tại Tỉnh Phú Thọ
Tác giả Lê Thành Công
Người hướng dẫn PGS.TS Ngô Đình Quế
Trường học Trường Đại Học Lâm Nghiệp
Chuyên ngành Lâm Học
Thể loại Luận Văn Thạc Sỹ
Năm xuất bản 2007
Thành phố Hà Tây
Định dạng
Số trang 66
Dung lượng 2,19 MB

Cấu trúc

  • Chương 1: TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU (5)
    • 1.1. Trên thế giới (5)
    • 1.2. Trong nước (14)
    • 1.3. Một số kết quả nghiên cứu về Bạch đàn urô (E.urophylla) (19)
  • Chương 2: MỤC TIÊU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU (21)
    • 2.1. Mục tiêu, đối tượng và giới hạn của đề tài (0)
    • 2.2. Nội dung nghiên cứu (21)
    • 2.3. Phương pháp nghiên cứu (22)
  • Chương 3: ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN DÂN SINH KINH TẾ TỈNH PHÚ THỌ (26)
    • 3.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội tỉnh Phú Thọ (26)
    • 3.2. Hiện trạng sử dụng đất đai và tài nguyên rừng tỉnh Phú Thọ (33)
  • Chương 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN (37)
    • 4.1. Phân hạng mức độ thích hợp cây trồng cấp vĩ mô (37)
    • 4.2. Ảnh hưởng của điều kiện lập địa đến sinh trưởng rừng trồng Bạch đàn Urophylla tại Phú Thọ (45)
    • 4.3. Sinh trưởng của Bạch đàn Urophylla với tính chất đất (51)
    • 4.4. Đánh giá hiệu quả kinh tế của trồng rừng Bạch đàn urophylla (62)
  • Chương 5: KẾT LUẬN, TỒN TẠI VÀ KIẾN NGHỊ (65)
    • 5.1. Kết luận (65)
    • 5.2. Tồn tại (66)
    • 5.3. Kiến nghị (66)
  • TÀI LIỆU THAM KHẢO (0)
  • PHỤ LỤC (0)

Nội dung

TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

Trên thế giới

Phân hạng đất đai là quá trình đánh giá đất nhằm xác định mối quan hệ giữa đặc điểm và tính chất của đất với năng suất cây trồng Phương pháp này, phổ biến ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa cũ, chủ yếu áp dụng cho cây trồng nông nghiệp Thông qua việc phân hạng đất, người ta có thể phân loại đất thành các cấp khác nhau phù hợp với từng loại cây trồng, từ đó dự đoán được năng suất cây trồng một cách chính xác.

Trong lâm nghiệp, việc phân hạng đất thường dựa trên các yếu tố như loại đất, độ pH, thành phần cơ giới, độ dày tầng đất và thực bì, những yếu tố này chỉ ra độ phì nhiêu hoặc mức độ thoái hóa của đất Để phân hạng đất đai một cách chính xác, cần có tư liệu về năng suất cây trồng và mối quan hệ giữa chúng với các tính chất của đất.

Đánh giá đất đai của FAO là một phương pháp phổ biến, được áp dụng rộng rãi tại các nước Tây Âu FAO đã công nhận và hoàn thiện phương pháp này thành cẩm nang hướng dẫn đánh giá đất đai, nhằm tạo điều kiện cho việc áp dụng hiệu quả Một ví dụ điển hình là vào năm 1979, FAO đã xuất bản cẩm nang hướng dẫn này.

"Đánh giá đất đai cho lâm nghiệp" Trên cơ sở đó một số nội dung hoặc khái niệm được xác định cụ thể như sau:

Đánh giá tiềm năng sử dụng đất đai là quá trình phân chia đất thành các nhóm dựa trên các yếu tố như độ dốc, độ dày tầng đất, tình trạng xói mòn và khô hạn, nhằm lựa chọn kiểu sử dụng đất phù hợp Quá trình này thường được thực hiện trên quy mô lớn như quốc gia, tỉnh hay huyện, và đã thành công ở Mỹ và nhiều quốc gia khác Các yếu tố hạn chế, như độ dốc và khí hậu, thường không thay đổi, dẫn đến việc phân loại đất đai thành 8 nhóm tại Mỹ, từ nhóm I (thuận lợi nhất) đến nhóm VIII (nhiều hạn chế nhất) Đánh giá mức độ thích hợp đất đai là việc xác định mức độ phù hợp của các kiểu sử dụng đất cho từng đơn vị đất và tổng hợp cho toàn khu vực, dựa trên so sánh giữa yêu cầu sử dụng và đặc điểm của đất.

Hệ thống đánh giá được thể hiện theo 4 cấp:

Đất đai được phân thành hai cấp lớn dựa trên kiểu sử dụng và loài cây trồng: S (thích hợp) và N (không thích hợp) với điều kiện đất đai hiện có.

 Mức độ thích hợp (S) phân chia thành 3 mức:

- Thích hợp cao (S1): Đất hầu như không có hạn chế đáng kể khi thực hiện canh tác

Đất thích hợp trung bình (S2) là loại đất có một số hạn chế nhất định, dẫn đến việc giảm năng suất cây trồng hoặc tăng chi phí canh tác Tuy nhiên, loại đất này vẫn có khả năng phù hợp cho việc trồng cây hoặc các kiểu sử dụng đất khác.

Đất có chất lượng kém (S3) gây ra những hạn chế nghiêm trọng, làm giảm năng suất trồng trọt và tăng chi phí canh tác Kết quả là hiệu quả kinh tế bị ảnh hưởng đáng kể.

Phân hạng và đánh giá đất đai đã được thực hiện từ lâu ở nhiều quốc gia, với mỗi nước áp dụng nội dung và phương pháp đánh giá khác nhau tùy theo mục đích cụ thể.

Khoa học đất đã được hình thành từ sớm tại Nga, nhờ vào những nghiên cứu của các nhà khoa học như V.V Docuchaev, P.A Kostüsev và N.M Sibirsev, đã xây dựng nền tảng vững chắc cho lĩnh vực thổ nhưỡng học Những đóng góp của họ đã biến thổ nhưỡng học thành một bộ môn khoa học chính thống, cung cấp các phương pháp nghiên cứu đất hiệu quả.

V V Docuchaev đã đưa ra lý thuyết về phát sinh đất và được thừa nhận trên toàn thế giới Qua nghiên cứu đất đen làm ví dụ, ông cho rằng: đất là một thể tự nhiên độc lập cũng giống như khoáng vật, thực vật, động vật, đất không ngừng thay đổi theo không gian và thời gian Trong công trình này lần đầu tiên ông đã xác định mối quan hệ có tính qui luật giữa đất và điều kiện tự nhiên, môi trường và đã chỉ ra việc hình thành đất là một quá trình phức tạp do tác động của 5 yếu tố tự nhiên là: khoáng vật, thực vật, động vật, không gian và thời gian.[10] Ở Mỹ, ý đồ xây dựng một chương trình nghiên cứu phân loại đất đã có từ năm 1832 do E Ruffin khởi xướng, đến năm 1860 W Hilgard xây dựng bảng phân loại đất và bản đồ đất đầu tiên cho nước Mỹ, trên cơ sở nhận thức: đất là một vật thể tự nhiên, tính chất đất có quan hệ đến thực vật và khí hậu.[50] Đại hội Khoa học đất Quốc tế lần thứ 4 được tổ chức vào năm 1950 ở Amsterdam Hà Lan và lần thứ 5 vào năm 1954 ở Conggo đã thúc đẩy sự ra đời của 2 trung tâm nghiên cứu phân loai đất có tính chất Quốc tế là: Trung tâm phân loại Soil Taxonomy và Trung tâm phân loại FAO-UNESCO Hai Trung tâm này cùng có một quan điểm nghiên cứu giống nhau, đó là quan điểm định lượng, và đã tiến hành xây dựng hệ thống chỉ tiêu định lượng trong các cấp phân loại Với quan điểm phân loại mới là dựa vào định lượng hoá tính chất, thì chỉ có những tính chất mà có thể xác định định lượng mới được sử dụng trong phân loại đất [10]

Hiện nay, tại Hoa Kỳ, việc nghiên cứu và phân loại đất sử dụng hệ thống Soil Taxonomy với thuật ngữ riêng biệt FAO-UNESCO đã áp dụng phương pháp định lượng trong phân loại đất của Soil Taxonomy để xây dựng hệ thống phân vị chú dẫn bản đồ, tạo ra một hệ thống phân loại và thuật ngữ hài hòa, có mối quan hệ lãnh thổ, phục vụ cho ngôi nhà chung toàn cầu Năm 1961, FAO-UNESCO đã xuất bản Bản đồ đất thế giới với tỷ lệ 1/5.000.000, dựa trên phương pháp định lượng trong phân loại đất của Soil Taxonomy.

Từ những năm 1950, đánh giá khả năng sử dụng đất đã thu hút sự chú ý của nhiều nhà khoa học và tổ chức quốc tế, trở thành bước tiếp theo trong nghiên cứu đặc điểm đất Hiện nay, lĩnh vực này đóng vai trò quan trọng trong công tác quy hoạch, hoạch định chính sách và phục vụ nhu cầu của người sử dụng đất.

Đánh giá đất đai, theo định nghĩa của FAO năm 1976, là quá trình so sánh các tính chất của đất cần đánh giá với yêu cầu của loại hình sử dụng đất Quá trình này bao gồm việc thu thập thông tin và xem xét toàn diện các yếu tố đất đai và cây trồng để xác định mức độ thích hợp Tại Mỹ, hai phương pháp đánh giá đất đai phổ biến là phương pháp tổng hợp, dựa trên năng suất cây trồng qua nhiều năm, với cây lúa mì là tiêu chuẩn chính, và phương pháp yếu tố, sử dụng thống kê các yếu tố tự nhiên và kinh tế để so sánh, lấy lợi nhuận tối đa làm mốc 100 điểm.

Nhiều nước Châu Âu việc phân hạng và đánh giá đất đai được thực hiện theo 2 hướng là:

1- Phân hạng định tính: dựa trên các kết quả nghiên cứu các yếu tố tự nhiên để xác định tiềm năng sản xuất của đất đai

2- Phân hạng định lượng: dựa vào kết quả nghiên cứu các yếu tố kinh tế, để xác định sức sản xuất thực tế của đất đai.[10] Ở Ấn Độ và các nước vùng nhiệt đới ẩm châu Phi thường áp dụng phương pháp tham biến để xác định mối quan hệ giữa các yếu tố đất đai và cây trồng Các mối quan hệ này được biểu thị dưới dạng phương trình toán học Kết quả phân hạng được thể hiện dưới dạng % hoặc điểm [20]

Vào năm 1972, hai Ủy ban nghiên cứu ở Hà Lan và FAO- Roma đã thống nhất bản dự thảo đầu tiên về tiêu chuẩn hóa việc đánh giá đất đai Phương pháp đánh giá đất đai đầu tiên của FAO được công bố vào năm 1976 và đã được chỉnh lý vào năm 1983.

Trong nước

Từ những năm 80 trở lại đây một số công trình nghiên cứu dưới đây đã đặt nền móng cho việc nghiên cứu và đánh giá đất đai:

Nghiên cứu của Bùi Quang Toản và nhóm nghiên cứu (1991) về quy hoạch đất khai hoang ở Việt Nam đã ứng dụng phân loại khả năng của FAO Tuy nhiên, nghiên cứu chỉ tập trung vào việc đánh giá các điều kiện tự nhiên như thổ nhưỡng, thủy văn, tưới tiêu và khí hậu nông nghiệp, mà chưa mở rộng đến các lớp thích nghi cho từng loại hình sử dụng đất.

Trần An Phong (1995) đã thực hiện một đánh giá về hiện trạng sử dụng đất ở Việt Nam từ góc độ sinh thái và bền vững Phương pháp này xem xét mối quan hệ biện chứng giữa các yếu tố như tính chất đất, hiện trạng sử dụng đất, khả năng thích nghi của đất đai và các vùng sinh thái.

Đánh giá tiềm năng sử dụng đất lâm nghiệp theo nghiên cứu của Đỗ Đình Sâm và cộng sự (1995) áp dụng phần mềm GIS để tạo ra các bản đồ chi tiết về tiềm năng đất lâm nghiệp ở từng vùng sinh thái và toàn quốc Phương pháp này tận dụng hiệu quả thông tin sẵn có, mang tính chiến lược và dự báo cho việc phát triển bền vững trong lĩnh vực lâm nghiệp.

Cho đến nay, các công trình nghiên cứu về đất ở Việt Nam có khá nhiều tập trung chủ yếu vào các nội dung chính sau:

- Nghiên cứu cơ bản về hình thành và tính chất lý hoá học của đất

- Điều tra, phân loại, xây dựng bản đồ đất với các tỷ lệ khác nhau

- Đánh giá tiềm năng sản xuất đất

- Biện pháp cải tạo một số loại đất có vấn đề

- Bảo vệ và chống suy thoái tài nguyên đất

Theo nghiên cứu của VM Fridland (1964) và Nguyễn Viết Phổ (1978), hàng năm, Sông Cửu Long và sông Hồng cung cấp khoảng 200 triệu tấn phù sa ra biển, dẫn đến việc các bãi bồi ở cửa sông mở rộng ra biển Đông từ 40-100m Thái Văn Trừng (1979) cũng đã chỉ ra rằng để kinh doanh rừng Bạch đàn thành công, yếu tố đất là rất quan trọng, trong đó nước trong đất đóng vai trò quyết định đối với độ phì của đất, đặc biệt khi trồng Bạch đàn ở những vùng đất kém như Đền Hùng.

Phú Thọ có nhóm đất sialit - feralit nâu vàng phong hóa trên phù sa cổ, với tính chất vật lý kém và hàm lượng dinh dưỡng thấp Đỗ Đình Sâm (1991) cho rằng Bạch đàn, giống như các loài cây khác, có khả năng tự bón phân và tham gia vào quá trình tuần hoàn vật chất, cung cấp các chất dinh dưỡng như N, P, K, Ca, Mg cho đất qua lá rụng Tuy nhiên, do tán lá Bạch đàn thưa và hàm lượng dinh dưỡng trong lá không cao, quá trình này diễn ra chậm, dẫn đến sự gia tăng độ phì nhiêu của đất chỉ ở mức hạn chế Thực tế cho thấy nhiều diện tích Bạch đàn trồng bị quét lá, khiến cho tuần hoàn vật chất chỉ diễn ra một chiều, dẫn đến tình trạng đất bị khai thác một cách không bền vững Hệ quả là đất bị xấu đi là điều khó tránh khỏi Sau khi trồng rừng Bạch đàn khép tán, các loài cỏ chịu hạn như cỏ lông lợn và cỏ lông trước đây sống ở vùng đồi trọc sẽ bị đào thải, không phải do Bạch đàn phát sinh độc tố.

Vào năm 1960, F.R Moormann đã cho ra mắt bản đồ thổ nhưỡng miền Nam Việt Nam với tỷ lệ 1/1.000.000, kèm theo bảng phân loại đất tương ứng Đến năm 1969, V M Fridland cùng các nhà khoa học Việt Nam đã công bố bản đồ thổ nhưỡng miền Bắc Việt Nam cũng với tỷ lệ 1/1.000.000 và bảng chú giải phân loại Hai bản đồ này có đặc điểm phân loại khác nhau: bảng phân loại đất cho miền Bắc dựa trên phương pháp phân loại phát sinh của Liên Xô, trong khi bảng phân loại của Moormann kết hợp giữa phương pháp phân loại của Mỹ và tính chất thực dụng.

Tôn Thất Chiểu và Hoàng Ngọc Toàn (1980 – 1985) đã thực hiện nghiên cứu phân hạng đất đai tổng quan trên toàn quốc, tập trung vào nhiều loại cây trồng và các vùng chuyên canh khác nhau, dựa trên phương pháp phân hạng định lượng của FAO Đề tài nghiên cứu chủ yếu liên quan đến đất nông nghiệp và đất đồi núi.

Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã ban hành tiêu chuẩn ngành 10 TCN 343-98, quy định quy trình đánh giá đất đai phục vụ nông nghiệp Tiêu chuẩn này được xây dựng dựa trên các nội dung và phương pháp đánh giá đất của FAO, phù hợp với điều kiện và tiêu chuẩn cụ thể của Việt Nam.

Kết quả điều tra tổng hợp của Viện quy hoạch thiết kế Nông nghiệp năm 1995 đã xác định 9 vùng sinh thái nông nghiệp trên toàn quốc dựa trên 7 yếu tố quan trọng: loại đất, độ dốc, độ dày tầng đất, thuỷ văn mặt nước, tưới tiêu, lượng mưa và nhiệt độ Mặc dù đã có nỗ lực gộp nhóm và đơn giản hóa các yếu tố này, kết quả vẫn cho thấy số lượng đơn vị đất đai toàn quốc khá lớn, với 373 đơn vị được ghi nhận trên bản đồ tỷ lệ 1/1.000.000.

Vào năm 1989, Vũ Cao Thái cùng các cộng sự đã tiến hành nghiên cứu đánh giá phân hạng đất Tây Nguyên cho các loại cây trồng như Cao su, Cà phê, Chè và Dâu tằm Đề tài áp dụng phương pháp phân hạng đất đai của FAO theo kiểu định tính và hiện tại, nhằm đánh giá tổng quan tiềm năng đất đai của khu vực Kết quả nghiên cứu đã phân chia đất thành 4 hạng riêng biệt cho từng loại cây trồng.

Nghiên cứu KT 02-09 do Viện Quy hoạch Thiết kế Nông nghiệp thực hiện (1993-1995) đã đánh giá hiệu quả kinh tế xã hội và tác động môi trường của các loại hình sử dụng đất tại Việt Nam Kết quả nghiên cứu xác định bốn loại hình sử dụng đất chính, bao gồm: loại hình bền vững về kinh tế, xã hội và môi trường; loại hình không bền vững về kinh tế; loại hình không bền vững về môi trường; và loại hình không bền vững về cả kinh tế và môi trường.

Theo nghiên cứu của tác giả Đỗ Đình Sâm (1995) và các cộng sự, tiềm năng sản xuất đất lâm nghiệp ở Việt Nam được đánh giá qua 8 vùng kinh tế lâm nghiệp, bao gồm Tây Bắc, Đông Bắc, Trung tâm, Bắc Trung Bộ, Duyên hải miền Trung, Đông Nam Bộ, Tây Nguyên và Đồng bằng sông Cửu Long, trong đó vùng Đồng bằng sông Hồng chủ yếu là đất nông nghiệp.

Trong quá trình điều tra để xây dựng bản đồ lập địa phục vụ cho công tác trồng rừng cho các dự án như KFW1, KFW3, ADB và Lâm nghiệp xã hội Sông Đà, tác giả Ngô Đình Quế đã dựa vào các yếu tố quan trọng như loại đất, độ dày tầng đất, độ dốc và thực bì để xác định đơn vị đất đai.

Vào năm 1962, VM Fridland thực hiện nghiên cứu về các nguyên tố vi lượng trong đất tại miền Bắc Việt Nam, phân tích 35 nguyên tố vi lượng bằng phương pháp quang phổ với độ nhạy 1/10000 Kết quả cho thấy một số nguyên tố không được phát hiện hoặc chỉ tồn tại ở mức vệt.

Nghiên cứu về ảnh hưởng của rừng trồng, đặc biệt là cây mọc nhanh và luân kỳ ngắn đến đất nhiệt đới vẫn đang trong giai đoạn khởi đầu Kết quả nghiên cứu từ các vùng và loài cây khác nhau thường không đồng nhất, thậm chí có nhiều kết luận trái ngược Đỗ Đình Sâm (1984) đã chỉ ra rằng độ phì của đất rừng không cao và được duy trì chủ yếu qua con đường sinh học Các biện pháp kỹ thuật và trạng thái rừng khác nhau cho thấy sự biến đổi hóa tính đất không rõ ràng, ngoại trừ yếu tố mùn và đạm Tuy nhiên, các tính chất lý tính của đất, đặc biệt là cấu trúc và nhiệt độ, dễ bị ảnh hưởng bởi việc trồng Bạch đàn Nghiên cứu đã chứng minh rằng trồng rừng Bạch đàn không làm chua đất, lượng nước tiêu thụ rất ít và góp phần cải thiện độ phì đất, đặc biệt ở những vùng đất nghèo.

Một số kết quả nghiên cứu về Bạch đàn urô (E.urophylla)

Bạch đàn Urô (E.urophylla) là cây gỗ lớn, cao từ 20 - 25m với đường kính lên tới 100 cm, ưa sáng và có khả năng thích nghi với nhiều loại đất Loài cây này phân bố ở độ cao từ 300 đến 2200mm và có thể chịu đựng 2 - 8 tháng khô hạn Tại nơi nguyên sản, Bạch đàn Urô có thể đạt chiều cao từ 25 - 45m, thậm chí lên tới 55m, với đường kính từ 1 - 2m Loài cây này thích hợp với những vùng đất sâu và ẩm, đặc biệt là ở các tỉnh miền Bắc, với nguồn gốc triển vọng nhất từ Lewotobi và Egon Flores cho khu vực trung tâm.

Bạch đàn urô (E urophylla), còn được gọi là Bạch đàn nâu, có nguồn gốc tự nhiên tại một số đảo nhỏ của Indonesia, trải dài từ 122° đến 127° kinh đông và từ 7,3° đến 10° vĩ bắc Loài cây này có khả năng sinh trưởng ở độ cao lớn nhất trong các loại Bạch đàn, từ 70 đến 2960m (ở Timor) so với mực nước biển Sự thay đổi về độ cao dẫn đến biến động nhiệt độ lớn, khiến cho các quần thể Bạch đàn urô trên cùng một đảo, dù cách nhau không xa, phải thích nghi với các điều kiện nhiệt độ rất khác biệt.

27 0 đến 30 0 c (nhiệt độ tối cao bình quân tháng) trên độ cao 400 mét xuống 17 0

Trên đảo Timor, ở độ cao 1900 mét, nhiệt độ trung bình là 21 độ C, và từ độ cao 1000 mét trở lên, khu vực này trải qua lượng mưa cao từ 1300 đến 2200 mm cùng với sương mù thường xuyên Mặc dù loài Bạch đàn urô (E urophylla) có phạm vi phân bố hẹp, nhưng nó vẫn thể hiện sự biến dị di truyền lớn theo độ cao, được chứng minh qua các khảo nghiệm với xuất xứ của loài ở nhiều quốc gia (Lê Đình Khả, 1991).

Người Hà Lan đã lần đầu tiên thu hạt Bạch đàn vào năm 1890 trên đảo Giava, trong khi Braxin từng trồng tới 500.000 ha cây Bạch đàn E alba, một giống lai giữa E urophylla và một loài Bạch đàn khác Trong những năm gần đây, loài Bạch đàn này đã được trồng rộng rãi trên toàn cầu, đặc biệt ở các khu vực có khí hậu nhiệt đới ẩm và bán ẩm, chuyển mùa rõ rệt như một số vùng ở Indonesia, Braxin và nam Trung Quốc Tuy nhiên, việc chọn vùng trồng cây cần được thực hiện cẩn thận, vì có thể các điều kiện khí hậu tưởng chừng phù hợp nhưng cây vẫn không phát triển tốt Chẳng hạn, ở vùng bắc Queensland, loài này đã không thành công sau năm đầu khảo nghiệm, có thể do sự tấn công của sâu đục thân và các loại côn trùng khác.

Trong nghiên cứu về hệ thống đánh giá đất lâm nghiệp, các tác giả đã thực hiện phân hạng đất cho một số cây trồng chủ yếu như Bồ Đề, Thông Nhựa, Thông Ba lá, Hồi và Quế, nhưng chưa có nghiên cứu nào về cây Bạch đàn Mục tiêu chính của bảng phân hạng đất cho cây trồng rừng là nhằm đạt được bốn mục tiêu quan trọng.

- Phản ánh được độ màu mỡ hiện tại của đất;

- Phản ánh được cơ cấu cây trồng và sản lượng;

- Phản ánh được biện pháp kỹ thuật và giá thành

- Đơn giản dễ áp dụng trong điều kiện rừng núi của lâm nghiệp

Để đạt được bốn yêu cầu chính, việc lựa chọn các yếu tố chủ đạo làm tiêu chuẩn là rất quan trọng Đối với đất nông nghiệp, các yếu tố như pH, độ no kiềm và lượng lân dễ tiêu có vai trò lớn Trong khi đó, đối với nhiều loại cây rừng, các yếu tố chủ đạo thường liên quan đến tính chất lý học của đất, chế độ nước và hàm lượng chất hữu cơ.

Dựa vào yêu cầu của cây trồng và điều kiện đất đồi núi tại miền Bắc, bảng phân hạng đất được xây dựng dựa trên hai yếu tố chính: độ dày tầng đất và độ thoái hóa của đất, với thực vật làm chỉ thị Độ dày tầng đất không chỉ phản ánh không gian dinh dưỡng và tổng dự trữ thức ăn, mà còn ảnh hưởng đến khả năng giữ nước và điều hòa độ ẩm Thêm vào đó, yếu tố này thường liên quan đến điều kiện đá mẹ và độ dốc của khu vực.

MỤC TIÊU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Nội dung nghiên cứu

Để đạt được mục tiêu đề tài cần có những nội dung sau:

2.2.1 Thu thập, tổng hợp các tài liệu, kết quả nghiên cứu ở trong và ngoài nước có liên quan đến đề tài

2.2.2 Điều tra thu thập các thông tin ngoài hiện trường

- Thu thập các thông tin cần thiết ở các địa phương: số liệu chung, năng suất rừng

- Xác định năng suất rừng trồng và một số chỉ tiêu sinh trưởng như chiều cao, đường kính cây

- Đào phẫu diện, mô tả và lấy mấu đất để phân tích

2.2.3 Nội nghiệp phân tích mấu đất và xử lý số liệu

Nghiên cứu này tập trung vào việc phân chia mức độ thích hợp về điều kiện khí hậu và đất đai cho việc trồng rừng Bạch đàn Urophylla Đồng thời, chúng tôi xây dựng bản đồ phân cấp mức độ thích hợp cấp vĩ mô cho việc trồng rừng Bạch đàn Urophylla tại tỉnh Phú Thọ.

- Phân tích các mẫu đất với các chỉ tiêu chủ yếu: Hữu cơ, đạm tổng số, các dạng độ chua đất, các chất dễ tiêu P, K, thành phần cơ giới

- Xác định cấp năng suất rừng trồng và mối tương quan với các yếu tố lập địa

- Đề xuất phân hạng đất cấp vi mô

- Thử nghiệm phân hạng tại Đội 8 – Lâm trường Đoan Hùng- Phú Thọ

2.2.4 Đánh giá hiệu quả kinh tế của trồng rừng Bạch đàn urophylla

Phương pháp nghiên cứu

- Dùng không gian thay cho thời gian để bố trí và thu thập các số liệu thí nghiệm ngoài hiện trường

- Khí hậu và đất đai là hai yếu tố chính để phân hạng đất

Phương pháp điều tra so sánh năng suất rừng trồng, đặc biệt là những rừng đã định hình trên 3 tuổi, giúp xác định các yếu tố đất đai ảnh hưởng rõ rệt đến sinh trưởng của rừng.

2.3.2 Phương pháp cụ thể a Phương pháp kế thừa, thu thập một số kết quả nghiên cứu đã có trước đây có liên quan đến đề tài b Điều tra ngoại nghiệp

Chọn địa điểm nghiên cứu và lập tuyến điều tra để khảo sát hiện trạng khu vực rừng trồng Dựa vào bản đồ đã thu thập, mở các tuyến khảo sát qua các kiểu địa hình, loại đất và cây trồng có năng suất khác nhau Qua hệ thống tuyến khảo sát này, tiến hành thu thập thông tin theo nội dung đã định.

- Điều tra các chỉ tiêu sinh trưởng D1.3 và Hvn của cây rừng, mô tả thực vật dưới rừng:

 Diện tích ô tiêu chuẩn là 20m x 20m = 400m 2

 Đo đường kính ngang ngực (D 1,3 ) bằng thước kẹp và đo chiều cao bằng thước Blumeleiss

Trong các ô tiêu chuẩn điển hình, việc đào phẫu diện giúp mô tả đặc điểm của đất và thu thập mẫu để phân tích các tính chất lý, hóa học của đất trong phòng thí nghiệm.

Số lượng mẫu các ô tiêu chuẩn, các chỉ tiêu theo dõi phải đủ lớn và đại diện cho các điểm nghiên cứu khác nhau c Phương pháp nội nghiệp

Xây dựng bản đồ phân cấp mức độ thích hợp cấp vĩ mô cho việc trồng rừng Bạch đàn Urophylla tại tỉnh Phú Thọ là một công trình quan trọng Sử dụng công nghệ GIS, bản đồ này được thiết kế với tỷ lệ 1:100.000, giúp xác định các khu vực phù hợp cho việc phát triển loại cây này Việc áp dụng GIS không chỉ nâng cao độ chính xác trong việc phân tích đất đai mà còn hỗ trợ quy hoạch rừng hiệu quả hơn.

Các mẫu đất được thu thập sẽ được phân tích các chỉ tiêu lý hóa bằng những phương pháp phổ biến hiện nay trong phòng thí nghiệm.

 Dung trọng: Dùng ống đóng có thể tích V0cm 3

 Thành phần cơ giới: Theo phương pháp 3 cấp của FAO

 Mùn tổng số: Theo Walkley- Black

 Đạm tổng số:Theo Kjendhall

 PHKCl của đất: Dùng pH metter

 P2O5 dễ tiêu: Trắc quang (Bray II)

 K2O dễ tiêu: Theo Maslova (đo trên quang kế ngọn lửa)

 Độ ẩm: Sấy ở nhiệt độ 105 0 C trong 3 giờ

- Các số liệu thu thập được xử lý bằng chương trình Excel và phần mềm SPSS

Phần mềm SPSS hỗ trợ xử lý thống kê trên máy tính, cho phép loại bỏ các trị số đặc thù (về D 1.3 và Hvn) có thể gây sai sót trong quá trình đo đếm và quan sát Việc loại bỏ này dựa trên mức độ chênh lệch giữa các trị số và trị số trung vị của dãy quan sát.

- Xây dựng mối tương quan tuyến tính giữa sinh trưởng Bạch đàn urophylla và tính chất đất bằng chương trình SPSS

- Xác định các yếu tố có ảnh hưởng rõ rệt đến sinh trưởng của rừng trồng Bạch đàn làm cơ sở đề xuất bảng phân hạng

Sử dụng công nghệ GIS để thử nghiệm phân hạng đất trên bản đồ và so sánh với kết quả thực tế, bài viết đánh giá hiệu quả kinh tế của việc trồng rừng Bạch đàn urophylla Đánh giá này dựa trên các chỉ tiêu kinh tế cụ thể nhằm xác định tính khả thi và lợi ích từ việc trồng loài cây này.

Giá trị hiện tại thuần (NPV) là hiệu số giữa giá trị hiện tại của dòng doanh thu (cash inflow) và giá trị hiện tại của dòng chi phí (cash outflow), được tính dựa trên lãi suất chiết khấu đã chọn Công thức tính NPV như sau:

 t - thời gian tính dòng tiền

 n - tổng thời gian thực hiện dự án t n n t t n t n t t n t t t t C r B r C r

 Ct – Dòng chi phí tại thời gian t

 Bt- Dòng doanh thu tại thời gian t

Tỷ suất hoàn vốn nội bộ (IRR) là chỉ tiêu quan trọng giúp đánh giá khả năng thu hồi vốn đầu tư, phản ánh mức độ quay vòng của vốn và xác định thời điểm hoàn trả vốn Chỉ tiêu này cho phép so sánh và lựa chọn giữa các phương án, quy mô và cấu trúc đầu tư khác nhau; phương án nào có IRR cao hơn sẽ được ưu tiên lựa chọn Công thức tính IRR được áp dụng để xác định giá trị này.

 IRR: Tỷ suất hoàn vốn nội bộ

 n - tổng số năm trong một chu kỳ kinh doanh rừng trồng

 C t - Chi phí cho rừng trồng trong năm thứ t

 Bt- Thu nhập từ rừng trồng trong năm thứ t

Chỉ tiêu BCR (Benefit-Cost Ratio) là một chỉ số quan trọng để đánh giá hiệu suất đầu tư, được tính bằng thương số giữa tổng thu nhập và tổng chi phí đã được triết khấu về giá trị hiện tại Công thức tính BCR giúp nhà đầu tư xác định hiệu quả của dự án thông qua việc so sánh lợi ích và chi phí.

 C t - Chi phí cho rừng trồng trong năm thứ t

 Bt- Thu nhập từ rừng trồng trong năm thứ t

ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN DÂN SINH KINH TẾ TỈNH PHÚ THỌ

Điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội tỉnh Phú Thọ

3.1.1 Đặc điểm tự nhiên a Vị trí địa lý

Phú Thọ là tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm của Bắc Bộ, có tọa độ địa lý nằm trong khoảng:

- Từ 20 0 55’ đến 21 0 43' vĩ độ Bắc;

- Từ 104 0 47' đến 105 0 47’ kinh độ Đông

- Phía Bắc giáp tỉnh Tuyên Quang

- Phía Nam giáp tỉnh Hoà Bình

- Phía Đông giáp tỉnh Vĩnh Phúc

- Phía Tây giáp tỉnh Sơn La

Khu vực nghiên cứu có vị trí địa lý gần Hà Nội (80 km), tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế và kết nối giao thương giữa các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ và miền núi Tây Bắc như Tuyên Quang, Hà Giang, Yên Bái, Lào Cai, Sơn La Điều này mở ra thị trường lớn cho tiêu thụ nông sản và các sản phẩm thế mạnh của tỉnh Tỉnh Phú Thọ được đánh giá có vị trí địa lý thuận lợi cho phát triển sản xuất nông lâm nghiệp và kinh tế tổng thể.

Phú Thọ, nằm trong vùng chuyển tiếp giữa đồng bằng sông Hồng và vùng núi phía Bắc, có địa hình đa dạng với sự chia cắt mạnh mẽ do nằm ở cuối dãy Hoàng Liên Sơn Địa hình của tỉnh giảm dần từ Tây Bắc xuống Đông Nam và có thể phân chia thành ba dạng chính: miền núi, trung du và đồng bằng.

- Kiểu địa hình vùng núi chiếm khoảng 22 - 25% tổng diện tích tự nhiên, có độ dốc bình quân từ 30 0 - 35 0 , tầng đất dày và tơi xốp

Vùng đồi trung du chiếm từ 25% đến 30% tổng diện tích tự nhiên, với độ dốc trung bình dưới 30 độ Tầng đất dày ở khu vực này rất thích hợp cho việc phát triển sản xuất lâm nghiệp.

Vùng đồng bằng và thung lũng ven sông suối chiếm khoảng 45-50% tổng diện tích tự nhiên, với tầng đất dày nằm trong châu thổ sông Hồng, rất thích hợp cho phát triển nông nghiệp Khí hậu và thủy văn của khu vực này cũng đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ sản xuất nông nghiệp bền vững.

Vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa của tỉnh có hai mùa rõ rệt: mùa mưa nóng ẩm từ tháng 5 đến tháng 10 và mùa khô lạnh từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau Mùa mưa chiếm hơn 80% tổng lượng mưa hàng năm, với lượng mưa tập trung chủ yếu vào các tháng 6, 7, 8 và 9 Trung bình, lượng mưa hàng năm của tỉnh dao động từ 1.700 đến 1.900mm.

- Độ ẩm không khí bình quân năm là 84 - 87%

- Nhiệt độ bình quân hàng năm 23 0 C

Địa hình sông suối và lượng mưa đã tạo ra sự khác biệt rõ rệt trong chế độ thủy văn theo mùa Vào mùa khô, lòng sông ít dốc và lượng nước thất thường, dẫn đến khả năng vận chuyển lâm sản và giao thông thủy bị hạn chế Ngược lại, mùa mưa thường gây ra lũ lụt và ngập úng, gây khó khăn cho đời sống người dân cũng như các hoạt động sản xuất nông - lâm nghiệp.

* Địa chất Đất đai được hình thành từ sản phẩm phong hóa của một số nhóm đá mẹ sau:

- Nhóm đá trầm tích và biến chất có kết cấu mịn (s);

- Nhóm đá vôi và biến chất của đá vôi (v);

- Nhóm đá trầm tích và biến chất có kết cấu hạt thô (q);

Theo tài liệu thổ nhưỡng và kết quả điều tra bổ sung những năm gần đây, vùng nghiên cứu có 13 loại đất nằm trong 7 nhóm đất

Đất phù sa được bồi hàng năm (Pb) có màu nâu tươi và phẫu diện đồng nhất, với thành phần cơ giới nhẹ Trong mùa mưa lũ, đất thường bị ngập nước và có sự biến động Đặc biệt, độ phì tự nhiên của loại đất này rất cao, với hàm lượng chất dinh dưỡng trong phù sa bồi của sông Hồng và sông Đà vượt trội hơn so với sông Lô và sông Chảy, nhờ vào nguồn gốc đá mẹ và sự hiện diện của mỏ Apatít Lào Cai.

Đất phù sa không được bồi hàng năm có màu nâu nhạt và đã trải qua sự phân hoá trong hình thái phẫu diện Thành phần cơ giới của loại đất này thay đổi từ thịt nhẹ đến thịt nặng, đồng thời có phản ứng từ ít chua đến trung tính.

Đất phù sa ngòi suối (Py) được hình thành từ phù sa của các suối nhỏ, tạo nên những dải đất hẹp dọc theo các suối lớn Tính chất lý hóa của đất Py phụ thuộc vào loại đá mẹ và mẫu chất mà các suối chảy qua.

Đất phù sa úng nước (Pj) là loại đất hình thành ở vùng địa hình thấp, trũng, nơi khó tiêu nước hoặc có mực nước ngầm nông, dẫn đến tình trạng ngập nước vào mùa mưa Đặc điểm của loại đất này là có phản ứng chua, hàm lượng mùn và đạm tổng số cao, trong khi lân dễ tiêu lại thấp và thành phần cơ giới nặng Hình thái phẫu diện của các tầng dưới thường có màu xám xanh do bị ngập nước thường xuyên Hiện tại, loại đất này chỉ phù hợp cho việc trồng một vụ lúa mỗi năm.

Nhóm II: Đất lầy (J) Đất lầy (J) được hình thành từ phù sa sông, đặc điểm là bị úng nước quanh năm, ở các tầng sâu trên 15 cm đất có màu nâu hơi xanh, xám xanh, đất ẩm, dẻo, dính, thịt nặng, giây mạnh Hiện đa phần đất lầy (J) chỉ được trồng 1 vụ lúa

Nhóm III: Đất xám (X) Đất xám bạc màu trên phù sa cổ (X): đất có phản ứng chua, hàm lượng dinh dưỡng thấp (mùn và đạm tổng số nghèo, lân tổng số, kim tổng số và dễ tiêu rất nghèo), thành phần cơ giới nhẹ Đất được sử dụng trồng cấy, trồng cạn và phát triển trồng cây lâm nghiệp

Nhóm IV: Đất đỏ vàng (đất Feralit)

Đất đỏ vàng trên đá biến chất và đất sét (Fs) có màu đỏ vàng, hình thành từ các loại đá sét với thành phần cơ giới nặng Tại những khu vực rừng, độ phì của đất khá cao, nhưng ở những nơi đất trống và có cây bụi, độ phì đất lại kém do bị rửa trôi Rừng trên đất đỏ vàng đã bị chặt phá nhiều, trong khi ở những khu vực ít dốc, người dân thường trồng ngô và sắn, còn những nơi dốc cao được sử dụng để khoanh nuôi tái sinh rừng.

Đất nâu vàng trên phù sa cổ (Fp) được hình thành trên các đồi thấp thoải với mẫu chất phù sa cổ và có thành phần cơ giới trung bình Hiện nay, phần lớn diện tích đất Fp đã được khai thác để trồng cây ăn quả, cây công nghiệp dài ngày như chè, quế, cùng với các loại cây màu ngắn ngày.

Đất vàng đỏ trên đá Mácma axit (Fa) có màu sắc đặc trưng và phản ứng chua, với thành phần cơ giới nhẹ Tuy nhiên, địa hình dốc dẫn đến tình trạng rửa trôi và xói mòn mạnh, khiến cho các chất dinh dưỡng trong đất trở nên nghèo hoặc trung bình Tầng đất mỏng cũng hạn chế khả năng phát triển nông nghiệp trong khu vực này.

Hiện trạng sử dụng đất đai và tài nguyên rừng tỉnh Phú Thọ

Theo báo cáo của Viện Điều tra quy hoạch rừng thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, kết quả điều tra khảo sát phục vụ rà soát và quy hoạch lại 3 loại rừng đã được thực hiện Dữ liệu này kết hợp với số liệu kiểm kê đất đai của Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Phú Thọ, phản ánh hiện trạng sử dụng đất năm 2006 của tỉnh.

* Hiện trạng sử dụng đất

Hiện trạng sử dụng đất tỉnh Phú Thọ được thể hiện ở bảng 3.1 sau

Bảng 3.1: Hiện trạng sử dụng đất tỉnh Phú Thọ 2006

TT Các loại hình sử dụng đất Diện tích ha %

1 Đất sản xuất nông nghiệp 102.583 29,1

2 Đất lâm nghiệp có rừng 167.118 47,4

3 Đất đồi núi chưa có rừng 31.613 9,0

Tổng diện tích tự nhiên 352.384 100

Nguồn: Viện Điều tra quy hoạch rừng [37]

Phú Thọ sở hữu diện tích đất lâm nghiệp lớn với 167.118ha, chiếm 47,4% tổng diện tích tự nhiên Ngoài ra, còn có 31.613ha đồi núi chưa có rừng, tương đương 9% Điều này tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển lâm nghiệp, đặc biệt là trồng rừng nguyên liệu giấy.

Tính đến năm 2006, tỉnh Phú Thọ có diện tích rừng che phủ đạt 166.717,5ha, chiếm 84,06% tổng diện tích đất lâm nghiệp Tuy nhiên, diện tích đất đồi núi chưa có rừng vẫn còn lớn, lên tới 31.613,40ha, tương đương 15,94% Trong số này, diện tích đất loại IA và IB còn nhiều, cho thấy tiềm năng lớn cho hoạt động trồng rừng trong tương lai.

* Diện tích các loại rừng, đất rừng:

Bảng 3.2: Diện tích đất lâm nghiệp tỉnh Phú Thọ năm 2006

Diện tích các loại rừng và đât rừng Diện tích ha % Đất có rừng 166.717,50 84,06

Rừng hỗn giao 3.585,90 1,81 Rừng thưa trên núi đá 262,00 0,13

Rừng trồng hiện có trữ lượng đạt 61.322,20 ha, trong khi rừng trồng chưa có trữ lượng là 41.226,90 ha Diện tích rừng tre nứa chỉ chiếm 58,00 ha, và rừng đặc sản là 45,80 ha Đất đồi núi chưa có rừng chiếm 31.613,40 ha, còn đất trống trảng cỏ IA là 4.121,80 ha, đất trống cây bụi IB đạt 6.202,60 ha, và đất trống cây gỗ rải rác IC là 20.851,60 ha Cuối cùng, diện tích đất chưa có rừng khác là 437,40 ha.

Nguồn: Viện Điều tra quy hoạch rừng [37]

* Thực trạng sản xuất Lâm nghiệp

Công ty Giấy Bãi Bằng và Công ty Giấy Việt Trì, thuộc Tổng Công ty Giấy Việt Nam - Bộ Công nghiệp, là hai đơn vị chủ chốt trong việc sản xuất giấy và bột giấy, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.

Tỉnh hiện có 09 Lâm trường thuộc Tổng Công ty Giấy Việt Nam, đảm nhận chức năng sản xuất lâm nghiệp và dịch vụ, chủ yếu là trồng rừng và cung cấp nguyên liệu cho hai công ty giấy Bãi Bằng và Việt Trì Ngoài ra, còn có một số doanh nghiệp chế biến gỗ và ván dăm như Xí nghiệp vật tư đường sắt Vĩnh Phú và Xí nghiệp ván nhân tạo Việt Trì, chuyên sản xuất gỗ xẻ, ván nhân tạo và dăm mảnh phục vụ cho ngành sản xuất nguyên liệu và đồ mộc lớn.

Trên địa bàn còn có Công ty Giấy Lửa Việt do tỉnh quản lý, công suất trên 3.000 tấn với sản phẩm sản xuất là giấy các loại

Nhiều doanh nghiệp ngoài Quốc doanh, bao gồm công ty TNHH và doanh nghiệp tư nhân, đang tích cực tham gia vào lĩnh vực sản xuất và kinh doanh lâm nghiệp Sản phẩm chủ yếu của họ bao gồm đồ gỗ, gỗ gia dụng và dăm mảnh Ngoài ra, trên địa bàn tỉnh còn có hàng nghìn hộ gia đình và cá nhân tham gia vào hoạt động này Hàng trăm hộ gia đình đã trồng mới hàng nghìn hecta rừng và khai thác hàng chục nghìn m3 gỗ phục vụ cho xây dựng, sản xuất đồ gia dụng, cũng như cung cấp nguyên liệu cho ngành giấy và các lâm sản ngoài gỗ khác.

Trong những năm qua, các loài cây chủ yếu được trồng rừng bao gồm Bạch đàn Urophylla, Keo, Bồ đề, Mỡ, Trám, Lim xẹt, Muồng đen, Sồi và Ràng ràng Đánh giá ban đầu cho thấy hầu hết các loài cây này phù hợp với điều kiện khí hậu và đất đai - thổ nhưỡng của khu vực.

Hiện nay, diện tích rừng trồng đang phát triển tốt, với sản lượng trung bình đạt từ 60 đến 100 m³/ha Đặc biệt, một số khu vực có thể đạt sản lượng lên tới 120 m³/ha.

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN

Ngày đăng: 12/04/2022, 21:30

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Bảng 3.1: Hiện trạng sử dụng đất tỉnh Phú Thọ 2006  TT  Các loại hình sử dụng đất  Diện tích - (LUẬN văn THẠC sĩ) nghiên cứu xác định tiêu chuẩn chọn đất và phân hạng đất trồng rừng bạch đàn urophylia làm nguyên liệu giấy và ván dăm tại tỉnh phú thọ​
Bảng 3.1 Hiện trạng sử dụng đất tỉnh Phú Thọ 2006 TT Các loại hình sử dụng đất Diện tích (Trang 34)
Bảng 3.2: Diện tích đất lâm nghiệp tỉnh Phú Thọ năm 2006  Diện tích các loại rừng và đât rừng   Diện tích - (LUẬN văn THẠC sĩ) nghiên cứu xác định tiêu chuẩn chọn đất và phân hạng đất trồng rừng bạch đàn urophylia làm nguyên liệu giấy và ván dăm tại tỉnh phú thọ​
Bảng 3.2 Diện tích đất lâm nghiệp tỉnh Phú Thọ năm 2006 Diện tích các loại rừng và đât rừng Diện tích (Trang 35)
Bảng 4.1: Chỉ tiêu thích hợp khí hậu của cây Bạch đàn urophylla - (LUẬN văn THẠC sĩ) nghiên cứu xác định tiêu chuẩn chọn đất và phân hạng đất trồng rừng bạch đàn urophylia làm nguyên liệu giấy và ván dăm tại tỉnh phú thọ​
Bảng 4.1 Chỉ tiêu thích hợp khí hậu của cây Bạch đàn urophylla (Trang 37)
Bảng 4.2: Chỉ tiêu thích hợp đất đai của cây Bạch đàn urophylla          Mức độ thích hợp - (LUẬN văn THẠC sĩ) nghiên cứu xác định tiêu chuẩn chọn đất và phân hạng đất trồng rừng bạch đàn urophylia làm nguyên liệu giấy và ván dăm tại tỉnh phú thọ​
Bảng 4.2 Chỉ tiêu thích hợp đất đai của cây Bạch đàn urophylla Mức độ thích hợp (Trang 38)
Bảng 4.4: Mối quan hệ giữa năng suất rừng trồng Bạch đàn urophylla và  lập địa tỉnh Phú Thọ - (LUẬN văn THẠC sĩ) nghiên cứu xác định tiêu chuẩn chọn đất và phân hạng đất trồng rừng bạch đàn urophylia làm nguyên liệu giấy và ván dăm tại tỉnh phú thọ​
Bảng 4.4 Mối quan hệ giữa năng suất rừng trồng Bạch đàn urophylla và lập địa tỉnh Phú Thọ (Trang 45)
Bảng 4.6: Đặc điểm hoá tính đất dưới rừng trồng Bạch đàn urophylla   tại Phú Thọ. - (LUẬN văn THẠC sĩ) nghiên cứu xác định tiêu chuẩn chọn đất và phân hạng đất trồng rừng bạch đàn urophylia làm nguyên liệu giấy và ván dăm tại tỉnh phú thọ​
Bảng 4.6 Đặc điểm hoá tính đất dưới rừng trồng Bạch đàn urophylla tại Phú Thọ (Trang 49)
Đồ thị 4.1: Đồ thị mối quan hệ giữa sinh trưởng của Bạch đàn urophylla  với độ dày tầng đất - (LUẬN văn THẠC sĩ) nghiên cứu xác định tiêu chuẩn chọn đất và phân hạng đất trồng rừng bạch đàn urophylia làm nguyên liệu giấy và ván dăm tại tỉnh phú thọ​
th ị 4.1: Đồ thị mối quan hệ giữa sinh trưởng của Bạch đàn urophylla với độ dày tầng đất (Trang 51)
Đồ thị 4.2: Đồ thị mối quan hệ giữa sinh trưởng của Bạch đàn urophylla  với dung trọng của đất - (LUẬN văn THẠC sĩ) nghiên cứu xác định tiêu chuẩn chọn đất và phân hạng đất trồng rừng bạch đàn urophylia làm nguyên liệu giấy và ván dăm tại tỉnh phú thọ​
th ị 4.2: Đồ thị mối quan hệ giữa sinh trưởng của Bạch đàn urophylla với dung trọng của đất (Trang 52)
Đồ thị 4.3: Đồ thị mối quan hệ giữa sinh trưởng của Bạch đàn urophylla  với hàm lƣợng sét vật lý của đất - (LUẬN văn THẠC sĩ) nghiên cứu xác định tiêu chuẩn chọn đất và phân hạng đất trồng rừng bạch đàn urophylia làm nguyên liệu giấy và ván dăm tại tỉnh phú thọ​
th ị 4.3: Đồ thị mối quan hệ giữa sinh trưởng của Bạch đàn urophylla với hàm lƣợng sét vật lý của đất (Trang 53)
Đồ thị 4.4: Đồ thị mối quan hệ giữa sinh trưởng của Bạch đàn urophylla  với pH KCl  của đất - (LUẬN văn THẠC sĩ) nghiên cứu xác định tiêu chuẩn chọn đất và phân hạng đất trồng rừng bạch đàn urophylia làm nguyên liệu giấy và ván dăm tại tỉnh phú thọ​
th ị 4.4: Đồ thị mối quan hệ giữa sinh trưởng của Bạch đàn urophylla với pH KCl của đất (Trang 54)
Đồ thị 4.5: Đồ thị mối quan hệ giữa sinh trưởng của Bạch đàn với hàm  lƣợng mùn trong đất - (LUẬN văn THẠC sĩ) nghiên cứu xác định tiêu chuẩn chọn đất và phân hạng đất trồng rừng bạch đàn urophylia làm nguyên liệu giấy và ván dăm tại tỉnh phú thọ​
th ị 4.5: Đồ thị mối quan hệ giữa sinh trưởng của Bạch đàn với hàm lƣợng mùn trong đất (Trang 55)
Đồ thị 4.6: Đồ thị mối quan hệ giữa sinh trưởng của Bạch đàn với hàm  lƣợng Nts - (LUẬN văn THẠC sĩ) nghiên cứu xác định tiêu chuẩn chọn đất và phân hạng đất trồng rừng bạch đàn urophylia làm nguyên liệu giấy và ván dăm tại tỉnh phú thọ​
th ị 4.6: Đồ thị mối quan hệ giữa sinh trưởng của Bạch đàn với hàm lƣợng Nts (Trang 56)
Bảng 4.8. Kết quả thử nghiệm phân hạng đất tại Đoan Hùng- Phú Thọ  TT  Hạng đất  Diện tích - (LUẬN văn THẠC sĩ) nghiên cứu xác định tiêu chuẩn chọn đất và phân hạng đất trồng rừng bạch đàn urophylia làm nguyên liệu giấy và ván dăm tại tỉnh phú thọ​
Bảng 4.8. Kết quả thử nghiệm phân hạng đất tại Đoan Hùng- Phú Thọ TT Hạng đất Diện tích (Trang 60)
Bảng 4.10: Doanh thu rừng trồng bạch đàn urophylla tại các điểm nghiên  cứu tỉnh Phú Thọ - (LUẬN văn THẠC sĩ) nghiên cứu xác định tiêu chuẩn chọn đất và phân hạng đất trồng rừng bạch đàn urophylia làm nguyên liệu giấy và ván dăm tại tỉnh phú thọ​
Bảng 4.10 Doanh thu rừng trồng bạch đàn urophylla tại các điểm nghiên cứu tỉnh Phú Thọ (Trang 62)
Bảng 4.11 sau đây thể hiện các chỉ tiêu về mức lợi nhuận ròng hiện tại,  lợi nhuận ròng trung bình năm, tỷ suất thu hồi vốn của rừng trồng Bạch đàn  tại các điểm nghiên cứu: - (LUẬN văn THẠC sĩ) nghiên cứu xác định tiêu chuẩn chọn đất và phân hạng đất trồng rừng bạch đàn urophylia làm nguyên liệu giấy và ván dăm tại tỉnh phú thọ​
Bảng 4.11 sau đây thể hiện các chỉ tiêu về mức lợi nhuận ròng hiện tại, lợi nhuận ròng trung bình năm, tỷ suất thu hồi vốn của rừng trồng Bạch đàn tại các điểm nghiên cứu: (Trang 63)

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN