1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

Quá trình đổi mới quan điểm của đảng về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta trong thờikỳ đổi mới từ 1986 đến nay

43 3 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Quá Trình Đổi Mới Quan Điểm Của Đảng Về Xây Dựng Nền Kinh Tế Thị Trường Định Hướng XHCN Ở Nước Ta Trong Thời Kỳ Đổi Mới Từ 1986 Đến Nay
Người hướng dẫn Ths. Lê Thị Hồng Thuận
Trường học Trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
Chuyên ngành Lịch Sử Đảng Cộng Sản Việt Nam
Thể loại bài tập nhóm
Năm xuất bản 2021
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 43
Dung lượng 1,05 MB

Cấu trúc

  • I. CƠ SỞ CỦA VIỆC ĐỔI MỚI QUAN ĐIỂM (3)
    • 1. Cơ sở lý luận (3)
    • 2. Cơ sở thực tiễn (5)
  • II. QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XHCN Ở NƯỚC TA TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI TỪ 1986 ĐẾN NAY (11)
    • 1. Giai đoạn từ Đại hội VI đến trước Đại hội XI: Bước đầu hình thành (11)
    • 2. Giai đoạn từ sau Đại hội IX đến nay (20)
  • III. ĐÁNH GIÁ QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN ĐƯỜNG LỐI ĐỔI MỚI QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XHCN Ở NƯỚC TA TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI TỪ 1986 ĐẾN NAY. 27 1. Kết quả (27)
    • 1.1. Thành tựu từng giai đoạn (28)
    • 1.2. Cơ cấu kinh tế chuyển biến tích cực theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, gắn sản xuất với thị trường (32)
    • 1.3. Thực hiện có kết quả chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, phát huy ngày càng tốt hơn tiềm năng của các thành phần kinh tế (33)
    • 1.4. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dần dần được hình thành, kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định (33)
    • 1.5. Những thay đổi về việc chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế (34)
    • 2. Hạn chế (36)
    • 3. Nguyên nhân (37)
    • 4. Bài học kinh nghiệm (39)
    • 5. Tổng kết (39)

Nội dung

CƠ SỞ CỦA VIỆC ĐỔI MỚI QUAN ĐIỂM

Cơ sở lý luận

Khái niệm nền kinh tế thị trường

Kinh tế thị trường là mô hình trong đó mối quan hệ giữa người mua và người bán được điều chỉnh bởi quy luật cung cầu và giá trị, nhằm xác định giá cả cũng như số lượng hàng hóa và dịch vụ trên thị trường.

Kinh tế thị trường là một nền kinh tế hàng hóa phát triển cao, gắn liền với sự tiến bộ của lực lượng sản xuất xã hội Các hoạt động kinh tế liên kết chặt chẽ qua thị trường, và khi lực lượng sản xuất xã hội phát triển cùng với sự phân công lao động ngày càng cao, quan hệ thị trường cũng trở nên phức tạp hơn Hệ thống thị trường quốc gia ngày càng thống nhất và kết nối chặt chẽ với thị trường toàn cầu Doanh nghiệp từ các thành phần kinh tế tương tác bình đẳng trong cả đầu vào và đầu ra, giúp cả người sản xuất và người tiêu dùng đều hưởng lợi từ sự phụ thuộc này.

Khái niệm nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế hiện tại của Việt Nam, do Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra Mô hình này được đặc trưng bởi nền kinh tế thị trường với nhiều thành phần, trong đó khu vực kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo Mục tiêu dài hạn của mô hình này là xây dựng chủ nghĩa xã hội tại đất nước.

Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, ra đời trong thời kỳ Đổi Mới, đã thay thế nền kinh tế kế hoạch bằng một nền kinh tế hỗn hợp hoạt động theo cơ chế thị trường Những cải cách này đã tạo điều kiện cho Việt Nam hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế toàn cầu.

Cụm từ "định hướng xã hội chủ nghĩa" chỉ ra rằng Việt Nam đang trong quá trình xây dựng nền tảng cho một hệ thống xã hội chủ nghĩa, chưa đạt đến chủ nghĩa xã hội hoàn chỉnh Mô hình kinh tế này tương tự như mô hình kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa của Đảng Cộng sản Trung Quốc, với sự tồn tại đồng thời của các mô hình kinh tế tập thể, nhà nước và tư nhân, trong đó khu vực nhà nước đóng vai trò chủ đạo Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam có nhiều điểm tương đồng với nền kinh tế thị trường nói chung.

Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một mô hình kinh tế hoạt động dựa trên các quy luật chung của kinh tế thị trường hiện đại Đây là hình thức kinh tế hàng hóa phát triển tại các khu vực cụ thể, như "các chợ" và "thị trường" của từng quốc gia cũng như quốc tế, tạo nên một nền kinh tế mở và liên kết giữa nhiều loại thị trường khác nhau.

Những nét riêng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam so với nền kinh tế thị trường nói chung.

Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế kết hợp giữa các quy luật của kinh tế thị trường và các nguyên tắc của chủ nghĩa xã hội Mô hình này thể hiện rõ ràng qua ba khía cạnh chính: sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối, nhằm đảm bảo sự phát triển bền vững và công bằng trong xã hội.

Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa bao gồm nhiều hình thức sở hữu và thành phần kinh tế, với kinh tế Nhà nước đóng vai trò chủ đạo Sự kết hợp giữa kinh tế Nhà nước và kinh tế tập thể ngày càng tạo nên nền tảng vững chắc cho phát triển kinh tế.

Nhà nước xã hội chủ nghĩa quản lý nền kinh tế thông qua chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách và pháp luật, đồng thời sử dụng sức mạnh vật chất của lực lượng kinh tế Bằng cách áp dụng các hình thức và phương pháp quản lý của nền kinh tế thị trường, Nhà nước kích thích sản xuất, giải phóng sức sản xuất, phát huy mặt tích cực và hạn chế tiêu cực của cơ chế thị trường, nhằm bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động và toàn thể nhân dân.

Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tập trung vào việc phân phối dựa trên kết quả lao động và hiệu quả kinh tế Ngoài ra, việc phân phối cũng được thực hiện theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác trong sản xuất, kinh doanh, đồng thời thông qua các chương trình phúc lợi xã hội.

Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay không còn là nền kinh tế kế hoạch tập trung hay nền kinh tế thị trường tự do, mà là một giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội Nền kinh tế này vừa tuân thủ các quy luật của kinh tế thị trường, vừa bị chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội.

Cơ sở thực tiễn

Thực tiễn thế giới từ năm 1986.

Việt Nam đã chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa, quan liêu và bao cấp sang nền kinh tế thị trường, trong bối cảnh thế giới và khu vực đang trải qua nhiều biến động phức tạp và khó lường.

Thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga đã khởi đầu một thời đại mới, chuyển từ tư bản chủ nghĩa sang chủ nghĩa xã hội trên toàn cầu, biến lý thuyết thành hiện thực Những thành công kinh tế và khoa học kỹ thuật của Liên Xô đã tạo ra niềm tin cho nhân dân tiến bộ, nhưng cũng dẫn đến những sai lầm trong lãnh đạo do sự tuyệt đối hóa thành tựu Quan niệm sai lầm về việc nhanh chóng tiêu diệt chủ nghĩa tư bản đã khiến Liên Xô phải cải tổ, nhưng do thiếu đường lối đúng đắn, cải tổ không mang lại kết quả mà còn dẫn đến sự sụp đổ của mô hình xã hội chủ nghĩa Sau khi Liên Xô tan rã, các quốc gia cũ tìm hướng đi riêng, chủ yếu theo đuổi phát triển tư bản chủ nghĩa với sự hỗ trợ từ phương Tây, nhưng gặp nhiều khó khăn do sự can thiệp từ bên ngoài Tình trạng đa nguyên, đa đảng làm cho chính trị trở nên rối ren, trong khi cộng đồng các Quốc gia Độc lập (SNG) vẫn phải đối mặt với nội chiến và đời sống kinh tế - chính trị - xã hội không được cải thiện, khiến người dân là những người chịu thiệt thòi nhất.

Giống như Liên Xô, Trung Quốc cũng gặp nhiều khó khăn trong việc lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà không qua chế độ tư bản chủ nghĩa Trong những năm 60 và 70 của thế kỷ XX, Trung Quốc đã trải qua một cuộc khủng hoảng nghiêm trọng Tuy nhiên, đất nước này đã tìm ra hướng đi riêng thông qua công cuộc đổi mới Bước sang thế kỷ XXI, Trung Quốc đã đặt ra mục tiêu xây dựng một “xã hội hài hòa”, và những thành tựu vượt bậc trong các lĩnh vực kinh tế, khoa học, kỹ thuật và công nghệ đã khiến các nước tư bản chủ nghĩa phải ngưỡng mộ.

Sau khủng hoảng tài chính toàn cầu, thế giới bước vào giai đoạn phát triển mới với sự thay đổi trong tương quan sức mạnh các nền kinh tế Vị thế của châu Á trong nền kinh tế thế giới đang gia tăng nhờ vào sự phát triển mạnh mẽ của một số quốc gia trong khu vực và việc thực hiện các hiệp định mậu dịch tự do Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin, đã dẫn đến sự hình thành nền kinh tế tri thức, đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của các quốc gia Những thành tựu này không chỉ làm thay đổi cấu trúc kinh tế thế giới mà còn ảnh hưởng đến quan hệ sản xuất và tư duy kinh tế, chính trị, triết học Đối với các nước phát triển, toàn cầu hóa tạo điều kiện thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và nâng cao mức sống, trong khi các nước đang phát triển có cơ hội rút ngắn thời gian phát triển thông qua chuyển giao công nghệ Tuy nhiên, toàn cầu hóa cũng đặt ra thách thức cạnh tranh khốc liệt, khiến các nước đang phát triển thường ở thế bất lợi trong cuộc chơi toàn cầu do các nước tư bản phát triển thiết lập.

Xu thế toàn cầu hóa đang tạo ra nhiều thách thức lớn cho các nước phát triển và đang phát triển, bao gồm bùng nổ dân số, cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm môi trường, chiến tranh và xung đột sắc tộc Điều này đặt ra yêu cầu cho các nước như Việt Nam phải xác định hướng đi đúng đắn để bắt kịp và đón đầu sự phát triển của thời đại Trong bối cảnh này, thách thức cũng chính là cơ hội để các nước đang phát triển thể hiện tiềm năng của mình nhằm đạt được mục tiêu phát triển bền vững, điều quan trọng là phải nắm bắt và lựa chọn thời cơ phù hợp.

Thực tiễn Việt Nam từ năm 1986

Từ sau khi đất nước giải phóng cho đến năm 1985, Việt Nam áp dụng cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung với mô hình công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa kiểu Xô viết Kinh tế bao cấp chủ yếu bao gồm các thành phần kinh tế quốc doanh, tập thể và cá thể, trong đó kinh tế quốc doanh đóng vai trò chủ đạo Thời kỳ này không có kinh tế tư nhân và hoạt động thương mại tự do, với nguyên tắc toàn dân làm cho nhà nước và nhà nước bao cấp cho toàn dân, mọi người làm theo năng lực và hưởng theo nhu cầu.

Việt Nam, một quốc gia đang phát triển với nền kinh tế và kỹ thuật còn lạc hậu, đang trên con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội, một xu hướng lịch sử và mục tiêu lý tưởng của toàn dân tộc Hiện tại, đất nước đang trải qua giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội, với đặc điểm nổi bật là chuyển từ nền kinh tế sản xuất nhỏ lên chủ nghĩa xã hội mà không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa Để đạt được điều này, Việt Nam đang nỗ lực công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nhằm xây dựng nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa với các ngành công nghiệp, nông nghiệp và văn hóa tiên tiến Quá trình này yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng tỷ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ, đồng thời phân công lại lao động và nâng cao chuyên môn hóa trong các lĩnh vực khác nhau.

Nền kinh tế Việt Nam hiện nay vẫn tồn tại nhiều thành phần và hình thức sở hữu khác nhau, xuất phát từ quá trình phát triển từ sản xuất hàng hóa nhỏ Để đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế và cạnh tranh hiệu quả, cần xây dựng một nền kinh tế hàng hóa đa dạng, phát triển ở trình độ cao và vận hành theo cơ chế thị trường Tuy nhiên, nền kinh tế thị trường tự do, mặc dù có nhiều ưu điểm, cũng tồn tại nhược điểm và mặt trái không phù hợp với chế độ xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng.

Mục tiêu xã hội chủ nghĩa của Việt Nam là xây dựng một đất nước giàu mạnh, công bằng, dân chủ và văn minh Để đạt được điều này, chúng ta phát triển nền kinh tế thị trường dưới sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa Điều này có nghĩa là kinh tế thị trường không được tự do phát triển mà phải có sự giám sát của Nhà nước, vì lợi ích của nhân dân Nhà nước cần khai thác những mặt tích cực của kinh tế thị trường, đồng thời hạn chế và loại bỏ những yếu tố không phù hợp với mục tiêu xã hội chủ nghĩa Việc quản lý theo định hướng xã hội chủ nghĩa sẽ đảm bảo sự phát triển bền vững của nền kinh tế, phù hợp với nguyện vọng của toàn Đảng và toàn dân.

Từ nền kinh tế hàng hóa theo cơ chế thị trường tự do, chuyển sang nền kinh tế xã hội chủ nghĩa yêu cầu phải hình thành nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa Áp lực kinh tế trong nước kết hợp với tình hình quốc tế đã thúc đẩy chúng ta phải tiến hành đổi mới Đổi mới tư duy, đặc biệt là tư duy kinh tế, là bước đầu tiên trong quá trình này.

QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XHCN Ở NƯỚC TA TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI TỪ 1986 ĐẾN NAY

Giai đoạn từ Đại hội VI đến trước Đại hội XI: Bước đầu hình thành

1.1 Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12/1986).

1.1.1 Chủ trương, quan điểm. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12 – 1986) chính thức khởi xướng công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, trong đó đổi mới kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm Đại hội xác định tư tưởng chỉ đạo cho quá trình đổi mới nền kinh tế đất nước là giải phóng mọi năng lực sản xuất hiện có, khai thác mọi khả năng tiềm tàng của đất nước, sử dụng có hiệu quả sự giúp đỡ quốc tế để phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất … Để tạo tiền đề cho lực lượng sản xuất phát triển, giải pháp mang tính chất chiến lược là xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần và xóa bỏ triệt để cơ chế kế hoạch hóa, tập trung, bao cấp Đại hội VI xác định cơ chế quản lý nền kinh tế đất nước trong thời kỳ đổi mới là: “Cơ chế kế hoạch hóa theo phương thức hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, đúng nguyên tắc tập trung dân chủ” Trong đó, kế hoạch hóa là đặc trưng số một và sử dụng đúng đắn quan hệ hàng hóa – tiền tệ là đặc trưng số hai của cơ chế quản lý kinh tế mới Để khắc phục hiện tượng các cơ quan quản lý hành chính – kinh tế can thiệp sâu vào hoạt động sản xuất kinh doanh của các đơn vị kinh tế cơ sở, Đại hội VI chủ trương đổi mới quản lý nhà nước về kinh tế theo hướng “ha”.

Vận dụng đúng đắn quan hệ hàng hóa – tiền tệ là đặc trưng quan trọng trong cơ chế quản lý kinh tế, được xác định tại Đại hội VI, nhấn mạnh rằng mọi hoạt động kinh tế cần so sánh chi phí với hiệu quả Các tổ chức và đơn vị kinh tế phải tự bù đắp chi phí và có lãi để tái sản xuất mở rộng, từ đó thực hiện hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa Quan điểm này phản ánh sự phát triển trong nhận thức của Đảng về chủ thể của kinh tế thị trường và phương thức sản xuất kinh doanh trong cơ chế quản lý mới Việc xác lập và sử dụng quan hệ hàng hóa – tiền tệ không chỉ thừa nhận nền kinh tế nhiều thành phần mà còn là cơ sở điều chỉnh kế hoạch và phương thức sản xuất, kinh doanh Để tối ưu hóa các đòn bẩy kinh tế, Đại hội VI đã chủ trương đổi mới phương thức kinh doanh của hệ thống thương nghiệp quốc doanh, chuyển từ cơ chế bao cấp sang hoạt động theo thị trường, tự cân đối nguồn hàng, ngoại trừ một số mặt hàng nhạy cảm do Nhà nước quản lý độc quyền.

1.1.2 Thực hiện và kết quả.

Trước thời kỳ đổi mới, Nhà nước đã trực tiếp giao chỉ tiêu pháp lệnh cho các doanh nghiệp, điều này trở thành nội dung chủ yếu trong kế hoạch hóa Tại Đại hội VI, việc sử dụng kế hoạch pháp lệnh chỉ được giới hạn trong những trường hợp đặc biệt, với mục tiêu đảm bảo những cân đối cơ bản và thực hiện các nghĩa vụ cam kết với nước ngoài.

Công tác kế hoạch hóa được thực hiện theo nguyên tắc tập trung dân chủ, phân công và phân cấp rõ ràng Điều này giúp phân biệt chức năng quản lý hành chính – kinh tế của các cơ quan Nhà nước Trung ương và địa phương với chức năng quản lý sản xuất, kinh doanh của các đơn vị kinh tế cơ sở.

Đại hội VI đã xác định phân cấp quản lý là giải pháp hiệu quả nhất để đạt được mục tiêu phát triển, đảm bảo quyền làm chủ của ba cấp: Trung ương, địa phương và các đơn vị sản xuất, kinh doanh Trung ương giữ quyền quyết định trong các lĩnh vực then chốt và vấn đề chiến lược, trong khi địa phương có quyền chủ động trong quản lý kinh tế - xã hội, và các đơn vị sản xuất, kinh doanh được trao quyền tự chủ để phát triển.

Trong lĩnh vực tài chính, cần giảm các khoản chi bao cấp và mở rộng quyền tự chủ tài chính cho cơ sở Đồng thời, thu hẹp các khoản đầu tư theo phương thức cấp phát, tăng cường đầu tư qua tín dụng ngân hàng và triển khai các hoạt động kinh doanh tiền tệ, ngoại tệ, vàng bạc Bên cạnh đó, cần thực hiện chính sách lãi suất linh hoạt để bước đầu kiềm chế tình trạng lạm phát.

Những chủ trương đã tạo nền tảng cho cơ chế quản lý mới, dẫn đến sự đổi mới quan trọng trong tất cả các ngành kinh tế Trong lĩnh vực công nghiệp, việc áp dụng hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa nhằm thực hiện mục tiêu “bốn giảm” đã được triển khai mạnh mẽ, đặc biệt sau quyết định 217/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng.

Những chủ trương, biện pháp đổi mới cơ chế quản lý kinh tế từ 1979 đến

Năm 1989, đặc biệt với đường lối đổi mới của Đại hội VI, đã tạo ra bước chuyển mạnh mẽ trong đời sống kinh tế - xã hội Phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần được Đảng khẳng định là chính sách nhất quán trong quá trình chuyển đổi lên chủ nghĩa xã hội, nhận được sự ủng hộ tích cực từ nhân dân và nhanh chóng đi vào thực tiễn Quyền làm chủ kinh tế của nhân dân được phát huy, khơi dậy nhiều tiềm năng và sức sáng tạo, thúc đẩy sản xuất và dịch vụ phát triển, tạo thêm việc làm và của cải cho xã hội, góp phần hình thành nền kinh tế hàng hóa.

Công tác kế hoạch hóa đã chuyển từ kế hoạch hóa pháp lệnh sang kế hoạch định hướng, tập trung vào việc sử dụng các đòn bẩy kinh tế và lực lượng vật chất nhằm đảm bảo sự cân đối giữa tổng cung và tổng cầu trong nền kinh tế Đồng thời, chiến lược kinh tế - xã hội, quy hoạch ngành và vùng đã được xây dựng, cùng với việc mở rộng thông tin kinh tế và nâng cao vai trò của hợp đồng kinh tế trong sản xuất.

Quá trình đổi mới cơ chế quản lý kinh tế đã thúc đẩy cải tiến chế độ khoán và quản lý trong các hợp tác xã nông nghiệp, mở rộng quyền tự chủ cho các xí nghiệp quốc doanh Điều này đã tạo điều kiện cho các đơn vị kinh tế và người lao động phát huy tính chủ động, sáng tạo Nhờ vậy, các cơ sở sản xuất đã hướng theo nhu cầu thị trường, áp dụng tiến bộ kỹ thuật và cải tiến quản lý, từ đó nâng cao chất lượng sản phẩm và giảm giá thành Cơ chế mới đã mang lại luồng sinh khí mới, tạo cơ hội cho các thành phần kinh tế phát triển năng động, làm giàu cho doanh nghiệp và đất nước.

Thành tựu nổi bật nhất, được Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ VII

(6 – 1991), khẳng định: “Bước đầu hình thành nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước”

Hạn chế của Đại hội VI là vẫn tách rời kế hoạch hóa và thị trường khi xem

Kế hoạch hóa và sử dụng đúng đắn quan hệ hàng hóa - tiền tệ là hai đặc trưng quan trọng trong cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Nhà nước giữ độc quyền ngoại thương, đặc biệt đối với những mặt hàng do kinh tế quốc doanh sản xuất hoặc nhập khẩu, đảm bảo thương nghiệp quốc doanh độc quyền bán trên thị trường thông qua các biện pháp quản lý hành chính Mặc dù còn một số hạn chế, nhưng những chủ trương đổi mới của Đại hội VI đóng vai trò quan trọng trong việc xác lập cơ chế này.

Trước Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII vào tháng 6 năm 1991, cơ chế quản lý kinh tế mới đã được xác lập nhưng chưa đồng bộ, ảnh hưởng đến việc định hướng và thúc đẩy sản xuất, kinh doanh Vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước trong một số ngành còn mờ nhạt, đặc biệt là trong khâu phân phối thu nhập của các đơn vị kinh tế quốc doanh Thương nghiệp quốc doanh gặp khó khăn trong phương thức hoạt động, và trong quá trình chuyển đổi sang cơ chế thị trường, nhiều hiện tượng tiêu cực đã xuất hiện Một số cơ sở kinh doanh chạy theo lợi nhuận bằng mọi giá, vi phạm pháp luật như lừa đảo, làm hàng giả, buôn lậu, và trốn thuế Sự sôi động trong chuyển đổi phương thức kinh doanh đã làm gia tăng tình trạng thương mại hóa nền kinh tế - xã hội, dẫn đến biến dạng mô hình kinh tế, khi nhiều đơn vị ưu tiên buôn bán để kiếm lời thay vì đầu tư vào sản xuất hàng hóa và cải thiện của cải cho xã hội.

1.2 Đại hội lần thứ VII của Đảng (6 – 1991).

Tại Đại hội VII của Đảng (6 – 1991), chủ trương xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần và đổi mới quản lý kinh tế được nhấn mạnh, xác định cơ chế vận hành theo định hướng xã hội chủ nghĩa với sự quản lý của Nhà nước Các đơn vị kinh tế có quyền tự chủ sản xuất, cạnh tranh hợp pháp và hợp tác tự nguyện Đại hội đã đề ra giải pháp cụ thể để đổi mới quản lý kinh tế quốc doanh, từng bước xóa bỏ bao cấp và củng cố các cơ sở kinh tế hiệu quả Đối với các đơn vị thua lỗ, cần thực hiện biện pháp mạnh như cho thuê hoặc giải thể Đồng thời, cần đổi mới và kiện toàn kinh tế tập thể, phát triển kinh tế gia đình và định hướng kinh tế tư nhân Kế hoạch hóa trong nền kinh tế phải dựa vào thị trường, xác định các cân đối lớn và nâng cao dự đoán kinh tế - xã hội Đảng chủ trương vận dụng cơ chế giá thị trường cho hàng tiêu dùng và tư liệu sản xuất, điều chỉnh giá cả theo biến động quốc tế để bảo đảm phát triển sản xuất.

Việc xóa bỏ cơ chế giá bao cấp đi đôi với việc sắp xếp lại tổ chức và chuyển đổi phương thức kinh doanh của các doanh nghiệp thương nghiệp quốc doanh là cần thiết để hội nhập và phát huy vai trò trong cơ chế mới Đại hội VII nhấn mạnh tầm quan trọng của việc nâng cao hiệu quả hệ thống thương nghiệp quốc doanh, nhằm ổn định và điều tiết giá cả thị trường, đồng thời chú trọng vào khâu bán buôn kết hợp với bán lẻ các mặt hàng thiết yếu.

1.2.2 Thực hiện và kết quả.

Trong cơ chế quản lý xuất nhập khẩu hàng hóa, Đại hội VII đã có những tiến bộ vượt bậc so với Đại hội VI Việc giảm dần độc quyền trong kinh doanh hàng xuất nhập khẩu của doanh nghiệp quốc doanh được thực hiện thông qua việc cho phép thành lập các hiệp hội xuất nhập khẩu tự nguyện, cùng với việc đổi mới quy trình cấp giấy phép và hạn ngạch xuất nhập khẩu.

Giai đoạn từ sau Đại hội IX đến nay

2.1 Đại hội IX Đảng Cộng sản Việt Nam: Lần đầu tiên khẳng định về

“nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”.

2.1.1 Chủ trương, quan điểm. Đại hội IX Đảng Cộng sản Việt Nam lần đầu tiên khẳng định về “nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đánh một dấu mốc lớn trong nhận thức của Đảng về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, đó thực sự là một Đại hội đổi mới Tại Đại hội này, Đảng xác định kinh tế thị trường là thành tựu của văn minh nhân loại Tuy nhiên, từ Đại hội VI đến Đại hội VIII, Đảng chưa đưa ra khái niệm “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”.

Đại hội IX của Đảng, diễn ra vào tháng 4 năm 2001, đã chính thức lựa chọn mô hình kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa Sự kiện này diễn ra sau 15 năm thực hiện công cuộc đổi mới, mang lại nhiều thành tựu kinh tế - xã hội quan trọng và làm thay đổi căn bản tình hình đất nước Nền kinh tế hàng hóa với nhiều thành phần đã hình thành và vận hành theo cơ chế thị trường, dưới sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Đại hội IX đã tổng kết 15 năm đổi mới và khẳng định rằng Đảng và Nhà nước thực hiện chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường, với sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa Điều này đánh dấu sự chuyển biến quan trọng trong nhận thức về kinh tế thị trường, từ một công cụ quản lý sang một chỉnh thể, là nền tảng cho sự phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được xác định là một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo quy luật của thị trường vừa chịu sự chi phối bởi các nguyên tắc của chủ nghĩa xã hội.

Tại Đại hội IX, Đảng đã nhấn mạnh mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, đồng thời xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội và nâng cao đời sống nhân dân thông qua việc phát triển kinh tế Quan trọng hơn, phát triển lực lượng sản xuất hiện đại cần gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp trên cả ba mặt sở hữu, quản lý và phân phối.

2.1.2 Thực hiện và kết quả.

Đại hội IX đã đưa ra những tư tưởng đổi mới sâu sắc, đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế, nhanh chóng đi vào thực tiễn và mang lại nhiều thành tựu kinh tế - xã hội Cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ngày càng được thiết lập đồng bộ, khuyến khích các thành phần kinh tế mở rộng và phát triển sản xuất, kinh doanh.

Sau Hội nghị lần thứ 6 khóa IV vào tháng 9 năm 1979, nền kinh tế Việt Nam đã dần dần từ bỏ cơ chế kế hoạch hóa tập trung và chuyển sang thiết lập các yếu tố của cơ chế thị trường Cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã phát huy vai trò tích cực trong việc khơi dậy tiềm năng của các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ, góp phần làm thay đổi diện mạo nền kinh tế - xã hội.

Trong một số lĩnh vực, như giá cả và quản lý doanh nghiệp nhà nước, việc thể chế hóa các chủ trương của Đảng và chính sách của Nhà nước về việc thiết lập đồng bộ các yếu tố của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vẫn gặp nhiều rào cản.

Nghị quyết Trung ương 9 khóa IX đã cảnh báo về xu hướng tái bao cấp và bảo trợ cho doanh nghiệp nhà nước, dẫn đến tình trạng độc quyền kinh doanh của các tổng công ty Hiện tượng này đã gây ảnh hưởng tiêu cực đến việc hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, khiến nền kinh tế trở thành mục tiêu bị lợi dụng bởi một số đối tác Điều này không chỉ gây tổn hại đến lợi ích của doanh nghiệp mà còn ảnh hưởng đến lợi ích quốc gia trong quá trình hội nhập, đặc biệt trong các cuộc đàm phán quốc tế.

Mỹ vẫn cho rằng Việt Nam chưa đạt tiêu chuẩn nền kinh tế thị trường sau khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) vào năm 2007 Họ nhận định rằng Việt Nam vẫn còn phụ thuộc nhiều vào chính sách bao cấp và đã đặt ra thời hạn để công nhận Việt Nam là nước có nền kinh tế thị trường.

2.2 Đại hội X và XI: Đảng ta tiếp tục hoàn thiện “thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”.

2.2.1 Chủ trương, quan điểm. Đại hội X chủ trương “tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, trong đó bổ sung, phát triển một số nhận thức mới về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Bao gồm mục tiêu phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam; tính đồng bộ, tính hiệu quả của các loại thị trường; vai trò, vị trí các thành phần kinh tế và mối quan hệ giữa chúng trong quá trình phát triển; quản lý nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Hội nghị Trung ương 6 khóa X khẳng định rằng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là sự kết hợp giữa việc tuân theo các quy luật của kinh tế thị trường và chịu sự chi phối bởi các quy luật kinh tế của chủ nghĩa xã hội, cùng với các yếu tố đảm bảo tính định hướng xã hội chủ nghĩa.

Khái niệm “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” đã được nêu ra từ Đại hội IX, nhưng chỉ đến Đại hội XI, khái niệm này mới trở nên rõ ràng và đầy đủ Nền kinh tế này được xác định là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, hoạt động theo cơ chế thị trường dưới sự quản lý của Nhà nước và lãnh đạo của Đảng Cộng sản Nó vừa tuân theo quy luật thị trường vừa bị chi phối bởi các nguyên tắc của chủ nghĩa xã hội, nhằm phát huy hiệu quả mọi nguồn lực cho sự phát triển nhanh và bền vững Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa khuyến khích làm giàu hợp pháp, đồng thời thực hiện các mục tiêu như xóa đói, giảm nghèo, và xây dựng một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng và văn minh Tất cả các thành phần kinh tế đều bình đẳng trước pháp luật và hợp tác cạnh tranh lành mạnh, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.

Đảng đã nhận thức mới về cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, góp phần giải phóng sức sản xuất và giúp đất nước vượt qua khủng hoảng kinh tế - xã hội Quá trình hình thành các loại thị trường đã thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tạo ra môi trường hội nhập sâu hơn với nền kinh tế toàn cầu.

Trong giai đoạn đầu của công cuộc đổi mới, Đảng ta thể hiện sự thận trọng và e ngại khi đề cập đến kinh tế thị trường Thay vào đó, quan điểm phát triển nền kinh tế hàng hoá có kế hoạch với nhiều thành phần đi lên chủ nghĩa xã hội được nêu ra, nhưng chưa có khái niệm về cơ chế thị trường Chỉ đến Đại hội IX, Đảng Cộng sản Việt Nam mới khẳng định rõ ràng về "nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa".

Để xây dựng đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cần hoàn thiện khung pháp lý cho các loại thị trường, cải cách doanh nghiệp nhà nước để vừa giữ vai trò chủ đạo, vừa tự chịu trách nhiệm về sản xuất kinh doanh Cần minh bạch hóa và giảm dần sự bảo trợ của Nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước, tạo ra môi trường cạnh tranh bình đẳng cho mọi thành phần kinh tế Cuối cùng, cần hoàn thiện các công cụ quản lý vĩ mô trong bối cảnh thị trường đang dần hình thành và hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng.

2.3 Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII (1/2016).

ĐÁNH GIÁ QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN ĐƯỜNG LỐI ĐỔI MỚI QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XHCN Ở NƯỚC TA TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI TỪ 1986 ĐẾN NAY 27 1 Kết quả

Thành tựu từng giai đoạn

Giai đoạn 1986 - 1990 đánh dấu khởi đầu của công cuộc đổi mới tại Việt Nam, với chủ trương phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần và áp dụng cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Trong giai đoạn này, nền kinh tế đã dần khắc phục những yếu kém và đạt được những bước phát triển đáng kể Kết thúc kế hoạch 5 năm, công cuộc đổi mới đã mang lại những thành tựu quan trọng như GDP tăng 4,4%/năm, tổng giá trị sản xuất nông nghiệp tăng bình quân 3,8 - 4%/năm, và công nghiệp tăng bình quân 7,4%/năm, trong đó sản xuất hàng tiêu dùng tăng từ 13 - 14%/năm, cùng với giá trị kim ngạch xuất khẩu tăng 28%.

Việc thực hiện hiệu quả ba chương trình mục tiêu về lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu đã giúp phục hồi sản xuất, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và kiềm chế lạm phát Đây được coi là thành công ban đầu trong việc cụ thể hóa nội dung công nghiệp hóa XHCN Quan trọng hơn, giai đoạn này đánh dấu sự chuyển đổi cơ bản từ cơ chế quản lý cũ sang cơ chế quản lý mới, góp phần đổi mới đời sống kinh tế - xã hội, giải phóng lực lượng sản xuất và tạo động lực phát triển mới.

Giai đoạn 1991 - 1995 đánh dấu sự phục hồi của đất nước sau thời kỳ trì trệ và suy thoái Nền kinh tế đạt được nhiều thành tựu quan trọng với tốc độ tăng trưởng cao và liên tục Cụ thể, GDP bình quân tăng 8,2%/năm, giá trị sản xuất công nghiệp tăng 13,3%/năm, nông nghiệp tăng 4,5%/năm, và lĩnh vực dịch vụ tăng 12%/năm Tổng sản lượng lương thực trong 5 năm đạt 125,4 triệu tấn, tăng 27% so với giai đoạn 1986 – 1990.

Hầu hết các lĩnh vực kinh tế đều đạt nhịp độ tăng trưởng tương đối khá

Việt Nam đã vượt qua cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội kéo dài hơn 15 năm, mặc dù vẫn còn một số vấn đề chưa ổn định Tuy nhiên, những thành tựu đạt được đã tạo nền tảng quan trọng để bước vào giai đoạn phát triển mới, tập trung vào việc đẩy mạnh công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước.

Giai đoạn 1996 - 2000 đánh dấu sự phát triển quan trọng của kinh tế Việt Nam, với việc đẩy mạnh công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước Mặc dù chịu ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính khu vực và thiên tai nghiêm trọng, Việt Nam vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đạt 7% Trong đó, nông, lâm, ngư nghiệp tăng 4,1%, công nghiệp và xây dựng tăng 10,5%, và các ngành dịch vụ tăng 5,2% Nếu tính cả giai đoạn 1991 - 2000, nhịp độ tăng trưởng GDP bình quân đạt 7,5%.

1990, GDP năm 2000 tăng hơn hai lần”.

Trong giai đoạn này, sự nghiệp đổi mới đã đạt được những kết quả nhất định thông qua việc triển khai Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010 và Kế hoạch 5 năm 2001 - 2005 Nền kinh tế ghi nhận tốc độ tăng trưởng cao với GDP bình quân tăng 7,5%/năm, riêng năm 2005 đạt 8,4% Cụ thể, nông nghiệp tăng 3,8%, công nghiệp và xây dựng tăng 10,2%, trong khi các ngành dịch vụ tăng 7% Quy mô tổng sản phẩm trong nước năm 2005 đạt 837,8 nghìn tỷ đồng, gấp đôi so với năm 1995, và GDP bình quân đầu người đạt khoảng 10 triệu đồng (640 USD), vượt mức bình quân của các nước đang phát triển có thu nhập thấp.

Từ một quốc gia phải đối mặt với tình trạng thiếu ăn và hàng năm phải nhập khẩu từ 500.000 đến 1 triệu tấn lương thực, Việt Nam đã chuyển mình trở thành một trong những nước xuất khẩu gạo hàng đầu trên thế giới.

2005, Việt Nam đứng thứ nhất thế giới về xuất khẩu hạt tiêu; đứng thứ hai về các mặt hàng gạo, cà phê, hạt điều; thứ 4 về cao su;…

Sự tăng trưởng kinh tế đi kèm với ổn định kinh tế vĩ mô đã đảm bảo an ninh chính trị, xã hội và quốc phòng, đồng thời phát huy lợi thế của đất nước và các vùng, ngành Các cải cách thể chế kinh tế được thực hiện nhằm hoàn thiện cơ chế quản lý và hệ thống điều hành, nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống tài chính và tiền tệ, cũng như phát triển nguồn nhân lực và chất lượng lao động, khoa học và công nghệ.

Nền kinh tế Việt Nam tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng ổn định, với GDP bình quân 5 năm đạt 7%, cho thấy tiềm lực và quy mô kinh tế ngày càng tăng Việt Nam đã thoát khỏi tình trạng kém phát triển, từ nhóm nước thu nhập thấp chuyển sang nước có thu nhập trung bình (thấp) Dù chịu tác động từ khủng hoảng tài chính toàn cầu, vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam vẫn đạt gần 45 tỷ USD, vượt 77% kế hoạch Tổng vốn đăng ký mới và tăng thêm ước đạt 150 tỷ USD, gấp hơn 2,7 lần kế hoạch ODA cam kết đạt trên 31 tỷ USD, vượt 1,5 lần mục tiêu, với giải ngân ước đạt khoảng 13,8 tỷ USD, vượt 16% GDP năm 2010 đạt 101,6 tỷ USD, gấp 3,26 lần so với năm 2000.

Mặc dù sự phục hồi kinh tế sau khủng hoảng tài chính toàn cầu diễn ra chậm, Việt Nam vẫn đạt mức tăng trưởng kinh tế bình quân 7%/năm, thấp hơn kế hoạch 7,5% - 8% nhưng cao hơn mức trung bình của khu vực Trong 20 năm từ 1991 đến 2011, tăng trưởng GDP của Việt Nam đạt 7,34%/năm, nằm trong số cao nhất khu vực Đông Nam Á, châu Á và toàn cầu Quy mô kinh tế năm 2011 gấp hơn 4,4 lần so với năm 1990 và hơn 2,1 lần so với năm 2000, với thời kỳ 2001 - 2011 đạt bình quân 7,14%/năm.

Trong năm 2012, GDP tăng 5,03% so với năm 2011, mặc dù thấp hơn mức tăng 5,89% của năm trước, nhưng vẫn được coi là hợp lý trong bối cảnh kinh tế toàn cầu khó khăn Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản ước tính tăng 3,4%, trong khi công nghiệp tăng 4,8% Chỉ số giá tiêu dùng năm 2012 ghi nhận mức tăng 6,81% Đầu tư phát triển tăng 7% so với năm trước, chiếm 33,5% GDP Xuất nhập khẩu hàng hóa cũng tăng 18,3%, với kim ngạch xuất khẩu dự kiến vượt 100 tỷ USD, tỷ lệ kim ngạch xuất, nhập khẩu so với GDP đạt gần 170%, đứng thứ 5 thế giới.

Tính từ năm 1988 đến tháng 7 năm 2012, vốn FDI đã đăng ký đạt trên 236 tỷ USD và thực hiện đạt hơn 96,6 tỷ USD Trong khi đó, từ năm 1993 đến nay, vốn ODA cam kết gần 80 tỷ USD và đã giải ngân trên 35 tỷ USD.

Nền kinh tế đang trải qua sự phát triển ổn định, đặc biệt trong ngành nông nghiệp với sản xuất lương thực đảm bảo an ninh lương thực quốc gia Ngành công nghiệp ngày càng đa dạng và cải thiện chất lượng, nâng cao khả năng cạnh tranh và đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước cũng như mở rộng xuất khẩu Đồng thời, đầu tư vào các ngành công nghiệp mới và công nghệ cao được chú trọng, trong khi khu vực dịch vụ cũng ghi nhận tốc độ tăng trưởng ổn định Những thành tựu này tạo nền tảng vững chắc cho việc thực hiện kế hoạch 5 năm (2011 - 2015) đạt kết quả tốt hơn trong những năm tiếp theo.

Cơ cấu kinh tế chuyển biến tích cực theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, gắn sản xuất với thị trường

Về cơ cấu kinh tế tiếp tục được chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa Tỷ trọng nông nghiệp trong GDP giảm dần, năm 1986 là 46,3%, năm

Từ năm 2005 đến năm 2010, cơ cấu trồng trọt và chăn nuôi đã có sự chuyển dịch tích cực, với tỷ trọng sản phẩm có năng suất và hiệu quả kinh tế cao, cùng với các sản phẩm xuất khẩu tăng lên Ngành công nghiệp và xây dựng cũng chứng kiến sự gia tăng nhanh chóng, từ 21,6% vào năm 1988 lên 41% vào năm 2005, nhờ vào việc áp dụng thiết bị và công nghệ hiện đại Đồng thời, tỷ trọng khu vực dịch vụ cũng tăng từ 33,1% năm 1988 lên 38,1% năm 2005.

Nông nghiệp Việt Nam đã trải qua sự chuyển mình mạnh mẽ, từ việc chỉ tập trung vào độc canh lúa với năng suất thấp và thiếu hụt, đến việc sản xuất đủ lương thực cho nhu cầu trong nước và xuất khẩu gạo với khối lượng lớn, đứng thứ hai thế giới, góp phần quan trọng vào an ninh lương thực toàn cầu Ngoài ra, Việt Nam cũng là một trong những nước hàng đầu thế giới về xuất khẩu cà phê, cao su, hạt điều, hạt tiêu và thủy sản.

Ngành dịch vụ ngày càng đa dạng và phát triển mạnh mẽ, đáp ứng tốt nhu cầu sản xuất và đời sống Du lịch và bưu chính viễn thông tăng trưởng nhanh chóng, trong khi các dịch vụ tài chính, ngân hàng và tư vấn pháp lý cũng có sự tiến bộ và hiệu quả rõ rệt.

Thực hiện có kết quả chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, phát huy ngày càng tốt hơn tiềm năng của các thành phần kinh tế

Kinh tế nhà nước đang được cải cách và nâng cao chất lượng, hiệu quả, với trọng tâm là các ngành then chốt và lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế.

Cơ chế quản lý doanh nghiệp nhà nước đã được cải cách quan trọng nhằm xóa bỏ bao cấp, chuyển sang mô hình công ty và tăng cường quyền tự chủ cũng như trách nhiệm của doanh nghiệp Sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế tư nhân đã huy động hiệu quả nguồn lực và tiềm năng của người dân, trở thành động lực quan trọng cho tăng trưởng kinh tế, với đóng góp khoảng 38% GDP vào năm 2005 Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài cũng ghi nhận tốc độ tăng trưởng cao, đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, góp phần chuyển giao công nghệ, phát triển giao thông quốc tế, tăng cường ngân sách nhà nước và tạo ra nhiều cơ hội việc làm cho người dân.

Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dần dần được hình thành, kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định

Sau gần 35 năm đổi mới, hệ thống pháp luật và chính sách của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã được xây dựng đồng bộ, tạo điều kiện cho hoạt động của các doanh nghiệp trong nền kinh tế đa thành phần và cải cách bộ máy quản lý nhà nước Với chủ trương tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, quan hệ kinh tế của Việt Nam với các quốc gia và tổ chức quốc tế ngày càng mở rộng, đặc biệt thông qua việc tham gia Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và thực hiện các cam kết trong Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) cũng như Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ.

Kể từ khi gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), Việt Nam đã thiết lập quan hệ thương mại với hơn 200 quốc gia và vùng lãnh thổ, đồng thời ký kết hơn 90 hiệp định thương mại song phương Điều này đã tạo ra một bước phát triển quan trọng trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại của đất nước.

Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đang được xây dựng và hoàn thiện, với các chủ trương đổi mới của Đảng được thể chế hóa thành luật pháp và chính sách ngày càng đồng bộ Môi trường đầu tư và kinh doanh được cải thiện, các yếu tố và loại hình thị trường tiếp tục phát triển, góp phần vào sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế nhiều thành phần.

Những thay đổi về việc chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế

Trước Đổi Mới, cơ chế quản lý kinh tế ở Việt Nam là cơ chế kế hoạch hoá tập trung với những đặc điểm sau:

Nhà nước quản lý nền kinh tế chủ yếu thông qua mệnh lệnh hành chính và hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh chi tiết Các doanh nghiệp hoạt động dựa trên quyết định của cơ quan nhà nước và các chỉ tiêu được giao Tất cả các phương hướng sản xuất, nguồn vật tư, vốn, giá sản phẩm, tổ chức bộ máy và nhân sự đều do các cấp có thẩm quyền quyết định Nhà nước cấp phát vốn và vật tư cho doanh nghiệp, trong khi doanh nghiệp nộp sản phẩm cho Nhà nước Nếu doanh nghiệp thua lỗ, Nhà nước sẽ bù đắp, còn nếu có lãi, Nhà nước sẽ thu lại.

Các cơ quan hành chính hiện nay can thiệp quá sâu vào hoạt động sản xuất và kinh doanh của doanh nghiệp mà không chịu trách nhiệm về mặt vật chất và pháp lý đối với các quyết định của mình Hậu quả là những thiệt hại vật chất do các quyết định này gây ra sẽ do ngân sách nhà nước gánh chịu Điều này dẫn đến việc các doanh nghiệp không có quyền tự chủ trong sản xuất, kinh doanh và cũng không bị ràng buộc trách nhiệm đối với kết quả hoạt động của mình.

Trong bối cảnh hiện nay, quan hệ hàng hóa - tiền tệ thường bị xem nhẹ và chỉ đóng vai trò hình thức, trong khi quan hệ vật chất lại chiếm ưu thế Nhà nước thực hiện quản lý kinh tế chủ yếu thông qua cơ chế "cấp phát - giao nộp".

Nhiều hàng hóa thiết yếu như sức lao động, phát minh sáng chế và tư liệu sản xuất quan trọng thường không được công nhận là hàng hóa theo quy định pháp luật.

Bộ máy quản lý cồng kềnh với nhiều cấp trung gian không chỉ kém năng động mà còn tạo ra đội ngũ quản lý thiếu năng lực, có phong cách cửa quyền và quan liêu, trong khi họ lại nhận được quyền lợi cao hơn so với người lao động.

Hiện nay, Việt Nam đang áp dụng cơ chế quản lý kinh tế dưới sự điều hành của nhà nước, chuyển mình từ nền kinh tế bao cấp và tập trung sang nền kinh tế xã hội chủ nghĩa.

Nền kinh tế thị trường đã mang lại nhiều thành tựu lớn cho Việt Nam, giúp đất nước thoát khỏi nghèo đói và chuyển mình từ một quốc gia chưa phát triển sang một quốc gia đang phát triển với xu hướng hiện đại hóa và công nghiệp hóa Để thực hiện sự chuyển đổi từ nền kinh tế bao cấp sang nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, nhà nước đã triển khai nhiều hoạt động nổi bật.

- Xây dựng được mối quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất:

Nhà nước thiết lập một chế độ sở hữu đa dạng nhằm giải phóng lực lượng sản xuất và khuyến khích sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế vào quá trình xây dựng đất nước.

Nhà nước cần xác định vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước trong bối cảnh nhiều thành phần kinh tế, bằng cách xây dựng các doanh nghiệp Nhà nước và công ty cổ phần Nhà nước ở những ngành, lĩnh vực then chốt Điều này nhằm hạn chế các tiêu cực phát sinh từ nền kinh tế thị trường.

- Xây dựng lực lượng sản xuất đó là xây dựng nền kinh tế công nghiệp hoá và hiện đại hoá Biểu hiện ở 2 mặt:

Xây dựng phương thức quản lý sản xuất chuyên môn hóa, tập trung và hợp tác, đồng thời thúc đẩy cách mạng khoa học kỹ thuật theo hướng cơ khí hóa, tự động hóa và hóa học hóa Phát triển cơ cấu kinh tế phù hợp với lợi thế so sánh của đất nước nhằm tạo ưu thế trong quan hệ quốc tế Đồng thời, phát triển kinh tế mở, đa dạng hóa và đa phương hóa các loại hình kinh tế.

Nước ta có nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung dựa trên chế độ công hữu và sở hữu tập thể về tư liệu sản xuất, đã đóng vai trò quan trọng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ Hiện nay, trong bối cảnh thế giới chuyển từ đối đầu sang đối thoại, các quốc gia chậm phát triển có nhiều cơ hội hội nhập và phát triển Để thích ứng với môi trường mới, Việt Nam cần tìm kiếm con đường phát triển mới, đó là nền kinh tế nhiều thành phần hoạt động theo cơ chế thị trường với sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa Để thực hiện chuyển đổi kinh tế, Nhà nước cần đổi mới phương thức quản lý kinh tế và xây dựng hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, đặc biệt là pháp luật kinh tế.

Hạn chế

Quá trình xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam còn chậm, chưa đáp ứng kịp thời yêu cầu đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế Hệ thống luật pháp và chính sách thiếu đồng bộ, trong khi vấn đề đất đai và quản lý doanh nghiệp nhà nước gặp nhiều khó khăn, dẫn đến thất thoát tài sản nhà nước Doanh nghiệp tư nhân bị phân biệt đối xử, thị trường phát triển chậm và thiếu đồng bộ, cùng với tình trạng cạnh tranh không lành mạnh và gian lận thương mại chưa được khắc phục Chính sách tiền lương chưa đảm bảo đời sống người lao động và thu hút nhân tài, trong khi hệ thống thuế chưa thực hiện tốt chức năng điều tiết và thúc đẩy đầu tư Cải cách hành chính chưa đạt yêu cầu, tệ tham nhũng và lãng phí vẫn nghiêm trọng Các lĩnh vực văn hóa, xã hội phát triển chậm, chất lượng dịch vụ y tế và giáo dục còn thấp, và hệ thống an sinh xã hội còn sơ khai với tỷ lệ tham gia bảo hiểm xã hội thấp Nhiều vấn đề xã hội và bảo vệ môi trường vẫn chưa được giải quyết hiệu quả.

Nguyên nhân

Những hạn chế, khuyết điểm trên đây là do cả nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan, trong đó nguyên nhân chủ quan là chủ yếu.

Việc xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam gặp nhiều hạn chế do đây là một mô hình hoàn toàn mới, chưa từng có trong lịch sử Nhận thức về mô hình này và thể chế kinh tế còn yếu kém, trong khi công tác lý luận chưa theo kịp thực tiễn Nền kinh tế vẫn kém phát triển, với sự chênh lệch lớn giữa các vùng miền, thành phần kinh tế và tầng lớp dân cư Đổi mới là một nhiệm vụ lớn, toàn diện và phức tạp, chưa có tiền lệ Hơn nữa, tình hình thế giới và khu vực cũng có những tác động không thuận lợi, cùng với sự chống phá từ các thế lực thù địch và cơ hội chính trị.

Nhận thức về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn hạn chế do công tác lý luận chưa theo kịp thực tiễn Đại hội XI của Đảng đã nhấn mạnh rằng công tác nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn vẫn chưa đáp ứng yêu cầu đặt ra.

Công tác tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận chưa được chú trọng đầy đủ, dẫn đến đổi mới tư duy lý luận chưa mạnh mẽ và còn lạc hậu so với sự phát triển nhanh chóng của thực tiễn Dự báo tình hình đôi khi chậm và thiếu chính xác, ảnh hưởng đến chất lượng các quyết sách và chủ trương của Đảng Nhận thức và giải quyết các mối quan hệ lớn còn hạn chế, trong khi đổi mới chưa toàn diện, thiếu đồng bộ và còn lúng túng ở một số lĩnh vực.

Nhận thức và phương pháp lãnh đạo trong việc thực hiện chủ trương của Đảng và chính sách của Nhà nước còn nhiều hạn chế Quyền hạn và trách nhiệm, đặc biệt là của người đứng đầu, chưa được quy định rõ ràng, dẫn đến thiếu cơ chế kiểm soát quyền lực Nhiều nghị quyết đúng đắn không được triển khai tích cực, kết quả đạt được còn thấp Bên cạnh đó, một số chính sách không phù hợp với thực tiễn và chậm được sửa đổi, bổ sung.

Việc quản lý và giáo dục cán bộ, đảng viên, đặc biệt là cán bộ lãnh đạo, vẫn chưa được thực hiện một cách thường xuyên và hiệu quả, dẫn đến sự thiếu thống nhất trong tư tưởng và hành động của Đảng trước những biến động phức tạp Đánh giá và sử dụng cán bộ hiện nay còn mang tính cục bộ, thiếu khách quan, và chưa có cơ chế, chính sách phù hợp để trọng dụng những người có đức và tài.

Vai trò của các cơ quan dân cư, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội, cùng các tổ chức xã hội và nghề nghiệp trong việc tham gia hoạch định chính sách, thực hiện và giám sát còn hạn chế Điều này ảnh hưởng đến hiệu quả và tính minh bạch trong quá trình ra quyết định và thực thi chính sách Cần tăng cường sự tham gia của các tổ chức này để nâng cao chất lượng và tính khả thi của các chính sách công.

Bài học kinh nghiệm

Để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Việt Nam cần tiếp tục đổi mới nhận thức và tư duy, đặc biệt là về kinh tế thị trường Mục tiêu đến năm 2020, Việt Nam cơ bản trở thành nước công nghiệp hiện đại, đòi hỏi sự hoàn thiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là rất cấp bách.

Xây dựng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một quá trình dài hạn, không thể hoàn thành trong thời gian ngắn và sẽ gặp nhiều khó khăn, thử thách Để vượt qua những thách thức này, cần có sự tìm tòi, sáng tạo và đổi mới liên tục trong thực tiễn.

Trong quá trình hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cần làm rõ nội hàm cơ bản của thể chế này, đặc biệt là các vấn đề liên quan đến bản chất của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Các công cụ thực hiện kinh tế thị trường, vấn đề sở hữu, vai trò lãnh đạo của Đảng, vai trò quản lý của Nhà nước, và vai trò của các thành phần kinh tế Nhà nước cần được làm sáng tỏ và thể chế hóa để đảm bảo sự phát triển bền vững.

Tổng kết

Đảng ta khẳng định phát triển kinh tế thị trường là đúng đắn, nhưng cần điều chỉnh hợp lý với tình hình và định hướng của đất nước Kết quả cho thấy quá trình đổi mới quan điểm của Đảng về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ đổi mới đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng.

Từ năm 1986 đến nay, Đảng đã xác định rõ định hướng phát triển kinh tế thị trường, với mục tiêu đến năm 2020 hoàn thành đồng bộ hệ thống thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phù hợp với các tiêu chuẩn phổ biến của nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế.

Sau gần 35 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu vĩ đại và có ý nghĩa lịch sử trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

Mặc dù Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhưng vẫn tồn tại một số hạn chế như hệ thống thị trường chưa đồng bộ, môi trường kinh tế chưa hoàn thiện và hiệu quả Bên cạnh đó, năng lực quản lý nhà nước và cơ chế chính sách chưa theo kịp thực tiễn, và nguồn nhân lực vẫn chưa đáp ứng đủ yêu cầu của nền kinh tế thị trường trong bối cảnh hội nhập.

Trong quá trình đổi mới, cần chủ động và sáng tạo, kiên định với mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội Việc vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời kế thừa và phát huy truyền thống dân tộc, cùng với việc áp dụng kinh nghiệm quốc tế phù hợp với Việt Nam là rất quan trọng.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1 Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XII của Đảng (tài liệu sử dụng tại đại hội đảng bộ cấp sơ sở), tr 49-50.

2 Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XII của Đảng (tài liệu sử dụng tại đại hội đảng bộ cấp sơ sở), tr 16.

3 Báo cáo của Chính phủ về tình hình kinh tế - xã hội năm 2013, kết quả 3 năm thực hiện kế hoạch 5 năm (2011-2015) và nhiệm vụ 2014-2015.

4 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, Hà Nội, 2011, tr 93, 94.

5 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, Hà Nội, 2011, tr 94.

6 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, Hà Nội, 2011, tr.69.

7 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, Hà Nội, 2011, tr 92.

8 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, Hà Nội, 2006, tr.69.

9 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, Hà Nội, 2011, tr.73, 74

10 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, Hà Nội, 2006, tr.67.

Ngày đăng: 10/04/2022, 15:56

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2011, tr. 93, 94 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI
Nhà XB: Nxb. CTQG
5. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2011, tr. 94 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI
Nhà XB: Nxb. CTQG
6. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2011, tr.69 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI
Nhà XB: Nxb. CTQG
7. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2011, tr. 92 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI
Nhà XB: Nxb. CTQG
8. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2006, tr.69 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X
Nhà XB: Nxb. CTQG
9. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2011, tr.73, 74 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI
Nhà XB: Nxb. CTQG
10. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2006, tr.67 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X
Nhà XB: Nxb. CTQG
1. Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XII của Đảng (tài liệu sử dụng tại đại hội đảng bộ cấp sơ sở), tr. 49-50 Khác
2. Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XII của Đảng (tài liệu sử dụng tại đại hội đảng bộ cấp sơ sở), tr. 16 Khác
3. Báo cáo của Chính phủ về tình hình kinh tế - xã hội năm 2013, kết quả 3 năm thực hiện kế hoạch 5 năm (2011-2015) và nhiệm vụ 2014-2015 Khác

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w