TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Trên thế giới
1.1.1 Cơ sở lý luận Đối với tất cả các quốc gia trên thế giới, tài nguyên rừng đóng vai trò quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển.Cuộc sống của đại đa số người dân đều phụ thuộc vào tài nguyên rừng Đặc biệt là những người dân sống ở miền núi, có đời sống phụ thuộc chủ yếu vào các nguồn thu từ các loại lâm sản Môi trường sống của đại bộ phận dân cư ở miền xuôi cũng như miền ngược đều dựa vào sự tồn tại của tài nguyên rừng Thế nhưng, những cố gắng tăng cường kiểm soát tài chính đối với các khu rừng quốc gia thường chỉ làm tăng thêm mâu thuẫn giữa các bên và chỉ gây thêm tổn hại đến hệ sinh thái, hơn là bảo tồn và sử dụng bền vững các hệ sinh thái đó
Nhân dân từ nhiều quốc gia như Surinam, Solomo, Ấn Độ, Nêpan, Indonesia, Philippines, Zimbabwe, Panama, Mỹ, Canada và các dân tộc khác đã mạnh mẽ lên tiếng yêu cầu chấm dứt tình trạng khai thác tài nguyên rừng Mối quan tâm về nạn phá rừng đã dẫn đến việc tổ chức các cuộc biểu tình quần chúng, chặn đường vận chuyển gỗ và kêu gọi chính phủ ban hành các luật pháp cần thiết để bảo vệ rừng.
Quản lý rừng bền vững bao gồm hai yếu tố chính: xây dựng và bảo vệ nguồn tài nguyên rừng, đồng thời sử dụng chúng để đáp ứng nhu cầu của con người Quá trình này cần được thực hiện một cách liên tục và ổn định qua các thế hệ.
Quản lý và sử dụng rừng bền vững tích hợp các quy trình công nghệ, chính sách và hoạt động nhằm kết hợp nguyên lý kinh tế và xã hội mới với các vấn đề môi trường, đảm bảo phát triển đồng thời cả ba yếu tố này.
- Giảm mức độ nguy cơ cho sản xuất
- Duy trì và nâng cao sự phục vụ sản xuất
- Có thể đứng vững được kinh tế
- Có thể chấp nhận được về mặt xã hội
- Không gây ô nhiễm môi trường
Sử dụng tài nguyên rừng được coi là bền vững khi đảm bảo sự cân đối xã hội, có cơ sở môi trường vững chắc, được chấp nhận về mặt chính trị, khả thi về kỹ thuật và phù hợp với các yếu tố kinh tế.
1.1.2 Những nghiên cứu liên quan đến đề tài Ở Philippines, chiến lược Quốc gia về bảo tồn đa dạng sinh học nêu rõ rằng: “Điều chủ chốt dẫn đến thắng lợi cho bảo tồn đa dạng sinh học là phải đảm bảo rằng các cộng đồng địa phương, những người bị ảnh hưởng nhiều nhất bởi mọi quyết định về chính sách liên quan đến môi trường, sẽ tham gia vào quá trình lập kế hoạch và quản lý đối với bảo tồn đa dạng sinh học” Ở Indonexia, kế hoạch hành động đa dạng sinh học ghi nhận rằng:
Mục tiêu chính của kế hoạch hành động là tăng cường sự tham gia của công chúng, đặc biệt là cộng đồng sống trong các vùng có tính đa dạng sinh học cao, điều này được coi là điều kiện tiên quyết cho việc thực hiện kế hoạch.
Nghiên cứu của Bink Man W (1988) tại làng Ban Pong, tỉnh S.Risaket, Thái Lan cho thấy rằng các tầng lớp nghèo phụ thuộc vào rừng để chăn thả gia súc và thu hái tài nguyên lâm sản như củi và hoa quả Điều này minh họa sự cần thiết của việc người dân địa phương tham gia vào lập kế hoạch và thiết kế các dự án phát triển (FAO, 1996).
Trong tác phẩm “Thay đổi và NLKH bản địa” của Colfer.C.J.P (1980) tại Đông Kalimantan, tác giả đã chỉ ra rằng việc thu hái lâm sản phụ được xem như hàng hóa miễn phí, ai cũng có thể thu lượm Tuy nhiên, quyền thu hái này không được quy định rõ ràng, mà trở thành một thông lệ, bao gồm cả việc sử dụng gỗ để xây nhà, đôi khi được biện hộ cho việc khai thác và bán gỗ.
Năm 1986, trong tác phẩm “Lâm nghiệp xã hội và hành động của cộng đồng”, các tác giả Dorji, D.C Chavada, B Thinley và Wangchuks nhấn mạnh rằng rừng là nguồn cung cấp gỗ, thực phẩm cho gia súc, và tạo việc làm, đồng thời bảo vệ đất và nước ở vùng dốc (FAO, 1996) Tại Nêpan, một số mô hình bảo tồn đa dạng sinh học đã thành công, nhưng cuộc xung đột vũ trang kéo dài gần một thập kỷ đã ảnh hưởng tiêu cực đến công tác này Nghiên cứu tại VQG Bardia cho thấy 73% dân cư địa phương phụ thuộc vào nông nghiệp và nguồn tài nguyên rừng Tại Ấn Độ, rừng đứng thứ hai về diện tích, với 275 triệu người dân nông thôn dựa vào rừng cho sinh kế Nghiên cứu về lâm nghiệp cộng đồng ngoài khu rừng đặc dụng cho thấy các khu rừng có tiềm năng lớn trong việc giảm nghèo và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nông thôn, đồng thời hỗ trợ các mục tiêu bảo tồn quan trọng.
Trước đây, nhiều VQG và KBT áp dụng phương thức quản lý dựa trên mô hình của Hoa Kỳ, chủ yếu là ngăn cấm người dân địa phương xâm nhập và khai thác tài nguyên rừng, gọi là biện pháp “Rào và phạt” Tuy nhiên, tại các nước Đông Nam Á, phương thức này không phù hợp vì nó khiến người dân địa phương mất quyền tiếp cận với nguồn tài nguyên rừng, trong khi họ lại rất phụ thuộc vào tài nguyên này để sinh sống.
Nghiên cứu toàn cầu đã chỉ ra rằng có sự phụ thuộc của các cộng đồng dân cư vào tài nguyên thiên nhiên và nhấn mạnh tầm quan trọng của sự tham gia của người dân trong hoạt động bảo tồn TNR Tuy nhiên, hiện tại vẫn thiếu những nghiên cứu định lượng để xác định tác động của cộng đồng đối với TNR và đề xuất các giải pháp quản lý rừng bền vững.
Tổng quan vấn đề nghiên cứu ở Việt Nam
Trong bối cảnh dân số tăng nhanh và nhu cầu xã hội gia tăng, nạn khai thác gỗ ồ ạt cùng với việc không tuân thủ quy trình khai thác đã dẫn đến sự suy giảm diện tích và chất lượng rừng, ảnh hưởng nghiêm trọng đến đa dạng sinh học của hệ sinh thái rừng Để đối phó với tình hình này, Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản và luật liên quan đến sản xuất lâm nghiệp nhằm bảo vệ và phát triển bền vững tài nguyên rừng.
- Luật bảo vệ và phát triển rừng 2004
Nghị định số 18-HĐBT ngày 17/1/1992 của Hội đồng Bộ trưởng quy định danh mục thực vật rừng và động vật rừng quý hiếm, đồng thời thiết lập chế độ quản lý và bảo vệ các loài này Nghị định nhằm nâng cao nhận thức về giá trị của tài nguyên thiên nhiên, bảo tồn đa dạng sinh học và đảm bảo phát triển bền vững Việc thực hiện các quy định trong nghị định sẽ góp phần bảo vệ hệ sinh thái và ngăn chặn tình trạng khai thác trái phép.
Nghị định 163/1999/NĐ-CP, ban hành ngày 16/11/1999, quy định về việc giao đất và cho thuê đất lâm nghiệp cho tổ chức, hộ gia đình và cá nhân nhằm sử dụng ổn định và lâu dài cho mục đích lâm nghiệp Nghị định này đóng vai trò quan trọng trong việc quản lý và phát triển nguồn tài nguyên rừng, khuyến khích bảo vệ môi trường và nâng cao đời sống của cộng đồng.
Quyết định số 186/2006/QĐ-TTg, ban hành ngày 14/8/2006, của Thủ tướng Chính phủ quy định về quản lý rừng, cùng với Thông tư số 99/2006/QĐ-BNN ngày 6/11/2006 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, hướng dẫn thực hiện một số điều của Quy chế này, tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho công tác quản lý và bảo vệ rừng tại Việt Nam.
- Đề án giao rừng, cho thuê rừng giai đoạn 2007 – 2010
- Nghị định số 23/2006/N Đ-CP ngày 3/3/2006 của Chính phủ về thi hành Luật Bảo vệ và phát triển rừng
Quyết định số 2730/QĐ/BNN-KL, ban hành ngày 5/8/2008 bởi Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, phê duyệt Đề án chương trình đầu tư xây dựng và hoàn thiện cơ sở hạ tầng cho hệ thống rừng đặc dụng Việt Nam trong giai đoạn tới.
- Luật Đa dạng sinh học năm 2008
- Đề án hỗ trợ người dân vùng cao canh tác nông lâm nghiệp bền vững trên đất nương rẫy giai đoạn 2008 – 2012
Công tác bảo tồn rừng cần được xây dựng dựa trên các quy định pháp lý cụ thể, bao gồm Luật Bảo vệ và phát triển rừng ban hành ngày 12/8/1991 và sửa đổi vào ngày 3/12/2004 Ngoài ra, Quyết định số 08/2001/QĐ-TTg ngày 11/1/2001 quy định về phạm vi sử dụng rừng cho người dân địa phương trong các khu bảo tồn, cùng với Quyết định 186/2006/QĐ-TTg ngày 14/8/2006 về quản lý rừng, đều đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ và phát triển tài nguyên rừng.
- Nghị định số 117/2010/NDD-CP ngày 24/12/2010 của Thủ tướng Chính phủ về tổ chức và quản lý hệ thống rừng đặc dụng
Nghị định số 157/2013/NĐ-CP, ban hành ngày 11/11/2013, quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý rừng, phát triển rừng, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản Nghị định này nhằm tăng cường công tác quản lý, bảo vệ tài nguyên rừng, đồng thời xử lý nghiêm các hành vi vi phạm, góp phần phát triển bền vững ngành lâm nghiệp.
1.2.2 Một số nghiên cứu liên quan
Trong suốt nhiều năm, các nhà khoa học đã chú trọng đến việc cải thiện hiệu quả của các Khu Bảo tồn Thiên nhiên (BTTN) và Vườn Quốc gia (VQG) với mục tiêu bảo tồn và phát triển bền vững Họ tìm cách cân bằng giữa việc bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và phát triển kinh tế xã hội cho cộng đồng địa phương.
Theo Donovan D., Rambo A.T., Fox J., Lê Trọng Cúc, Trần Đức Viên
Năm 1997, tác giả đã chỉ ra rằng diện tích rừng già ở miền núi phía Bắc Việt Nam đã giảm sút nghiêm trọng do áp lực khai thác gỗ, củi và các lâm sản khác như tre, nứa, nấm, cây dược liệu và động vật hoang dã Những sản phẩm này không chỉ là nguồn tài nguyên quý giá mà còn là sinh kế chủ yếu của người dân địa phương.
D.A Gilmour và Nguyễn Văn Sản (1999), đã thực hiện một số nghiên cứu về quản lý vùng đệm tại các VQG: Ba Vì, Bạch Mã và Cát Tiên Kết quả nghiên cứu đã phản ánh khá rõ nét thực trạng vùng đệm ở Việt Nam như: Tình hình KTXH, tình trạng bảo tồn tại các VQG và cùng đệm, hoạt động phát triển trong các vùng đệm, tôt chức, thể chế cho quản lý vùng đệm… Các kết luận đưa ra mới dừng lại ở tầm vĩ mô như nguyên tắc, phương hướng chung, chưa cụ thể hóa làm cái gì và làm như thế nào
Nghiên cứu của Trần Ngọc Lân (1999) và Đỗ Anh Tuân (2001) tại KBTTN Pù Mát cho thấy nông hộ trong vùng đệm có mối liên hệ chặt chẽ với rừng, với thu nhập từ khai thác lâm sản và canh tác nương rẫy đóng vai trò quan trọng Mặc dù có sự chuyển đổi sinh kế, nhưng chỉ một số ít hộ có hiểu biết và vốn đầu tư Hơn nữa, nhiều người dân địa phương vẫn sử dụng tài nguyên rừng một cách bất hợp pháp, với 34% thu nhập hàng năm của hộ gia đình trong vùng đệm và 62% trong vùng bảo vệ nghiêm ngặt đến từ rừng Việc thành lập KBTTN vào năm 1997 đã làm giảm đáng kể diện tích đất và thu nhập từ rừng của người dân Mặc dù có một số chương trình hỗ trợ, nhưng chúng chưa đủ để bù đắp những mất mát do việc thành lập KBTTN gây ra.
Nguyễn Thị Phương (2003) trong nghiên cứu “Tác động của cộng đồng địa phương vùng đệm đến tài nguyên rừng VQG Ba Vì – Hà Tây” đã sử dụng phần mềm SPSS để phân tích dữ liệu về các hình thức và nguyên nhân tác động Kết quả cho thấy cộng đồng chủ yếu sống bằng nghề nông, nhưng diện tích đất nông nghiệp hạn chế và năng suất lúa thấp Để đáp ứng nhu cầu sinh hoạt, họ đã tác động đến tài nguyên rừng qua nhiều hình thức như sử dụng đất rừng để sản xuất hàng hóa, khai thác sản phẩm tiêu dùng và chăn thả gia súc, trong đó sử dụng đất rừng để sản xuất hàng hóa chiếm tỷ trọng thu nhập cao nhất (36,4%) Tuy nhiên, nghiên cứu chưa đánh giá được mức độ tác động đến tài nguyên rừng của các dân tộc và nhóm hộ khác nhau.
Hoàng Quốc Xạ (2005) đã kết hợp hiệu quả giữa phân tích định tính và định lượng để xác định các hình thức và nguyên nhân tác động của cộng đồng địa phương đến tài nguyên rừng tại vùng đệm VQG Xuân Sơn, Phú Thọ Mặc dù các giải pháp mà tác giả đề xuất bao trùm nhiều lĩnh vực, nhưng chúng chưa dựa trên các yếu tố đã được phân tích cụ thể trong khu vực nghiên cứu và chưa thể hiện tính khả thi của những giải pháp này.
Ngô Ngọc Tuyên (2007) đã nghiên cứu ảnh hưởng của các yếu tố sản xuất đến tổng thu nhập hộ gia đình tại KBTTN Na Hang, Tuyên Quang, thông qua việc khảo sát 120 hộ gia đình từ 4 dân tộc khác nhau Mặc dù nghiên cứu chỉ ra rằng việc "sử dụng tài nguyên rừng" có tác động tiêu cực nhất đến thu nhập, nhưng tác giả chưa làm rõ phương pháp chọn mẫu Nghiên cứu sử dụng hàm Cobb-Douglas để phân tích ảnh hưởng của 3 yếu tố nguồn lực đến thu nhập, tuy nhiên chưa xem xét các yếu tố hiệu quả.
1.2.3 Hiện trạng tài nguyên rừng ở Việt Nam
Theo Quyết định số 3135/QĐ-BNN-TCLN ngày 06/8/2015 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, số liệu theo dõi diễn biến rừng năm 2014 cho thấy hiện trạng rừng trên toàn quốc và từng khu vực.
MỤC TIÊU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Mục tiêu nghiên cứu
Nâng cao hiệu quả quản lý và bảo vệ tài nguyên rừng tại Khu BTTN Pù Hu, huyện Quan Hóa, tỉnh Thanh Hóa, không chỉ góp phần bảo vệ môi trường mà còn cải thiện đời sống của người dân sống trong vùng đệm.
- Đánh giá được thực trạng công tác quản lý bảo vệ rừng tại KBT Pù Hu
- Đề xuất các giải pháp trong công tác quản lý bảo vệ rừng phù hợp với khu vực
Nội dung nghiên cứu
2.2.1 Nghiên cứu đặc điểm tài nguyên rừng tại KBT
- Phân bố, diện tích rừng
- Trữ lượng, chất lượng rừng
2.2.2 Nghiên cứu thực trạng công tác quản lý bảo vệ rừng tại KBT
- Tổ chức công tác bảo vệ rừng
- Sự phối hợp của người dân trong công tác quản lý bảo vệ rừng
- Tình hình vi phạm pháp luật về quản lý tài nguyên rừng tại KBT trong những năm gần đây
- Các chương trình, dự án đã và đang triển khai tại KBT
2.2.3 Nghiên cứu đánh giá những nhân tố ảnh hưởng tới công tác quản lý tài nguyên rừng tại vùng đệm KBT
- Ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên: Khí hậu, vị trí địa lý, địa hình, đất đai….đến quản lý tài nguyên rừng
- Ảnh hưởng của điều kiện kinh tế đến quản lý tài nguyên rừng
- Ảnh hưởng của xã hội: phong tục, tập quán, kiến thức bản địa
- Ảnh hưởng của một số chính sách do nhà nước ban hành đến quản lý tài nguyên rừng vùng đệm
2.2.4 Nghiên cứu đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý bảo vệ rừng tại Khu bảo tồn thiên nhiên Pù Hu
Trên cơ sở hiện trang và tình hình quản lý bảo vệ rừng ở vùng đệm KBT nghiên cứu đề xuất một số giải pháp sau:
- Giải pháp về cơ chế chính sách
- Giải pháp về kỹ thuật, công nghệ
- Giải pháp về kinh tế - xã hội
Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài bao gồm các khu rừng và diện tích rừng đặc dụng, cùng với chính quyền địa phương các cấp và cộng đồng dân cư sống tại vùng đệm của Khu bảo tồn thiên nhiên Pù Hu, huyện Quan Hóa, tỉnh Thanh Hóa.
Phạm vi nghiên cứu
2.4.1 Phạm vi về nội dung Đề tài chỉ tập trung vào nghiên cứu thực trạng công tác quản lý bảo vệ rừng và đề xuất một số các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý tài nguyên rừng ở vùng đệm Khu BTTN Pù Hu, huyện Quan Hóa, tỉnh Thanh Hóa
2.4.2 Phạm vi về không gian Đề tài được thực hiện tại 3 xã.Tại mỗi xã, chọn 1 thôn điểm thuộc vùng đệm Khu BTTN Pù Hu, Quan Hóa, Thanh Hóa Bao gồm:
- Bản Yên thuộc xã Hiền Chung
- Bản Chiềng thuộc xã Phú Sơn
- Bản Khang II thuộc xã Nam Tiến
Lý do lựa chọn ba thôn và ba xã này là vì đây là những khu vực vùng sâu, vùng xa, nơi mà đời sống của người dân còn gặp nhiều khó khăn Mục đích là để đánh giá mức độ phụ thuộc của người dân vào rừng, từ đó hiểu rõ hơn về vai trò của rừng trong cuộc sống của họ.
Phương pháp nghiên cứu
2.5.1 Phương pháp chọn địa điểm nghiên cứu
Các địa điểm nghiên cứu được xác định sau khi tiến hành khảo sát sơ bộ tại một số xã vùng đệm Khu Bảo tồn, đồng thời có sự trao đổi với cán bộ Khu Bảo tồn và Hạt kiểm lâm Để lựa chọn địa điểm nghiên cứu, cần đảm bảo các tiêu chí cụ thể.
- Có địa bàn hành chính nằm trong ranh giới vùng đệm KBTTN Pù Hu
- Người dân có sử dụng tài nguyên rừng trong phát triển kinh tế
- Có cộng đồng người dân tộc Thái sinh sống
Lựa chọn thôn/bản nghiên cứu:
- Những thôn/bản sống gần rừng
- Thôn có đầy đủ các loại kinh tế hộ: Hộ khá; hộ trung bình; hộ nghèo
2.5.2 Phương pháp xác định đối tượng điều tra
2.5.2.1 Xác định dung lượng mẫu điều tra
+ n: Số hộ cần điều tra
+ N: Tổng số hộ của thôn/bản điều tra
+ u: Hệ số tin cậy của phân bố chuẩn (u=1,96)
Căn cứ theo công thức trên ta có kết quả sau:
- Tổng số hộ dân của Bản Yên xã Hiền Chung: 99 hộ Như vậy, theo công thức trên số hộ điều tra ở bản Yên là: 48 hộ
- Tổng số hộ của bản Chiềng xã Phú Sơn: 61 hộ Số hộ điều tra sẽ là:
- Tổng số hộ của bản Khang II xã Nam Tiến: 73 hộ Số hộ điều tra sẽ là: 41 hộ
2.5.2.2 Phương pháp chọn hộ gia đình phỏng vấn
Việc chọn lựa hộ gia đình phỏng vấn đáp ứng các tiêu chí sau:
Đại diện cho các nhóm hộ khá, trung bình và nghèo, tiêu chí phân loại được kế thừa từ danh sách của Ban quản lý thôn/bản và UBND xã.
- Đại diện cho các dân tộc chủ yếu trên địa bàn nghiên cứu: Thái, Kinh
Các hộ gia đình được chọn lựa dựa trên phân loại, sau đó tiến hành rút ngẫu nhiên để lấy mẫu đại diện cho nhóm dân tộc và thực hiện phỏng vấn Đề tài phỏng vấn các hộ gia đình và cán bộ chính quyền địa phương, sử dụng bảng câu hỏi phỏng vấn làm công cụ chính Cuộc khảo sát được thực hiện tại 3 thôn thuộc 3 xã Hiền Chung, Phú Sơn và Nam Tiến.
2.5.3 Phương pháp thu thập thông tin
2.5.3.1 Phương pháp kế thừa tài liệu
Sử dụng phương pháp kế thừa để thu thập các tài liệu, số liệu có liên quan đến:
Tài liệu liên quan đến khí hậu thủy văn, động vật, thực vật, đất đai và thổ nhưỡng là rất quan trọng trong việc nghiên cứu khu vực này Ngoài ra, các yếu tố như dân số, lao động, điều kiện dân sinh, kinh tế và xã hội cũng đóng vai trò then chốt trong việc hiểu rõ hơn về môi trường và sự phát triển bền vững tại khu vực nghiên cứu.
- Các tài liệu, bản đồ liên quan đến hiện trạng tài nguyên rừng, và công tác quản lý bảo vệ rừng tại Khu BTTN Pù Hu
- Số liệu phân chia trạng thái và trữ lượng theo các trạng thái rừng hiện có
- Các báo cáo tổng kết năm của KBT và các xã nghiên cứu
- Báo cáo tổng hợp các vụ vi phạm trên địa bàn trong năm 2014-2015
- Những kết quả nghiên cứu liên quan đến quản lý rừng tại địa phương
- Những tài liệu về kinh nghiệm quản lý rừng của các nước, những nguyên tắc và tiêu chuẩn quản lý bảo vệ rừng của các tổ chức quốc tế
2.5.3.2 Phương pháp điều tra ngoại nghiệp
Phỏng vấn hộ gia đình là phương pháp quan trọng để xác định mức độ phụ thuộc vào tài nguyên rừng, nhu cầu sử dụng tài nguyên rừng trong phát triển kinh tế, và các vấn đề cần thu thập trong nghiên cứu Qua đó, chúng ta có thể hiểu rõ hơn về vai trò của tài nguyên rừng trong đời sống cộng đồng và ảnh hưởng của nó đến sự phát triển bền vững.
Để thu thập thông tin chi tiết về các hộ gia đình trong vùng dự án, tiến hành điều tra phỏng vấn bằng bảng câu hỏi, ghi chép sổ và chụp ảnh tư liệu Mục tiêu của cuộc điều tra là nắm bắt thông tin về công tác quản lý tài nguyên rừng, nguồn lao động trong nông nghiệp, vật nuôi, cũng như nguồn và mức độ thu nhập, đồng thời xác định các yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của người dân.
Phương pháp phỏng vấn sâu được áp dụng với cán bộ chính quyền, các ban ngành địa phương, cùng với cán bộ Khu bảo tồn và Hạt kiểm lâm Đồng thời, việc thu thập số liệu thứ cấp từ những người lãnh đạo xã và thôn/bản cũng được chú trọng.
(Chi tiết bảng câu hỏi phỏng vấn có phụ lục 10 kèm theo)
2.5.4 Phương pháp xử lý và phân tích số liệu
Sử dụng phần mềm Excel 2007 để phân tích hiện trạng tài nguyên rừng giúp đánh giá sự phụ thuộc của người dân vào tài nguyên này Việc phân tích nhu cầu sử dụng tài nguyên rừng trong phát triển kinh tế sẽ cung cấp cái nhìn sâu sắc về mối liên hệ giữa bảo vệ tài nguyên và cải thiện đời sống cộng đồng.
- Phân tích SWOT (Điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội, thách thức)
Công cụ SWOT là một phương pháp phân tích được trình bày dưới dạng ma trận 2x2, bao gồm bốn thành phần chính: Điểm mạnh (Strengths), Điểm yếu (Weaknesses), Cơ hội (Opportunities) và Thách thức (Threats).
Tương lai Điểm mạnh (Strengths) Điểm yếu (Weaknesses)
Từ mô hình trên ta có:
Điểm mạnh của Khu bảo tồn là những yếu tố tích cực và có lợi, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý rừng đặc dụng Những tác nhân này không chỉ hỗ trợ trong việc bảo vệ môi trường mà còn thúc đẩy sự phát triển bền vững của hệ sinh thái tại khu vực.
Điểm yếu trong việc quản lý rừng đặc dụng tại Khu bảo tồn chủ yếu xuất phát từ các tác nhân bên ngoài mang tính tiêu cực, gây khó khăn cho việc nâng cao hiệu quả quản lý.
- Cơ hội là những tác nhân bên ngoài Khu bảo tồn (xã hội, chính phủ…) mang tính tích cực hoặc có lợi giúp đạt được mục tiêu đề ra
- Nguy cơ là những tác nhân bên ngoài Khu bảo tồn (xã hội, chính phủ…) mang tính tiêu cực hoặc gây khó khăn trong việc đạt mục tiêu
ĐIỀU KIỆN CƠ BẢN VỀ TỰ NHIÊN, KINH TẾ - XÃ HỘI
Phân tích, đánh giá điều kiện tự nhiên
Khu Bảo tồn thiên nhiên Pù Hu tọa lạc tại phía Tây Bắc tỉnh Thanh Hóa, trải dài qua hai huyện Quan Hóa với 10 xã và huyện Mường Lát với 1 xã Nơi đây cách thành phố Thanh Hóa khoảng 140 km về hướng Tây Bắc.
+ Từ 20 0 30’ đến 20 0 40’ vĩ độ Bắc
+ Từ 104 0 40’ đến 105 0 05’ kinh độ Đông
+ Phía Bắc giáp với các xã Trung Sơn, Trung Thành huyện Quan Hóa
+ Phía Nam giáp với các xã Nam Tiến, Thiên Phủ, Hiền Chung, Hiền Kiệt huyện Quan Hóa
+ Phía Đông giáp với các xã Thanh Xuân, Phú Xuân, Phú Sơn, Phú Thanh, huyện Quan Hóa
+ Phía Tây giáp với xã Trung Lý, huyện Mường Lát
Khu BTTN Pù Hu nằm trên dãy núi đất phía Tây của vành đai núi đá vôi, kéo dài từ Pù Luông đến Vườn Quốc gia Cúc Phương Đỉnh cao nhất là Pù Hu với độ cao 1.468 m, tọa lạc ở Tây Nam khu bảo tồn Bên cạnh đó, phía Tây Bắc có đỉnh Pù Học cao 1.424 m Địa hình ở phía Đông và phía Nam của các dãy núi này dần giảm độ cao, kéo dài đến các sườn dông ven sông Mã và sông Luồng.
Khu bảo tồn thiên nhiên Pù Hu, với địa hình hiểm trở và độ cao trung bình từ 800 đến 1.000 m, vẫn giữ được phần nguyên sơ của hệ sinh thái rừng núi Địa hình nơi đây được chia thành hai vùng chính: vùng núi cao, tập trung chủ yếu ở các xã Hiền Chung, Phú Sơn, Trung Thành, có độ dốc lớn và diện tích khoảng 8.665,5 ha; và vùng núi thấp, đồi cao ở các xã Phú Thanh, Nam Tiến, Thanh Xuân với độ dốc trung bình từ 20 đến 25 độ.
Khu bảo tồn Pù Hu có hệ thống đồi núi chủ yếu là núi đất, với tỷ lệ đá lộ đầu cao, điều này gây ra nhiều khó khăn trong công tác quản lý và bảo vệ rừng.
Khu bảo tồn thiên nhiên Pù Hu có đặc điểm khí hậu nhiệt đới, gió mùa mang nét đặc trưng khí hậu vùng Tây Bắc Việt Nam
- Nhiệt độ trung bình năm 23,1 0 c
- Lượng mưa trung bình năm 1.525 mm
- Độ ẩm bình quân năm là 86%
Nhiệt độ bình quân năm biến động từ 20 0 C - 25 0 C, nhiệt độ tối cao là
Nhiệt độ tại khu vực này dao động từ 5°C đến 39°C, với lượng mưa bình quân hàng năm tương đối thấp, từ 1.400 mm đến 1.600 mm Khí hậu nơi đây được chia thành hai mùa rõ rệt: mùa mưa kéo dài từ tháng 6 đến tháng 10 và mùa khô từ tháng 11 đến tháng 5 năm sau.
Trong khu vực, có hai loại gió chính là gió mùa Đông Nam và gió mùa Đông Bắc Gió mùa Đông Nam mang lại độ ẩm cao, gây ra những trận mưa rào vào mùa Hè Trong khi đó, gió mùa Đông Bắc thổi từ tháng 11 đến tháng 2 năm sau, mang theo không khí lạnh.
4 và tháng 5 hàng năm ở đây còn xuất hiện từ 2-3 đợt gió Lào có đặc điểm khô nóng rất dễ gây cháy rừng
Khu BTTN Pù Hu, nằm giáp ranh với vùng Tây Bắc, thường chịu ảnh hưởng của bão qua những trận mưa lớn, với lượng mưa có thể lên tới 1.000 mm mỗi trận, dẫn đến nguy cơ lũ lụt nghiêm trọng.
Khu BTTN Pù Hu có hai hệ suối chính, bao gồm hệ suối chảy trực tiếp vào sông Mã từ phía Tây, Bắc và Đông như suối Kép, suối Quặc, suối Lương, suối Nánh, suối Long; và hệ suối chảy vào sông Luồng từ phía Nam khu bảo tồn, với các con suối như suối San, suối Căm, suối Pheo, suối Ngà, suối Cua Sông Mã và sông Luồng, nằm ngoài ranh giới Khu BTTN Pù Hu, có lưu lượng lớn và độ dốc cao, tạo tiềm năng thủy điện lớn, cung cấp nước cho nhà máy thủy điện Trung Sơn, thủy điện Hồi Xuân và hỗ trợ sản xuất nông nghiệp cho các khu vực lân cận.
3.1.5 Đặc điểm đất đai Đất Khu BTTN Pù Hu hình thành từ các loại đá Granit, Riolit, Phiến thạch sét, Sa thạch sét và Sạn kết, đá Vôi gồm các nhóm đất sau:
- Nhóm đất feralít màu vàng đỏ phát triển trên đá Granit phân bố ở vùng núi trung bình
- Nhóm đất feralít màu đỏ vàng phát triển trên đá Sa Thạch, Phiến thạch phân bố ở những vùng núi thấp đồi cao
- Nhóm đất feralít mùn phát tiển trên đá Granit và phân bố ở những vùng núi cao trên sườn núi Pù Hu
- Nhóm đất feralít mùn phát triển trên đá Phiến thạch sét và đá Sa thạch có kết cấu mịn phân bố trên vùng núi cao
Đất dốc tụ thường xuất hiện ở chân núi, tạo thành một tổ hợp đất thung lũng bao gồm đất dốc tụ, lũy tích và sản phẩm hỗn hợp Tổ hợp này còn chứa nhiều sỏi sạn và các cấp hạt khác nhau, góp phần tạo nên đặc trưng của khu vực.
* Đặc điểm các nhóm lập địa chủ yếu khu bảo tồn Pù Hu
Dạng lập địa N 2 IVFHs và N 2 IVFHa chiếm 29,5% diện tích, phân bố chủ yếu ở các vùng sườn núi có độ cao trên 700 m Đất Feralit hình thành trên đá Granit, được sử dụng chủ yếu cho mục đích phòng hộ đầu nguồn và bảo vệ đa dạng sinh học.
Dạng lập địa N3IVFs và N3IVFa chiếm 24,4% diện tích, phân bố ở độ cao dưới 700 m và độ dốc dưới 35 độ Đất feralit có độ dày tầng đất không lớn, được sử dụng chủ yếu cho mục đích phòng hộ đầu nguồn và bảo vệ đa dạng sinh học.
Dạng lập địa N 3 IIIFs và N 3 IIIFa chiếm 18,5% diện tích, với đất Feralit phân bố tại các xã trong phân khu phục hồi sinh thái Đất này có độ dốc từ 16-20 độ và tầng dày trung bình từ 50 - 70 cm, hướng đến việc bảo vệ đa dạng sinh học.
Dạng lập địa N 2 IIIFHs và N 2 IIIFHa chiếm 11% diện tích, phân bố chủ yếu ở vùng núi cao với độ dốc dưới 25 độ Đất Feralit trên Granit có tầng đất từ trung bình đến dày, được sử dụng chủ yếu để bảo vệ đa dạng sinh học.
Dạng lập địa T 1 IVFs; T 1 IVFa chiếm 6,4% diện tích, phân bố chủ yếu trên các vùng sườn suối với độ dốc lớn Đất ở khu vực này là Feralits màu đỏ vàng, phù hợp cho việc sử dụng vào mục đích lâm nghiệp.
Đánh giá về chất lượng, quy mô, cơ cấu dân số và lao động
3.2.1 Dân số, dân tộc và lao động
Phạm vi Khu BTTN Pù Hu nằm trong địa giới hành chính của 11 xã (2 huyện Quan Hóa và Mường Lát)
Dân số khu vực đạt 33.910 người với 7.269 hộ, mật độ trung bình là 39 người/km² Trong đó, xã Phú Xuân có mật độ dân số cao nhất là 75 người/km², trong khi xã Trung Lý có mật độ thấp nhất là 29 người/km² Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên toàn khu vực hiện nay là 1,1%.
Trước chiến tranh chống Mỹ, khu vực chủ yếu có người Thái và Mường sinh sống Sau chiến tranh, có sự chuyển biến lớn về thành phần dân tộc khi đồng bào H’mông từ Sơn La, Yên Bái di cư đến, thành lập các bản như Suối Tôn ở xã Phú Sơn và các bản ở Trung Lý Cùng với chương trình kinh tế mới, người Kinh từ các huyện đồng bằng như Thọ Xuân, Thiệu Hóa cũng đến, làm cho thành phần dân tộc trở nên đa dạng hơn Hiện nay, trong khu bảo tồn, dân tộc Thái có 20.729 người, chiếm 61,13%; dân tộc Mường có 8.241 người, chiếm 24,3%; dân tộc H’mông có 4.055 người, chiếm 11,96%; và người Kinh.
Tổng số lao động trong khu vực là 18.356 người, chiếm 55,3% tổng dân số, với trung bình mỗi hộ có khoảng 2,5 lao động Đáng chú ý, hơn 91,9% lao động chủ yếu làm trong ngành nông nghiệp, trong khi phần còn lại tham gia vào các lĩnh vực khác như thương mại, dịch vụ, giáo dục, y tế và công chức tại các xã trong vùng.
(Chi tiết có phục lục kèm theo)
Trong 11 xã vùng đệm, có 61 bản giáp ranh với khu bảo tồn, với tổng cộng 3.855 hộ và 19.329 khẩu, trong đó có 8.928 lao động Huyện Quan Hóa có 45 bản thuộc 10 xã, bao gồm 3.186 hộ, 14.984 khẩu và 6.695 lao động Huyện Mường Lát có xã Trung Lý với 16 bản, tổng cộng 609 hộ, 3.796 khẩu và 1.892 lao động.
3.2.2 Đặc điểm phân bố và đời sống dân cư
3.2.2.1 Đặc điểm phân bố dân cư
Sự phân bố dân cư ở vùng đệm có những đặc điểm riêng biệt của các xã miền núi, với sự hiện diện của nhiều dân tộc khác nhau Mật độ dân số không đồng đều giữa các khu vực, thường tập trung cao ở vùng thấp, đặc biệt là tại xã Phú Xuân, nơi có mật độ dân số cao nhất.
Mật độ dân số tại xã Trung Lý chỉ đạt 29 người/km², trong khi ở các vùng thấp hơn, con số này lên tới 75 người/km² Người Thái và người Mường thường sinh sống ở những khu vực ven thung lũng gần suối, nơi có đất canh tác nông nghiệp và giao thông thuận lợi, thể hiện trình độ canh tác và nhận thức xã hội cao Ngược lại, người H’mông tập trung sống trong các bản trên triền núi như bản Suối Tôn, Cánh Cộng, Tà Cóm và Suối Hộc thuộc xã Trung Lý, huyện Mường Lát.
Theo số liệu thu thập các xã huyện Quan Hóa năm 2011 thu nhập bình quân chung các xã vùng đệm khoảng 6,9 triệu đồng/lao động/năm Đến năm
Theo số liệu thống kê, thu nhập bình quân của lao động tại huyện Quan Hóa năm 2012 đạt trên 7 triệu đồng/năm Tại xã Trung Lý, huyện Mường Lát, thu nhập bình quân năm 2011 là 9,4 triệu đồng/người/năm và đã tăng lên 11 triệu đồng/người/năm vào năm 2012.
Nhìn chung tình hình sản xuất, đời sống, thu nhập đang còn thấp
Tỷ lệ hộ nghèo huyện Quan Hóa tính đến tháng 12/2012 là: 40,44%; xã Trung Lý, huyện Mường Lát tính đến 12/2012 khoảng 49,4%
Trong những năm qua, chương trình phổ cập giáo dục tiểu học và xoá mù chữ đã cải thiện trình độ dân trí, nhưng vẫn còn nhiều thách thức Phần lớn cư dân vùng đệm là người dân tộc sống rải rác ở các khu vực khó khăn, dẫn đến trình độ học vấn thấp và sự tồn tại của nhiều tập tục lạc hậu Hơn nữa, các hủ tục mê tín dị đoan vẫn nặng nề, bản sắc văn hóa chưa được phát huy, và nạn tảo hôn vẫn còn xảy ra Điều này khiến người dân chưa đủ kiến thức để tiếp thu khoa học kỹ thuật và chuyển giao công nghệ vào sản xuất.
Phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa mới ở khu dân cư đang được chú trọng Hiện tại, đã có nhiều bản và hộ gia đình đạt tiêu chuẩn văn hóa, góp phần nâng cao chất lượng đời sống cộng đồng.
3.2.4 Tập quán sinh hoạt và sản xuất
Tập quán sinh hoạt của các bản làng rất đa dạng, mỗi dân tộc đều thể hiện rõ nét bản sắc văn hóa riêng, ví dụ như dân tộc Thái có những phong tục tập quán khác biệt so với dân tộc Mường hay Mông.
Tập quán canh tác ở các dân tộc thiểu số còn lạc hậu với công cụ lao động đơn điệu Người Thái và Mường chủ yếu tập trung vào việc khai hoang lúa nước, kết hợp với chăn nuôi gia súc, gia cầm và thu hái lâm sản Trong khi đó, người Mông tại bản Suối Tôn, xã Phú Sơn và các bản khác ở xã Trung Lý chủ yếu làm nương rẫy và thu hái lâm sản.
3.2.4.1 Tình hình sản xuất nông nghiệp
Các xã vùng đệm Khu BTTN chủ yếu có dân cư là người đồng bào dân tộc thiểu số, với nền sản xuất chủ yếu dựa vào nông nghiệp, tập trung vào hai ngành trồng trọt và chăn nuôi Bên cạnh đó, người dân còn thu hái lâm sản phụ, săn bắt chim thú và nhận khoán bảo vệ rừng từ các đơn vị lâm nghiệp, nhằm tạo thêm việc làm và tăng thu nhập cho hộ gia đình.
Khu vực chủ yếu trồng lúa nước, lúa nương rẫy, ngô và sắn với phương thức canh tác quảng canh, dẫn đến năng suất cây trồng và vật nuôi thấp Năng suất trung bình đạt khoảng 4,7-5,2 tấn/ha đối với lúa nước, 1,1 tấn/ha với lúa nương, 1,9 tấn/ha cho ngô và 6,2 tấn/ha cho sắn Tổng sản lượng cây trồng chính năm 2011 đạt 15.584 tấn, trong đó lúa đạt 5.729,5 tấn, bình quân lương thực trên đầu người là 289,4 kg/năm, với thóc đạt 172,6 kg/người/năm Sự thiếu hụt lương thực, đặc biệt là gạo, chủ yếu phụ thuộc vào hoạt động chăn nuôi, sản xuất lâm nghiệp và khai thác lâm sản phụ trái phép trong Khu BTTN Pù Hu, điều này giải thích lý do cuộc sống của người nông dân vẫn phụ thuộc nhiều vào khai thác tài nguyên rừng trong khu bảo tồn.
Trong vùng, các loài gia súc và gia cầm chủ yếu bao gồm trâu, bò, dê, lợn, ngan, vịt và gà, với đặc điểm là các giống địa phương Mặc dù chất lượng thịt ngon, nhưng năng suất và sản lượng thịt không cao, trung bình mỗi hộ gia đình nuôi từ 3-4 con gia súc.
Tổng số đàn gia súc, gia cầm như sau: Trâu 4.432 con, bò 8.747 con, dê 2.166 con, đàn lợn 12.667 con và gia cầm, thủy cầm 72.838 con
Trong khu vực này, một số hộ gia đình đang thử nghiệm chăn nuôi nhím và chuột khoang Tuy nhiên, do khoảng cách xa các trung tâm tiêu thụ, giá cả không ổn định và kinh nghiệm chăn nuôi còn hạn chế, sản phẩm từ chăn nuôi này chưa trở thành hàng hóa thương mại.
Đánh giá về điều kiện kinh tế - xã hội
Khu BTTN Pù Hu có các tuyến giao thông kết nối với các xã vùng đệm đã được đầu tư xây dựng và nâng cấp trong những năm qua, giúp cải thiện tình trạng giao thông Tuy nhiên, do thời gian xây dựng đã lâu, chất lượng các tuyến đường hiện nay đã xuống cấp Các tuyến đường chính trong vùng đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển giao thông địa phương.
- Tuyến Quốc lộ 15A nối từ Ngọc Lặc đi qua huyện Quan Hóa đến Mai Châu tỉnh Hòa Bình
- Tuyến tỉnh lộ 520 nối từ ngã 3 Hồi Xuân đi qua các xã Nam Tiến, Thiên Phủ, Hiền Chung, Hiền Kiệt và xã Trung Lý
Tuyến đường liên thôn trên địa bàn các xã vùng đệm vẫn còn những bản đường đất đi lại gặp nhiều khó khăn
Hệ thống thủy lợi trong vùng đệm hiện có 42 đập nhỏ và 28 kênh mương dài 59,1 km, phục vụ tưới tiêu cho hơn 180 ha lúa nước Tại các bản, người dân tận dụng nguồn nước từ khe, suối để dẫn vào các kênh, trong đó một phần dùng cho tưới tiêu đồng ruộng và phần còn lại phục vụ cho sinh hoạt hàng ngày.
Trong những năm gần đây, nhu cầu tưới tiêu đã thúc đẩy người dân và chính quyền địa phương đầu tư nâng cấp và xây mới các công trình thủy lợi Để đáp ứng nhu cầu tưới tiêu trong tương lai, cần thiết phải đầu tư xây dựng thêm nhiều công trình thủy lợi, củng cố các đập cũ và bê tông hóa các kênh đầu mối tại từng thôn bản trong các xã.
Trong những năm gần đây, hệ thống nước sạch đã được cải thiện để phục vụ đời sống nhân dân, nhưng tỷ lệ dân cư sử dụng nước sạch vẫn còn thấp do phân bố dân cư rải rác Phần lớn hộ gia đình vẫn phụ thuộc vào nguồn nước tự chảy từ khe suối Các công trình cung cấp nước sinh hoạt tại các xã như Hiền Chung, Phú Sơn, Nam Tiến và Trung Thành đã nhận được hỗ trợ từ nhà nước qua chương trình 135 và dự án Phát triển vùng Quan Hóa, nhưng hiện tại chỉ có 29/61 thôn được đầu tư và nhiều công trình đã xuống cấp Tại xã Trung Lý, huyện Mường Lát, các công trình nước tự chảy hợp vệ sinh cũng đã bị xuống cấp, dẫn đến tình trạng thiếu nước sinh hoạt nghiêm trọng vào mùa khô.
Trong 11 xã thuộc vùng đệm khu bảo tồn, mạng lưới giáo dục phổ thông đã phát triển với 3 cấp học: mầm non, tiểu học và trung học cơ sở Hiện tại, toàn vùng có 121 lớp mầm non, phục vụ cho 2.313 trẻ em.
Trường có tổng cộng 191 lớp với 3.320 học sinh, trong đó cấp trung học cơ sở có 65 lớp với 1.790 học sinh Sau khi tốt nghiệp, học sinh thường phải ra trung tâm của hai huyện để tiếp tục học trung học phổ thông Đội ngũ giáo viên chủ yếu là người địa phương, được đào tạo cơ bản và đủ số lượng để đáp ứng nhu cầu giảng dạy cho học sinh trong khu vực.
Hiện tại, toàn bộ 11/11 xã trong vùng đệm đều có trạm y tế, thường nằm gần trung tâm xã, với tổng số 88 giường bệnh và 63 cán bộ y tế, bao gồm 6 bác sĩ, 48 y sĩ và 6 y tá Mặc dù cơ sở vật chất, trang thiết bị và đội ngũ y tế đã đáp ứng phần nào nhu cầu khám chữa bệnh cho người dân, nhưng vẫn tồn tại một số hạn chế như cơ sở hạ tầng chật hẹp, xuống cấp, thiếu phòng, trang thiết bị không đồng bộ, và thiếu thuốc men cũng như cán bộ y tế chuyên sâu Đây là những khó khăn chung mà huyện và tỉnh đang phải đối mặt.
Đánh giá chung
3.4.1 Những thuận lợi Điều kiện tự nhiên Khu BTTN Pù Hu chủ yếu là núi đất có sự kết hợp với núi đá và có dòng sông Mã, sông Luồng bao quanh, tạo điều kiện cho phát triển du lịch sinh thái Địa hình chủ yếu là núi đất đai cao, độ dốc lớn, hệ sinh thái rừng có nhiều loại quý hiếm đặc trưng cho hệ sinh thái vùng Bắc Trung
Bộ đã thu hút được sự quan tâm của các nhà khoa học trong và ngoài nước
Trong những năm gần đây, các xã trong vùng đệm Khu BTTN Pù Hu đã nhận được sự ưu tiên đặc biệt từ Trung ương và tỉnh thông qua nhiều chương trình như 135, 30A, và 147 Những chương trình này không chỉ tạo cơ hội mà còn là động lực lớn thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội tại khu vực này.
Vùng này có tiềm năng đất đai lớn và điều kiện tự nhiên lý tưởng cho cây trồng lâm nghiệp, đặc biệt là cây luồng Hiện nay, nhiều mô hình nông – lâm mới đang được triển khai, như mô hình nuôi gà dưới tán rừng luồng, nuôi nhím và nuôi chuột khoang.
Đại bộ phận người dân sống gần khu bảo tồn đã có nhận thức rõ ràng về quy chế quản lý rừng đặc dụng và rừng sản xuất Chính quyền các cấp cùng các cơ quan chuyên môn luôn duy trì sự gần gũi với cộng đồng, trong khi cán bộ kiểm lâm của ban quản lý và hạt kiểm lâm huyện thường xuyên thực hiện các hoạt động tuần tra rừng, góp phần tăng cường sự hiểu biết và hợp tác của người dân.
Nguồn nhân lực dồi dào, đặc biệt là lao động nông nghiệp, kết hợp với tinh thần đoàn kết vượt qua khó khăn, là yếu tố then chốt thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội trong vùng.
Khu BTTN Pù Hu có khoảng 18.356 lao động tại các xã vùng đệm, tạo cơ hội thu hút họ tham gia vào các chương trình quản lý, bảo vệ và phát triển rừng, cũng như các dự án bảo tồn và phát triển khu vực này.
Trong vùng lõi của khu BTTN cơ bản đã di dân ra khỏi khu BTTN Pù
Hu Đây là một trong những khu BTTN không có dân cư trong vùng lõi, so với các khu bảo tồn khác của tỉnh Thanh Hóa
Công tác giao đất lâm nghiệp tại vùng đệm được thực hiện kịp thời và đồng bộ, giúp rừng có chủ rõ ràng Hoạt động bảo vệ rừng theo hướng xã hội hóa đã đi vào nề nếp và đạt hiệu quả cao Phong trào trồng và bảo vệ rừng trong cộng đồng dân cư ngày càng phát triển mạnh mẽ.
Thông qua các chương trình dự án, việc xác định các loại cây lâm nghiệp phù hợp cho khu vực Quan Hóa và Mường Lát đã mang lại hiệu quả cao Những loại cây như Xoan ta, Lát hoa, Keo và Luồng đã chứng minh được kỹ thuật trồng trọt và chăm sóc hiệu quả trong các điều kiện lập địa khác nhau.
Chương trình Nông thôn mới đang triển khai nhiều dự án tại địa bàn, bao gồm các công trình dịch vụ, du lịch và hạ tầng kỹ thuật Những dự án này không chỉ tạo ra một diện mạo phát triển mới mà còn mở ra cơ hội cho việc phát triển rừng bền vững.
Tình hình an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội được duy trì ổn định, trong khi chủ quyền biên giới quốc gia được bảo vệ vững chắc Nhờ đó, người dân có niềm tin vào đường lối lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, từ đó yên tâm phát triển kinh tế và sản xuất.
Vùng miền núi này, với địa hình chia cắt và hạ tầng cơ sở yếu kém, đang đối mặt với nhiều thách thức trong phát triển kinh tế - xã hội Mạng lưới giao thông khó khăn, dân trí không đồng đều và trình độ canh tác lạc hậu đã dẫn đến tỷ lệ hộ nghèo cao Hầu hết các hộ gia đình thiếu đất, vốn và kinh nghiệm sản xuất, cùng với cơ cấu cây trồng và vật nuôi đơn giản, tạo ra trở ngại lớn cho sự phát triển Do đó, cần có sự quan tâm và đầu tư hợp lý để cải thiện tình hình.
Khu BTTN Pù Hu sở hữu tài nguyên thiên nhiên phong phú, nhưng việc khai thác vẫn chưa hiệu quả; tài nguyên rừng chịu tác động tiêu cực và tài nguyên cảnh quan chưa được khai thác đúng mức.
Hệ sinh thái rừng Pù Hu đang đối mặt với nhiều thách thức nghiêm trọng, bao gồm hoạt động di dân tự do của người Mông, dẫn đến việc đốt nương làm rẫy, săn bắn động vật, khai thác gỗ trái phép và xâm lấn rừng để lấy đất canh tác Những yếu tố như ô nhiễm môi trường, cháy rừng, gia tăng dân số vùng đệm, nghèo đói, tác động của nền kinh tế thị trường, nhận thức cộng đồng thấp và phong tục tập quán lạc hậu cũng góp phần vào sự suy giảm này Với địa bàn rộng và lực lượng kiểm lâm mỏng, việc bảo vệ tài nguyên rừng trở nên khó khăn hơn khi mà nguồn lợi lớn từ rừng thu hút nhiều đối tượng vi phạm pháp luật.
Các đe dọa do các tác động về kinh tế - xã hội của cộng đồng đối với tài nguyên rừng vẫn còn diễn ra như:
Săn bắt và buôn bán động vật hoang dã, bao gồm ếch nhái, cùng với việc khai thác lâm sản ngoài gỗ như song mây, đót, và củ cu ly, đang diễn ra một cách tràn lan Thị trường tiêu thụ các sản phẩm này vẫn hoạt động mạnh mẽ Ngoài ra, việc chăn thả gia súc tự do trong Khu Bảo tồn Thiên nhiên dẫn đến xung đột giữa con người và động vật hoang dã, đồng thời gia tăng nguy cơ cháy rừng, gây ra sự hủy hoại và suy thoái nghiêm trọng các sinh cảnh tự nhiên.