TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu về bướm đêm tại nước ngoài
Các loài bướm đêm (Heterocera), hay còn gọi là Ngài đêm, chiếm khoảng 90% tổng số loài trong bộ Cánh vảy (Lepidoptera), với khoảng 112.000 loài được ghi nhận trên toàn thế giới Trong đó, bướm ngày chỉ chiếm khoảng 10%, còn lại là bướm đêm Đặc điểm hình thái của bướm đêm rất đa dạng và khó mô tả, phần lớn chúng hoạt động vào ban đêm với màu sắc cơ thể thường tối, trong khi một số ít loài lại hoạt động vào ban ngày.
Côn trùng hoạt động ban đêm là những loài chủ yếu hoạt động vào ban đêm, tham gia vào các hoạt động chính của chúng Nhóm này bao gồm nhiều loài thuộc các bộ và họ khác nhau, chẳng hạn như bộ Cánh cứng (Coleoptera) và bộ Cánh vẩy (Lepidoptera).
Giai đoạn những năm đầu thế kỷ 20, công trình nghiên cứu về Bộ Cánh vảy (Lepidoptera) có công trình nghiên cứu của J.de Joannis mang tên
“Lepidopteres du Tonkin” xuất bản ở Paris năm 1930 Tác giả đã thống kê được 1798 loài thuộc 746 giống và 45 họ trong đó phần đa là bướm đêm
Năm 1920 – 1940, các nhà thu thập mẫu côn trùng nghiệp dư đã xuất bản một số tài liệu về phân loài bướm gồm 53 tập ở Niderlan
Vào năm 1955, Viện Khoa học Liên Xô (cũ) đã phát hành một cuốn sách tra cứu về sâu hại rừng Đến năm 1962, Nhà xuất bản báo tạp chí và tài liệu Nông nghiệp Matxcova cho ra mắt cuốn phân loại trứng, sâu non và nhộng của sâu hại rừng do A.I Hinski biên soạn Năm 1965, Trung Quốc cũng đã xuất bản cuốn phân loại côn trùng của Charles-Brues A.L Melander từ Đại học Tổng hợp Harvard.
Một số tài liệu đã phân loại và phân biệt các loài côn trùng thuộc bộ Cánh vảy, tuy nhiên chỉ đề cập đến các họ cơ bản, trong khi một số loài vẫn chưa được xác định rõ ràng phù hợp với điều kiện tại Việt Nam.
Ngoài ra còn rất nhiều tài liệu đề cập đến nhận biết các loài côn trùng như:
- Mô tả một số loài Ngài và Bướm của Manfred koch (7/1953);
- Mô tả các loài côn trùng thường gặp của giáo sư Wolfgang Dierl (Đức,1959);
Giáo sư Gottricd Amannr đã mô tả nhiều loài côn trùng phổ biến, trong khi cuốn sách "Hướng dẫn về lĩnh vực côn trùng Bắc Mỹ thuộc Mexico" của Donaldi Borror và Richard E White (1970-1978) cũng cung cấp thông tin về phân loại và nhận biết các họ trong bộ cánh vẩy (Lepidoptera) Côn trùng có sự phong phú đáng kể trên toàn cầu, với sự phân bố rộng rãi từ các giới hạn thực vật hiểm họa ở Spitzberg đến độ cao lên tới 5000m ở Himalaya Số lượng loài côn trùng giảm dần ở các vùng lạnh và tăng lên rõ rệt ở các khu vực nóng ẩm.
Hiệp hội Bảo vệ động vật hoang dã Trung Quốc (2005) đã công bố "Quần thể các loài côn trùng quý hiếm Trung Quốc," trong đó xác định được 24 loài Bướm đêm thuộc 5 họ khác nhau.
Cuốn sách "Côn trùng rừng" của Lý Thành Đức, xuất bản năm 1992, cung cấp mô tả chi tiết về hình thái của các họ côn trùng, với tổng cộng 1368 loài Đặc biệt, trong số này, nhóm bướm đêm (Heterocera) có 46 họ và 386 loài.
Phòng Nghiên cứu động vật, Viện Khoa học Trung Quốc đã công bố một tập tranh về côn trùng thiên địch vào tháng 12 năm 2004, bao gồm 600 ảnh mô tả hình thái và đặc điểm của các loài côn trùng Tập tranh này đặc biệt chú trọng vào bướm đêm, với việc mô tả các đặc điểm chung của 16 họ và 50 loài khác nhau.
Cuốn sách tiếng anh mang tên “Butterfilies and moths” của David
Carter đã xuất bản vào năm 1992 và tái bản năm 2002, cung cấp một cái nhìn chi tiết về đặc điểm hình thái và sinh thái của bộ Cánh vẩy (Lepidoptera) Trong đó, bướm đêm (Moths) được nghiên cứu với 22 họ và hơn 200 loài được mô tả.
Tại Trung Quốc, Đinh Kiến Vân và cộng sự đã thống kê được 173 loài côn trùng có tính xu quang Trong số đó, bộ Cánh vẩy chiếm 110 loài, bộ Cánh cứng có 45 loài, bộ Cánh không đều có 9 loài, bộ Cánh đều có 6 loài, và các bộ Cánh thẳng, Cánh lưới, Chuồn chuồn, cùng bộ Gián mỗi bộ có 1 loài.
Nghiên cứu bướm đêm tại Việt Nam
Tại Việt Nam, nghiên cứu về các loài bướm có tính xu quang còn hạn chế, với hầu như không có công trình nào nghiên cứu hệ thống và cụ thể Các nghiên cứu về bướm đêm chủ yếu được thực hiện cùng với các loài côn trùng khác cho nhiều mục đích khác nhau Việt Nam sở hữu nhiều khu rừng tự nhiên với sự phong phú về chủng loài Lepidoptera, thu hút sự quan tâm của các nhà khoa học trong và ngoài nước Đặc biệt, đoàn nghiên cứu “Mission pavie” đã khảo sát Đông Dương trong 16 năm (1879-1895), xác định được 8 bộ, 85 họ và 1040 loài Năm 1921, Vitalis de Salvara công bố cuốn sách về “Khu hệ côn trùng Đông Dương” với 3612 loài, trong khi Jde Joannis xuất bản công trình về bộ Cánh vảy tại Paris năm 1930, thống kê 1789 loài thuộc 746 giống của 45 họ.
Hiện tại, chưa có tài liệu chi tiết cụ thể về phân loại côn trùng, đặc biệt là bướm đêm Thông tin chủ yếu chỉ được trình bày trong các giáo trình chung như “Côn trùng Lâm Nghiệp” (1989) của Trần Quốc Loanh và “Côn trùng rừng” (1997) của Trần.
Công Loanh và Nguyễn Thế Nhã với 11 họ ngài đêm và một số loài hại nông nghiệp chính
Việc đặt tên khoa học cho các mẫu vật côn trùng chủ yếu dựa vào tài liệu từ nước ngoài và sự hỗ trợ từ các chuyên gia Những tài liệu này đã cung cấp thông tin quý giá, giúp tôi tham khảo và lựa chọn để thực hiện đề tài này một cách hiệu quả.
Nghiên cứu tại khu Bảo tồn Xuân Nha
Nghiên cứu về côn trùng, đặc biệt là bộ Cánh vảy (Lepidoptera), tại khu Bảo tồn Xuân Nha còn hạn chế Đến nay, chỉ có khóa luận tốt nghiệp của Nguyễn Thị Lam Hồng vào năm 2010 đề cập đến các loài Bướm ngày trong bộ Cánh vảy.
(Rhopalocera) đã liệt kê được 63 loài trong nhóm này với 7 họ
Cho đến nay chưa có nghiên cứu về bướm đêm tại KBTTN Xuân Nha.
MỤC TIÊU, PHẠM VI NGHIÊN CỨU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Mục tiêu nghiên cứu
Đánh giá được sự đa dạng phong phú và đưa ra được biện pháp quản lý loài bướm đêm tại KBTTN Xuân nha, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La.
Phạm vi nghiên cứu
Đối tượng: Các loài bướm đêm thu bắt được bằng bẫy ánh sáng; Địa điểm: KBTTN Xuân nha, Vân hồ, Mộc châu;
Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 4/2014 đến tháng 8/2014.
Nội dung điều tra nghiên cứu
1 Xác định được thành phần loài bướm đêm tại khu vực nghiên cứu;
2 Đánh giá tính đa dạng theo họ bướm đêm;
+ Theo sinh cảnh + Theo thời gian (tháng nghiên cứu, Khoảng thời gian)
3 Ảnh hưởng của ánh sáng đến hoạt động của bướm đêm;
+ Số loài theo họ bướm đêm xuất hiện theo loại đèn + Mức độ xu quang các loài theo họ vào đèn
4 Mô tả hình thái, phân loại, nhận xét đặc tính sinh học để của một số loài chủ yếu;
5 Đề xuất biện pháp quản lý bướm đêm.
Phương pháp nghiên cứu
2.4.1 Phương pháp thu thập, đánh giá thông tin, kế thừa tài liệu
Kế thừa tài liệu về quá trình hình thành và xây dựng Khu Bảo tồn Thiên nhiên Xuân Nha, chúng tôi đã tiến hành điều tra khu hệ động thực vật và thu thập bản đồ hiện trạng cùng địa hình của khu bảo tồn.
2.4.2 Phương pháp điều tra thực địa
2.4.2.1 Thiết lập các tuyến khảo sát và các điểm điều tra
Để điều tra khu hệ bướm đêm trong khu vực, việc xác định sinh cảnh là rất quan trọng Do điều kiện khảo sát diễn ra vào ban đêm, cần có nguồn điện để sử dụng đèn Vì vậy, nghiên cứu được thực hiện tại những địa điểm có sẵn nguồn điện, như nhà dân hoặc trung tâm vườn trạm kiểm lâm, gần nhất với các sinh cảnh cần khảo sát Điều này giúp so sánh thành phần loài xuất hiện tại ba địa điểm sinh cảnh cụ thể.
Khu dân cư 01 nằm liền kề với khu vực canh tác nông nghiệp, nơi có các cánh đồng trồng lúa và ngô Các ngôi nhà trong khu vực này được xây dựng sát với đồng ruộng, tạo điều kiện thuận lợi cho việc kéo dây điện phục vụ cho hoạt động sản xuất nông nghiệp.
Sinh cảnh 02 thường được tìm thấy ở khu dân cư tiếp giáp với khu vực rừng tự nhiên Đặc điểm nổi bật của sinh cảnh này là nhà ở gần hoặc tiếp giáp với rừng tự nhiên, nơi chủ yếu có cây bụi và cây gỗ lớn cùng với cây tái sinh Đèn đặt tại bìa rừng là một lựa chọn phù hợp cho sinh cảnh này.
Sinh cảnh 03: Trung tâm khu dân cư (Đặt đèn tại nhà dân cư nơi chủ yếu là trồng rau và các cây ăn quả)
2, Thiết lập các tuyến khảo sát và điểm điều tra
Qua quá trình khảo sát, tôi đã xác định được các sinh cảnh chủ yếu trong khu vực điều tra và thành phần loài bướm đêm Để so sánh các loài bướm đêm tại nhiều sinh cảnh khác nhau, tôi đã lập 4 tuyến điều tra đại diện cho 3 sinh cảnh: 1 tuyến tại xã Chiềng Sơn (Huyện Mộc Châu), 1 tuyến tại xã Chiềng Xuân (Huyện Vân Hồ), và 2 tuyến tại xã Xuân Nha (Huyện Vân Hồ) Thông tin chi tiết về từng tuyến điều tra sẽ được trình bày cụ thể.
Tuyến 1 bắt đầu từ UBND xã Chiềng Sơn, kéo dài 2 km đến bản Khò Hồng và tiếp theo là bản Pha Luông Khu vực này chủ yếu bao gồm trảng cỏ cây bụi, cùng với các khu dân cư và diện tích canh tác nông nghiệp Hai điểm điều tra đã được bố trí tại đây.
Tuyến 2 bắt đầu từ bản Khò Hồng và kết thúc tại bản Chiềng Hin, có chiều dài 6 km, đi qua nhiều sinh cảnh đa dạng, chủ yếu là rừng lá rộng Trong hành trình này, chúng tôi đã bố trí 5 điểm điều tra để thu thập thông tin chi tiết về hệ sinh thái.
Tuyến 3 tại xã Xuân Nha có chiều dài 4 km, bắt đầu từ bản Thín và kết thúc tại Tây Tà Lào, đi qua hầu hết các sinh cảnh Để thu thập dữ liệu, 4 điểm điều tra đã được bố trí dọc tuyến đường này.
Tuyến 4 tại xã Xuân Nha kéo dài 6,5 km từ Bản Ngà đến Bản Cọc Mốc, chủ yếu là rừng tre nứa Trong khu vực này, đã được bố trí 5 điểm điều tra để nghiên cứu sinh cảnh.
Tổng 4 tuyến điều tra lập được 16 điểm điều tra để đặt đèn
Sau khi xác định các điểm điều tra trên tuyến, tôi đã ghi lại những đặc điểm cụ thể của từng điểm để thu thập dữ liệu phục vụ cho công tác so sánh đa dạng bướm đêm.
- Địa hình (Độ cao, hướng phơi, độ dốc)
Để thu thập mẫu vật vào ban đêm, tôi sử dụng bẫy đèn dựa trên đặc tính thu hút ánh sáng của loài Các loại đèn được bố trí tại điểm điều tra nhằm thu hút và bắt mẫu vật hiệu quả.
+ Đèn tử ngoại: Do Italy sản xuất trọng lượng 8,6 kg công xuất tiêu thụ 65w, dùng điện 220v tần số 50Hz, gồm 2 bóng phát ánh sáng tím;
+ Đèn neon: Phát ánh sáng đỏ công xuất tiêu thụ là 60w, sử dụng điện 220v tần số 50Hz;
+ Đèn compact: Phát ánh sáng trắng công xuất tiêu thụ 60w, sử dụng điện 220v với tần số 50Hz;
Các đèn được lắp đặt ở độ cao 1,5m so với mặt đất, với khoảng cách giữa các đèn là 50m nhằm giảm thiểu sự ảnh hưởng lẫn nhau giữa chúng, đồng thời đảm bảo tính đồng nhất của sinh cảnh và thời gian khảo sát.
2, Cách thu bắt mẫu vật
Mức độ thu hút của các loài bướm đêm đối với ánh sáng khác nhau, do đó, để thu thập mẫu vật, hai phương pháp đã được áp dụng.
+ Sử dụng màn trắng căng sau đèn để thu bắt;
+ Với một số loài khác không đậu thì sử dụng vợt để bắt
3, Xử lý và bảo quản mẫu vật
Sau khi bắt được mẫu vật, các cá thể nhỏ sẽ bị giết bằng cách bóp vào phần ngực, trong khi các cá thể lớn hơn sẽ bị tiêm thuốc độc cho đến chết và sau đó được cho vào bao gói bằng giấy Mẫu vật sau đó được xử lý khi còn tươi bằng cách dùng kim cố định lên miếng gỗ mềm hoặc xốp, rồi phơi khô trước khi cho vào hộp đựng mẫu, trong hộp có băng phiến để tránh mối mọt và kiến.
Hầu hết các loài bướm đêm có cơ thể lớn và nhiều mỡ, dễ gây hư hỏng, trong khi một số loài khác có kích thước quá nhỏ để xử lý mẫu Do đó, việc sử dụng máy ảnh để chụp và ghi lại mã số ảnh trong ngày điều tra là cần thiết.
4 Điều tra thành phần loài và mức độ xu quang
ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ XÃ HỘI
Điều kiện tự nhiên
KBTTN Xuân Nha nằm trong địa bàn huyện Mộc Châu và huyện Vân
Hồ bao gồm các xã Chiềng Sơn, Xuân Nha, Tân Xuân, Chiềng Xuân và Lóng Sập, với tọa độ địa lý từ 20°34’ đến 20°54’ Vĩ độ Bắc và 104°28’ đến 104°50’ Kinh độ Đông Khu rừng đặc dụng này nằm tiếp giáp giữa 3 tỉnh Sơn.
La, Hòa Bình và Thanh Hóa thuộc địa phận huyện Mộc Châu, cách thành phố Sơn La 120 km
+ Phía Bắc giáp xã Mường Sang, Vân Hồ, Lóng Luông, huyện Mộc Châu; + Phía Tây giáp nước CHDCND Lào;
+ Phía Nam giáp tỉnh Thanh Hoá;
+ Phía Đông giáp KBT Hang Kia Pà Cò, tỉnh Hoà Bình
Khu Bảo tồn Thiên nhiên Xuân Nha nằm ở địa thế hiểm trở với độ dốc cao và địa hình chia cắt mạnh, trong đó đỉnh Pha Luông cao 1969m là điểm cao nhất Đặc điểm địa hình này đã tạo nên sự đa dạng phong phú về động và thực vật, khiến khu vực trở thành đại diện tiêu biểu cho hệ động thực vật hoang dã tại Tây Bắc Việt Nam.
Nhiệt độ tại khu vực này chia thành hai mùa rõ rệt: mùa nóng từ tháng 5 đến tháng 9 với nhiệt độ trung bình từ 20 đến 25 độ C và độ ẩm không khí đạt 80-85% Ngược lại, từ tháng 10 đến tháng 4 năm sau, nhiệt độ thường thấp hơn 20 độ C, đặc biệt vào mùa đông, nhiệt độ có thể giảm xuống dưới 13 độ C, thậm chí có những thời điểm xuống tới 3-5 độ C.
Lượng mưa trung bình hàng năm dao động từ 1.700 đến 2.000mm, với mưa lớn thường xảy ra trong mùa nóng Mùa mưa có thể dẫn đến tình trạng ngập úng cục bộ trong thời gian ngắn tại các thung lũng, khe suối hoặc khu vực xung quanh các lỗ hút nước ngầm.
Hướng gió chủ yếu tại KBT là Đông Bắc và Đông Nam Trong khoảng thời gian từ tháng 4 đến tháng 8 hàng năm, đôi khi xuất hiện gió Tây Nam khô nóng, kéo dài từ 2 đến 4 ngày, với tốc độ gió dao động từ 10 đến 15 m/s.
- Sương mù: Tháng 1 và 2, mùa lạnh thường có sương mù
Khu vực có 3 hệ thống suối lớn là: Suối Quanh, Suối Con chảy ra Sông
Mã và Suối Sập chảy về Yên Châu, sau đó đổ ra Sông Đà Khu vực này còn có nhiều suối ngầm, suối cụt, các mó nước và hang nước, tạo thành một hệ thống suối phong phú với nguồn nước dồi dào quanh năm.
Trong KBTTN Xuân Nha có 6 loại đất chính:
- Đất Feralit màu vàng sẫm phát triển trên đá sét hoặc biến chất, tầng đất dày, thành phần cơ giới trung bình (Phân bố ở độ cao 700 - 1.700m);
Đất Feralit màu vàng nâu hình thành trên nền đá vôi hoặc đá vôi biến chất, thường có lớp đất mỏng với thành phần cơ giới từ nhẹ đến trung bình Loại đất này thường phân bố ở độ cao từ 700 đến 1.700 mét.
- Đất Feralit màu vàng nhạt phát triển trên đá sét hoặc biến chất, tầng đất dày, thành phần cơ giới trung bình (Phân bố ở độ cao 700 – 1.700m);
Đất Feralit có màu vàng nhạt hoặc vàng xám, thường phát triển trên các loại đá như phiến thạch sét, phấn sa, đá cát và sa thạch Loại đất này thường xuất hiện ở các vùng đồi núi thấp, với độ cao từ 300 đến 1.000m, có tầng đất dày và thành phần cơ giới trung bình hoặc nhẹ.
- Đất Feralit màu vàng xám biến đổi do trồng lúa, có thành phần cơ giới trung bình, phân bố quanh làng bản;
- Đất dốc tụ phân bố ven chân núi, ven sông, suối.
Kinh tế - Xã hội
Theo kết quả điều tra tháng 5 năm 2013, dân số của 62 thôn của 5 xã vùng đệm có 5.309 hộ với 23.405 người và có 12.620 lao động Trên địa bàn
Việt Nam là nơi sinh sống của 6 dân tộc đa dạng, bao gồm Thái, Mường, Mông, Kinh, Tày và Khơ mú Trong số này, dân tộc Thái chiếm tỷ lệ lớn nhất với 34%, trong khi dân tộc Mông chiếm 15% Tỷ lệ tăng dân số bình quân hàng năm đạt 1,05%.
Khu vực có sự hiện diện của 6 dân tộc: Kinh, Thái, Mường, Mông, Tày và Khơ mú, với 9 thôn, 795 hộ và 4.0794 khẩu, chiếm 17,4% tổng dân số vùng Mật độ dân số trung bình là 43 người/km², trong đó xã Chiềng Sơn có mật độ cao nhất là 98 người/km², còn xã Tân Xuân thấp nhất với 26 người/km² Dân cư phân bố không đều, dân tộc Mông sống trên các triền núi cao, trong khi Kinh, Mường và Thái sống ở vùng thấp, ven đường, thuận lợi cho việc canh tác lúa nước Phân bố dân cư tại KBTN Xuân Nha phản ánh sự đa dạng và đặc trưng của từng dân tộc.
Bảng 3.1 Dân số, lao động, nhân khẩu KBTTN Xuân Nha
TT Tên xã Số Bản,
T.Khu Số hộ Nhân khẩu Lao động
(Nguồn: Số liệu điều tra ngoại nghiệp tháng 05/2013)
Các xã nằm trong khu vực biên giới và vùng sâu, vùng xa đang đối mặt với nhiều khó khăn về kinh tế - xã hội, với tỷ lệ hộ nghèo trên 40% Khu vực này có sự hiện diện của năm dân tộc chính: Mông, Mường, Dao, Thái, và Kinh, trong đó dân tộc Thái chiếm ưu thế Dân cư phân bố không đồng đều; người Mông và Dao sống ở vùng núi cao, trong khi người Mường, Thái và Kinh cư trú ở vùng thấp, gần các tuyến đường và nguồn nước thuận lợi cho canh tác Người dân chủ yếu phụ thuộc vào nông lâm nghiệp, nhưng việc canh tác gặp nhiều khó khăn do độ dốc lớn và tình trạng đất bị rửa trôi Tuy nhiên, nhờ chính sách hỗ trợ từ Nhà nước, các giống lúa và ngô năng suất cao đã được đưa vào sản xuất, giúp cải thiện năng suất nông nghiệp qua từng năm.
Bảng 3.2 Diện tích, năng suất các loại cây trồng chính
Cây trồng Lúa nước Ngô Sắn
Tổng sản lượng lương thực quy thóc đạt 12.820,4 tấn, bình quân lương thực đầu người là 550 kg/năm
Tổng đàn gia súc và gia cầm của khu vực đạt 132.439 con, với bình quân mỗi hộ nuôi từ 1 đến 3 con trâu, 1 con bò, 2 - 3 con lợn và 20 - 30 con gia cầm Chăn nuôi không chỉ cung cấp sức kéo và thực phẩm cho gia đình mà còn là nguồn thu nhập quan trọng sau trồng trọt cho hầu hết các hộ dân trong khu vực Nhiều hộ đã có thu nhập khá từ hoạt động chăn nuôi này.
Nhân dân tham gia sản xuất lâm nghiệp chủ yếu thông qua khoanh nuôi, bảo vệ rừng và thu hái lâm sản ngoài gỗ dưới tán rừng Tuy nhiên, tình trạng khai thác không bền vững, đặc biệt trong vùng lõi rừng đặc dụng, đang gây cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên.
Mặc dù Ban quản lý rừng đặc dụng đã nỗ lực, nhưng với lực lượng mỏng và lợi ích kinh tế cao từ việc khai thác rừng, các hiện tượng như đốt nương, săn bắn, đặt bẫy và khai thác trái phép vẫn tiếp diễn Do đó, cần thiết phải có các giải pháp tổng hợp và hiệu quả nhằm giảm thiểu tác động một cách bền vững và lâu dài.
3.2.4 Cơ sở hạ tầng, giao thông
Hiện nay, KBTTN Xuân Nha có tuyến đường 43b kết nối Mộc Châu với Lóng Sập và Lào Đường từ quốc lộ 6 dẫn vào UBND xã Xuân Nha và đường từ UBND xã Chiềng Sơn nối với các bản Co Phương đến trạm kiểm lâm Chiềng Xuân đang được thi công Hiện tại, cầu bắc qua Suối Quanh từ trạm Kiểm lâm Chiềng Xuân cũng đang được xây dựng để kết nối với đường bản Khò Hồng và các bản giáp biên giới Việt.
Lào Trong KBTTN Xuân Nha có nhiều đường mòn đi tắt giao lưu với các khu vực lân cận là chính
Hiện nay, hệ thống đường liên thôn và bản trong khu vực đã được mở rộng, nhưng vẫn chưa được bê tông hóa, dẫn đến việc di chuyển gặp khó khăn, đặc biệt trong mùa mưa.
Hệ thống thủy lợi trong vùng đã xây dựng 16 phai và đập nhỏ để chứa nước, cùng với 8,2 km mương tưới tiêu phục vụ sản xuất Tuy nhiên, nguồn nước phục vụ sản xuất nông nghiệp vẫn chưa đảm bảo, chủ yếu vẫn phụ thuộc vào thiên nhiên.
Văn hóa – xã hội, y tế, giáo dục
Khu vực rừng đặc dụng Xuân Nha thuộc huyện Mộc Châu, nơi có đời sống văn hóa xã hội của người dân còn hạn chế Nhờ sự quan tâm của chính quyền và đóng góp của cộng đồng, nguồn kinh phí đã được huy động để trang bị thiết bị phục vụ các hoạt động văn hóa xã hội Hàng năm, nhiều địa phương tổ chức các hoạt động thể thao và văn nghệ quần chúng, đạt được nhiều kết quả tích cực.
Tất cả các xã đều có trạm y tế và cán bộ y tế tại các thôn bản, nhưng trang thiết bị của các cơ sở y tế vẫn còn thiếu thốn và nghèo nàn.
Trong những năm qua, công tác khám chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe cho người dân đã được chú trọng, đặc biệt là công tác phòng chống dịch bệnh Việc kiểm tra, giám sát và khống chế dịch bệnh, cũng như tiêm chủng mở rộng cho trẻ em đạt tỷ lệ 100% Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng ngày càng giảm, trong khi trẻ em dưới 6 tuổi đều được khám chữa bệnh theo nghị quyết 139 của Thủ tướng Chính phủ Hàng năm, công tác tuyên truyền phòng chống dịch chân tay miệng cho trẻ em được thực hiện tại các bản, tiểu khu và trường học, đồng thời tăng cường kiểm tra vệ sinh môi trường và an toàn thực phẩm Ngoài ra, công tác chăm sóc sức khỏe sinh sản và kế hoạch hóa gia đình cũng được đẩy mạnh.
Công tác giáo dục tại các xã trong KBT ngày càng được chú trọng, với chất lượng giáo dục được nâng cao và cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học được cải thiện Đội ngũ giáo viên cũng được bổ sung liên tục, đảm bảo mỗi xã đều có trường tiểu học và trung học cơ sở, với phòng học đạt cấp III và IV Mặc dù vẫn còn thiếu trang thiết bị và đồ dùng học tập, tỷ lệ học sinh đến trường đạt 100%, trong khi tỷ lệ người mù chữ trong khu vực đã giảm xuống chỉ còn 1,18%.
Quốc phòng an ninh
Mặc dù là khu vực biên giới, an ninh quốc phòng luôn được đảm bảo nhờ sự hỗ trợ từ đồn Biên phòng Xuân Nha và cán bộ công an huyện Mộc Châu, những người trực tiếp chỉ đạo và tham mưu cho các cấp chính quyền địa phương.
Điều kiện kinh tế xã hội đã có nhiều chuyển biến tích cực, cải thiện đời sống nhân dân Các chương trình như xây dựng đường giao thông, kéo điện lưới, và hỗ trợ giống cây, giống con cho hộ nghèo đang được triển khai Việc mở mới và nâng cấp các tuyến đường giao thông sẽ là bước khởi đầu cho những đầu tư tiếp theo, thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội địa phương Tuy nhiên, vẫn còn một số khó khăn cần khắc phục.
- Người dân trong khu vực chủ yếu là làm nông nghiệp (lao động nông nghiệp chiếm trên 90%)
Trình độ dân trí thấp và chất lượng lao động kém đang cản trở sự phát triển, trong khi việc áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật còn hạn chế Hầu hết các hộ gia đình vẫn duy trì phương thức canh tác truyền thống, chủ yếu tập trung vào khai thác tài nguyên đất và rừng một cách không bền vững.
Đời sống của các dân tộc trong khu vực gặp nhiều khó khăn, dẫn đến tình trạng người dân phải vào rừng khai thác gỗ Những đặc điểm về dân số, lao động và tập quán canh tác vẫn còn lạc hậu Hiện tại, khu vực có 40 hộ gia đình sống trong đói nghèo và 153 hộ thiếu ăn.
Khu vực này có địa bàn rộng và địa hình phức tạp, với các cụm dân cư phân tán và nhiều thôn bản nằm ở những nơi xa xôi Những điều kiện này tạo ra thách thức lớn cho việc đầu tư xây dựng và phát triển cả hạ tầng kỹ thuật lẫn hạ tầng xã hội trong khu vực.
Trong thời gian tới, cần tập trung nghiên cứu và xây dựng các chương trình đầu tư, cùng với cơ chế chính sách phù hợp, nhằm ưu tiên nguồn vốn cho phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
Tài nguyên rừng
3.5 1 Hiện trạng tài nguyên rừng
Dựa trên bản đồ hiện trạng rừng được xây dựng từ ảnh Spot 5 kết hợp với điều tra thực địa và kết quả rà soát ba loại rừng, khu rừng đặc dụng Xuân Nha đã được xác định có các trạng thái rừng đa dạng.
Bảng 3.3 Hiện trạng rừng đặc dụng Xuân Nha, phân theo xã năm 2013
II Rừng hỗn giao gỗ nứa 483,2 483,2
1 Đất trống trảng cỏ (IA) 786,0 34,8 624,4 61,3 65,5
2 Đất trống cây bụi (IB) 334,0 9,1 243,4 26,2 55,3
3 Đất trống có cây gỗ rải rác (IC) 637,1 232,3 376,9 27,9
(Nguồn: Số liệu TNR năm 2010 và kết quả phúc tra: tháng 05 năm 2013) Đặc điểm các trạng thái rừng như sau:
Rừng giàu trong khu đặc dụng có diện tích 7.821,4ha, chiếm 40,5% tổng diện tích đất có rừng Phần lớn diện tích này tập trung tại các tiểu khu thuộc phân khu bảo vệ nghiêm ngặt (BVNN), với chiều cao cây gỗ đạt 18 mét.
Rừng có đường kính bình quân từ 25 - 30cm và mật độ 210 - 230m³/ha, với cấu trúc ổn định, sở hữu trữ lượng lớn và nhiều nguồn gen đặc hữu quý hiếm Loại rừng này cần được bảo vệ để phát huy vai trò trong việc phòng hộ môi trường, bảo tồn đa dạng sinh học, cũng như phục vụ cho nghiên cứu khoa học và du lịch sinh thái.
Rừng trung bình có diện tích 977,6ha, chiếm 5,1% tổng diện tích đất có rừng và phân bố rải rác trên tất cả các phân khu chức năng của khu đặc dụng Độ tàn che của rừng dao động từ 0,6 đến 0,8, với chiều cao trung bình của cây rừng đạt từ 16 đến 18m Đường kính trung bình của cây rừng nằm trong khoảng 20 đến 25cm, trong khi trữ lượng bình quân của rừng đạt từ 110 đến 130m³/ha.
Rừng nghèo tại khu rừng đặc có diện tích 1.378,9ha, chiếm 7,1% tổng diện tích đất có rừng, chủ yếu phân bố ở khu vực phục hồi sinh thái gần các bản như Khò Hồng và Chiềng Him Sự suy giảm này là hệ quả của việc khai thác quá mức trong thời gian dài, với độ tàn che chỉ đạt từ 0,3 - 0,4, đường kính trung bình của cây rừng từ 20 - 24cm và trữ lượng bình quân dưới 100 m³/ha.
Rừng phục hồi tại khu vực này có diện tích 2.388,5ha, chiếm 12,4% tổng diện tích đất có rừng, chủ yếu tập trung gần các khu canh tác nông nghiệp Đây là thành quả của quá trình tái sinh tự nhiên sau hoạt động canh tác nương rẫy và khai thác kiệt, dẫn đến trữ lượng rừng thấp.
- Rừng hỗn giao: Diện tích 483,2ha, chiếm 2,5% diện tích đất có rừng Rừng hỗn giao phân tập trung chủ yếu tại tiểu khu 1007A Rừng có độ tàn che từ 0,7 - 0,8
Rừng tre nứa có diện tích 2.936,7ha, chiếm 15,2% tổng diện tích đất có rừng, chủ yếu phân bố tại các tiểu khu 1007A, 1017B, 1015A, 1015B, dọc theo tuyến đường đi Thanh Hóa và đường vào bản Sa Lai Loài cây chủ yếu trong rừng là Vầu (Lùng) với đường kính từ 4 – 6cm, cùng với sự hiện diện của nhiều dây leo và bụi rậm, mật độ cây trong rừng đạt dưới 8000 cây/ha.
Rừng trên núi đá có diện tích 1.551,4ha, chiếm 8,0% tổng diện tích rừng trong khu đặc dụng Khu vực này chủ yếu tập trung tại tiểu khu 1006, với các loài cây đặc trưng như Kháo đá, Mạy tèo, Thị rừng, Bời lời và Hồng bì Trữ lượng rừng dao động từ 50 - 70m³/ha.
- Đất chưa có rừng: Diện tích 1.757,1 ha chiếm 9,1% diện tích khu rừng đặc dụng
3.5.2 Đa dạng sinh học và phân bố khu hệ động thực vật rừng quý hiếm, đặc hữu
3.5.2.1 Đa dạng sinh học và phân bố hệ thực vật
Thực vật rừng đặc dụng Xuân Nha đã có 1.074 loài, 606 chi, 173 họ
Theo báo cáo đa dạng sinh học năm 2012 của tiến sĩ Lê Trần Chấn từ Trung Tâm Đa dạng và An toàn sinh học, đã phát hiện một loài cây quý hiếm là Thông 5 lá tại khoảnh 3 tiểu khu 1005 Loài Thông này là đặc hữu, chỉ có ở khu rừng đặc dụng Xuân Nha.
Kết quả nghiên cứu về đa dạng hệ thực vật Xuân Nha được thể hiện sau:
Bảng 3.4 Sự phân bố các taxon các ngành của hệ thực vật Xuân Nha
STT Ngành Số họ Số chi Số loài
(Nguồn số liệu: Kế hoạch QLBVgiai đoạn 2011-2015 KBT Xuân Nha)
Theo kết quả từ bảng 04, ngành Hạt kín (Magnoliophyta) chiếm tỷ lệ cao nhất với 82,23% tổng số họ, 92,24% tổng số chi và 92,08% tổng số loài Ngành Dương xỉ (Polypodiophyta) và ngành Hạt trần (Pinophyta) đứng ở vị trí tiếp theo, trong khi ngành Thông đất (Lycopodiophyta) có tỷ lệ thấp hơn Ngành Thông chỉ bao gồm 1 họ, là ngành có tỷ lệ thấp nhất.
Theo thống kê ban đầu, chỉ có 1 chi và 1 loài được ghi nhận Tuy nhiên, nếu tiến hành điều tra một cách kỹ lưỡng hơn, số lượng các taxon chắc chắn sẽ cao hơn nhiều.
So sánh số lượng loài trong các ngành của hệ thực vật tại Khu Bảo tồn Thiên nhiên Xuân Nha với các khu vực bảo tồn và vườn quốc gia khác ở phía Bắc cho thấy sự đa dạng sinh học phong phú Các dữ liệu chỉ ra rằng hệ thực vật tại Xuân Nha có sự phong phú và đặc trưng riêng, góp phần vào việc bảo tồn và nghiên cứu sinh thái khu vực Việc phân tích này không chỉ giúp hiểu rõ hơn về sự phân bố loài mà còn nhấn mạnh tầm quan trọng của việc bảo vệ các hệ sinh thái tự nhiên.
Bảng 3.5 Thành phần loài thực vật của KBTTN Xuân Nha với một số
Vườn quốc gia và KBTTN khu vực phía Bắc
TT Địa điểm Diện tích (ha)
2 Vườn quốc gia Phong Nha- Kẻ
(Nguồn số liệu VĐTQH rừng tháng 12 năm 2012)
Hệ thực vật tại Khu Bảo tồn Thiên nhiên Xuân Nha sở hữu giá trị đa dạng sinh học cao, với sự phong phú về số lượng họ, chi và loài so với các Vườn Quốc gia và Khu Bảo tồn Thiên nhiên khác ở phía Bắc Trong tổng số 173 họ thực vật đã được khảo sát, có đến 10 họ chứa hơn 10 loài.
Bảng 3.6 Những họ có số loài nhiều nhất của hệ thực vật Xuân Nha
TT Tên khoa học Tên Việt Nam Số lượng loài
(Nguồn số liệu: Kế hoạch QLBVgiai đoạn 2011-2015 KBT Xuân Nha)
Theo danh sách đã khảo sát, Họ Thầu dầu (Euphorbiaceae) là họ thực vật có số loài lớn nhất với 60 loài, chiếm 5,58% tổng số loài được điều tra Ngoài ra, có 9 họ thực vật khác với số loài từ 19 trở lên, tổng cộng 295 loài, chiếm 27,46% tổng số loài của khu bảo tồn thiên nhiên Xuân Nha Tỷ lệ này một lần nữa khẳng định sự đa dạng phong phú của khu hệ thực vật tại Xuân Nha về cả số lượng loài và thành phần họ.
Thành phần thực vật tại KBTTN Xuân Nha có mối liên hệ chặt chẽ với khu hệ thực vật Việt Nam, đặc biệt là khu hệ thực vật bản địa Bắc Việt Nam - Nam Trung Hoa Các họ thực vật tiêu biểu bao gồm Dẻ (Fagaceae), Long Não (Lauraceae), Dâu tằm (Moraceae), Đậu (Fabaceae) và Lan (Orchidaceae) Nơi đây có sự đa dạng với 9 nhóm cây chính như: cây cho gỗ, cây làm thuốc, cây có tinh dầu, cây có dầu béo, cây cho tanin và thuốc nhuộm, cây nguyên liệu và đồ thủ công mỹ nghệ, cây cảnh, cùng với cây cho nhựa mủ.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Thành phần các loài bướm đêm
Qua thời gian nghiên cứu tôi đã thu thập được 90 loài bướm đêm thuộc
The study identified several families of moths, including Sphingidae, Arctiidae, Psychidae, Geometridae, Pyralidae, Tortricidae, Noctuidae, Saturniidae, Notodontidae, Lymantriidae, and Uraniidae The results of the moth species collected using survey lights are presented in Table 4.1, with images of some species available in Appendix 02.
Bảng 4.1 Danh lục các loài bướm đêm tại KBTTN Xuân Nha
STT Tên Việt Nam Tên khoa học P% theo đèn
STT Tên Việt Nam Tên khoa học P% theo đèn
(2) Họ ngài vân hổ Arctiidae
STT Tên Việt Nam Tên khoa học P% theo đèn
(6) Họ Ngài cuốn lá Tortricidae
STT Tên Việt Nam Tên khoa học P% theo đèn
(8) Họ ngài mắt nẻ Saturniidae
(9) Họ ngài thiên xã Notodontidae
Chú thích: Đ1: Đèn Neon Đ2: Đèn Compac Đ3: Đèn tử ngoại
Đa dạng thành phần loài, giống theo họ
Thành phần loài theo họ và giống các loài bướm đêm tại KBTTN Xuân Nha, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La được thể hiện tại bảng 4.2
Bảng 4.2 Thành phần loài theo họ giống STT Tên họ Số loài % Số loài Số giống % Số giống
According to Table 4.2, the Sphingidae family has the highest number of species, totaling 23, which accounts for 25.56% of all species Following this, the Noctuidae family comprises 15 species (16.67%), the Geometridae family has 14 species (15.56%), and the Saturniidae family includes 11 species (12.22%) Additionally, the Arctiidae family has 9 species (10%), while the Pyralidae family contains 6 species (6.67%) The Tortricidae family has 5 species (5.56%), and the Psychidae family consists of 4 species (4.44%) Lastly, the families with the fewest species are Notodontidae, Lymantridae, and Uraniidae, each with only 1 species, representing 1.11% of the total.
The Sphingidae family leads with 17 genera, accounting for 21.52% of the total, followed by Noctuidae with 15 genera (18.99%), Geometridae with 11 genera (13.92%), and Saturniidae with 10 genera (12.66%) The Arctiidae family has 8 genera (10.13%), Pyralidae has 6 (7.59%), and Tortricidae has 5 (6.33%) Psychidae contributes 4 genera (5.06%), while the least represented families—Notodontidae, Lymantridae, and Uraniidae—each have only 1 genus, making up 1.27% of the total For a clearer understanding of these disparities, refer to Figures 4.1 and 4.2.
Hình 4.1 Tỷ lệ % loài bướm đêm theo họ
Hình 4.2 Tỷ lệ % giống bướm đêm theo họ
Mức độ bắt gặp và mức độ xu quang bướm đêm theo đèn
Trong quá trình điều tra, tôi đã thiết lập 16 điểm khảo sát với ba loại đèn khác nhau Do đó, tỷ lệ bắt gặp các loài được tính dựa trên số lượng loài xuất hiện tại từng điểm điều tra tương ứng với loại đèn được sử dụng.
Bảng 4.3 Bắt gặp các loài bướm đêm từng loại đèn tại Xuân Nha P% Đèn Neon Đèn Compac Đèn tử ngoại Độ bắt gặp
Số loài % Số loài % Số loài %
Hình 4.3 Tỷ lệ % độ bắt gặp bướm đêm theo từng loại đèn
Theo số liệu từ biểu 4.3 và hình 4.3, độ bắt của các loài theo đèn khác nhau, với đèn tử ngoại thu hút nhiều loài nhất (84 loài), tiếp theo là đèn compact (80 loài) và đèn Neon (28 loài) Phân tích chi tiết về đèn tử ngoại cho thấy, nhóm loài thường gặp chiếm 36,90% (31 loài), nhóm ngẫu nhiên chiếm 35,71% (30 loài) và nhóm ít gặp chiếm 27,38% (23 loài).
Trong nghiên cứu về đèn compact, nhóm ngẫu nhiên chiếm tỷ lệ cao nhất với 34 loài, tương đương 42,50% tổng số loài Tiếp theo là nhóm thường gặp với 27 loài, chiếm 33,75%, và cuối cùng là nhóm ít gặp với 19 loài, chiếm 23,75%.
Cuối cùng là đèn Neon với nhóm ngẫu nhiên và thường gặp bằng nhau là 12 loài (chiếm 42,86% tổng số loài) cuối cùng là nhóm ít gặp 4 loài (chiếm 14,29%)
4.3.2 Mức độ bắt gặp loài theo đèn
Các loại đèn khác nhau phát ra cường độ sáng và ánh sáng khác nhau, ảnh hưởng đến khả năng thu hút bướm đêm Dựa vào số liệu trong bảng 4.3, chúng ta có thể xác định số lượng loài bướm xuất hiện theo từng loại đèn, và điều này được minh họa rõ ràng qua hình 4.4.
Hình 4.4 Tỷ lệ các loài bướm đêm xu quang theo đèn
Theo hình ảnh, sự chênh lệch về số lượng loài được phát hiện dưới các loại đèn khác nhau rất rõ ràng Đèn tử ngoại ghi nhận nhiều loài nhất với 84 loài, chiếm 93,33% tổng số Tiếp theo là đèn Compac với 80 loài, chiếm 88,89% Cuối cùng, đèn Neon chỉ thu hút 28 loài, chiếm 31,11%.
Mức độ thu hút của đèn tử ngoại và đèn Compac cao hơn so với đèn Neon nhờ cường độ ánh sáng và bước sóng mạnh hơn Một số loài có tính xu mạnh xuất hiện dưới 2 đến 3 loại đèn, trong khi có những loài chỉ xuất hiện ở một loại đèn duy nhất Thông tin chi tiết về các loài này được thể hiện trong biểu 4.4 dưới đây.
Bảng 4.4 Các loài bướm đêm bắt gặp tại một đèn loại đèn
Trong quá trình điều tra, chúng tôi đã ghi nhận 15 loài chỉ xuất hiện tại một loại đèn, thuộc 4 họ khác nhau, trong đó hai họ Ngài trời (Sphinggidae) và Ngài mắt nẻ (Saturniidae) chiếm ưu thế với 7 và 6 loài Số lượng loài ít ỏi này không chỉ phản ánh mức độ hiếm gặp mà còn cho thấy sự phong phú về hình thái, với nhiều loài có kích thước lớn và đẹp mắt, như loài bướm khế (Attacus atlas), thường chỉ bắt được từ 1 đến vài cá thể.
Trong tháng 7, chỉ ghi nhận được 1 cá thể của loài đèn Compac, trong khi loài Actias maenas chỉ có 2 cá thể được bắt, một vào tháng 6 và một vào tháng 7, cũng với loại đèn Compac Đối với họ ngài trời, các loài xuất hiện không đồng đều trong các tháng, với số lượng chỉ từ 1 cá thể trở lên.
5 cá thể vào 1 đèn chứ không vào các đèn khác
Trong quá trình điều tra, nhiều loài côn trùng được bắt gặp tại từ 2 đến 3 loại đèn, đặc biệt là những loài có số lượng lớn và xuất hiện thường xuyên Các loài thuộc họ Sâu đo (Geometridae) và họ Ngài sáng (Pyralidae) là những ví dụ tiêu biểu, với khả năng thu hút mạnh mẽ đến ánh sáng, dẫn đến số lượng cá thể bắt gặp có thể lên tới hàng trăm trong một ngày Để xác định các loài xu quang mạnh nhất, tôi đã lọc dữ liệu từ cả ba loại đèn và kết quả được trình bày trong bảng 4.5.
Bảng 4.5 Các loài bướm đêm bắt gặp tại cả 3 loại đèn
STT Tên Việt Nam Tên khoa học
(2) Họ ngài vân hổ Arctiidae
STT Tên Việt Nam Tên khoa học
(6) Họ Ngài cuốn lá Tortricidae
(8) Họ ngài mắt nẻ Saturniidae
Có 9 họ và 29 loài bắt được tại cả 3 loại đèn trong khu vực nghiên cứu nhiều nhất là họ sâu đo (Geometridae) với 10 loài các loài trong họ này rất nhều và rất thích ánh sáng nên xuất hiện ở tất cả các đèn, tiếp theo họ ngài vân hổ (Arctiidae) với 5, các loài họ ngài sáng (Pyralidae) với 4 loài Hai họ cùng 3 loài là Tortricidae, Noctuidae, với 4 họ cùng 1 loài Sphinggidae, Psychidae, Uraniidae, Saturniidae
4.3.2 Mức độ xu quang theo đèn Để có thể biết được mức độ xu quang và so sánh được khả năng thu hút bướm đêm của các loại đèn khác nhau tôi chia làm 2 nhóm mức độ là:
+ Các loài xu quang mạnh: thường bay thẳng tới đèn song song với tia sáng thường va chạm vào đèn ký
Các loài xu quang yếu thường di chuyển tới nguồn sáng không theo đường thẳng mà theo hình zích zắc hoặc vòng cung, dẫn đến thời gian tiếp cận đèn lâu hơn Thông tin chi tiết được trình bày trong bảng 4.6.
Bảng 4.6 Mức độ xu quang các loài theo đèn
STT Tên họ Đèn Neon Đèn compac Đèn tử ngoại
Mạnh Yếu Mạnh Yếu Mạnh Yếu
Hình 4.5 Tỷ lệ % mức độ xu quang các loại đèn khác nhau
Theo bảng 4.6 và hình 4.5, đèn compact có số loài xu quang mạnh nhất với 55 loài, chiếm 61,11% tổng số loài Tiếp theo là đèn tử ngoại với 49 loài, chiếm 54,44% tổng số loài Cuối cùng, đèn neon có 22 loài, chiếm 24,44% tổng số loài.
Trong nghiên cứu về xu quang, đèn tử ngoại thu hút nhiều nhất với 35 loài côn trùng (chiếm 38,89% tổng số loài), tiếp theo là đèn compact với 25 loài (27,78% tổng số loài), và cuối cùng là đèn Neon với 6 loài (6,67% tổng số loài) Mức độ xu quang của các loài côn trùng khác nhau phụ thuộc vào cường độ ánh sáng và thành phần quang phổ của từng loại đèn Theo giáo trình Côn trùng rừng, hầu hết các loài côn trùng có độ nhạy cao với ánh sáng tia tử ngoại Đặc biệt, tia tím hấp dẫn côn trùng gấp 20 lần so với tia vàng, mặc dù chúng có năng lượng tương đương.
Mức độ xu quang của các loài khác nhau có sự khác biệt, với một số loài có khả năng xu quang mạnh khi tiếp xúc với một loại đèn nhất định, trong khi lại yếu với loại đèn khác Tuy nhiên, có những loài cực kỳ nhạy cảm với ánh sáng, chúng thường lao vào tất cả các loại đèn với số lượng đông đảo.
Đa dạng bướm đêm tại điểm đặt đèn
Trong quá trình điều tra, tôi đã xác định vị trí lắp đặt đèn gần nguồn điện sẵn có tại các trạm kiểm lâm và nhà dân, nơi tiếp giáp với nhiều sinh cảnh khác nhau Số liệu tổng hợp về các sinh cảnh này được trình bày trong bảng 4.6.
Bảng 4.7 Bắt gặp bướm đêm theo sinh cảnh
STT Tên họ Sinh cảnh đặt đèn
Sinh cảnh 1 Sinh cảnh 2 Sinh cảnh 3
Chú thích: Sinh cảnh 1: Điểm đặt đèn gần rừng
Sinh cảnh 2: Điểm đặt đèn tại khu dân cư
Hình 4.6 Tỷ lệ % loài theo sinh cảnh
Theo số liệu từ bảng 4.7 và hình 4.6, sinh cảnh 2 (điểm đặt đèn tại khu dân cư) có sự đa dạng loài cao nhất với 83 loài thuộc 9 họ, chiếm 92,22% tổng số loài Sinh cảnh 3 (điểm đặt đèn tại khu canh tác) ghi nhận 65 loài trong 10 họ, tương đương 72,22% tổng số loài Cuối cùng, sinh cảnh 1 (điểm đặt đèn gần rừng) có 58 loài trong 10 họ, chiếm 46,44% tổng số loài.
Số liệu cho thấy khu dân cư tại điểm này có sự đa dạng cao về loài cây, bao gồm cây ăn quả, cây bụi và vườn rau, tạo ra nguồn thức ăn phong phú cho sâu non của bướm đêm Trong khi đó, sinh cảnh gần rừng tuy có nhiều loài cây nhưng lại ít đa dạng hơn do sự rậm rạp, khiến ánh sáng không chiếu xa Cuối cùng, khu vực canh tác nông nghiệp, chủ yếu trồng lúa và ngô, có số lượng loài đứng thứ hai, mặc dù nguồn thức ăn cũng phong phú, nhưng việc sử dụng thuốc hóa học đã làm giảm đáng kể thành phần một số loài.
Sinh cảnh các loài có độ chênh lệch không lớn, nhưng số liệu thu thập chưa thực sự khách quan do vị trí đặt đèn chưa đạt tiêu chuẩn Đặc biệt, tại sinh cảnh rừng tự nhiên, việc thiếu nguồn điện trực tiếp đã ảnh hưởng đến quá trình điều tra ở khu vực giáp ranh.
Biến động các loài bướm đêm theo thời gian
4.5.1 Biến động họ theo tháng điều tra
Trong đợt thực tập kéo dài 5 tháng từ tháng 4 đến tháng 8, tôi đã tiến hành điều tra 15 ngày mỗi tháng với 3 loại đèn khác nhau Kết quả thu được cho thấy sự xuất hiện của các loài trong từng họ được tổng hợp theo tháng, được trình bày chi tiết trong bảng 4.8 dưới đây.
Bảng 4.8 Biến động họ bướm đêm theo tháng điều tra
STT Tên Họ Tháng điều tra
Hình 4.7 Tỷ lệ % loài xuất hiện theo tháng
Theo bảng 4.8, tháng 6 ghi nhận số lượng loài phong phú nhất với 79 loài thuộc 9 họ, chiếm 87,78% tổng số loài được khảo sát Tháng 7 theo sau với 70 loài thuộc 11 họ, chiếm 77,78% tổng số loài.
Trong tổng số 65 loài thuộc 11 họ, tháng 8 ghi nhận 38 loài và 8 họ, chiếm 42,22% tổng số loài, trong khi tháng 4 có ít nhất 35 loài và 10 họ, chiếm 38,89% Sự gia tăng số lượng loài vào tháng 5, 6 và 7 là do điều kiện nhiệt độ và độ ẩm lý tưởng trong thời gian này, khi mùa mưa bắt đầu, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của cây trồng, đặc biệt là lúa và ngô, đánh dấu thời điểm quan trọng cho vòng đời mới của thế hệ tiếp theo.
Vào tháng 4, số lượng sâu bọ giảm do một số loài đã trưởng thành, sinh sản và chết Thời tiết trong tháng này với nhiệt độ trung bình 21,5°C và độ ẩm 91% tạo điều kiện lý tưởng cho sự phát triển của sâu non chưa vũ hóa.
Vào tháng 8, số lượng loài giảm tương tự như tháng 4, với nhiều loài đã sinh đẻ và chết, trong khi một số loài khác vẫn chưa hoàn thành quá trình vũ hóa Tuy nhiên, sự giảm sút về số lượng loài không đáng kể do một số loài đang bước vào giai đoạn vũ hóa.
Nghiên cứu trong giáo trình Côn trùng rừng cho thấy rằng nhiệt độ cao làm giảm thời gian phát dục của côn trùng, trong khi nhiệt độ thấp kéo dài thời gian này Do đó, điều kiện thời tiết trong các tháng có ảnh hưởng lớn đến thời gian hoàn thành vòng đời và sự xuất hiện của sâu trưởng thành.
Sự biến động thành phân loài còn bị ảnh hưởng bởi thời gian nông vụ, khi một số loài sâu chỉ gây hại cho cây nông nghiệp như lúa và ngô trong giai đoạn trưởng thành Thời điểm vũ hóa của chúng thường diễn ra vào cuối mùa vụ.
Sự xuất hiện của côn trùng vào thời điểm nhất định là điều hiển nhiên, đặc biệt là những loài có khả năng sinh sản lớn và vòng đời ngắn Khả năng phát dịch của côn trùng phụ thuộc vào số lượng cá thể trong thế hệ đầu trong năm; khi loài có số lượng lớn, khả năng phát dịch sẽ cao hơn Do đó, trong công tác phòng trừ sâu hại, việc dự đoán và theo dõi sâu hại chủ yếu trong thế hệ đầu là rất quan trọng.
4.5.2 Biến động họ theo thời gian trong ngày Để có thể phòng trừ hiệu quả bằng bẫy đèn hiệu quả thì việc xác định khoảng thời gian mà tác dụng của ánh sáng đèn trong việc thu hút côn trùng lớn nhất là rất cần thiết Đó là do với mỗi loài khác nhau thì số lượng các thể vào đèn trong khoảng thời gian là không giống nhau Để xác định thời gian sử dụng đèn tốt nhất, hiệu quả nhất tôi tổng hợp số liệu tất cả các loài phân theo từng nhóm họ vì các họ có đặc điểm chung giống nhau nên thời gian hoạt động cũng có loài như nhau số liệu thống kê được thể hiện bảng 4.9 và hình 4.8
Bảng 4.9 Sự xuất hiện loài của các họ vào đèn theo thời gian
STT Tên khoa học Khoảng thời gian
Hình 4.8 Tỷ lệ số loài các xuất hiện theo thời gian
Theo thống kê, khoảng thời gian từ 21h đến 00h ghi nhận nhiều loài nhất với 74 loài (chiếm 82,22% tổng số 90 loài nghiên cứu) Tiếp theo, từ 18h đến 21h có 72 loài (80,00%) Tuy nhiên, từ 00h đến 3h, số loài giảm xuống còn 43 (47,78%), và khoảng thời gian từ 3h đến 6h chỉ thu được 34 loài (37,78%).
Kết quả nghiên cứu cho thấy các loài bướm đêm chủ yếu hoạt động từ 18h đến 00h, với số lượng giảm dần vào buổi sáng Một số loài như Hippotion velox (Sphinggidae) chỉ kiếm ăn vào chiều muộn, trong khi có những loài hoạt động vào sáng sớm hoặc suốt thời gian nghiên cứu Thời tiết cũng ảnh hưởng đến hoạt động của chúng, đặc biệt từ 12h đến 6h sáng khi có sương rơi và nhiệt độ thấp, khiến nhiều loài không hoạt động Thời gian vũ hóa cũng đóng vai trò quan trọng trong sự xuất hiện của các loài trong khoảng thời gian nghiên cứu.
Dẫn liệu về sinh học, sinh thái một số loài bướm
Qua nghiên cứu thực địa và tài liệu từ "Butterflies and Moths" của David Carter (2002) cùng các nguồn khác, bài viết đã trình bày đặc điểm hình thái và sinh thái của một số loài bướm Nhiều loài bướm không chỉ có hình thái đẹp mắt mà còn có số lượng lớn, tiềm ẩn nguy cơ gây hại đáng kể cho môi trường và nông nghiệp.
4.6.1 Dẫn liệu đặc điểm chung của họ
4.6.1.1 Họ Ngài đêm (Noctuidae) Đây là họ lớn nhất trong bộ Cánh vẩy, tại Canada và Mỹ đã ghi nhận có trên 2700 loài Cơ thể phủ nhiều lông nhỏ, cặp cánh trước thường hẹp và cặp cánh sau rộng Râu môi dưới thường dài, râu đầu thường có dạng hình sợi chỉ Một số loài thường có một chùm lông vẩy hiện diện trên phần lưng ngực
Sâu non thường có màu tối và mềm, với 5 đôi chân bụng, trong đó một số loài có chân bụng thoái hóa, khiến chúng di chuyển giống như sâu đo giả Nhiều loài trong họ này gây hại nghiêm trọng cho thực vật, chủ yếu ăn phá lá, nhưng cũng có loài đục trái, đục thân và các bộ phận khác của cây Khi tuổi càng lớn, chúng thường hoạt động vào ban đêm và có sức ăn rất mạnh.
Một số loài côn trùng có thể tiêu thụ nấm trên gỗ mục hoặc keo nhựa cánh kiến Chúng có tập quán sinh sống phức tạp và nhiều loài hoạt động vào ban đêm, bị thu hút bởi ánh sáng đèn và các mùi vị chua ngọt Đặc biệt, một số loài như nhóm Spodoptera có khả năng di chuyển theo từng đàn rất mạnh mẽ.
4.6.1.2 Họ Ngài sáng (Pyralidae) Đây là họ lớn thứ 2 trong bộ Cánh vẩy Đa số có kích thước nhỏ, mỏng mảnh, có màng nhĩ nằm ở phía bụng, râu môi dưới phát triển, vòi hút có nhiều vẩy, cánh trước dài hình tam giác
Gồm nhiều loài rất khác nhau về hình dạng, gân cánh và tập quán sinh hoạt Đa số ban đêm bị hấp dẫn bởi ánh sáng đèn
Sâu non có hình dáng dài nhỏ, ít lông và thường chỉ có lông cứng nguyên sinh Chúng có bụng với chân ngắn và móng chân có hai hoặc ba dạng xếp thành hình vòng tròn hoặc ngang Sâu non thường sống ở những nơi kín đáo, đục khoét các bộ phận của cây, đặc biệt là các loài thuộc họ Hòa thảo, hoặc cuốn lá gây hại.
4.6.1.3 Họ Ngài cuốn lá (Tortricidae) Đây cũng là một trong những họ lớn nhất của bộ Cánh vẩy, gồm nhiều loài gây hại quan trọng cho cây trồng Cơ thể nhỏ, màu xám hoặc nâu tối và thường có những băng màu tối hiện diện trên cánh Cánh trước thường có hình chữ nhật Ở trạng thái nghỉ, hai cánh xếp thành hình mái nhà trên lưng
Sâu non có thân nhỏ dài và lông thưa, với móng chân thường xếp thành hình vòng kín Chúng có thói quen cuốn lá, dệt lá hoặc đục vào mầm non, thân non và trái để gây hại.
4.6.1.4 Họ Ngài sâu đo (Geometridae)
Tại Hoa Kỳ và Canada, đã có khoảng 1200 loài thành trùng được phát hiện Chúng thường có kích thước nhỏ, cơ thể mỏng manh và dài, với cánh rộng có nhiều đường vân nhỏ Sự khác biệt về màu sắc giữa con đực và con cái là phổ biến, và ở một số loài, con cái có thể có cánh thoái hóa hoặc không có cánh, thường khi đậu, hai cánh sẽ xòe ngang.
Thành trùng hoạt động chủ yếu vào ban đêm và bị thu hút bởi ánh sáng Ấu trùng của chúng thuộc dạng sâu đo, với một đôi chân bụng ở đốt thứ 6 và một đôi chân mông ở đốt thứ 10 Khi di chuyển, chân ngực bám chắc trong khi phần bụng cong lên; khi đứng yên, chân bụng và chân mông giữ vững, tạo dáng giống như một cành cây nhỏ Ấu trùng chủ yếu ăn lá cây.
4.6.1.5 Họ ngài vân hổ (Arctiidae)
Các loài côn trùng này có kích thước từ nhỏ đến trung bình, thường sở hữu cánh màu sắc tươi sáng với nhiều đốm hoặc đường kẻ sậm màu Chúng hoạt động chủ yếu vào ban đêm và khi nghỉ ngơi, cánh được xếp chồng lên nhau tạo thành hình mái nhà trên lưng.
Sâu non thường có rất nhiều lông, trông giống sâu róm nhưng hầu hết không gây ngứa như nhiều loài thuộc họ sâu róm Lymantriidae
Côn trùng có kích thước từ trung bình đến lớn, với hình dạng thô và hai đầu hơi nhọn giống hình thoi Một số loài có chiều ngang cơ thể lên đến 160 mm khi căng cánh Râu đầu thường phình to ở giữa hoặc cuối, trong khi cánh trước hẹp và dài, cánh sau thì nhỏ Vòi của nhiều loài phát triển rất tốt, đôi khi dài bằng chiều dài cơ thể, cho phép bay nhanh và hiệu quả Một số loài hoạt động vào ban ngày, nhưng phần lớn hoạt động vào lúc hoàng hôn Sâu non có kích thước lớn, với mỗi đốt bụng chia thành 6-8 vòng hẹp, và đốt bụng thứ 8 có một gai lớn, do đó còn được gọi là "sâu sừng" Sâu non gây hại mạnh mẽ cho lá cây, đặc biệt là trên khoai tây, cà chua và thuốc lá.
4.6.1.7.Họ Ngài thiên xã (Notodontidae)
Notodontidae, hay còn gọi là ngài thiên, là một họ bướm đêm với khoảng 3.500 loài đã được ghi nhận Các loài thuộc họ này phân bố rộng rãi trên toàn cầu, nhưng chủ yếu tập trung ở các khu vực nhiệt đới.
Họ Thaumetopoeidae (processionary moths) đôi khi cũng được xếp vào họ này ở dạng phân họ
Các loài thuộc họ này có cơ thể nặng và cánh dài, thường xếp ngang sau lưng khi nghỉ Chúng chủ yếu có màu xám hoặc nâu, ngoại trừ phân họ Dioptinae Dù có nhiều điểm tương đồng với họ Noctuidae, chúng không có mối quan hệ gần gũi Con trưởng thành không ăn và một số loài có chùm râu trên mép sau của cánh trước, dũi thẳng khi nghỉ Tên gọi phổ biến của một số loài như Puss Moth và nhóm Furcula spp (kittens) được đặt dựa trên đặc điểm này, tương tự như các loài bướm nhỏ Puss Moth.
Thành trùng đực thường nhỏ, có cánh phát triển, trong khi thành trùng cái không có cánh và chân, sống suốt đời trong bao dệt bằng lá và chất dư thừa thực vật Cả giao phối và đẻ trứng đều diễn ra trong túi này Thành trùng đực thường có vòi thoái hóa và râu đầu hình răng lược kép Sâu non có chân ngực khỏe nhưng chân bụng thoái hóa, sống trong túi bằng lá và cành vụn, khi di chuyển hoặc cắn phá cây thì chỉ thò đầu ngực ra ngoài.
Thực trạng và đề xuất giải pháp quản lý
4.7.1 Nguyên nhân gây mất đa dạng sinh học
4.7.1.1 Nguyên nhân gây mất tính đa dạng sinh học nói chung
Tính đa dạng sinh học đang bị suy thoái do hai nguyên nhân chính: các hiểm họa tự nhiên và hoạt động của con người Những tác động từ con người là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự suy giảm này.
Khai thác quá mức các loài để đáp ứng nhu cầu của con người đang gây ra suy giảm và hủy hoại cảnh quan trên diện tích rộng.
Phá hủy nơi sống, đặc biệt là rừng nguyên sinh và rừng nhiệt đới, là mối đe dọa chính đối với đa dạng sinh học Mất nơi cư trú được coi là nguy cơ hàng đầu dẫn đến sự tuyệt chủng của nhiều loài, trong đó phần lớn môi trường sống tự nhiên là rừng Nạn phá rừng diễn ra mạnh mẽ và nhanh chóng trên toàn cầu, gây ra những hậu quả nghiêm trọng cho hệ sinh thái.
* Các sinh cảnh bị chia cắt và bị cách ly
Việc chia nhỏ các sinh cảnh không chỉ đe dọa trực tiếp đến hoạt động của con người mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính đa dạng sinh học Khi các sinh cảnh bị phân tách, các loài trong đó cũng bị chia nhỏ và cách ly với nhau, dẫn đến sự hình thành những quần thể sinh vật có số lượng quá ít Hiện tượng này tạo ra các mô hình địa lý giống như đảo, nơi mà các mảng sinh cảnh tách biệt trở thành những hòn đảo giữa đại dương, làm tăng nguy cơ tuyệt chủng của các loài do ức chế sinh sản và tác động từ môi trường xung quanh.
Sự chia cắt các sinh cảnh do sự phát triển của khu vực đô thị làm gia tăng khả năng tiếp xúc giữa các loài hoang dã và mầm bệnh mới, trong khi các loài này thường có khả năng miễn dịch rất thấp.
Ô nhiễm môi trường sống đang đe dọa sự suy thoái đa dạng sinh học, với nhiều nguyên nhân khác nhau như việc sử dụng thuốc trừ sâu, hoạt động của các nhà máy, ô tô và sự xói mòn đất từ các vùng cao.
Thuốc trừ sâu, được khuyến cáo từ năm 1962, là một trong những nguyên nhân chính gây ô nhiễm môi trường Việc sử dụng thuốc trừ sâu để tiêu diệt côn trùng gây hại cho cây trồng đã gây tổn hại nghiêm trọng đến các quần thể sinh vật khác trong hệ sinh thái Theo thời gian, nồng độ thuốc trừ sâu phải gia tăng do sự kháng thuốc của các sinh vật gây hại, dẫn đến việc tiêu diệt nhiều loài sinh vật có ích và gây ô nhiễm không khí cùng các yếu tố khác trong môi trường sống của con người.
Ô nhiễm không khí do phát triển công nghiệp đã trở thành một vấn đề nghiêm trọng, thải ra các hóa chất độc hại vào bầu khí quyển, dẫn đến hiện tượng mưa axit, gây hại cho cả động vật và thực vật.
Khai thác quá mức là nguyên nhân thứ hai gây suy thoái đa dạng sinh học, chỉ sau sự phá hủy nơi sống Để đáp ứng nhu cầu cuộc sống, con người thường xuyên khai thác tài nguyên một cách kiệt quệ, dẫn đến nguy cơ tuyệt chủng cho 1/3 các loài động vật có xương sống Trong những năm gần đây, sự mở rộng của thị trường thương mại đã làm gia tăng nhu cầu này, gây áp lực lớn lên các nguồn tài nguyên tự nhiên.
4.7.1.2 Giá trị bảo tồn đa dạng sinh học
Đa dạng sinh học mang lại giá trị sử dụng quan trọng, chủ yếu từ khía cạnh kinh tế, thông qua các sản phẩm mà con người sử dụng trực tiếp hoặc gián tiếp.
Đa dạng sinh học có vai trò quan trọng trong việc nâng cao khả năng sản xuất của hệ sinh thái, bảo vệ tài nguyên đất và nước, cũng như điều hòa khí hậu Sự đa dạng này tạo ra sự cân bằng sinh thái thông qua các mối quan hệ tương tác giữa các loài.
Đa dạng sinh học mang lại giá trị đạo đức sâu sắc, khẳng định rằng mọi loài đều có quyền sống và tồn tại Chúng ta cần tôn trọng sự đa dạng của các sinh vật, hiểu rằng sự tồn tại của chúng không chỉ dựa vào giá trị sử dụng mà còn nằm trong mối quan hệ cộng sinh, nơi tất cả đều có vai trò quan trọng trong hệ sinh thái.
Đa dạng sinh học không chỉ mang lại giá trị thẩm mỹ mà còn đóng vai trò quan trọng trong du lịch sinh thái, cung cấp những trải nghiệm giải trí phong phú cho con người.
Đa dạng sinh học mang lại giá trị lựa chọn quan trọng, vì không phải tất cả các loài đều có giá trị kinh tế, sinh thái, đạo đức hay thẩm mỹ giống nhau Thực tế, chúng ta vẫn chưa xác định hết giá trị của các loài Những loài hiện tại được coi là vô ích có thể trở thành hữu ích hoặc có giá trị lớn trong tương lai.
4.7.1.3 Giá trị đa dạng sinh học của bướm đêm
Đa dạng sinh học được thể hiện qua ba mức độ: đa dạng loài, sự khác biệt gen giữa các loài và quần thể, cùng với sự khác biệt giữa các quần xã và hệ sinh thái Tất cả các mức độ này đều thiết yếu cho sự tồn tại của các quần xã tự nhiên và có vai trò quan trọng đối với con người Loài là đơn vị cơ bản trong phân loại sinh vật, vì vậy mọi nghiên cứu về sinh vật đều bắt đầu từ loài Đa dạng sinh học phản ánh khả năng thích ứng và tiến hóa của mỗi loài trong các môi trường sống khác nhau.