1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

Quá trình đổi mới quan điểm của đảng về công nghiệp hóa, hiệnđại hóa ở đất nước ta trong thời kỳ từ năm 1986 đến nay

49 6 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Quá Trình Đổi Mới Quan Điểm Của Đảng Về Công Nghiệp Hóa, Hiện Đại Hóa Ở Đất Nước Ta Trong Thời Kỳ Từ Năm 1986 Đến Nay
Tác giả Nhóm Thực Hiện 01
Người hướng dẫn TS. Lê Thị Hồng Thuận
Trường học Trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
Chuyên ngành Lịch Sử Đảng Cộng Sản Việt Nam
Thể loại Bài Tập Lớn
Năm xuất bản 2022
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 49
Dung lượng 6,84 MB

Cấu trúc

  • II. Cơ sở thực tiễn……………………………………………………………………… 6 1. Bối cảnh Quốc tế (6)
    • 2. Bối cảnh trong nước……………………………………………………………... B. Quá trình đổi mới quan điểm của Đảng về CNH – HĐH đất nước từ (8)
  • I. Giai đoạn 1986 – 1996……………………………………………………………… 12 1. Đại hội toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12-1986)…………………………. ….12 2. Đại hội toàn quốc lần thứ VII của Đảng (6-1991) (12)
    • 3. Đại hội toàn quốc lần thứ VII của Đảng (1996) (0)
    • 4. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII (2016-2020)…………………………… 27 5. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII (2021)………………………………… 32 III. Kết luận (27)
  • C. Đánh giá quá trình đổi mới quan điểm của Đảng (40)
    • I. Kết quả đạt được (0)
      • 1. Tổng quan (41)
      • 2. Thành tựu (42)
    • II. Bài học kinh nghiệm rút ra được về đổi mới CNH – HĐH ………………………… 42 1. Hạn chế - nguyên nhân (43)
      • 2. Rút ra kinh nghiệm lịch sử (0)
    • III. Liên hệ thực tiễn đối với sinh viên hiện nay trong công cuộc CNH – HĐH đất nước (46)
      • 1. Vai trò của sinh viên (46)
      • 2. Khó khăn, thách thức (47)
      • 3. Phương pháp, giải pháp (0)

Nội dung

Cơ sở thực tiễn……………………………………………………………………… 6 1 Bối cảnh Quốc tế

Bối cảnh trong nước…………………………………………………………… B Quá trình đổi mới quan điểm của Đảng về CNH – HĐH đất nước từ

2.1 Chủ trương, quan điểm đổi mới của Đảng về công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước từ 1975 - 1986 a Chủ trương

Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ ngày 30/4/1975, Việt Nam bước vào giai đoạn độc lập và thống nhất, chuyển sang thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội Nhiệm vụ cách mạng Việt Nam đã thay đổi, tập trung vào khôi phục và phát triển đất nước trong hòa bình, không còn vừa kháng chiến vừa kiến quốc Để thúc đẩy kinh tế – xã hội phát triển, cần có những chủ trương, chính sách phù hợp với tình hình mới Tuy nhiên, một số chính sách của Đảng trong giai đoạn này chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế liên quan đến lực lượng và quan hệ sản xuất.

Sau khi thống nhất đất nước, Việt Nam bước vào giai đoạn khôi phục kinh tế với nhiều khó khăn như cơ sở vật chất yếu kém, năng suất lao động thấp và sản xuất chưa đáp ứng nhu cầu Đảng nhận định nguyên nhân sâu xa là do nền kinh tế chủ yếu là sản xuất nhỏ và hạn chế trong tổ chức quản lý Tại miền Bắc, Đảng tập trung củng cố chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, trong khi tại miền Nam, chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa được thực hiện nhằm cải tạo các thành phần kinh tế, bao gồm việc sử dụng và cải tạo công nghiệp tư bản tư doanh qua hình thức công tư hợp doanh, thúc đẩy hợp tác hóa nông nghiệp và cải tạo thủ công nghiệp thông qua hợp tác hóa.

Tại Đại hội IV, Đảng tập trung vào việc hoàn thiện hệ thống quản lý kinh tế, đặc biệt là tổ chức lại nền sản xuất xã hội chủ nghĩa trên toàn quốc Mục tiêu là tái cấu trúc các ngành sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, lâm nghiệp và ngư nghiệp theo hướng sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, nhằm xóa bỏ tình trạng phân tán và hình thành các ngành kinh tế – kỹ thuật thống nhất Đồng thời, Đảng cũng nhấn mạnh cải tiến phương thức quản lý kinh tế, với kế hoạch hoá là trung tâm, đề cao trách nhiệm và tính sáng tạo của các ngành, địa phương và cơ sở Trong công tác quản lý, Đảng yêu cầu coi trọng quy luật giá trị, thực hiện chế độ hạch toán kinh tế và sử dụng thị trường hiệu quả So với Đại hội III, công tác quản lý kinh tế tại Đại hội IV đã có những bước chuyển biến, đặc biệt trong khâu kế hoạch hoá, không còn được coi là “pháp lệnh” mà chú trọng hơn đến tính sáng tạo Tuy nhiên, việc thực hiện vẫn còn nhiều khuyết điểm, đặc biệt là sự không gắn kết giữa kế hoạch và hạch toán kinh tế, dẫn đến kế hoạch chưa thực sự phản ánh thực tế lao động sản xuất và thiếu tính khả thi.

Tổ chức thực hiện trong quản lý kinh tế đang gặp khuyết điểm lớn, thể hiện qua sự quan liêu, xa rời thực tế và thiếu nhạy bén với đời sống Cơ chế quản lý quan liêu bao cấp vẫn được duy trì, ảnh hưởng tiêu cực đến sản xuất, đặc biệt trong phân phối và lưu thông hàng hóa Nhà nước đóng vai trò điều tiết giá cả, nhưng điều này không khuyến khích sự phát triển của sản xuất kinh doanh Hệ thống này tách rời việc trả công lao động khỏi số lượng và chất lượng lao động, dẫn đến nguyên tắc phân phối bình quân, làm giảm sự nhiệt tình và khả năng sáng tạo của người lao động.

Tại Đại hội V, Đảng đã thực hiện một số điều chỉnh hợp lý, nhưng vẫn còn khoảng cách lớn so với yêu cầu thực tế, với nhiều bất hợp lý trong đường lối kinh tế Cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa tiếp tục theo hướng Đại hội IV Đảng chủ trương cải tạo công nghiệp tư bản tư doanh qua hình thức công tư hợp doanh và tổ chức hình thức làm ăn tập thể hoặc kinh doanh cá thể tùy theo từng ngành nghề Ở miền Bắc có ba thành phần kinh tế, trong khi miền Nam có năm Mặc dù thực tiễn cho thấy các chủ trương cải tạo không hợp lý và không đảm bảo phát triển sản xuất, nhưng những chính sách tại Đại hội V vẫn giữ nguyên như Đại hội IV Công cuộc cải tạo kéo dài nhiều năm nhưng thiếu sự rõ ràng và nhất quán trong quan điểm và chính sách Việc thực hiện cũng mắc nhiều sai lầm, với tư tưởng nóng vội muốn xoá bỏ chế độ tư hữu dẫn đến cách làm theo kiểu chiến dịch, làm cho nhiều tổ chức kinh tế chỉ mang tính hình thức mà thiếu thực chất trong quan hệ sản xuất mới.

Thực hiện công cuộc đổi mới đồng nghĩa với việc thay đổi phương thức và chiến lược phát triển chủ nghĩa xã hội, nhưng vẫn giữ vững mục tiêu xã hội chủ nghĩa Đây là quan điểm cốt lõi, tạo nền tảng cho các quan điểm khác Thực tế lịch sử cho thấy, ở Liên Xô và các nước Đông Âu, việc cải tổ mà từ bỏ mục tiêu xã hội chủ nghĩa dẫn đến tình trạng mất phương hướng và hỗn loạn.

Để tiếp tục thực hiện mục tiêu xã hội chủ nghĩa, việc giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản là điều tất yếu, không chấp nhận đa nguyên chính trị và đa đảng đối lập Sự kiện xóa bỏ Điều 6 trong Hiến pháp Liên Xô, liên quan đến vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, không chỉ tước quyền lãnh đạo của Đảng về mặt pháp lý mà còn thừa nhận sự tồn tại của các lực lượng chính trị khác, từ đó tạo điều kiện cho những thế lực này chiếm đoạt quyền lực và dẫn đến việc từ bỏ mục tiêu xã hội chủ nghĩa.

Để thực hiện mục tiêu xã hội chủ nghĩa và duy trì vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, việc lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng là điều tất yếu Chủ nghĩa Mác - Lênin không chỉ là nền tảng tư tưởng của Đảng mà còn là cơ sở để xây dựng hệ tư tưởng của toàn xã hội, từ đó giúp thực hiện mục tiêu xã hội chủ nghĩa Nếu từ bỏ mục tiêu này, sẽ dẫn đến việc phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin và tiếp nhận hệ tư tưởng tư sản, như đã xảy ra trong công cuộc cải tổ của Goóc-ba-chốp ở Liên Xô.

Đảng Cộng sản cần giữ vững vai trò lãnh đạo tuyệt đối và trực tiếp đối với lực lượng vũ trang, bao gồm quân đội và công an, nhằm bảo vệ độc lập, chủ quyền và an ninh quốc gia Việc trung lập hóa lực lượng vũ trang, chỉ tập trung vào trách nhiệm bảo vệ an ninh mà không phụ thuộc vào đảng phái, sẽ làm suy yếu quyền lãnh đạo của Đảng Đây là bài học rút ra từ kinh nghiệm của Liên Xô trong thời kỳ cải tổ.

Hội nhập quốc tế trong khi giữ vững độc lập chính trị và chủ quyền quốc gia là con đường đúng đắn mà Việt Nam đã theo đuổi trong gần 30 năm qua Quan hệ ngoại giao với nhiều quốc gia trên thế giới ngày càng được cải thiện, tạo điều kiện cho nhân dân giao lưu và lãnh đạo được tôn trọng Sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước nhận được sự ủng hộ từ cộng đồng quốc tế Ngược lại, các cuộc cải tổ của Liên Xô trước đây bị chi phối bởi tư tưởng chính trị ngoại lai, dẫn đến sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa.

Công cuộc đổi mới tại Việt Nam cần thực hiện các bước đi thích hợp để đảm bảo sự đổi mới đồng thời với ổn định, bắt đầu từ lĩnh vực kinh tế và sau đó là chính trị Đổi mới kinh tế nên khởi đầu từ nông nghiệp trước khi mở rộng sang các lĩnh vực khác Trong lĩnh vực chính trị, việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đã tạo ra ảnh hưởng tích cực đến toàn bộ hệ thống chính trị Nhờ đó, trong gần 30 năm qua, đất nước ta đã đạt được sự ổn định và phát triển Ngược lại, cải tổ của Liên Xô trước đây diễn ra một cách cấp thời và thiếu trình tự, dẫn đến hỗn loạn và sụp đổ chế độ chính trị - xã hội xã hội chủ nghĩa.

2.2 Kết quả và hạn chế a Hạn chế

Cơ sở vật chất và kỹ thuật hiện nay còn lạc hậu, trong khi các ngành công nghiệp chủ chốt vẫn còn nhỏ lẻ và chưa được phát triển đồng bộ Điều này dẫn đến việc chưa đủ sức tạo ra một nền tảng vững chắc cho nền kinh tế quốc dân.

Nền kinh tế Việt Nam đang đối mặt với nhiều khó khăn do bị các nước bao vây cấm vận Sự cải cách và mở cửa của Liên Xô và các nước Đông Âu đã dẫn đến việc cắt giảm viện trợ, khiến sản xuất trong nước đình trệ Hệ quả là đời sống của người dân rơi vào cảnh đói nghèo cùng cực, trong khi tiềm lực kinh tế vẫn rất hạn chế.

Lực lượng sản xuất nông nghiệp mới chỉ bước đầu phát triển, nông nghiệp chưa đáp ứng được nhu cầu về lương thực, thực phẩm cho xã hội

Mặc dù đã được đề ra tại đại hội IV và V, các nhiệm vụ mục tiêu của Đảng vẫn chưa hoàn thành, dẫn đến tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội kéo dài từ những năm 70 cho đến nay, với nhiều biểu hiện rõ rệt.

- Sản xuất tăng trưởng chậm, không ổn định

- Nền kinh tế luôn trong tình trạng thiếu hụt, không có tích lũy

- Lạm phát tiếp tục tăng cao, kéo dài trong nhiều năm

- Đất nước bị bao vây, cô lập, đời sống nhân dân khó khăn, lòng tin đối với Đảng, Nhà nước, chế độ bị giảm sút nghiêm trọng b Kết quả

Trước tình hình khủng hoảng kinh tế - xã hội, Tổng Bí thư Trường Chinh đã tiến hành khảo sát thực tế và tập hợp các nhà khoa học để tư vấn, nhận ra cần phải đổi mới tư duy lý luận và kinh tế Việc xóa bỏ cơ chế quan liêu bao cấp, áp dụng cơ chế tự hạch toán và tự chủ tài chính, cùng với sự quản lý của nhà nước trong nền kinh tế là điều cần thiết Tại Đại hội Đảng lần thứ 6 vào tháng 12 năm 1986, Đảng đã khởi xướng đường lối đổi mới, bắt đầu từ việc thay đổi tư duy kinh tế, điều chỉnh kinh tế theo chuyển động thị trường, đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong tư duy của những người Cộng sản.

B Quá trình đổi mới quan điểm của đảng về CNH – HĐH đất nước từ

Giai đoạn 1986 – 1996……………………………………………………………… 12 1 Đại hội toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12-1986)………………………… ….12 2 Đại hội toàn quốc lần thứ VII của Đảng (6-1991)

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII (2016-2020)…………………………… 27 5 Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII (2021)………………………………… 32 III Kết luận

4.1 Đánh giá quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước sau 30 năm đổi mới (1986 - 2016) a Thành tựu quan trọng

Việt Nam đã chuyển mình từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu với 90% dân số làm nông nghiệp sang một nền kinh tế công nghiệp hóa, hiện đại hóa với cơ sở vật chất và hạ tầng kinh tế - xã hội được cải thiện Sự thay đổi này đã tạo ra môi trường thu hút nguồn lực xã hội, giúp kinh tế duy trì tốc độ tăng trưởng khá và đạt ngưỡng thu nhập trung bình Đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện, đồng thời thúc đẩy nhu cầu và động lực phát triển trong mọi lĩnh vực của xã hội Đội ngũ doanh nghiệp và doanh nhân đã trở thành lực lượng quan trọng trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Trong suốt 30 năm qua, kinh tế Việt Nam đã ghi nhận tốc độ tăng trưởng vượt trội so với giai đoạn trước đổi mới, đặc biệt là sau giai đoạn đầu của công cuộc đổi mới bắt đầu từ năm 1986.

Từ năm 1990, Việt Nam đã chứng kiến sự tăng trưởng kinh tế ấn tượng với GDP bình quân tăng 4,4% mỗi năm Trong giai đoạn 1991-1995, mức tăng trưởng đạt 8,2%/năm, gấp đôi so với 5 năm trước đó Mặc dù chịu ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 và khủng hoảng nợ công năm 2010, tốc độ tăng trưởng GDP trong giai đoạn 2011-2015 vẫn đạt 5,9%/năm, cao so với nhiều quốc gia trong khu vực và thế giới.

Nền kinh tế Việt Nam đã tăng trưởng nhanh chóng, với GDP bình quân đầu người từ 471 USD/năm vào năm 2003, sau 16 năm đổi mới, lên gần 2.300 USD vào năm 2015, khi quy mô nền kinh tế đạt khoảng 204 tỷ USD Lực lượng sản xuất đã có nhiều tiến bộ về số lượng và chất lượng, đồng thời trình độ công nghệ sản xuất cũng được nâng cao Đặc biệt, đóng góp của yếu tố năng suất tổng hợp TFP vào tăng trưởng đã tăng từ 21,4% giai đoạn 2001-2005, 17,2% giai đoạn 2006-2010, lên 28,94% trong giai đoạn 2011-2015 Bên cạnh đó, kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định và lạm phát được kiểm soát.

Cơ cấu kinh tế Việt Nam đang chuyển dịch theo hướng hiện đại, với sự giảm tỷ trọng khu vực nông nghiệp và tăng cường khu vực dịch vụ cùng công nghiệp Các thành phần kinh tế phát huy tiềm năng và đa dạng hóa hình thức sở hữu Lao động cũng có sự chuyển đổi tích cực, gắn liền với quá trình này Kim ngạch xuất khẩu tăng trưởng mạnh mẽ, đạt 18%/năm trong giai đoạn 2011-2015, với xu hướng tăng tỷ trọng sản phẩm công nghiệp và giảm tỷ trọng sản phẩm nông nghiệp, đồng thời giảm dần sản phẩm nguyên liệu thô Các vùng kinh tế trọng điểm đã được hình thành, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế vùng và cả nước, cùng với việc phát triển các khu kinh tế, khu công nghiệp để thu hút đầu tư và hình thành các vùng chuyên môn hóa trong sản xuất nông nghiệp gắn với chế biến.

Nền kinh tế đang phát triển mạnh mẽ với sự tăng trưởng liên tục của ngành công nghiệp và xây dựng, cùng với việc cải thiện ứng dụng khoa học và công nghệ Sản phẩm công nghiệp ngày càng đa dạng và chất lượng, nâng cao khả năng cạnh tranh và đảm bảo cung cầu trong nước cũng như mở rộng thị trường xuất khẩu Ngành nông nghiệp ổn định và có sự chuyển biến quan trọng, từ thiếu ăn trở thành nước xuất khẩu gạo lớn thứ hai thế giới, đóng góp vào an ninh lương thực quốc tế Xuất khẩu các mặt hàng như cà phê, cao su, hạt điều, hạt tiêu và thủy sản cũng đạt thứ hạng cao toàn cầu Ngành dịch vụ ngày càng đa dạng, đáp ứng tốt hơn nhu cầu sản xuất và đời sống, với sự phát triển nhanh chóng của du lịch và bưu chính viễn thông, cùng với các dịch vụ tài chính, ngân hàng và tư vấn pháp lý Việc khai thác tài nguyên và bảo vệ môi trường gắn liền với phát triển bền vững được chú trọng Hệ thống hạ tầng kinh tế - xã hội, đặc biệt là giao thông, điện, thông tin, viễn thông, thủy lợi, đô thị, giáo dục và y tế, đang được cải thiện Ứng dụng công nghệ cao đang tạo tiền đề cho việc chuyển đổi sang nền kinh tế tri thức.

Quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước trong những năm qua gặp nhiều hạn chế, dẫn đến kết quả chưa tương xứng với tiềm năng và chưa đạt được các mục tiêu đã đề ra.

Công nghiệp hóa và hiện đại hóa diễn ra chậm, chưa kết nối với phát triển kinh tế tri thức Quy hoạch phát triển các ngành công nghiệp nền tảng và công nghiệp hỗ trợ thiếu định hướng chiến lược rõ ràng, dẫn đến hiệu quả thấp Hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội còn nhiều hạn chế, yếu kém và thiếu tính kết nối Sự phát triển đô thị không đồng bộ và chất lượng thấp Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới cũng diễn ra chậm.

Chất lượng nguồn nhân lực tại Việt Nam vẫn còn thấp, và sự chuyển dịch cơ cấu lao động chưa phù hợp với sự chuyển dịch cơ cấu sản xuất Điều này dẫn đến việc nhiều chỉ tiêu trong mục tiêu phấn đấu trở thành nước công nghiệp hiện đại vào năm 2020 không đạt được Thực tế, chỉ có 10/15 tiêu chí được hoàn thành, nhưng ở mức độ tương đối thấp.

Nguyên nhân chính dẫn đến những hạn chế và yếu kém trong phát triển là do thể chế hóa và tổ chức thực hiện còn chậm, thiếu hệ thống và đồng bộ, chưa có đột phá trong việc huy động và sử dụng hiệu quả nguồn lực phát triển theo cơ chế thị trường Bên cạnh đó, việc xác định rõ các ngành, lĩnh vực trọng tâm trong chính sách công nghiệp quốc gia cho từng giai đoạn vẫn chưa được thực hiện, dẫn đến thiếu sự kết nối giữa công nghiệp hóa, hiện đại hóa với đô thị hóa, cũng như giữa phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn với xây dựng nông thôn mới Cuối cùng, chưa chuẩn bị tốt các điều kiện cần thiết để tận dụng cơ hội hội nhập quốc tế, và có lúc chưa gắn kết chặt chẽ với việc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nền kinh tế độc lập và tự chủ.

4.2 Quan điểm của Đảng về công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước giai đoạn 2016 – 2020 a Mục tiêu phát triển công nghiệp hóa, hiện đại hóa được điều chỉnh sát với thực tiễn

Đại hội đề ra mục tiêu tổng quát cho giai đoạn 5 năm 2016 - 2020, tập trung vào việc xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, đồng thời xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh Mục tiêu bao gồm phát huy sức mạnh toàn dân và dân chủ xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công cuộc đổi mới toàn diện, phát triển kinh tế nhanh và bền vững, hướng tới việc đưa Việt Nam trở thành nước công nghiệp hiện đại Bên cạnh đó, cần kiên quyết bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, giữ gìn hòa bình và ổn định, đồng thời chủ động hội nhập quốc tế để nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.

Công cuộc đổi mới và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam đã tạo ra những bước tiến mới trong công nghiệp hóa và hiện đại hóa, gắn liền với phát triển kinh tế tri thức Văn kiện Đại hội XII của Đảng nhấn mạnh rằng, trong giai đoạn mới, việc tiếp tục đẩy mạnh mô hình công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải dựa vào phát triển kinh tế định hướng XHCN và hội nhập quốc tế Đặc biệt, khoa học, công nghệ, tri thức và nguồn nhân lực chất lượng cao sẽ là động lực chủ yếu, cần huy động hiệu quả mọi nguồn lực để phát triển.

Từ đó, Đại hội đã xác định các chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn

2016 - 2020 dựa trên việc chọn lọc tiêu chí nước công nghiệp theo hướng hiện đại của một số nước trên thế giới Các tiêu chí định hướng như sau:

Tiêu chí phản ánh trình độ phát triển kinh tế bao gồm GDP bình quân đầu người, tỷ trọng gia tăng công nghiệp chế tạo, tỷ trọng nông nghiệp, tỷ lệ đô thị hóa và điện bình quân đầu người Những tiêu chí này là cơ sở để xác định các chỉ tiêu phát triển kinh tế cho giai đoạn 2016 - 2020, với mục tiêu tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân đạt 6,5 - 7%/năm và GDP bình quân đầu người khoảng 3.200 - 3.500 USD vào năm 2020.

Tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ trong GDP đạt khoảng 85%, trong khi tổng vốn đầu tư toàn xã hội trung bình trong 5 năm chiếm khoảng 32-34% GDP Bội chi ngân sách nhà nước hiện ở mức khoảng 4% GDP, và năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) đóng góp vào tăng trưởng khoảng 30%.

Đánh giá quá trình đổi mới quan điểm của Đảng

Bài học kinh nghiệm rút ra được về đổi mới CNH – HĐH ………………………… 42 1 Hạn chế - nguyên nhân

Mặc dù Đảng ta đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể trong 35 năm đổi mới công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nhưng vẫn còn tồn tại một số hạn chế nhất định cần được khắc phục.

Mô hình công nghiệp và hiện đại hóa tại Việt Nam chưa được xác định rõ ràng, với các chủ trương triển khai còn chậm và hiệu quả chưa cao Định hướng cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa bắt đầu từ những năm 1975, nhưng chỉ đến năm 1986 mới có chủ trương cụ thể Tuy nhiên, hiệu quả thực tiễn của quá trình này vẫn chưa rõ ràng và phải đến năm 1991, sự đổi mới theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa mới thực sự diễn ra.

Sự chênh lệch giữa lý luận và thực tiễn khiến các giải pháp thiếu tính khả thi, dẫn đến các định hướng trong từng thời kỳ không được tập trung và thiếu điểm nhấn.

Mặc dù tỷ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ của Việt Nam đang tăng, nhưng mức tăng trưởng công nghiệp hóa vẫn chưa cao Tỷ trọng công nghiệp trong GDP đã tăng từ 27,1% năm 2016 lên 28,5% năm 2019, nhưng giảm xuống 27,54% vào năm 2020 do tác động của dịch Covid-19 Điều này cho thấy Việt Nam chưa đạt được mục tiêu 40% về tỷ trọng công nghiệp vào năm 2020, và so với các nước trong khu vực như Malaysia (46% năm 2020) và Thái Lan (gần 40%), Việt Nam vẫn còn kém hơn.

2012, Hàn Quốc 40% tỷ trọng công nghiệp…)

Việt Nam chưa phát triển ngành công nghiệp mũi nhọn do chưa trở thành nòng cốt của nền kinh tế, dẫn đến sự phụ thuộc lớn vào nguồn cung từ nước ngoài.

Mặc dù Việt Nam đã trải qua gần 30 năm cải cách và mở cửa, mức độ tham gia của các doanh nghiệp trong nước vào chuỗi giá trị công nghiệp toàn cầu vẫn còn hạn chế Xuất khẩu liên tục mở rộng, nhưng hàm lượng giá trị gia tăng (GTGT) trong sản phẩm xuất khẩu vẫn thấp Các mặt hàng có lợi thế cạnh tranh chủ yếu thuộc nhóm sử dụng nhiều nguyên liệu và lao động giá rẻ, như da giày, thủ công mỹ nghệ, nông sản và thủy sản Đặc biệt, sản phẩm công nghiệp chủ lực của Việt Nam đang có xu hướng giảm, nguyên nhân chủ yếu là do trình độ lao động còn thấp và nền tảng khoa học kỹ thuật chưa phát triển mạnh mẽ.

Sự hợp tác và liên kết trong phát triển công nghiệp tại Việt Nam còn yếu, dẫn đến ngành công nghiệp hỗ trợ (CNHT) phát triển chậm và phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu nguyên liệu Hiện tại, CNHT chỉ đáp ứng khoảng 10% nhu cầu trong nước, chủ yếu là sản xuất linh kiện đơn giản với giá trị thấp Tỷ lệ nội địa hóa trong hầu hết các ngành công nghiệp vẫn ở mức thấp, do hệ thống doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ kém phát triển, với phần lớn doanh nghiệp hoạt động quy mô vừa và nhỏ, trình độ sản xuất chưa cao Đồng thời, vốn đầu tư vào khu vực công nghiệp chủ yếu tập trung vào các ngành có thời gian hoàn vốn ngắn như sản xuất hàng tiêu dùng và chế biến thực phẩm.

Phát triển công nghiệp tại Việt Nam chưa gắn kết chặt chẽ với các ngành kinh tế khác, đặc biệt là nông nghiệp, mặc dù nông nghiệp là thế mạnh của đất nước Ngành công nghiệp hưởng lợi từ chi phí đầu vào thấp trong chế biến nông, lâm, thủy sản, trong khi đó, công nghiệp lại cung cấp lợi thế cho sản xuất nông nghiệp Tuy có mối quan hệ tương hỗ, nhưng sự liên kết giữa công nghiệp và nông nghiệp vẫn còn yếu, dẫn đến lãng phí tài nguyên và đầu tư từ chính phủ.

Trong những năm qua, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, bao gồm cơ cấu ngành và lao động, đã chững lại và chưa có sự điều chỉnh phù hợp Sự phát triển của các ngành dịch vụ thâm dụng tri thức và khoa học công nghệ diễn ra chậm, một phần do sự thiếu linh hoạt trong chính sách của Đảng, với chu kỳ đại hội 5 năm trong khi công nghiệp hóa và hiện đại hóa diễn ra nhanh chóng Điều này dẫn đến sự chậm trễ trong các thay đổi cần thiết của chính phủ.

Sự không đồng điệu giữa nhà nước và địa phương trong triển khai kế hoạch phát triển đã dẫn đến tình trạng phân tán tài nguyên và nhân lực Mặc dù có sự thống nhất về quan điểm phát triển, các địa phương thường áp dụng các mô hình một cách máy móc hoặc theo phong cách riêng, gây khó khăn cho quá trình công nghiệp hóa Đầu tư khổng lồ từ nhà nước và xã hội là cần thiết để xây dựng cơ sở hạ tầng, nhưng các địa phương lại chỉ tập trung vào việc thành lập nhiều Khu Công nghiệp mà không chú trọng đến các yếu tố trung tầng và thượng tầng, như giáo dục, pháp luật và chính sách tài chính, dẫn đến sự thiếu thốn và không đồng bộ trong phát triển.

2 Kinh nghiệm lịch sử rút ra từ quá trình 35 năm đổi mới quan điểm của Đảng về CNH - HĐH đất nước Đảng tiếp tục kiên định với con đường CNH, HĐH dân tộc; bởi đó là quá trình tất yếu của mỗi dân tộc và là nền tảng để chúng ta tiến lên XHCN Tuy nhiên cần nhận diện một cách đúng đắn những hạn chế, yếu kém và những khó khăn thách thức trong quá trình CNH Rút ra những bài học kinh nghiệm thực tiễn Từ đó xác định thời gian tới cần điều chỉnh cơ chế, chính sách, hướng ưu tiên nguồn lực vào những ngành và lĩnh vực nào để có thể tạo nền tảng vững chắc thực hiện mục tiêu trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại Lựa chọn những kinh nghiệm quốc tế phù hợp từ những nước có chính sách công nghiệp hợp lý và đúng đắn để tham khảo, vận dụng cho Việt Nam hướng với tầm nhìn xa hơn

Để thu hút đầu tư nước ngoài hiệu quả, cần kết hợp chiến lược này với việc thúc đẩy kinh tế nội địa, phát huy lợi thế về vốn, công nghệ và quản trị của khu vực FDI Điều này sẽ giúp các lĩnh vực khác, đặc biệt là kinh tế tư nhân và nông nghiệp hộ gia đình, phát triển đồng bộ Đồng thời, cần hướng dẫn doanh nghiệp nội địa tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu, góp phần vào mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước Nếu không tận dụng FDI để chuyển giao công nghệ, Việt Nam có nguy cơ chỉ trở thành thị trường lao động giá rẻ cho các nhà đầu tư nước ngoài.

Để kết hợp quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH-HĐH) với phát triển kinh tế thị trường (KTTT), cần xây dựng hai trung tâm quốc gia về công nghệ cao tại Hà Nội và TP Hồ Chí Minh, làm đầu tàu cho sự phát triển công nghệ và thu hút tri thức mới Đồng thời, cần nhanh chóng thiết lập thị trường khoa học-công nghệ, tạo điều kiện thuận lợi cho việc trao đổi, mua bán và chuyển giao công nghệ Khuyến khích du học sinh trở về nước làm việc thông qua chính sách đãi ngộ hợp lý và xây dựng một chiến lược phát triển khoa học-công nghệ với các bước đi thích hợp.

Thứ ba, cần xác định rõ các chỉ số đo lường thành công của công nghiệp hóa hiện đại hóa (CNH) cho từng vùng, địa phương nhằm tối ưu hóa tiềm năng và lợi thế so sánh của mỗi khu vực Điều này đảm bảo tính bền vững và phù hợp với quy hoạch phát triển Cần tránh tình trạng các tỉnh, thành phố chạy đua thực hiện CNH theo phong trào hoặc vì lợi ích ngắn hạn, dẫn đến việc bỏ qua tiềm năng và thế mạnh của địa phương, hoặc làm suy yếu lợi thế cạnh tranh của các khu vực khác.

Vào ngày thứ tư, cần tiến hành đánh giá toàn diện về điểm mạnh và điểm yếu của ngành công nghiệp phụ trợ cùng với dịch vụ hỗ trợ tại Việt Nam Qua đó, chúng ta sẽ đề ra những chiến lược và kế hoạch hành động cụ thể nhằm phát triển hai lĩnh vực này, đảm bảo rằng công nghiệp phụ trợ và dịch vụ hỗ trợ trở thành những thành tố then chốt trong chiến lược công nghiệp hóa quốc gia.

Liên hệ thực tiễn đối với sinh viên hiện nay trong công cuộc CNH – HĐH đất nước

1 Vai trò của sinh viên.

Thanh niên Việt Nam là một tầng lớp xã hội đặc thù, chiếm số đông trong dân số cả nước Họ không thuộc về một giai cấp cụ thể nào, mà hiện diện trong cả giai cấp công nhân, nông dân và đội ngũ trí thức Thanh niên không phải là một tầng lớp xã hội độc lập, mà có mối quan hệ gắn bó với các tầng lớp khác Họ có mặt ở tất cả các địa phương và tham gia vào mọi lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh và quốc phòng của đất nước.

Thanh niên Việt Nam luôn giữ vai trò quan trọng trong các giai đoạn lịch sử, thể hiện tinh thần xả thân trong các cuộc chiến tranh giữ nước và đóng góp tích cực trong thời kỳ kiến thiết đất nước Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá cao vai trò của thanh niên trong sự nghiệp cách mạng, tin tưởng vào thế hệ trẻ là lực lượng xung phong trong phát triển kinh tế và văn hóa, thực hiện khẩu lệnh “Đâu cần thanh niên có; Việc gì khó thanh niên làm” Đảng xác định thanh niên là trung tâm trong chiến lược phát huy nhân tố và nguồn lực con người, nhấn mạnh rằng sự thành công của công cuộc đổi mới và vị thế của Việt Nam trong thế kỷ XXI phụ thuộc lớn vào lực lượng thanh niên.

Trong bối cảnh công nghiệp hóa hiện đại hóa, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên là vô cùng quan trọng Thanh niên được coi là rường cột của đất nước, là chủ nhân tương lai và là lực lượng xung kích trong việc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Họ đóng vai trò quyết định trong sự thành bại của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế và xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Thanh niên đóng vai trò then chốt trong chiến lược phát triển nguồn nhân lực và bồi dưỡng nhân tố con người Việc chăm sóc và phát triển thanh niên không chỉ là mục tiêu mà còn là động lực thiết yếu để đảm bảo sự ổn định và phát triển bền vững cho đất nước.

Trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, sinh viên đang đối mặt với nhiều thách thức lớn, bao gồm trình độ học vấn và chuyên môn chưa cao, cũng như kiến thức về kinh tế và quản lý còn hạn chế Mặc dù năng lực hội nhập và kỹ năng xã hội của sinh viên đã được cải thiện đáng kể, nhưng vẫn chưa đáp ứng đủ yêu cầu của quá trình hội nhập quốc tế Hơn nữa, một bộ phận sinh viên vẫn chưa nhận thức rõ vai trò và trách nhiệm của bản thân, điều này ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng nguồn nhân lực quốc gia trong thời kỳ hội nhập hiện nay.

Một trong những thách thức lớn hiện nay là kỹ năng ngoại ngữ của sinh viên Việt Nam còn hạn chế, điều này ảnh hưởng đến khả năng hội nhập vào nền khoa học khu vực và toàn cầu Để cải thiện tình hình, cần chú trọng ứng dụng kiến thức và kỹ năng thực hành cho sinh viên các trường đại học.

Việt Nam đang gặp khó khăn trong việc đáp ứng nhu cầu đào tạo quốc tế, điều này đã cản trở quá trình học tập và nghiên cứu của sinh viên.

- Ngoài ra kĩ năng sống, kỹ năng giao tiếp của sinh viên Việt Nam còn rất nhiều điểm cần lưu ý và cải thiện.

Chương trình giáo dục tại Việt Nam hiện nay chủ yếu tập trung vào lý thuyết, trong khi thực hành lại chưa được chú trọng đúng mức Điều này tạo ra một thiệt thòi lớn cho sinh viên, bởi vì ở nhiều quốc gia khác, thực hành là một phần quan trọng trong quá trình học tập, giúp sinh viên áp dụng kiến thức vào thực tiễn.

Thanh niên Việt Nam hiện nay đối mặt với trọng trách lịch sử là trở thành lực lượng lao động trí tuệ, tay nghề cao, có đạo đức và lối sống trong sáng, cùng với sức khỏe thể chất và tâm thần vững mạnh Họ nỗ lực khẳng định mình là thế hệ vượt trội hơn so với các thế hệ trước, đồng thời xóa bỏ ranh giới tụt hậu để hòa nhập và sánh vai cùng thanh niên toàn cầu, thực hiện ước mơ của Chủ tịch Hồ Chí Minh về việc đưa Việt Nam "sánh vai với các cường quốc năm châu."

Thanh niên cần chủ động nâng cao trình độ lý luận chính trị và bồi đắp lý tưởng cách mạng Họ cũng nên tích cực tham gia bảo vệ Đảng, Nhà nước và các chính sách, pháp luật của Nhà nước, đồng thời đấu tranh chống lại âm mưu "Diễn biến hòa bình" từ các thế lực thù địch, cũng như các tiêu cực, tệ nạn xã hội và tham nhũng.

Thứ hai, thanh niên cần chủ động trong việc học tập và tự học để nâng cao trình độ văn hóa, chuyên môn, khoa học, kỹ thuật và tay nghề Điều này đặc biệt quan trọng trong bối cảnh phát triển kinh tế hiện nay.

Để thích ứng với thị trường lao động trong nước và quốc tế, thanh niên Việt Nam cần nâng cao trình độ học vấn, tay nghề, khả năng thực tế và kỹ năng lao động Việc này không chỉ giúp họ đáp ứng nhu cầu của xã hội mà còn tạo ra cơ hội phát triển bền vững trong bối cảnh hội nhập toàn cầu.

Thanh niên cần chủ động tham gia vào việc xây dựng một môi trường xã hội lành mạnh và môi trường sinh thái trong sạch, đẹp Họ nên tích cực tham gia vào các hoạt động phòng chống ô nhiễm môi trường, ngăn chặn suy thoái môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu toàn cầu.

Thanh niên cần xung kích dẫn đầu trong phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời đảm bảo quốc phòng và an ninh Họ nên tích cực tham gia vào các chương trình và dự án địa phương, tự nguyện thực hiện nghĩa vụ quân sự, cũng như tham gia các hoạt động bảo vệ Tổ quốc và duy trì an ninh, trật tự, an toàn xã hội.

Ngày đăng: 10/04/2022, 16:36

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

  • Đang cập nhật ...

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w