TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Trên thế giới
Từ thời kỳ tiền sử, con người đã bắt đầu trồng trọt và nhân giống các loại thực vật, đồng thời đặt tên cho chúng Những loài thực vật này không chỉ được sử dụng làm lương thực và thực phẩm mà còn có công dụng trong y học và chế tác công cụ lao động, và tri thức này đã được truyền lại cho các thế hệ sau.
Nghiên cứu về thực vật đã bắt đầu từ Ai Cập cổ đại hơn 3.000 năm TCN và Trung Quốc cổ đại vào khoảng 2.200 năm TCN, sau đó phát triển mạnh mẽ ở Hy Lạp và La Mã cổ đại với nhiều tác phẩm nổi bật.
Theophrastus (371 - 286 TCN) được xem là người tiên phong trong việc phân loại thực vật và nhận diện các tính chất cơ bản của cấu trúc thực vật Ông đã trình bày những quan điểm này trong hai tác phẩm nổi bật là "Lịch sử thực vật" (Historia Plantarum).
"Cơ sở thực vật" mô tả khoảng 500 loài cây, trong khi Plinus (79 - 24 TCN) đã viết cuốn "Lịch sử tự nhiên" (Historia naturalis) với gần 1.000 loài cây được ghi chép Cùng thời kỳ, Dioseoride (20 – 60 TCN), một thầy thuốc từ Tiểu Á, đã xuất bản cuốn "Dược liệu học", trong đó ông nêu ra hơn 600 loài cây thuốc.
500 loài cây cỏ và xếp chúng vào các họ khác nhau [13]
Hiện nay, số lượng loài thực vật trên thế giới đang có nhiều biến đổi và chưa được xác định một cách cụ thể do thiếu nghiên cứu và điều tra đầy đủ Các nhà thực vật học ước tính rằng có khoảng 500.000 đến 600.000 loài thực vật bậc cao tồn tại trên toàn cầu.
Theo dự đoán của Al A Phêđôrốp (1965), trên thế giới có khoảng 300.000 loài thực vật hạt kín, từ 5.000 đến 7.000 loài thực vật hạt trần, từ 6.000 đến 10.000 loài quyết thực vật, 14.000 đến 18.000 loài rêu, 19.000 đến 40.000 loài tảo, từ 15.000 đến 20.000 loài địa y, và 85.000 đến 100.000 loài nấm cùng các loài thực vật bậc thấp khác.
Nghiên cứu về thành phần loài thực vật đã được thực hiện từ lâu trên thế giới, đặc biệt là ở Liên Xô cũ với nhiều công trình của các nhà khoa học như Vưsotxki (1915), Alokhin (1904), Craxit (1927) và Sennhicốp (1933) Các tác giả cho rằng mỗi vùng sinh thái hình thành một thảm thực vật đặc trưng, thể hiện qua thành phần loài, dạng sống, cấu trúc và động thái của chúng Do đó, nghiên cứu thành phần loài và dạng sống là tiêu chí quan trọng trong việc phân loại các loại hình thảm thực vật.
Bảo tồn và sử dụng hợp lý tài nguyên sinh học đã trở thành chiến lược toàn cầu quan trọng Nhiều tổ chức quốc tế như Công ước ĐDSH, IUCN, UNEP, WWF và IPGRI đã được thành lập để hướng dẫn việc đánh giá và bảo tồn đa dạng sinh học Các hội nghị, hội thảo và sách hướng dẫn về bảo tồn và phát triển ĐDSH đã được tổ chức và xuất bản, cung cấp kiến thức thiết yếu cho các quốc gia tham gia thực hiện nhiều công ước quốc tế liên quan.
Sự phát triển kinh tế xã hội nhanh chóng, cùng với việc quản lý tài nguyên rừng kém và sử dụng không hợp lý, đã dẫn đến tình trạng suy thoái và mất mát đa dạng sinh học (ĐDSH) nghiêm trọng Nguyên nhân chủ yếu là do con người khai thác thiên nhiên một cách bất hợp lý, khiến nhiều loài động thực vật đứng trước nguy cơ tuyệt chủng hoặc biến mất.
Để bảo tồn đa dạng sinh học (ĐDSH) và các loài cụ thể theo hướng phát triển bền vững, các quốc gia và khu vực đang nghiên cứu và áp dụng các chiến lược quản lý tài nguyên hợp lý Những chiến lược này được điều chỉnh dựa trên đặc điểm kinh tế, chính trị, xã hội, điều kiện tự nhiên và tập quán canh tác của từng dân tộc và quốc gia.
5 thành lên một hệ thống quản lý tài nguyên khác nhau - Hiện nay trên thế giới đang sử dụng hai phương pháp bảo tồn ĐDSH là [40]
+ Bảo tồn nguyên vị(in situ)
Bảo tồn nguyên vị là phương pháp bảo vệ các loài, chủng loại, sinh cảnh và hệ sinh thái trong điều kiện tự nhiên, với các hành động quản lý thay đổi tùy theo đối tượng bảo tồn Thường được thực hiện thông qua việc thành lập các khu bảo tồn và áp dụng biện pháp quản lý thích hợp, bảo tồn nguyên vị cũng bao gồm các khu Di sản thế giới theo UNESCO và các KBT Đất ngập nước RAMSAR Ngoài ra, công tác quản lý động thực vật hoang dã và tài nguyên thiên nhiên cũng là một phần quan trọng của bảo tồn nguyên vị Trong lĩnh vực nông nghiệp và lâm nghiệp, bảo tồn nguyên vị được hiểu là việc giữ gìn các giống loài cây trồng và cây rừng tại các vùng đồng ruộng và rừng trồng.
+ Bảo tồn chuyển vị (ex situ)
Bảo tồn chuyển vị là biện pháp di dời các loài cây, động vật và vi sinh vật ra khỏi môi trường sống tự nhiên nhằm nhân giống, lưu giữ và cứu hộ khi nơi sinh sống bị suy thoái hoặc hủy hoại Các biện pháp này bao gồm việc thiết lập vườn thực vật, bể nuôi thủy sản, bộ sưu tập vi sinh vật, bảo tàng và ngân hàng hạt giống Mặc dù việc lưu giữ trong môi trường nhân tạo giúp bảo tồn các loài, nhưng cũng đồng nghĩa với việc chúng bị tách khỏi quá trình tiến hóa tự nhiên.
Vì thế mà mối liên hệ gắn bó giữa các bảo tồn chuyển vị với bảo tồn nguyên
6 vị rất bổ ích cho công tác bảo tồn và phát triển loài cũng như phát triển đa dạng sinh học [40]
Tại Việt Nam
Việt Nam là một trong 10 trung tâm đa dạng sinh học quan trọng toàn cầu, nổi bật với sự phong phú về nguồn gen, số lượng loài và các hệ sinh thái đa dạng Theo “Thực vật chí đại cương Đông Dương” và các tài liệu khoa học bổ sung, nước ta có khoảng 240 họ và 7.000 loài thực vật bậc cao có mạch Gần đây, nhiều nhà thực vật học dự đoán rằng số lượng loài thực vật có thể tăng lên từ 10.000 đến 12.000.
Thái Văn Trừng (1978) thống kê hệ thực vật Việt Nam có 7.004 loài thực vật bậc cao có mạch thuộc 1.850 chi, 289 họ [49]
Phạm Hoàng Hộ (1991 – 1992) trong tác phẩm "Cây cỏ Việt Nam" đã ghi nhận hệ thực vật Việt Nam có khoảng 10.500 loài, gần tương đương với dự đoán 12.000 loài của nhiều nhà thực vật học.
Nguyễn Nghĩa Thìn (1997) đã thống kê thành phần loài của Vườn quốc gia Tam Đảo với 2.000 loài, trong đó có 904 loài cây có ích thuộc 478 chi,
Họ Thầu dầu (Euphorbiaceae) ở Việt Nam bao gồm 213 loài thuộc 3 ngành: Dương xỉ, Hạt trần và Hạt kín, được phân chia thành 8 nhóm với giá trị khác nhau Năm 1998, nghiên cứu cho thấy có 156 loài trong tổng số 425 loài của họ này, được phân loại thành 7 nhóm dựa trên cách sử dụng.
Phan Kế Lộc (1998) đã xác định hệ thực vật miền bắc Việt Nam có 5.609 loài thuộc 1.660 chi và 240 họ [33]
Theo nghiên cứu của Thái Văn Trừng (1998) về hệ thực vật Việt Nam, tổ thành loài thực vật của tầng cây bụi trong các trạng thái thảm khác nhau của rừng nhiệt đới chủ yếu do các chi Psychotria, Prismatomeris và Pavetta đóng góp.
(họ Cà phê – Rubiaceae); chi Tabernaemontana (họ Trúc đào – Apocynaceae); chi Ardisia, Maesa (họ Đơn nem – Myrsinaceae).[52]
Nguyễn Nghĩa Thìn (1998) đã tổng kết các nghiên cứu về khu hệ thực vật ở Việt Nam, ghi nhận tổng cộng 2.393 loài thực vật bậc thấp và 1.373 loài thực vật bậc cao, thuộc 2.524 chi và 378 họ.
Trên cơ sở những thông tin mới nhất và những căn cứ chắc chắn, Nguyễn Tiến Bân (1997) đã giới thiệu khái quát những đặc điểm cơ bản của
265 họ và 2.300 chi thuộc ngành hạt kín ở nước ta.[3]
Theo Nguyễn Nghĩa Thìn (1999), tổng kết về khu hệ thực vật Việt Nam cho thấy có 2.393 loài thực vật bậc thấp và 11.373 loài thực vật bậc cao, thuộc 2.524 chi và 378 họ.
Theo tổng kết của Bộ Tài nguyên và Môi trường năm 2009, hệ thực vật Việt Nam ghi nhận có 13.766 loài, bao gồm 2.393 loài thực vật bậc thấp và 11.373 loài thực vật bậc cao Trong số này, có 10% là loài quý hiếm và 3% là loài đặc hữu.
Tình trạng suy giảm số lượng cá thể các loài, đặc biệt là các loài quý hiếm tại Việt Nam đang gia tăng Theo tiêu chuẩn mới của IUCN, Sách đỏ Việt Nam đã được cập nhật vào năm 2002-2003, với số lượng loài động vật được ghi nhận là 417 vào năm 1992-2000 và 450 loài thực vật vào năm 1995 Việc này cho thấy chúng ta đã đánh mất một kho tàng nguồn gen động thực vật hoang dã quý hiếm, ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường sống và khí hậu của trái đất.
Tại các vùng và khu vực nghiên cứu
Về mặt địa sinh học, Việt Nam là giao điểm của các hệ động thực vật thuộc vùng Ấn Độ - Miến Điện, Nam Trung Quốc và Inđônêxia – Malaysia
Việt Nam, với địa lý, địa hình và khí hậu đa dạng, đã trở thành một trong những khu vực có tính đa dạng sinh học cao trên thế giới Ước tính có khoảng 15.000 loài thực vật có mạch, trong đó đã xác định được 11.373 loài thực vật bậc cao, 793 loài rêu và hơn 600 loài nấm Để bảo tồn tài nguyên thiên nhiên và các loài quý hiếm, Chính phủ Việt Nam đã thiết lập một hệ thống các Khu rừng đặc dụng, bao gồm Vườn quốc gia, Khu dự trữ thiên nhiên, Khu bảo tồn loài/sinh cảnh và Khu bảo vệ cảnh quan, trải rộng trên hầu hết các vùng sinh thái với tổng cộng 127 khu.
Tại Việt Nam đã có nhiều công trình nghiên cứu về thực vật tại khu vực Bắc Trung Bộ nói chung và Hà Tĩnh nói riêng:
Phùng Ngọc Lan et al (1996) “Nghiên cứu tính đa dạng thực vật
Vườn quốc gia Cúc Phương có tổng cộng 1.944 loài thực vật bậc cao, thuộc 912 chi, 219 họ, 86 bộ của 7 ngành thực vật, trong đó có 98 loài quý hiếm Số loài thực vật bậc cao của Cúc Phương chiếm 17,27% tổng số 11.374 loài thực vật bậc cao của Việt Nam, bao gồm cả ngành Rêu Ngoài ra, nghiên cứu cũng đã phân loại và mô tả 19 quần xã thực vật, lần đầu tiên được thể hiện trên bản đồ, cho thấy sự đa dạng phong phú của hệ thực vật tại đây.
Nghiên cứu đa dạng thực vật thuộc dự án ICBG tại Cúc Phương đã ghi nhận 119 loài thực vật mới, nâng tổng số loài lên so với danh mục năm 1997 Đặc biệt, hai chi thực vật mới cho Việt Nam đã được phát hiện: Nyctocalos thuộc họ Núc nác (Bignoniaceae) và Gardneria thuộc họ Mã tiền (Loganiaceae) Đáng chú ý, một chi và loài mới cho khoa học mang tên Vietorchis aurea Averyanov thuộc họ Lan (Orchidaceae) cũng đã được phát hiện.
45 điểm đa dạng thực vật tại khu vực Cúc Phương [30]
Phạm Hồng Ban (2001) đã nghiên cứu tính đa dạng sinh học của hệ sinh thái sau nương rẫy ở Tây Nam Nghệ An, xác định thành phần loài, mật độ cá thể và phổ dạng sống của thảm thực vật phục hồi theo thời gian bỏ hoá Kết quả cho thấy hệ thực vật sau nương rẫy tại vùng đệm Pù Mát có 586 loài thuộc 344 chi và 105 họ thực vật bậc cao có mạch.
Nghiên cứu của Averyanov và các cộng sự (2005) về hệ thực vật Pù Luông đã chỉ ra sự đa dạng phong phú của thảm thực vật nơi đây, với 152 họ, 477 chi và 1.109 loài thực vật khác nhau.
Hoàng Thị Hạnh (2007) đã nghiên cứu sự đa dạng của hệ thực vật bậc cao có mạch tại vùng đệm VQG Bến En, Thanh Hóa, phát hiện 396 loài thuộc 245 chi và 93 họ của 4 ngành thực vật bậc cao Đỗ Ngọc Đài (2012) cũng đã điều tra đa dạng thực vật bậc cao có mạch tại khu BTTN Xuân Liên, tỉnh Thanh Hóa, xác định được 952 loài, 517 chi và 162 họ.
Nguyễn Anh Dũng đã tiến hành nghiên cứu về tính đa dạng của hệ thực vật bậc cao có mạch tại xã Môn Sơn, nằm trong vùng đệm của vườn quốc gia Pù Mát, Nghệ An Kết quả nghiên cứu cho thấy có 497 loài thực vật thuộc 319 chi và 110 họ, bao gồm 8 loài thuộc ngành thông đất, 27 loài thuộc ngành dương xỉ và nhiều loài khác thuộc ngành Mộc lan.
Phan Thị Thúy Hà (2006) đã tiến hành điều tra hệ thực vật bậc cao có mạch tại xã Hương Điền, thuộc vườn quốc gia Vũ Quang, Hà Tĩnh và xác định được nhiều loài thực vật quý giá.
349 loài thuộc 215 chi và 79 họ thuộc 4 ngành là Ngành thông đất, ngành Dương xỉ, ngành thông và ngành Mộc Lan [18]
Nguyễn Tiến Cường (2012) đã tiến hành điều tra thành phần loài thực vật Hai lá mầm (Magnoliopsida) tại khu vực khe Nước Sốt, xã Sơn Kim 1, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh, và ghi nhận được 227 loài, 135 chi và 56 họ.
Các nghiên cứu tại khu BTTN Kẻ Gỗ
Khu BTTN Kẻ Gỗ từ khi thành lập đến nay chưa có nghiên cứu nào tập trung vào bảo tồn thực vật, đặc biệt là các loài thực vật quý hiếm Tuy nhiên, gần đây đã có một số nghiên cứu về sự đa dạng thực vật tại khu vực này.
Theo báo cáo của Viện Điều tra Quy hoạch Rừng Bộ Lâm nghiệp năm 1996, khu bảo tồn thiên nhiên Kẻ Gỗ đã ghi nhận 567 loài thực vật bậc cao có mạch, thuộc 367 chi và 117 họ Thông tin này được nêu trong báo cáo bảo tồn số 17: “Dự án khả thi khu bảo tồn thiên nhiên Kẻ Gỗ”.
Năm 2010, Trần Đức Tú đã tiến hành điều tra và đánh giá sự đa dạng sinh học tại Khu BTTN Kẻ Gỗ, trong đó ghi nhận được 581 loài thực vật bậc cao có mạch.
369 chi và 117 họ Nghiên cứu này chỉ mới điều tra về thực vật ở dạng thống kê tổng quát, chưa đi sâu nghiên cứu về thực vật quý hiếm [52]
Năm 2011, Nguyễn Đình Nhâm cùng các cộng sự đã tiến hành điều tra và lập danh mục 26 loại lâm sản ngoài gỗ nhằm thiết lập thỏa thuận chia sẻ và đồng quản lý bền vững khu bảo tồn với người dân ở các xã vùng đệm.
-Nguyễn Thái Sơn (2012) trong đề tài “Điều tra thành phần loài thực vật bậc cao có mạch tại vùng đệm Khu bảo tồn thiên nhiên Kẻ Gỗ, xã Cẩm
Tại huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh, nghiên cứu đã xác định được 247 loài thực vật có mạch thuộc 169 chi, 76 họ và 5 ngành Đặc biệt, trong vùng đệm khu BTTN Kẻ Gỗ, xã Cẩm Mỹ, có 8 loài thực vật quý hiếm được ghi trong Sách đỏ Việt Nam, trong đó có 2 loài ở mức độ CR, 3 loài ở mức độ EN và 3 loài ở mức độ VU Tuy nhiên, nghiên cứu này chỉ tập trung vào một xã vùng đệm với quy mô nhỏ và số lượng loài hạn chế.
MỤC TIÊU, ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Mục tiêu nghiên cứu
Xây dựng cơ sở khoa học nhằm bảo tồn và phát triển một số loài thực vật quý hiếm tại khu BTTN Kẻ Gỗ, tỉnh Hà Tĩnh
- Đánh giá được hiện trạng của một số loài thực vật quý hiếm trong khu BTTN Kẻ Gỗ
- Đề xuất các giải pháp để phục vụ cho công tác quản lý, bảo tồn và phát triển một số loài thực vật quý hiếm ở khu BTTN Kẻ Gỗ
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Một số loài thực vật quý hiếm có ở khu BTTN Kẻ Gỗ
Phạm vi điều tra được xác định trên toàn bộ diện tích của khu BTTN
Kẻ Gỗ Tuy nhiên, do hạn chế về thời gian, nguồn lực và quy mô, đề tài này sẽ chỉ tập trung vào một số phạm vi cụ thể.
Vùng lõi của khu Bảo tồn thiên nhiên Kẻ Gỗ có diện tích nằm trên địa phận của 4 huyện, bao gồm Cẩm Xuyên với các xã Cẩm Quan, Cẩm Thịnh, Cẩm Mỹ, Cẩm Sơn; huyện Kỳ Anh với xã Kỳ Thượng; huyện Hương Khê với xã Hương Trạch; và huyện Thạch Hà với xã Thạch Điền.
Nội dung nghiên cứu
Nghiên cứu thành phần và hiện trạng bảo tồn các loài thực vật quý hiếm tại khu vực nghiên cứu là rất quan trọng Việc xác định và bảo vệ các loài này không chỉ giúp duy trì đa dạng sinh học mà còn góp phần vào công tác bảo tồn môi trường Các biện pháp bảo tồn hiệu quả cần được áp dụng để đảm bảo sự tồn tại lâu dài của các loài thực vật quý hiếm trong khu vực.
Nghiên cứu đặc điểm sinh vật và sinh thái học của một số loài thực vật có giá trị kinh tế và bảo tồn cao tại khu vực nghiên cứu là rất quan trọng Việc phân bố các loài thực vật này giúp chúng ta hiểu rõ hơn về hệ sinh thái địa phương Đề xuất các giải pháp bảo tồn tài nguyên thực vật quý hiếm sẽ góp phần bảo vệ đa dạng sinh học và phát triển bền vững tại khu vực này.
Phương pháp nghiên cứu
2.4.1 Phương pháp kế thừa số liệu
-Thu thập các tài liệu liên quan đến các loài thực vật nguy cấp quý hiếm như danh mục các loài trong sách đỏ Việt Nam, Nghị định 32
- Những tư liệu về điều kiện tự nhiên, khí hậu, thủy văn, đất đai, địa hình, tài nguyên rừng
- Thông tin, tư liệu về điều kiện kinh tế - xã hội: dân số, lao động, thành phần dân tộc, tập quán canh tác
Nghiên cứu về các loài thực vật quý hiếm và các giải pháp bảo tồn chúng ở Việt Nam cũng như trên thế giới đã cho thấy tầm quan trọng của việc bảo vệ đa dạng sinh học Các văn bản liên quan cung cấp thông tin giá trị về tình trạng và biện pháp bảo tồn những loài thực vật này, nhằm nâng cao nhận thức và thúc đẩy hành động bảo vệ môi trường Việc bảo tồn thực vật quý hiếm không chỉ có ý nghĩa về mặt sinh thái mà còn góp phần vào phát triển bền vững và bảo tồn văn hóa địa phương.
2.4.2 Phương pháp thu thập, điều tra, khảo sát thực địa
2.4.2.1 Phương pháp điều tra thu thập số liệu theo tuyến
Khi tiến hành điều tra, cần lựa chọn tuyến đường theo bản đồ địa hình, ưu tiên các đường mòn có sẵn để dễ dàng tiếp cận khu vực cần khảo sát.
Các tuyến điều tra có chiều dài khác nhau được thiết lập để đảm bảo bao quát tất cả các trạng thái rừng Những tuyến này được đánh dấu rõ ràng trên bản đồ và thực địa bằng sơn hoặc dây nilon có màu sắc dễ nhận biết.
Sử dụng máy định vị GPS giúp xác định phân bố của các loài trên các tuyến điều tra, từ đó tạo bản đồ thảm thực vật rừng tại Khu Bảo tồn Thiên nhiên Kẻ Gỗ.
- Dùng máy ảnh để lưu lại hình ảnh của các loài thực vật quý hiếm trên tuyến điều tra
* Thiết lập các tuyến điều tra:
Dựa trên điều kiện về thời gian, nhân lực và vật lực cần thiết cho công tác điều tra, việc chuẩn bị nội nghiệp đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện hiệu quả các nội dung của đề tài Cần xem xét kỹ lưỡng các yếu tố liên quan, bao gồm hiện trạng rừng và đất lâm nghiệp tại khu BTTN Kẻ, để đảm bảo tiến độ và các điều kiện cần thiết khác.
Gỗ, cùng với điều kiện địa hình và ý kiến đóng góp từ lãnh đạo, cán bộ khoa học - kỹ thuật, đã đóng vai trò quan trọng trong công tác bảo tồn đa dạng sinh học tại khu BTTN Kẻ Gỗ Chúng tôi đã xác lập các tuyến điều tra nhằm nâng cao hiệu quả bảo tồn và nghiên cứu hệ sinh thái tại đây.
- Tuyến số 1: Tại tiểu khu 339, thuộc xã Cẩm Thịnh, huyện Cẩm Xuyên Chiều dài tuyến là 2,1 km
- Tuyến số 2: Khu vực Ba Khe – Rào Pheo, thuộc xã Cẩm Thịnh Chiều dài 2,2 km
- Tuyến số 3: Khu vực từ tiểu khu 334- tiểu khu 340, thuộc xã Cẩm sơn, huyện Cẩm Xuyên chiều dài 2,5 km
- Tuyến số 4: Vùng lõi thuộc xã Cẩm Quan, huyện Cẩm xuyên chiều dài 1,6 km
- Tuyến số 5: Khu vực Khe Lá-Cát Bịn, xã Kỳ Thượng, huyện Kỳ Anh Chiều dài 2,1 km
- Tuyến số 6: Khu vực Giếng Vuông - Chín Xai, xã Kỳ Thượng, huyện
Kỳ Anh chiều dài 2,5 km
- Tuyến số 7:Km số 21- Km số 24, tiểu khu 324 - 327 Chiều dài 2.8 km
- Tuyến số 8:Xà Phòn- Li Bi, thuộc xã Cẩm Mỹ, huyện Cẩm Xuyên.Chiều dài 1,45 km
- Tuyến số 9: Rào Len-Bưởi, xã Cẩm Mỹ, huyện Cẩm Xuyên Chiều dài 1,5 km
- Tuyến số 10: vùng lõi địa phận xã Hương Trạch, huyện Hương Khê,
Hà Tĩnh Chiều dài 2,4 km
2.4.2.2 Phương pháp điều tra thu thập số liệu trong điều tra lâm học a/ Điều tra cá thể tầng cây cao
- Điều tra, thu thập tiêu bản đo tính tất cả các cá thể loài thực vật quý hiếmđượctìm thấy có đường kính ngang ngực (D1.3) lớn hơn hoặc bằng 6cm
- Đo D1.3 bằng thước kẹp kính
- Đo chiều cao vút ngọc (Hvn) và chiều cao dưới cành (Hdc) bằng thước đo cao Blummleiss
Để đo đường kính tán (Dt) của cây, sử dụng thước dây theo hai chiều Đông Tây và Nam Bắc Đối với những cây khó tiếp cận do địa hình hiểm trở, có thể áp dụng phương pháp mục trắc dựa trên kinh nghiệm từ các cây đã được đo trước đó Kết quả điều tra theo tuyến sẽ được ghi lại theo mẫu biểu quy định.
Mẫu biểu 01: Biểu điều tra các cây theo tuyến
Tuyến số:……… Kiểu rừng chính:……… Độ cao:……….Độ dốc:……….Hướng dốc:………….…… Ngày điều tra:……… Người điều tra:……… ………
15 b/ Điều tra, đo đếm cây tái sinh
- Điều tra các loài quý hiếm tái sinh tự nhiên theo tuyến
- Điều tra các loài quý hiếm tái sinh tự nhiên quanh gốc cây mẹ
Thiết lập các ô dạng bản kích thước 4m 2 (2m x 2m) quanh gốc cây mẹ theo bốn hướng, 04 ô trong tán, 04 ô ngoài tán
Trong bài viết này, chúng tôi trình bày ba phương pháp điều tra cây tái sinh khác nhau Tùy thuộc vào tình hình thực tế, có thể áp dụng một phương pháp duy nhất hoặc kết hợp hai đến ba phương pháp cho một loài Kết quả điều tra sẽ được ghi chép vào biểu mẫu để dễ dàng theo dõi và phân tích.
Mẫu biểu 02: Biểu điều tra cây tái sinh tự nhiên theo tuyến
Tuyến số:……… Trạng thái rừng:……… Người đo đếm:……….Ngày đo đếm:………
TT Loài cây Cấp chiều cao (cm) Nguồn gốc tái sinh Sinh trưởng
100 Hạt Chồi Tốt TB Xấu
Xác định mật độ cây tái sinh: Mật độ cây (N) được tính theo công thức:
N: số cây đếm được trong diện tích S (cây) S: diện tích đo đếm (ha) c/ Xác định sự phân bố theo đai cao
Sử dụng hệ thống định vị toàn cầu (GPS) để xác định độ cao phân bố của từng cá thể các loài thực vật quý hiếm là một phương pháp hiệu quả Kết quả điều tra này cung cấp thông tin quan trọng về sự phân bố của các loài thực vật, giúp bảo tồn và quản lý nguồn gen quý giá.
16 loài và bản đồ địa hình đã được số hoá theo các độ cao khác nhau để phân chia theo các đai cao phù hợp và chính xác
2.4.2.3 Phương pháp điều tra đánh giá nhanh đa dạng sinh học, phỏng vấn về biến động, áp lực và nguyên nhân
2.4.2.4 Phương pháp nghiên cứu có sự tham gia của cộng đồng và phương pháp đánh giá nhanh nông thôn thông qua phiếu điều tra và phỏng vấn trực tiếp người dân địa phương
PRA (Đánh giá nhanh nông thôn có sự tham gia của người dân) là phương pháp giúp người dân chia sẻ và phân tích kiến thức về đời sống nông thôn Việc kết hợp các cách tiếp cận này sẽ tối ưu hóa năng lực cộng đồng thông qua sự tham gia tích cực trong các hoạt động điều tra thực địa Đồng thời, PRA cũng giúp phân tích áp lực lên tài nguyên rừng và tìm kiếm các giải pháp hiệu quả cho công tác bảo tồn và phát triển bền vững.
Đánh giá nhanh nông thôn (RRA) là quá trình nghiên cứu nhằm hiểu biết tình hình địa phương một cách hiệu quả Phương pháp RRA sử dụng bảng câu hỏi phỏng vấn bán cấu trúc để thu thập thông tin từ các đối tượng như lâm dân, cư dân sống gần rừng, cán bộ quản lý và bảo vệ rừng, lãnh đạo chính quyền địa phương, cán bộ khu BTTN Kẻ Gỗ, kiểm lâm, và cán bộ khoa học kỹ thuật.
Kết quả điều tra phỏng vấn đã được xử lý bằng phương pháp thống kê, và tên các loài thực vật được hiệu đính dựa trên tài liệu "Danh lục các loài thực vật Việt Nam".
2001, tập I và Tên cây rừng Việt Nam 2000
2.4.3 Phương pháp xử lý số liệu
- Số liệu được xử lý trên phần mềm Excel
- Tính trị số trung bình của các cá thể Các chỉ tiêu cần tính D1.3(cm), Hvn (m), Hdc (m), Dt (m)
- Xác định tổ thành loài cây cao theo công thức: Ntb= N/m trong đó: Ntb là số cá thể bình quân cho mỗi loài điều tra
N là số cá thể của mỗi loài m là tổng số cá thể điều tra
- Dùng phương pháp so sánh cặp đôi để đánh giá kết quả
Sử dụng các cấp đánh giá trong Sách đỏ Việt Nam 2007, tiêu chuẩn của IUCN 2012, cùng với các quy định pháp luật Việt Nam như Nghị định 32/2006/NĐ-CP và Quyết định 74/2008/QĐ-BNN, nhằm xác định danh mục các loài động vật và thực vật hoang dã, phù hợp với Công ước CITES về buôn bán quốc tế các loài động vật, thực vật nguy cấp.
Tham vấn các nhà lãnh đạo địa phương, các chuyên gia đầu ngành, các nhà khoa học chuyên môn liên quan đến các vấn đề nghiên cứu
Phân tích tài liệu xây dựng báo cáo
Phương pháp chuyên gia được áp dụng để phân tích tài liệu và xây dựng báo cáo Các chuyên gia tham gia thảo luận nhóm nhằm đánh giá tình trạng phân bố, đặc tính sinh thái và tình trạng bảo tồn của các loài thực vật theo Nghị định 32.
- Phân tích, xây dựng danh lục các loài thực vật nguy cấp, quý hiếm cho Khu Bảo tồn thiên nhiên phân theo loài, chi, họ, lớp
Mẫu biểu 03: Biểu hiện trạng các loài thực vật nguy cấp quý hiếm
Tên khoa học Mức độ đe dọa
Ghi chú: Sử dụng thang phân loại của sách đỏViệt Nam 2007 và IUCN (2012)
2.4.5 Phương pháp xây dựng bản đồ
Lược sử hình thành khu bảo tồn thiên nhiên Kẻ Gỗ
Khu Bảo tồn Thiên nhiên Kẻ Gỗ nằm trên địa bàn các huyện Hương Khê, Cẩm Xuyên và Kỳ Anh, thuộc phía nam tỉnh Hà Tĩnh.
Trước năm 1990, rừng Kẻ Gỗ thuộc huyện Cẩm Xuyên và Kỳ Anh do lâm trường Cẩm Kỳ quản lý Sau năm 1990, lâm trường Cẩm Kỳ ngừng khai thác gỗ, và rừng được quản lý bởi Ban quản lý Rừng Phòng hộ Kẻ Gỗ, được thành lập theo Quyết định số 773 QĐ/UB ngày 1/6/1994 của Uỷ ban Nhân dân tỉnh Hà Tĩnh Đến năm 1996, Khu Bảo tồn Thiên nhiên Kẻ Gỗ được thành lập, bao gồm 7.511 ha thuộc lâm phần lâm trường Kỳ Anh II, 5.905 ha thuộc lâm phần lâm trường Hà Đông và 11.385 ha rừng phòng hộ Kẻ Gỗ trước đây.
Khu BTTN Kẻ Gỗ, nằm trong địa hình núi thấp miền Trung Việt Nam, là nơi sinh sống của nhiều loài chim đặc hữu quý hiếm Trong số đó, loài Gà lôi lam Hà Tĩnh đang bị đe dọa tuyệt chủng toàn cầu với mức Nguy cấp.
Lophura hatinhensis, hay còn gọi là Gà lôi mào đen L imperialis, được phát hiện lần đầu bởi Chương trình BirdLife Quốc tế và Trung tâm Tài nguyên Môi trường Đại học Quốc gia Hà Nội vào năm 1988 Đến đầu năm 1990, hai tổ chức này đã nhận định rằng rừng Kẻ Gỗ có tiềm năng quan trọng cho việc bảo tồn các loài chim trĩ Sau khi xác định lại sự tồn tại của Gà lôi lam Hà Tĩnh tại khu vực nam Hà Tĩnh vào năm 1988, một dự án thành lập Khu BTTN Kẻ Gỗ đã được triển khai bởi Chương trình BirdLife Quốc tế và Viện Điều tra Quy hoạch.
Vào tháng 8 năm 1996, dự án đầu tư xác định tổng diện tích Khu Bảo tồn Thiên nhiên Kẻ Gỗ là 24.801 ha, bao gồm khu bảo vệ nghiêm ngặt 20.537 ha và khu phục hồi sinh thái 4.264 ha (Lê Trọng Trải et al 1996).
Ngày 28 tháng 12 năm 1996 Chính Phủ đã ra Quyết định số 970/TTg về việc thành lập Khu BTTN Kẻ Gỗ với quy mô 24.801 ha Khu BTTN có 11.385 ha trước đây thuộc sự quản lý của Ban Quản lý Rừng Phòng hộ Đầu nguồn hồ Kẻ Gỗ, 7.511 ha thuộc sự quản lý của Lâm trường Kỳ Anh II và 5.905 ha thuộc sự quản lý của Lâm trường Hà Đông
Uỷ ban Nhân dân tỉnh Hà Tĩnh đã phê duyệt thành lập Khu Bảo tồn thiên nhiên Kẻ Gỗ theo Quyết định số 519/QD-UB ngày 12/6/1997 Hiện tại, Ban quản lý Khu BTTN Kẻ Gỗ có 68 cán bộ biên chế và hợp đồng dài hạn, cùng với 30 cán bộ hợp đồng thời vụ, một trụ sở và 5 trạm bảo vệ rừng Khu BTTN này đang được Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Hà Tĩnh quản lý.
Kẻ Gỗ, một khu rừng đặc dụng tại Việt Nam, được ghi danh trong danh lục của Cục Kiểm lâm - Bộ NN&PTNT vào năm 2010, với tổng diện tích lên tới 24.801 ha (Cục Kiểm lâm, 2003).
Quyết định số 3209/QĐ-UBND ngày 29/12/2006 của UBND tỉnh Hà Tĩnh phê duyệt kết quả rà soát quy hoạch 3 loại rừng tại địa phương Tiếp theo, Quyết định số 3360/QĐ-UBND ngày 25/11/2008 điều chỉnh kết quả rà soát quy hoạch này Cuối cùng, Quyết định số 1511/QĐ-UBND ngày 28/5/2012 tiếp tục điều chỉnh quy hoạch 3 loại rừng ở tỉnh Hà Tĩnh.
Điều kiện tự nhiên
3.2.1 Vị trí địa lý và diện tích rừng
KBTTN Kẻ Gỗ tọa lạc ở phía Tây Nam tỉnh Hà Tĩnh, giáp phía Đông dãy Trường Sơn Bắc, và nằm trong địa phận hành chính của ba huyện: Cẩm Xuyên, Kỳ Anh và Hương Khê.
- Đông giáp Khu phòng hộ Cẩm Xuyên và khu phòng hộ Nam Hà Tĩnh
- Tây giáp Khu phòng hộ Thạch Hà và Khu phòng hộ Ngàn Sâu
- Bắc giáp Hồ Bộc Nguyên và khu dân cư xã Cẩm Thạch - Cẩm Xuyên -
- Nam giáp tỉnh Quảng Bình
* Toạ độ địa lý: 19 0 91’ đến 20 0 16’ Độ vĩ Bắc
105 0 33’ đến 105 0 64’ Độ kinh Đông Gần KBTTN có các tuyến giao thông quan trọng như đường 12, đường
Hồ Chí Minh và đường 17 mang lại cả thuận lợi lẫn thách thức trong việc bảo vệ và bảo tồn đa dạng sinh học của khu bảo tồn thiên nhiên (KBTTN).
* Diện tích rừng: Tổng diện tích rừng và đất lâm nghiệp đến năm 2012 được giao quản lý: 36.569,9 ha Trong đó:
- Đất có rừng: 29.085,3 ha (chiếm 54,4%), gồm:
+ Rừng tự nhiên: 26.290,2 ha, chiếm 71,8% diện tích khu bảo tồn
+ Rừng trồng: 2.795,1 ha chiếm 7,64% diện tích khu bảo tồn
- Đất chưa có rừng: 7.484,6 ha, chiếm 20,47% diện tích khu bảo tồn
- Đất khác: 2.616,8 ha, chiếm 7,16% diện tích khu bảo tồn
- Phân theo quy hoạch 3 loại rừng:
Rừng đặc dụng có tổng diện tích 21.953,3 ha, chiếm 60% tổng diện tích đất lâm nghiệp Trong đó, rừng tự nhiên chiếm 85% với diện tích 18.664,7 ha, rừng trồng chỉ chiếm 2,3% tương đương 505,1 ha Ngoài ra, diện tích đất chưa có rừng là 2.589,1 ha, chiếm 11,8%, và đất khác chiếm 0,9% với diện tích 194,6 ha.
Rừng phòng hộ có tổng diện tích 9.780,3 ha, chiếm 26,74% tổng diện tích đất lâm nghiệp Trong đó, rừng tự nhiên chiếm 41% với 3.979,1 ha, rừng trồng chiếm 13,3% với 1.298,5 ha, và diện tích đất chưa có rừng là 2.467 ha.
(chiếm 25,2% diện tích rừng phòng hộ); Đất khác 2.217,5 ha (Chiếm 22,7% diện tích rừng phòng hộ)
Diện tích rừng sản xuất đạt 4.836,3 ha, chiếm 13,2% tổng diện tích đất lâm nghiệp Trong đó, rừng tự nhiên chiếm 51,3% với 2.482,3 ha, rừng trồng chiếm 18,3% với 886 ha, và đất chưa có rừng chiếm 30,4% với 1.468 ha.
Khu bảo tồn thiên nhiên Kẻ Gỗ nằm trong vùng đồi núi thấp của miền Trung Việt Nam, với độ cao phổ biến từ 150m đến 500m Địa hình nơi đây được chia cắt phức tạp bởi các khe, suối, và đặc biệt là khu vực thượng nguồn Kẻ Gỗ, nơi có sự chia cắt mạnh mẽ hơn Tổng thể, địa hình của khu vực này có nhiều cấp độ dốc khác nhau.
- Độ dốc cấp I ( < 9 0 ) có diện tích ít
Độ dốc cấp II (15 - 20 độ) chiếm ưu thế trong khu vực, bao gồm các lưu vực như Rào Cời, Rào Len, Rào Bưởi, Rào Trường, Rào Bội, Rào Pheo, Rào Cát, và thung lũng Cát Bịn - thượng nguồn Kẻ Gỗ.
Hình 3.1: Bản đồ Khu bảo tồn thiên nhiên Kẻ Gỗ
Theo tài liệu từ trạm khí tượng thủy văn Hà Tĩnh, khu vực KBTTN Kẻ Gỗ có khí hậu nhiệt đới gió mùa nóng ẩm, với lượng mưa lớn và tập trung, đồng thời cũng mang những đặc điểm riêng của tiểu vùng khí hậu.
- Nhiệt độ trung bình hàng năm:
Nhiệt độ không khí trung bình hàng năm đạt 24°C, với tháng 6 là tháng nóng nhất khi nhiệt độ có thể lên tới 40°C Ngược lại, tháng 11 và tháng 12 là những tháng lạnh nhất, khi nhiệt độ có thể giảm xuống còn 8°C Biên độ nhiệt trung bình giữa ngày và đêm là 7,2°C.
Trong tháng 24, lượng mưa thường cao hơn so với các tháng khác do ảnh hưởng của gió mùa Tây Nam từ Lào, tác động lớn đến sự sinh trưởng và phát triển của cây trồng Khu vực nghiên cứu ghi nhận lượng mưa trung bình hàng năm đạt 2.700mm, chủ yếu tập trung vào mùa mưa từ tháng 8 đến tháng 10 Độ ẩm tương đối bình quân đạt 84%, với tháng khô nhất là tháng 5 và tháng 6.
Lượng bốc hơi trung bình hàng năm đạt khoảng 701mm, với gió chính thổi từ hướng Đông Nam từ biển vào Gió Tây Nam, hay còn gọi là gió phơn Tây Nam, từ Lào vượt qua dãy Trường Sơn mang theo hơi nóng và khô, gây hạn hán ảnh hưởng đến sự phát triển của cây trồng cũng như đời sống của con người và gia súc, gia cầm Tốc độ gió trung bình trong khu vực là khoảng 1,3m/s.
Các chỉ tiêu khí hậu như nhiệt độ không khí, lượng mưa và độ ẩm không khí trung bình hàng tháng trong giai đoạn 2000-2010 tại khu vực nghiên cứu được trình bày chi tiết trong bảng 3.1.
Bảng 3.1: Một số chỉ tiêu khí hậu bình quân các tháng trong năm Đơn vị tính: 0 c; mm; %
Nhiệt độ không khí TB
Lượng mưa TB 86 73 83 107 297 297 319 402 407 392 149 89 2700 Độ ẩm không khí TB
Hình 3.2: Biểu đồ vũ nhiệt Gausen - Walter
Khu vực này bao gồm 7 lưu vực và hệ thống khe suối phong phú, với hồ chứa nước Kẻ Gỗ nằm ở hạ lưu Địa hình cao dốc và chế độ mưa theo mùa dẫn đến biến động lớn về dòng chảy; mùa khô làm giảm lượng nước, gây cạn kiệt hồ Kẻ Gỗ, trong khi mùa mưa lại gia tăng dòng chảy, dẫn đến lũ lụt, xói mòn và sạt lở Hồ Kẻ Gỗ đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp nước cho thành phố Hà Tĩnh, huyện Cẩm Xuyên và huyện Thạch Hà, phục vụ cho sản xuất nông nghiệp và nhu cầu sinh hoạt của người dân.
Khí hậu thuỷ văn của khu vực nghiên cứu có ảnh hưởng đáng kể đến hoạt động sản xuất nông lâm nghiệp và đời sống kinh tế địa phương Lưu lượng thuỷ văn bất thường đã dẫn đến tình trạng lũ lụt và hạn hán nghiêm trọng tại vùng hạ lưu.
Theo bản đồ đất tỉnh Hà Tĩnh (1995) của Viện ĐTQH rừng, các nhóm đất chính thuộc vùng dự án được hình thành trên các nền địa chất:
Trong khu vực, các loại đá mẹ chủ yếu là đá sa thạch và phiến thạch, từ đó hình thành các sản phẩm phong hoá tạo ra đất Feralít với thành phần cơ giới từ trung bình đến thịt nặng Các loại đất chính trong khu bảo tồn thiên nhiên (KBTTN) bao gồm những loại đất này.
+ Đất Feralít màu vàng phát triển trên đá cát, đá sa thạch
+ Đất Feralít đỏ vàng phát triển trên đá phiến thạch
+ Đất Feralít sa thạch bao gồm các loại trầm tích hạt thô và loại có kết cấu hạt mịn
+ Đất dốc tụ ven khe, suối và các thung lũng hẹp
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
Hiện trạng bảo tồn các loài thực vật quý hiếm tại khu BTTN Kẻ Gỗ
4.3 Tái sinh tự nhiên Lim xanh theo tuyến 45
4.4 Tái sinh quanh gốc cây mẹ của loài Lim xanh 46
4.5 Tái sinh tự nhiên Gụ lau theo tuyến 48
4.6 Tái sinh quanh gốc cây mẹ của loài Gụ lau 49
4.7 Tái sinh tự nhiên Sến mật theo tuyến 55
4.8 Tái sinh quanh gốc cây mẹ của loài Sến mật 56
4.9 Tái sinh tự nhiên Lát hoa theo tuyến 62
4.10 Tái sinh quanh gốc cây mẹ của loài Lát hoa 62 viii
3.1 Bản đồ Khu bảo tồn thiên nhiên Kẻ Gỗ 23
3.2 Biểu đồ vũ nhiệt Gausen - Walter 25
4.1 Lim xanh (Erythrophloeum fordii Oliv.) 43 4.2 Bản đồ phân bố cây Lim xanh tại khu BTTN Kẻ Gỗ 44 4.3 Gụ lau (Sindora tonkinensis A Chev.) 47 4.4 Bản đồ phân bố của cây Gụ lau tại khu BTTN Kẻ Gỗ 48 4.5 Trầm hương (Aquilaria crassna Pierre ex Lecomte) 51 4.6 Bản đồ phân bố của cây Trầm hương tại khu BTTN Kẻ Gỗ 52 4.7 Sến mật (Madhuca pasquieri (Dubard)H J Lam) 54 4.8 Bản đồ phân bố cây Sến mật tại khu BTTN Kẻ Gỗ 55 4.9 Chò chỉ (Parashorea chinensis Wang Hsie) 57 4.10 Bản đồ phân bố của cây chò chỉ tại khu BTTN Kẻ Gỗ 58
4.11 Lát hoa (Chukrasia tabularis Juss.) 60
4.12 Bản đồ phân bố cây Lát hoa tại khu BTTN Kẻ Gỗ 61
Bảo tồn đa dạng sinh học là vấn đề quan trọng toàn cầu, trong đó hệ thực vật đóng vai trò hàng đầu vì chúng là mắt xích đầu tiên trong chuỗi thức ăn của hệ sinh thái Thực vật không chỉ là nơi sống của nhiều loài sinh vật mà còn là nền tảng cho sự phát triển và tiến hóa của sinh giới Sự kết hợp giữa bảo tồn đa dạng sinh học và phát triển bền vững đã trở thành chủ đề thảo luận sôi nổi trong các diễn đàn khoa học gần đây, được công nhận chính thức tại Hội nghị Liên hiệp quốc về Môi trường và Phát triển bền vững (UNCED) diễn ra ở Rio de Janeiro vào tháng 6.
Năm 1993, Việt Nam đã ký công ước Quốc Tế về bảo vệ đa dạng sinh học, nhận thức được giá trị to lớn của nó và hạn chế sự suy thoái Chính phủ đã phê duyệt "Kế hoạch hành động bảo vệ đa dạng sinh học ở Việt Nam" Đến năm 2007, kế hoạch mới mang tên "Kế hoạch Quốc gia về đa dạng sinh học đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020" được ban hành Nhờ những nỗ lực này, đến cuối năm 2009, Việt Nam đã có 127 khu rừng đặc dụng, trong đó có 30 vườn Quốc gia và 58 khu bảo tồn thiên nhiên.
(BTTN), 38 khu bảo vệ cảnh quan, với tổng diện tích là 2.541.675 ha, bằng 7,6% diện tích lãnh thổ Quốc gia
Theo điều tra của các chuyên gia, khu hệ thực vật vùng rừng bắc Trường Sơn Hà Tĩnh có 76% diện tích rừng tự nhiên với hai kiểu rừng chính: rừng lá kín thường xanh á nhiệt đới và rừng kín thường xanh nhiệt đới Nơi đây có nhiều loài thực vật bậc cao, gỗ quý và cây dược liệu hiếm Khu BTTN Kẻ Gỗ, thành lập năm 1997, là khu vực bảo vệ tiêu biểu cho sinh cảnh rừng thường xanh cây lá rộng trên địa hình đặc trưng.
Khu bảo tồn thiên nhiên Kẻ Gỗ, nằm ở vùng đồng bằng ven biển miền trung, là nơi duy nhất trên thế giới có hai loài gà Lôi đặc hữu: gà lôi lam đuôi trắng (Lophura hatinhensis) và gà lôi lam mào đen (Lophura imperialis) Theo số liệu từ Viện điều tra quy hoạch rừng năm 1996, khu vực này có 117 họ, 367 chi và 567 loài thực vật, thể hiện sự đa dạng sinh học phong phú với nhiều nguồn gốc thực vật khác nhau như Bắc Việt Nam - Nam Trung Hoa, Indonesia - Malaysia, Ấn Độ - Myanmar và Himalaya Nghiên cứu về thành phần loài thực vật và đa dạng sinh học tại Kẻ Gỗ đã thu hút sự quan tâm của các nhà khoa học và tổ chức nghiên cứu.
Từ khi thành lập khu BTTN Kẻ Gỗ, chưa có chương trình nào điều tra và đánh giá tình trạng bảo tồn các loài và nhóm loài thực vật rừng quý hiếm trong khu vực Để hiểu rõ thực trạng bảo tồn và làm cơ sở cho các giải pháp quản lý, việc điều tra tình trạng quản lý và bảo vệ các loài thực vật nguy cấp, quý hiếm là rất cần thiết Do đó, tôi đã chọn đề tài này để nghiên cứu.
Nghiên cứu hiện trạng và đề xuất giải pháp bảo tồn các loài thực vật quý hiếm tại khu Bảo tồn thiên nhiên Kẻ Gỗ, Hà Tĩnh là một đề tài nghiên cứu quan trọng Mục tiêu của nghiên cứu là đánh giá tình hình hiện tại của các loài thực vật quý hiếm và đưa ra các biện pháp bảo tồn hiệu quả Việc bảo tồn không chỉ giúp duy trì sự đa dạng sinh học mà còn góp phần vào phát triển bền vững của khu vực Kết quả nghiên cứu sẽ cung cấp thông tin hữu ích cho các cơ quan quản lý và cộng đồng trong việc bảo vệ tài nguyên thiên nhiên.
Chương 1 TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Từ thời kỳ tiền sử, con người đã bắt đầu trồng trọt và nhân giống các loài thực vật, đặt tên cho chúng để sử dụng làm lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh và chế tác công cụ lao động, đồng thời truyền lại kiến thức này cho các thế hệ sau.
Nghiên cứu thực vật có nguồn gốc từ Ai Cập cổ đại cách đây hơn 3.000 năm TCN và Trung Quốc cổ đại vào khoảng 2.200 năm TCN, sau đó phát triển mạnh mẽ ở Hy Lạp và La Mã cổ đại với nhiều tác phẩm đáng chú ý.
Theophrastus (371 - 286 TCN) được coi là cha đẻ của phương pháp phân loại thực vật, ông đã phân biệt nhiều tính chất cơ bản trong cấu trúc của thực vật Hai tác phẩm nổi bật của ông, "Lịch sử thực vật" (Historia Plantarum), đã đóng góp quan trọng vào nền tảng khoa học thực vật.
"Cơ sở thực vật" đã mô tả khoảng 500 loài cây, trong khi Plinus (79 - 24 TCN) đã viết cuốn "Lịch sử tự nhiên" (Historia naturalis) với gần 1.000 loài cây được mô tả Cùng thời gian đó, Dioseoride (20 – 60 TCN), một thầy thuốc từ Tiểu Á, đã xuất bản cuốn "Dược liệu học", nêu ra hơn 600 loài cây.
500 loài cây cỏ và xếp chúng vào các họ khác nhau [13]
Trên toàn cầu, số lượng loài thực vật đang có sự biến động lớn và vẫn chưa được xác định chính xác do thiếu nghiên cứu và khảo sát đầy đủ Các nhà thực vật học ước tính rằng hiện nay có khoảng 500.000 đến 600.000 loài thực vật bậc cao trên thế giới.
Theo Al A Phêđôrốp (1965), trên thế giới ước tính có khoảng 300.000 loài thực vật hạt kín, từ 5.000 đến 7.000 loài thực vật hạt trần, 6.000 đến 10.000 loài quyết thực vật, 14.000 đến 18.000 loài rêu, từ 19.000 đến 40.000 loài tảo, 15.000 đến 20.000 loài địa y, cùng với 85.000 đến 100.000 loài nấm và các loài thực vật bậc thấp khác.
Nghiên cứu về thành phần loài thực vật đã được tiến hành từ lâu trên thế giới, với nhiều công trình nổi bật tại Liên Xô cũ như của Vưsotxki (1915), Alokhin (1904), Craxit (1927) và Sennhicốp (1933) Các tác giả cho rằng mỗi vùng sinh thái sẽ hình thành thảm thực vật đặc trưng, thể hiện qua thành phần loài, dạng sống, cấu trúc và động thái của chúng Do đó, nghiên cứu thành phần loài và dạng sống là tiêu chí quan trọng trong việc phân loại các loại hình thảm thực vật.
Bảo tồn và sử dụng hợp lý tài nguyên sinh học đã trở thành chiến lược toàn cầu quan trọng Nhiều tổ chức quốc tế như Công ước ĐDSH, IUCN, UNEP, WWF và IPGRI đã được thành lập để hướng dẫn bảo tồn đa dạng sinh học Các hội nghị, hội thảo và sách hướng dẫn về bảo tồn và phát triển ĐDSH đã được tổ chức và xuất bản, cung cấp kiến thức phong phú về lĩnh vực này Nhiều quốc gia cũng đã tham gia thực hiện các công ước quốc tế liên quan đến bảo tồn đa dạng sinh học.
Kết quả nghiên cứu đặc điểm sinh học, sinh thái học, đặc điểm phân bố, khả năng tái sinh một số loài có giá trị bảo tồn và kinh tế cao tại khu vực nghiên cứu
bố, khả năng tái sinh một số loài có giá trị bảo tồn và kinh tế cao tại khu vực nghiên cứu:
Trong luận văn này, tôi tập trung nghiên cứu một số loài thực vật quý hiếm có giá trị bảo tồn và kinh tế cao tại khu BTTN Kẻ Gỗ, bao gồm Lim Xanh (Erythrophloeum fordii Oliv), Gụ lau (Sindora tonkinensis A Chev.), Sến mật (Madhuca pasquieri (Dubard) H J Lam), Trầm hương (Aquilaria crassna Pierre ex Lecomte), Chò chỉ (Parashorea chinensis Wang Hsie) và Lát hoa (Chukrasia tabularis A Juss.).
Tên khoa học: Erythrophloeum fordii Oliv
Họ: Vang - Caesalpiniaceae a Mô tả:
Cây gỗ lớn có chiều cao trên 30m và đường kính lên tới 120cm, với thân thẳng tròn và gốc có bạnh nhỏ Tán cây xoè rộng, vỏ ngoài màu nâu với nhiều nốt sần màu nâu nhạt, sau đó bong ra thành mảng hoặc vẩy lớn, trong khi lớp vỏ bên trong có màu nâu đỏ Cây thường mọc lẻ, phân cành thấp, và cành non có màu xanh lục Lá cây là dạng kép lông chim hai lần, mọc san sát.
Cây có 3 - 4 đôi cuống cấp 2, mỗi cuống mang 9 - 13 lá chét mọc cách, với lá chét hình trái xoan hoặc trứng trái xoan, đầu nhọn và đuôi gần tròn, kích thước dài từ 4,5cm - 6cm và rộng từ 3cm - 3,5cm Hai mặt lá nhẵn bóng, gân lá nổi rõ Hoa tự hình chùm kép, mỗi cụm dài từ 20cm - 30cm, hoa lưỡng tính gần đều, đài 5 cánh hợp hình chuông, tràng màu xanh vàng với 5 cánh hẹp và dài.
Cây có 10 nhị rời, bầu phủ nhiều lông Quả đậu có hình trái xoan, dài từ 20cm đến 25cm và rộng từ 3,5cm đến 4cm Hạt dẹt màu nâu đen, xếp chồng lên nhau, với vỏ hạt cứng và dây rốn dày, gần bằng kích thước của hạt.
Hình 4.1: Lim xanh (Erythrophloeum fordii Oliv.) b Đặc điểm sinh học và sinh thái học
Cây Lim xanh có tốc độ mọc chậm, thay đổi theo từng giai đoạn tuổi và vùng phân bố, với tăng trưởng trung bình trong 10 năm đạt chiều cao từ 0,5m - 0,7m và đường kính từ 0,5cm - 0,7cm mỗi năm, sau đó có thể tăng trưởng nhanh hơn Mùa ra hoa diễn ra từ tháng 3 đến tháng 5, trong khi quả chín vào tháng 10 - 11 Cây ưa sáng nhưng có thể chịu bóng khi còn nhỏ, phát triển tốt trong khí hậu nhiệt đới với nhiệt độ trung bình năm từ 22°C đến 24°C Lim xanh thường mọc trên đất sét hoặc sét pha sâu dày và phát triển mạnh ở độ cao dưới 300m Cây có khả năng tái sinh hạt và chồi tốt.
Lim xanh phân bố rộng rãi từ biên giới Việt - Trung đến các tỉnh Quảng Nam và Đà Nẵng, với sự tập trung chủ yếu tại Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Bắc Ninh, Bắc Giang, Thanh Hóa, Nghệ An và Hà Tĩnh.
Cây Lim xanh phân bố chủ yếu tại khu BTTN Kẻ Gỗ ở độ cao từ 80 đến 280 m so với mực nước biển Qua 10 tuyến điều tra, đã phát hiện 5 tuyến có sự hiện diện của Lim xanh mọc rải rác, đặc biệt là tại khu vực vùng lõi thuộc xã Cẩm Thịnh và khu vực khe.
Khu vực Nô – núi Động Trời, núi Cục Thao (Cẩm Sơn, Cẩm Lạc), Rào Cời, núi mỹ Ốc, núi Tám Lớ và tiểu khu 328B, 327, 338 thuộc xã Cẩm Mỹ đã được khảo sát qua 10 tuyến điều tra, trong đó phát hiện 15 cây Lim xanh trưởng thành với đường kính từ 10 – 30 cm Kết quả cho thấy có 11 cây phát triển tốt (73.3%), 3 cây sinh trưởng trung bình (20%) và 1 cây sinh trưởng kém do bị cụt và gãy ngọn (7.7%) Phân bố của cây Lim xanh được thể hiện trong hình 4.2.
Hình 4.2: Bản đồ phân bố cây Lim xanh tại khu BTTN Kẻ Gỗ
Kết quả điều tra thực địa cho thấy cây Lim xanh có khả năng tái sinh tốt thông qua hạt và chồi, nhưng chủ yếu là tái sinh bằng hạt Trong quá trình khảo sát cây trưởng thành, tôi cũng tiến hành điều tra cây tái sinh theo tuyến, và các kết quả này được tổng hợp trong bảng 4.3.
Bảng 4.3: Tái sinh tự nhiên Lim xanh theo tuyến Đơn vị tính: cây
Chỉ tiêu Tuyến điều tra
Hvn (cm) theo từng cấp
Lim xanh có khả năng tái sinh tốt, nhưng sự phát triển của cây bị hạn chế bởi thảm cây bụi và các loài thực vật khác Hơn nữa, gỗ Lim xanh có giá trị cao, dẫn đến việc khai thác trộm cây trưởng thành, làm giảm số lượng cây mẹ cần thiết cho quá trình tái sinh.
Tổ thành tái sinh là một hiện tượng quan trọng trong hệ sinh thái rừng, nơi các loài cây đi kèm như Sến mật (Madhuca pasquieri), Dẻ đỏ (Lithocarpus ducampii), Dẻ gai (Castanopsis echinocarpa) và các loài Gội trắng thường xuất hiện song song với Lim xanh Qua điều tra các ô dạng bản dưới tán cây mẹ, chúng tôi nhận thấy sự đa dạng của các loài cây này, góp phần vào sự phát triển bền vững của rừng.
(Aphanamixis polystachya), Trâm cồng (Syzygium cumini), Trám trắng (Canarium album)
- Khoảng cách tái sinh đến gốc cây mẹ: Lập 48 ô dạng bản xung quanh gốc
Chúng tôi đã tiến hành thống kê và tính toán các thông số cần thiết về sự tái sinh quanh gốc cây mẹ của loài Lim xanh, dựa trên 6 cây mẹ trưởng thành đang sinh trưởng và phát triển bình thường (bảng 4.4).
Bảng 4.4: Tái sinh quanh gốc cây mẹ của loài Lim xanh Ô nghiên cứu Tần số xuất hiện Tỷ lệ (%) số cá thể theo chiều cao
Vị trí lượng Số Số ô có
Tổng số cây Hvn < 50cm Hvn từ 51-100cm Hvn > 100cm
Tỷ lệ (%) Trong tán 24 5 20.8 11 34.4 2 6.3 4 12.5 5 15.6 Ngoài tán 24 8 33.3 21 63.6 4 12.5 6 18.7 11 34.4
Tổng 48 13 54.1 32 100 6 18.8 10 31.2 16 50 Tổng hợp kết quả điều tra ở bảng trên cho thấy Lim xanh tái sinh tương đối tốt cả trong tán và ngoài tán cây mẹ; trong 48 ô dạng bản điều tra chỉ có 13 ô xuất hiện Lim xanh tái sinh với tổng số 32 cá thể Trong đó có 11 cá thể ở 5 ô trong tán, chiếm 34.4% và 21 cá thể ở 8 ô ngoài tán, chiếm 63.6% Các cá thể tái sinh có sức sống cao, triển vọng tốt (16 cá thể có kích thước >1m về chiều cao, có 10 cá thể có kích thước lớn hơn 50cm về chiều cao, những cây mới qua giai đoạn cây mạ là 6 cây kích thước