NGHIÊN CỨU
Bài báo cáo tập trung nghiên cứu thục trạng của thị trường mở, nghiệp vụ thị trường mở ở Việt Nam trong giai đoạn từ 2008 đến 2018.
Dữ liệu trong báo cáo này được trích từ chương 5 của giáo trình Ngân Hàng Trung Ương, do nhóm biên soạn gồm ThS Trần Văn Trung và ThS Nguyễn Xuân Dũng, dưới sự chủ biên của PGS TS Trần Huy Hoàng tại trường ĐH Tài chính – Marketing.
KẾT CẤU BÀI BÁO CÁO
Bài tiểu luận này bao gồm 3 chương
Chương I: Cơ sở lý thuyết về thị trường mở
Chương II: Thực trạng về thị trường mở tại Việt Nam
Chương III: Kết luận và Khuyến nghị
CƠ SỞ LÝ THUYẾT
KHÁI NIỆM THỊ TRƯỜNG MỞ VÀ NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ
1 Khái niệm thị trường mở
Thị trường mở (Open Market) là nơi diễn ra giao dịch ngắn hạn các chứng từ có giá giữa Ngân hàng Trung ương (NHTW) và các Ngân hàng Thương mại (NHTM), cũng như các tổ chức tài chính Qua các hoạt động này, NHTW có khả năng điều chỉnh khối lượng tiền cung ứng, nhằm thực hiện hiệu quả các mục tiêu của chính sách tiền tệ trong từng giai đoạn cụ thể.
2 Khái niệm nghiệp vụ thị trường mở
Nghiệp vụ thị trường mở (OMO) là hoạt động mà Ngân hàng Trung ương thực hiện để mua hoặc bán giấy tờ có giá, nhằm điều chỉnh khối lượng tiền cung ứng Qua đó, OMO giúp NHTW đạt được các mục tiêu của chính sách tiền tệ trong từng giai đoạn cụ thể.
Vừa là nghiệp vụ của thị trường
Vừa là công cụ của NHTW để thực thi chính sách tiền tệ
Hoạt động không vì mục đích lợi nhuận
HÀNG HÓA CỦA THỊ TRƯỜNG MỞ
Hàng hoá của OM: Có tính thanh khoản cao, phổ biến và giao dịch dễ dàng Có thể ngắn hạn hoặc trung dài hạn, bao gồm:
1 Tín phiếu kho bạc (Trearury Bonds)
Tín phiếu kho bạc là loại giấy nợ ngắn hạn do Chính phủ, thường là Kho bạc nhà nước, phát hành nhằm bù đắp thiếu hụt ngân sách nhà nước và thực hiện các mục tiêu của chính sách tiền tệ.
Điều hòa lưu thông tiền tệ,
Hỗ trợ việc cân đối thu chi ngân sách,
Bù đắp những thiếu hụt tạm thời,
Chống lạm phát hay khuyến khích sản xuất.
Tín phiếu kho bạc, thường có kỳ hạn 3 tháng, 6 tháng và 12 tháng, được xem là công cụ tài chính không rủi ro và phổ biến nhất trên thị trường tiền tệ Tín phiếu Kho bạc Nhà nước (KBNN) sở hữu nhiều đặc điểm nổi bật.
Là công cụ vay nợ ngắn hạn (tức thời gian đảo hạn dưới 12 tháng)
Có tính thanh khoản cao, tức thời gian chuyển đổi thành tiền nhanh; chi phí cho việc chuyển đổi phù hợp, được mua bán ráo riết nhất.
Tín phiếu KBNN có độ an toàn cao nhờ vào kỳ hạn thanh toán ngắn, giúp giảm thiểu dao động giá và rủi ro Chính phủ đảm bảo chi trả bằng cách tăng thuế, vay mượn hoặc phát hành tiền để trả nợ Do đó, lãi suất của tín phiếu KBNN là thấp nhất trong các công cụ vay nợ ngắn hạn Tín phiếu này được phát hành dưới nhiều hình thức khác nhau, bao gồm tín phiếu có lợi tức trả trước, tín phiếu có lợi tức trả sau, và tín phiếu không ghi lãi suất mà tính trên chênh lệch giữa giá mua và giá bán.
Ngân hàng thương mại (NHTM) chủ yếu nắm giữ tín phiếu kho bạc với hai mục đích chính: thu lợi tức và đảm bảo khả năng thanh khoản Đồng thời, Ngân hàng Trung ương (NHTW) cũng mua tín phiếu kho bạc nhằm điều chỉnh lượng tiền cung ứng (MS) trong nền kinh tế, đây là công cụ quan trọng nhất trong hoạt động thị trường mở.
2 Tín phiếu NHTW (Central bank Bonds)
Tín phiếu do Ngân hàng Trung ương phát hành là giấy nợ đối với người sở hữu, nhằm điều chỉnh tổng lượng tiền cung ứng Các tín phiếu này có thời hạn đa dạng, bao gồm 91 ngày, 120 ngày, 182 ngày, 274 ngày và 365 ngày, đáp ứng nhu cầu của thị trường.
Tín phiếu này có những đặc điểm tương tự như tín phiếu KBNN, nhưng NHTW có khả năng chủ động thực hiện chính sách tiền tệ thông qua việc mua bán loại tín phiếu này.
3 Trái phiếu chính phủ (Government Bonds)
TPCP là loại giấy nợ do các tổ chức chính phủ như Bộ Tài chính và Kho bạc Nhà nước phát hành để huy động vốn từ dân chúng Người mua trái phiếu, hay còn gọi là trái chủ, sẽ nhận được quyền lợi hợp pháp như hoàn vốn khi đáo hạn, hưởng thu nhập cố định dưới hình thức lợi tức trái phiếu, và có khả năng cầm cố, thế chấp trái phiếu.
- Thời hạn từ một năm trở lên
- Tiền lãi được nhận một lần khi đáo hạn, hoặc nhận định kỳ (6 loại tháng hoặc 1 năm), hoặc nhận lãi trước (ngay lúc phát hành).
- Được chuyển nhượng theo pháp luật
- Được mua bán công khai trên thị trường
Tại Việt Nam, quy định tại Nghị định số 141/2003/NĐ-CP ngày 20/11/2003 của Chính phủ, TPCP bao gồm:
- Trái phiếu công trình trung ương,
- Công trái xây dựng tổ quốc
Theo Thông tư số 19/2004/TT-BTC ngày 18/3/2004 của Bộ Tài chính, hiện nay có hai loại trái phiếu đang được đấu thầu tại NHNN là:
- Tín phiếu kho bạc Nhà nước;
- TPCP bằng ngoại tệ (trái phiếu ngoại tệ)
4 Trái phiếu đô thị (Municipal Bonds)
Trái phiếu đô thị là công cụ tài chính do chính quyền các đô thị lớn phát hành nhằm huy động vốn cho các dự án và công trình phát triển Đây thực chất là một dạng trái phiếu chính phủ, nhưng được phát hành bởi chính quyền địa phương để phục vụ cho các chương trình phát triển kinh tế - xã hội tại địa phương.
5 Chứng chỉ tiền gửi (CD - Certificate of Deposit)
Chứng chỉ tiền gửi (CD) là công cụ vay nợ do ngân hàng thương mại phát hành, mang lại lãi suất cố định và hoàn trả giá trị gốc khi đáo hạn Hầu hết các ngân hàng đều cung cấp CD có thể chuyển nhượng, làm cho chúng trở nên hấp dẫn hơn so với tiền gửi thông thường và đóng vai trò quan trọng trên thị trường tiền tệ Ngoài ra, chứng chỉ tiền gửi ký danh còn thường được bảo hiểm, mang lại sự an tâm cho người gửi tiền.
Chứng chỉ tiền gửi (CD) có thể được mua bán trên thị trường thứ cấp, tùy thuộc vào quy định của ngân hàng và điều kiện của từng quốc gia Việc cho phép mua bán lại chứng chỉ này giúp tăng khả năng cạnh tranh trong huy động vốn và cải thiện tính thanh khoản Nhu cầu trên thị trường xuất phát từ việc khách hàng muốn mua lại hoặc bán chứng chỉ để phục vụ cho các mục đích khác nhau như tiêu dùng và sản xuất kinh doanh.
CD do ngân hàng phát hành để cạnh tranh với các nguồn vốn ngắn hạn
CD là công cụ mang lãi suất
Thời hạn của CD thường là ngắn hạn
CD có khả năng chuyển đổi lớn
CD được coi là khoản tiền gửi ngân hàng phải nộp phí bảo hiểm và trích một phần tiền để lập dự trữ
Nhìn chung các hàng hoá giao dịch trên thị trường mở cần thoả mãn những điều kiện cơ bản sau đây:
Được phát hành và lưu thông hợp pháp;
Được phép giao dịch mua bán chuyển nhượng;
Còn thời gian hiệu lực.
CÁC CHỦ THỂ THAM GIA TRÊN THỊ TRƯỜNG MỞ
Ngân hàng Nhà nước (NHTW) tham gia thị trường mở với vai trò điều hành và quản lý, thông qua việc mua bán các giấy tờ có giá ngắn hạn Điều này nhằm cung cấp khả năng thanh toán cần thiết cho hệ thống ngân hàng, phù hợp với nhu cầu vốn của nền kinh tế NHTW thực hiện nghiệp vụ thị trường mở dựa trên chính sách tiền tệ, từ đó quản lý khối lượng tiền cung ứng và kiểm soát hoạt động tín dụng của các tổ chức tín dụng.
NHTW tham gia thị trường mở nhằm mục đích quản lý và chi phối, không phải để kinh doanh, từ đó đảm bảo chính sách tiền tệ được thực hiện đúng theo mục tiêu đề ra.
→ NHTW tham gia với tư cách vừa là người tổ chức vừa là người điều hành thị trường, vừa là người trực tiếp mua bán trên thị trường.
2 Các ngân hàng thương mại
Các ngân hàng thương mại (NHTM) tham gia thị trường mở để điều chỉnh mức dự trữ ngân quỹ, duy trì khả năng thanh toán và cho vay vốn dư thừa nhằm kiếm lãi Thông qua thị trường này, NHTM cũng thực hiện các nghiệp vụ môi giới và kinh doanh chứng khoán, đóng vai trò quan trọng trong việc ổn định thị trường tài chính.
Ngân hàng thương mại (NHTM) là trung gian tài chính chủ yếu, đóng vai trò quan trọng trong việc nhận và huy động vốn gửi từ khách hàng Với số lượng vốn khổng lồ, NHTM không chỉ cho vay mà còn tham gia vào thị trường tiền tệ với tư cách là người cho vay và người đi vay.
3 Các tổ chức phi ngân hàng
Các tổ chức tài chính phi ngân hàng như công ty bảo hiểm, công ty tài chính và quỹ đầu tư sử dụng thị trường tài chính để tạo ra thu nhập từ vốn nhàn rỗi Họ mua bán các chứng khoán ngắn hạn và dài hạn, thường sở hữu khối lượng chứng khoán lớn Để đảm bảo lợi nhuận cao nhất với rủi ro thấp nhất, các tổ chức này thường xuyên điều chỉnh cơ cấu danh mục đầu tư.
Thị trường mở không chỉ dành riêng cho các doanh nghiệp lớn mà còn mở cửa cho nhiều đối tượng khác nhau, bao gồm các tổng công ty, tập đoàn kinh tế, công ty sản xuất và thương mại dịch vụ, cũng như cá nhân.
PHƯƠNG THỨC GIAO DỊCH MUA HOẶC BÁN TRÊN THỊ TRƯỜNG MỞ
1 Phương thức mua hoặc bản giấy tờ có giá
1.1 Giao dịch không hoàn lại (mua hoặc bán hẳn)
Các giao dịch mua, bán chứng khoán theo phương thức mua đứt, bán đoạn dựa trên giá thị trường làm chuyển nhượng quyền sở hữu hoàn toàn Hình thức này có ảnh hưởng lâu dài đến dự trữ của các ngân hàng thương mại (NHTM), và giấy tờ có giá cần phải là công cụ nợ với mức rủi ro thấp.
1.2 Giao dịch có hoàn lại
Phương pháp này có nghĩa là chỉ mua, bán tạm thời các giấy tờ có giá Nó tồn tại dưới hai dạng:
Mua bán theo hợp đồng mua lại là hình thức giao dịch mà Ngân hàng Trung ương ký kết hợp đồng mua giấy tờ có giá với người giao dịch, trong đó người giao dịch cam kết sẽ mua lại vào một ngày xác định trong tương lai với mức giá đã thỏa thuận.
Mua bán theo hợp đồng mua lại đảo ngược NHTW bán giấy tờ có giá và cam kết sẽ mua lại trong tương lai với giá thỏa thuận
2 Phương thức đấu thầu giấy tờ có giá trong nghiệp vụ thị trường mở
Nghiệp vụ thị trường mở được thực hiện qua hai phương thức chính là đấu thầu khối lượng và đấu thầu lãi suất Trong mỗi phiên đấu thầu, Ngân hàng Nhà nước chỉ áp dụng một trong hai phương thức này để đảm bảo tính hiệu quả và minh bạch trong hoạt động.
Ngân hàng Trung ương (NHTW) thông báo trước lãi suất và khối lượng giao dịch, cho phép các tổ chức tham gia đấu thầu đăng ký khối lượng giao dịch dựa trên mức lãi suất đã xác định Quá trình phân phối sẽ diễn ra như sau: nếu tổng số đơn đặt thầu nhỏ hơn hoặc bằng khối lượng mà NHTW cần bán, toàn bộ đơn đặt thầu sẽ được phân phối đầy đủ; ngược lại, nếu tổng số lớn hơn, việc phân bổ sẽ được thực hiện theo tỷ lệ đặt thầu.
Việc xác định lãi suất trúng thầu của các tổ chức tín dụng (TCTD) trong hoạt động nghiệp vụ thị trường mở (NVTTM) dựa trên khối lượng dự thầu của các TCTD và khối lượng giấy tờ có giá mà Ngân hàng Trung ương (NHTW) cần mua hoặc bán NHTW có quyền quyết định công bố hoặc không công bố khối lượng giấy tờ có giá cần giao dịch.
Các đơn vị tham gia đấu thầu sẽ đưa ra mức lãi suất và khối lượng giấy tờ có giá cần mua hoặc bán tương ứng Lãi suất dự thầu được tính theo tỷ lệ phần trăm và làm tròn đến hai chữ số thập phân Khi NHTW là người mua, lãi suất sẽ được sắp xếp theo thứ tự giảm dần, trong khi nếu NHTW là người bán, lãi suất sẽ được sắp xếp theo thứ tự tăng dần.
Lãi suất trúng thầu là mức lãi suất cao nhất trong trường hợp Ngân hàng Trung ương (NHTW) bán và mức lãi suất thấp nhất trong trường hợp NHTW mua, tại đó khối lượng giấy tờ có giá mà NHTW cần mua hoặc bán được thực hiện.
Có hai phương thức xét thầu theo lãi suất là xét thầu theo lãi suất thống nhất hoặc theo lãi suất riêng lẻ:
Lãi suất thống nhất: là toàn bộ khối lượng trúng thầu được tính theo một mức lãi suất trúng thầu để tính số tiền phải thanh toán
Lãi suất riêng lẻ là yếu tố quan trọng trong việc xác định khối lượng trúng thầu, được tính dựa trên từng mức lãi suất dự thầu đã công bố Số tiền thanh toán sẽ được tính toán tương ứng với khối lượng trúng thầu theo nguyên tắc nhất định.
Nếu tổng khối lượng dự thầu của các TCTD không vượt quá khối lượng mà NHTW cần mua hoặc bán, thì khối lượng dự thầu sẽ được xác nhận là khối lượng trúng thầu.
Nếu tổng khối lượng dự thầu của các TCTD vượt quá khối lượng mà NHTW cần mua hoặc bán, thì khối lượng trúng thầu của các TCTD sẽ được tính tỷ lệ thuận với khối lượng dự thầu của họ.
VAI TRÒ THỊ TRƯỜNG MỞ
Nghiệp vụ thị trường mở là công cụ quan trọng giúp Ngân hàng Trung ương (NHTW) điều hành chính sách tiền tệ hiệu quả thông qua việc kiểm soát mức cung tiền Khi NHTW thực hiện mua bán chứng khoán trên thị trường mở, điều này sẽ ảnh hưởng đến cơ sở tiền tệ và làm thay đổi cung tiền trong nền kinh tế Thị trường mở có tính chất hai chiều, cho phép NHTW bơm tiền vào hoặc rút tiền ra khỏi lưu thông, từ đó điều chỉnh tình hình tài chính và ổn định nền kinh tế.
Nghiệp vụ thị trường mở là công cụ quan trọng giúp Ngân hàng Trung ương điều chỉnh vốn khả dụng của các ngân hàng Khi NHTW thực hiện mua vào, cơ số tiền và cung tiền tăng lên, đồng thời dự trữ của hệ thống ngân hàng thương mại cũng được cải thiện Ngoài ra, việc thực hiện nghiệp vụ này còn giúp NHTW gửi tín hiệu về chính sách tiền tệ trong tương lai, định hướng lãi suất thị trường và hạn chế biến động lãi suất.
Thị trường mở là công cụ chính sách tiền tệ (CSTT) chủ động, được Ngân hàng Trung ương (NHTW) khởi xướng và thực hiện theo nhu cầu thị trường NHTW có khả năng tiến hành các giao dịch thị trường mở một cách linh hoạt về khối lượng và thời gian, cho phép thực hiện ở quy mô lớn hoặc nhỏ, với thời hạn dài hoặc ngắn Điều này giúp NHTW điều chỉnh hiệu quả các yếu tố kinh tế và hạn chế ảnh hưởng của ý muốn chủ quan từ các Ngân hàng Thương mại (NHTM).
2 Đối với nền kinh tế
Thị trường tài chính trở nên sôi động hơn nhờ vào sự phát triển của thị trường tiền tệ và việc thực hiện các nghiệp vụ thị trường mở, mở ra kênh dẫn truyền vốn mới cho các tổ chức tín dụng Sự tham gia của Ngân hàng Trung ương (NHTW) đã làm tăng tính thanh khoản trong việc mua bán giấy tờ có giá, giúp các ngân hàng sử dụng hiệu quả hơn nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi và đa dạng hóa các nghiệp vụ kinh doanh.
Việc phát hành và giao dịch chứng khoán tài chính (CTCG) trên thị trường mở đã gia tăng tính thanh khoản cho các CTCG, từ đó thúc đẩy sự phát triển của thị trường tài chính Sự phát triển này có ảnh hưởng mạnh mẽ đến quá trình hoàn thiện và phát triển của thị trường liên ngân hàng.
Hiện nay, Việt Nam đang trong quá trình mở cửa và hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu Các quốc gia phát triển và khu vực Đông Nam Á đều áp dụng thị trường mở trong điều hành chính sách tiền tệ nhằm đạt được các mục tiêu kinh tế vĩ mô Do đó, việc sử dụng thị trường mở là điều kiện cần thiết cho việc hội nhập kinh tế của Việt Nam vào khu vực thế giới.
3 Đối với các thành viên tham gia
Thị trường mở đóng vai trò quan trọng trong việc đa dạng hóa các nghiệp vụ kinh doanh của các tổ chức tín dụng (TCTD) Ngoài các hoạt động truyền thống như cho vay, bảo lãnh và cung cấp dịch vụ, các TCTD còn sử dụng một phần vốn để tham gia vào các nghiệp vụ kinh doanh mới, đặc biệt là mua bán các giấy tờ có giá (GTCG) Đồng thời, thị trường mở cũng thúc đẩy sự hình thành các mối quan hệ kinh doanh giữa các thành viên tham gia.
Thị trường mở cho phép các ngân hàng tự nguyện tham gia theo nguyên tắc thị trường, không bị bắt buộc, với lãi suất cũng do thị trường quyết định, khác với công cụ chiết khấu CTCG của NHTW Điều này giúp các TCTD chủ động phối hợp với NHTW để thực hiện mục tiêu chính sách tiền tệ, đồng thời quản lý và sử dụng vốn khả dụng một cách linh hoạt, không gây ách tắc trong thanh toán và đáp ứng nhu cầu tăng trưởng tín dụng Khi cần thiết, các ngân hàng có thể bán lại CTCG trên thị trường mở để giải quyết khó khăn về nguồn vốn.
THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG MỞ TẠI VIỆT NAM
MỘT SỐ QUY ĐỊNH VỀ THỊ TRƯỜNG MỞ (OMO) TẠI VIỆT NAM
Quyết định số 11/QĐ – NHNN của NHNN
Quy chế Nghiệp vụ thị trường mở, Ban hành kèm theo Quyết định số 01/2007/QĐ-NHNN
2 Một số quy định về thị trường mở tại Việt Nam
Quy định về danh mục các giấy tờ có giá sử dụng trong giao dịch nghiệp vụ thị trường mở
1 Tín phiếu Ngân hàng Nhà nước.
3 Trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh.
4 Trái phiếu Chính quyền địa phương do Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội và Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh phát hành.
GTCG nhóm 1, 2, 3 gọi là GTCG loại 1 GTCG nhóm 4 gọi là GTCG loại 2.
Quy định về thành viên tham gia thị trường mở
Quy định tổ chức đấu thầu
LỊCH SỬ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG MỞ TẠI VIỆT NAM
Kể từ khi ra đời vào tháng 7/2000, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã không ngừng đổi mới và hoàn thiện công cụ nghiệp vụ thị trường tiền tệ (NVTTM) theo tiêu chuẩn quốc tế NHNN đã xây dựng đồng bộ khuôn khổ pháp lý, nâng cấp cơ sở hạ tầng và cải tiến quy trình giao dịch, đồng thời đa dạng hóa các loại hàng hóa trong NVTTM Những nỗ lực này nhằm thu hút đông đảo các chủ thể tham gia giao dịch, biến NVTTM thành công cụ gián tiếp chủ yếu trong việc điều hành chính sách tiền tệ của NHNN.
Thông tư số 42/TT-NHNN ngày 31/12/2015 đã thay thế Quyết định 01/2007/QĐ-NHNN, góp phần hoàn thiện khung pháp lý cho các giao dịch trên Nghiệp vụ Thị trường Tiền tệ (NVTTM) Điều này đảm bảo sự phù hợp với quy định tại Luật Ngân hàng Nhà nước năm 2010 và các thông lệ quốc tế.
Hạ tầng công nghệ trong lĩnh vực nghiệp vụ thị trường tiền tệ (NVTTM) đã được Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đầu tư cải tiến để nâng cao hiệu quả hoạt động, phù hợp với xu hướng công nghệ hóa toàn cầu NHNN đã chuyển từ việc thu thập thông tin và tổ chức đấu thầu thủ công sang ứng dụng công nghệ thông tin, cho phép giao dịch trực tuyến giữa NHNN và các thành viên thị trường Đặc biệt, phần mềm hệ thống giao dịch đã được nâng cấp theo dự án Hệ thống thông tin quản lý và hiện đại hóa hệ thống ngân hàng - FSMIMS và chính thức vận hành từ tháng 6/2016, tạo điều kiện cho các giao dịch chuyển quyền sở hữu GTCG và chuyển tiền mua - bán được xử lý nhanh chóng và thuận tiện, ngay cả với khối lượng lớn.
Từ năm 2000, tần suất giao dịch đã được rút ngắn từ 10 ngày/phiên xuống còn 1-3 phiên/tuần trong giai đoạn 2001 - 2006 Kể từ cuối năm 2006, giao dịch được thực hiện thường xuyên hàng ngày Tuy nhiên, từ cuối năm 2008, do những biến động trong thị trường tài chính toàn cầu và sự tái cơ cấu của hệ thống các TCTD, Ngân hàng Nhà nước đã tăng cường thực hiện 1 - 2 phiên giao dịch mỗi ngày.
Hàng hóa giao dịch hiện nay rất đa dạng, bao gồm các GTCG có tính thanh khoản cao như Trái phiếu Kho bạc, Tín phiếu Kho bạc, Tín phiếu NHNN, và Trái phiếu Chính phủ bảo lãnh Ngoài ra, còn có Trái phiếu Chính quyền địa phương và các GTCG khác được phép giao dịch theo quy định của NHNN Sự phát triển của nghiệp vụ thị trường mở đã thu hút nhiều TCTD tham gia, từ đó gia tăng khả năng lan tỏa tác động của chính sách tiền tệ đến thị trường tiền tệ và hệ thống TCTD.
Hiện tại, có 4 ngân hàng thương mại Nhà nước và một số ngân hàng thương mại cổ phần tham gia vào hệ thống Ngân hàng Thương mại Đến nay, hầu hết các tổ chức tín dụng đều được công nhận là thành viên của hệ thống này, với tổng số lên tới 70 tổ chức tín dụng.
TÌNH HÌNH THỰC HIỆN THỊ TRƯỜNG MỞ GIAI ĐOẠN TỪ NĂM 2008 ĐẾN NĂM 2018
1 Giai đoạn từ 2008 đến 2012 Đứng trước yêu cầu đổi mới mạnh mẽ của hoạt động Ngân hàng và sự phát triển nhanh chóng của công nghệ thông tin, từ năm 2003, Sở Giao dịch đã được Thống đốc NHNN giao Chủ đầu tư Dự án “Trang thiết bị máy móc, nối mạng và thiết kế phần mềm nghiệp vụ thị trường tiền tệ và lưu ký GTCG tại Sở giao dịch NHNN-Giai đoạn I” do Quỹ hỗ trợ Pháp và Ngân hàng Phát triển Châu Á tài trợ (gọi là dự án AFD).
Vào tháng 11/2007, chương trình chính thức được triển khai, cho phép kết nối trực tiếp giữa Ngân hàng Nhà nước (NHNN) và các thành viên trong giao dịch thị trường tiền tệ, đặc biệt là giao dịch nghiệp vụ TTM Sự kết nối này không chỉ nhanh chóng và hiệu quả mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho NHNN thực hiện nghiệp vụ TTM kịp thời, điều này được thể hiện rõ qua kết quả hoạt động từ năm 2008 đến đầu năm 2014.
Nghiệp vụ thị trường tiền tệ (TTM) được điều chỉnh linh hoạt, kết hợp với các công cụ chính sách tiền tệ khác để điều tiết vốn khả dụng cho các tổ chức tín dụng (TCTD) ở mức hợp lý, góp phần ổn định thị trường tiền tệ Các nghiệp vụ TTM được thực hiện hàng ngày, chủ yếu thông qua hình thức đấu thầu khối lượng và công bố lãi suất nhằm duy trì sự ổn định cho thị trường.
Trong 7 tháng đầu năm, NHNN đã thực hiện chào bán tín phiếu NHNN kỳ hạn 182 và 364 ngày, với lãi suất phổ biến tương ứng lần lượt là 7,5%/năm và 7,75%/năm Đồng thời, để hỗ trợ vốn ngắn hạn cho các TCTD, NHNN đã thực hiện các phiên chào mua giấy tờ có giá ( GTCG) với kỳ hạn ngắn (7, 14, 21 và 28 ngày); khối lượng chào mua hàng ngày được xác định dựa trên nhu cầu vốn thanh toán và tình hình thị trưởng tiền tệ
Trong năm qua, thị trường đấu thầu tín phiếu Kho bạc đã tổ chức 31 đợt đấu thầu, với giá trị trúng thầu đạt 20.730 tỷ đồng, tương đương 78% khối lượng chào thầu Số liệu này gần gấp đôi giá trị trúng thầu của năm 2007 Đặc biệt, lãi suất trúng thầu đã giảm mạnh từ 15,7% xuống còn 8,38%.
Trong nửa đầu năm 2009, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã tổ chức các phiên chào mua kỳ hạn 14 ngày với lãi suất giảm từ 9% xuống 7%/năm nhằm cung ứng vốn ngắn hạn cho nền kinh tế và hỗ trợ các tổ chức tín dụng (TCTD) trong việc đáp ứng nhu cầu vốn cho các chương trình kích thích tăng trưởng Tuy nhiên, do chương trình kích thích còn ở giai đoạn đầu và nhu cầu vốn chưa cao, nguồn vốn của các TCTD vẫn dư thừa, dẫn đến nhu cầu tham gia các phiên chào mua không mạnh mẽ, với doanh số trúng thầu chỉ đạt 74% so với lượng tiền chào mua của NHNN Khối lượng trúng thầu bình quân mỗi phiên đạt khoảng 1.000 tỷ đồng.
Vào nửa cuối năm 2009, để đáp ứng nhu cầu vốn ngày càng tăng của các TCTD theo các chương trình kích cầu của Chính phủ, NHNN đã tăng cường khối lượng chào mua qua nghiệp vụ TTM Khối lượng trúng thầu bình quân trong các phiên chào mua đã tăng mạnh, đạt 95% khối lượng chào mua của NHNN, tương đương khoảng 6.000 tỷ đồng mỗi phiên, gấp 6 lần so với mức của 6 tháng đầu năm.
Trong năm 2010, các giao dịch TTM diễn ra hàng ngày, chủ yếu là mua GTCG ngắn hạn (7, 14 và 28 ngày) nhằm thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt và hỗ trợ vốn cho các TCTD, ngăn ngừa tình trạng thiếu vốn và tăng lãi suất Trong 9 tháng đầu năm, lãi suất chào mua GTCG ngắn hạn dao động từ 7% đến 8%, với khối lượng chào thầu trung bình 5.400 tỷ đồng mỗi phiên và mức trúng thầu trung bình 3.200 tỷ đồng Đến 3 tháng cuối năm, NHNN chỉ chào mua kỳ hạn 7 ngày với lãi suất tăng từ 7% lên 10%, khối lượng chào thầu trung bình đạt 7.160 tỷ đồng mỗi phiên và mức trúng thầu trung bình là 6.970 tỷ đồng.
Trong 9 tháng đầu năm 2011, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) chủ yếu thực hiện chào mua giấy tờ có giả với kỳ hạn 7 ngày Lãi suất đã tăng mạnh từ 10% lên 15%/năm, với khối lượng chào thầu bình quân đạt 8.400 tỷ đồng mỗi phiên và mức trúng thầu bình quân là 8.000 tỷ đồng mỗi phiên.
Bắt đầu từ nửa cuối tháng 9, NHNN đã thực hiện động thái nới lỏng trên thị trường tiền tệ (TTM) khi chào mua giấy tờ có giá (GTCG) với kỳ hạn 7 và 14 ngày, trong bối cảnh tốc độ tăng trưởng tín dụng được kiểm soát và lạm phát có dấu hiệu hạ nhiệt Lãi suất đã giảm 1% xuống còn 14%/năm, với khối lượng chào thầu bình quân đạt 3.400 tỷ đồng mỗi phiên và giá trị trúng thầu bình quân khoảng 91%.
Vào đầu năm 2012, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã thực hiện đợt bơm ròng hơn 59.600 tỷ đồng thông qua OMO, gấp đôi so với tháng 1 năm 2011 Tổng lượng tiền bơm ròng trong tháng 1/2012 đạt 59.651 tỷ đồng, trong khi tháng 1 năm 2011 chỉ là 30.705 tỷ đồng NHNN đã linh hoạt áp dụng các kỳ hạn 7, 14 và 21 ngày, dẫn đến việc lượng tiền bơm ra trong các tuần giáp Tết chỉ ở mức 80.000 tỷ đồng, thấp hơn 20-40% so với cùng kỳ năm trước, nhưng lượng hút vào lại giảm mạnh so với năm trước Điều này nhằm đảm bảo thanh khoản cho các ngân hàng thương mại mà không cần bơm một lượng vốn lớn ra thị trường cùng lúc.
Theo dữ liệu từ NHNN, trong quý I, quy mô cung tiền qua cửa sổ OMO đã tăng mạnh, đạt gần 285.000 tỷ đồng để đáp ứng nhu cầu thanh khoản của hệ thống Tuy nhiên, để trung hòa lượng tiền đưa ra thị trường nhằm mua 9 tỷ USD, NHNN đã thực hiện các biện pháp hút tiền liên tục trong 3 tháng kể từ tháng 3, với tổng lượng hút lên đến hơn 187.000 tỷ đồng.
Từ tháng 11/2012, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã gia tăng số lượng tín phiếu bán cho các tổ chức tín dụng qua OMO nhằm hút tiền với lãi suất thấp hơn mức trần lãi suất huy động, điều này phản ánh tình trạng thanh khoản dư thừa tại nhiều tổ chức tín dụng.
Vào tháng 12 năm 2012, thị trường mở (OMO) ghi nhận sự gia tăng giao dịch mạnh mẽ do nhu cầu vốn ngắn hạn để hỗ trợ thanh khoản của các ngân hàng thương mại Theo dữ liệu từ Reuters, trong tuần từ 24-28/12/2012, Ngân hàng Nhà nước đã bơm tổng cộng 28.473 tỷ đồng vào thị trường mở với kỳ hạn 7 ngày và lãi suất 7%/năm, mức bơm ròng này vượt qua con số 23.000 tỷ đồng được bơm ròng trong tuần từ 20-24/8/2012.
NVTTM vẫn là công cụ quan trọng giúp NHNN điều tiết tiền tệ và ổn định lãi suất Khi thanh khoản Đồng Việt Nam (VND) của các TCTD cải thiện và dư thừa, lãi suất trên thị trường liên ngân hàng đã giảm do tăng trưởng tín dụng được kiểm soát Trong bối cảnh thị trường ngoại hối và tỷ giá ổn định, người dân có xu hướng chuyển sang nắm giữ VND, tạo điều kiện cho NHNN mua vào lượng lớn ngoại tệ nhằm tăng dự trữ ngoại hối nhà nước.
PHÂN TÍCH MỨC ĐỘ HIỆU QUẢ CỦA NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ
1 Tác động đến lạm phát:
Sau khi gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) vào cuối năm 2007, Việt Nam đã trải qua tình trạng tăng trưởng nóng và chịu tác động từ khủng hoảng kinh tế toàn cầu, dẫn đến lạm phát biến động mạnh Cụ thể, lạm phát đạt 12,7% vào năm 2007, tăng vọt lên 22,3% vào năm 2008 và giảm xuống còn 6,9% vào năm 2009 Đặc biệt, các biện pháp thị trường mở trong năm 2008 không hiệu quả trong việc kiềm chế lạm phát.
Sau đỉnh điểm lạm phát 2008, NHNN đã điều hành nghiệp vụ thị trường mở linh hoạt để hỗ trợ thanh khoản cho các TCTD thông qua các phiên đấu thầu liên tục Mặc dù kiểm soát lạm phát là một trong những mục tiêu của thị trường mở, nhưng hiệu quả đạt được không cao Năm 2011, với lạm phát gia tăng và chính sách tiền tệ thắt chặt, các công cụ TTM phải tập trung vào việc hút tiền về Tuy nhiên, do các TCTD gặp khó khăn về thanh khoản và thiếu vốn để tăng trưởng tín dụng, biện pháp hút tiền qua TTM không thể thực hiện hiệu quả.
Công cụ TTM được thiết kế để tăng cung tiền, hạ lãi suất và thúc đẩy tăng trưởng tín dụng, nhưng lại gặp khó khăn trong việc hấp thụ vốn của doanh nghiệp do tình hình tài chính khó khăn và gánh nặng nợ cao Mặc dù các TCTD không thiếu tiền, giao dịch TTM lại rất trầm lắng vì doanh nghiệp không thể vay vốn do sản xuất đình trệ Điều này khiến các TCTD ít quan tâm đến các đợt đấu thầu TTM, làm giảm hiệu quả của công cụ này Lạm phát năm 2012 thấp chủ yếu do tổng cầu giảm, cho thấy tác động của TTM đến lạm phát là không đáng kể.
2 Tác động đến thanh khoản:
Sự vận hành hiệu quả của thị trường mở không chỉ cho phép Ngân hàng Nhà nước điều chỉnh lượng tiền lưu thông mà còn giúp hệ thống ngân hàng duy trì ổn định trước các cú sốc thanh khoản.
Vào tháng 02/2008, NHNN đã quyết định phát hành 20,3 nghìn tỷ đồng tin phiếu bắt buộc đối với 41 ngân hàng thương mại nhằm rút tiền khỏi nền kinh tế để kiềm chế lạm phát Quyết định này đã gây ra cú sốc thanh khoản cho hệ thống ngân hàng, dẫn đến nhiều tác động tiêu cực.
Hệ thống ngân hàng đang đối mặt với tình trạng thiếu tiền mặt, dẫn đến khủng hoảng thanh khoản nghiêm trọng Hệ quả là các ngân hàng buộc phải ngừng cho vay, gây ra sự thiếu hụt vốn đột ngột cho doanh nghiệp Điều này đặc biệt ảnh hưởng đến các dự án kinh doanh cần nhiều vốn, như lĩnh vực bất động sản, khiến nhiều dự án bị đình trệ.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã phải liên tục bơm tiền vào hệ thống ngân hàng, trái ngược với kế hoạch thu tiền ban đầu Trong chỉ ba ngày từ 19 đến 21 tháng 2 năm 2008, NHNN đã bơm 33 nghìn tỷ đồng vào hệ thống liên ngân hàng, gấp 1,5 lần số tiền dự kiến rút về qua tin phiếu bắt buộc Hành động này gia tăng rủi ro vỡ nợ cho các ngân hàng, làm mất lòng tin từ khách hàng và có nguy cơ dẫn đến sự sụp đổ của toàn bộ hệ thống tài chính.
Sau năm 2008, NHNN đã điều hành thị trường tiền tệ một cách linh hoạt, hỗ trợ thanh khoản cho các tổ chức tín dụng (TCTD) hiệu quả Đầu năm 2009, với lãi suất hỗ trợ 4% từ Chính phủ, nhiều doanh nghiệp đã có nguồn vốn giá rẻ, dẫn đến việc họ không cần sử dụng tiền của mình cho sản xuất kinh doanh mà để gửi tiết kiệm Kết quả là các TCTD dư thừa tiền, hoạt động trên thị trường tiền tệ trở nên trầm lắng và doanh số trúng thầu giảm Hơn nữa, thanh khoản của các TCTD gặp khó khăn khi có thông tin xấu xuất hiện, gây lo ngại cho việc rút tiền hàng loạt từ người dân Để đảm bảo thanh khoản cho ACB và một số ngân hàng liên quan, NHNN đã "bơm ròng" gần 27 nghìn tỷ đồng tính đến ngày 27/8, đồng thời nhanh chóng rút tiền khỏi lưu thông.
3 Tác động đến lãi suất thị trường:
Lãi suất nghiệp vụ thị trường mở có vai trò quan trọng trong việc định hướng lãi suất, ảnh hưởng đến cung - cầu vốn, lãi suất trên thị trường liên ngân hàng, cũng như lãi suất huy động và cho vay của các ngân hàng thương mại.
Khi lãi suất trên TTM thấp và thanh khoản của các NHTM căng thẳng, các NHTM lớn thường vay nhiều trên TTM và cho các NHTM nhỏ vay lại với lãi suất cao hơn để kiếm lời từ chênh lệch Ngược lại, khi lãi suất trên TTM cao, chênh lệch giữa lãi suất TTM và lãi suất liên ngân hàng sẽ nhỏ, dẫn đến việc các NHTM lớn giảm vay trên TTM, tạo cơ hội cho NHTM nhỏ vay nhiều hơn Điều này làm giảm nhu cầu vay trên thị trường liên ngân hàng, khiến lãi suất liên ngân hàng có xu hướng dao động quanh lãi suất trên TTM.
Công cụ TTM dường như không phát huy được vai trò định hướng lãi suất mà đang
Để hạn chế tác động tiêu cực của lãi suất thị trường, cần xem xét phương pháp xác định các loại lãi suất điều hành như lãi suất cơ bản, lãi suất tái chiết khẩu và lãi suất trên TTM Hiện nay, cơ chế điều hành các loại lãi suất này vẫn chưa được ban hành rõ ràng, dẫn đến những bất cập trong việc quản lý và điều chỉnh lãi suất.
CƠ CHẾ THỰC HIỆN NGHIỆP VỤ
Từ năm 2010, số lượng thành viên tham gia các phiên nghiệp vụ TTM đã gia tăng, bao gồm cả các thành viên từ ngân hàng liên doanh và ngân hàng nước ngoài Tuy nhiên, nghiệp vụ TTM vẫn còn tồn tại những hạn chế cần cải thiện để nâng cao hiệu quả hoạt động Quy chế nghiệp vụ TTM chưa được điều chỉnh kịp thời theo sự thay đổi của môi trường pháp lý, dẫn đến những rủi ro về pháp lý và kinh tế cho các tổ chức tín dụng.
Cơ chế mua bản GTCG trên thị trường tài chính hiện nay chủ yếu dựa vào đấu thầu khối lượng, dẫn đến việc các mức lãi suất giao dịch thực tế không phản ánh chính xác mối quan hệ cung-cầu vốn Điều này không tạo điều kiện cho sự cạnh tranh thực sự giữa các tổ chức tín dụng, từ đó không khuyến khích việc hạ lãi suất thị trường.
Trước kết quả hoạt động của nghiệp vụ TTM, có thể nhận xét chung rằng NHNN đã sử dụng công cụ này một cách linh hoạt
Hiệu quả của công cụ TTM trong việc điều hành lạm phát và lãi suất thị trường vẫn chưa rõ ràng, bởi lạm phát và lãi suất là mục tiêu chung của chính sách tiền tệ (CSTT) và phụ thuộc vào nhiều công cụ khác nhau Khi Ngân hàng Nhà nước (NHNN) sở hữu nhiều công cụ mạnh mẽ như tỷ lệ dự trữ bắt buộc, trần lãi suất huy động, và lãi suất tái chiết khấu, vai trò của TTM trong việc kiểm soát lạm phát và lãi suất trở nên mờ nhạt Tương tự, tại Hoa Kỳ, Cục Dự trữ Liên bang (FED) chủ yếu sử dụng các gói nới lỏng định lượng để điều chỉnh nền kinh tế.
QE là một hình thức của hoạt động TTM khi lãi suất không thể giảm thêm Nghiệp vụ TTM đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ thanh khoản cho hệ thống các TCTD, giúp tiền lưu thông vào và ra nền kinh tế một cách nhịp nhàng, đảm bảo thanh khoản trong những thời điểm khó khăn Tuy nhiên, sự hỗ trợ thanh khoản này chỉ là giải pháp ngắn hạn, và rủi ro thanh khoản vẫn tồn tại Giải pháp bền vững cho vấn đề thanh khoản của hệ thống các TCTD là chuyển dịch nguồn vốn nhàn rỗi từ dân cư vào nền kinh tế.
TỔNG KẾT VÀ KHUYỂN NGHỊ
TỔNG KẾT
Nghiệp vụ thị trường mở là công cụ quan trọng và linh hoạt trong chính sách tiền tệ tại Việt Nam, giúp điều hành hiệu quả hơn Khi được áp dụng, nghiệp vụ này đã góp phần điều chỉnh chính sách tiền tệ, chủ yếu thông qua giao dịch mua bán có kỳ hạn dưới hình thức hợp đồng mua lại Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân cả chủ quan lẫn khách quan, hiệu quả của nghiệp vụ này vẫn chưa được phát huy tối đa.
Bài báo cáo này phân tích nghiệp vụ thị trường mở tại Việt Nam, nêu rõ thực trạng hiện tại và đề xuất các giải pháp nhằm cải thiện hiệu quả hoạt động của nghiệp vụ này, phù hợp với tình hình kinh tế Việt Nam trong tương lai.
Nghiệp vụ thị trường mở tại Việt Nam vẫn còn khá mới mẻ và thiếu kinh nghiệm Do đó, việc nâng cao hiểu biết về kỹ thuật và tầm quan trọng của nó là rất cần thiết trong bối cảnh hiện nay.
Từ năm 2008 đến nay, thị trường mở đã hoạt động năng động với việc bơm và hút tiền một cách chủ động, góp phần cải thiện thanh khoản ngân hàng, kiểm soát lãi suất và lạm phát, ổn định tỷ giá, và giảm tình trạng đô la hóa trong nền kinh tế Tuy nhiên, vẫn còn một số vấn đề cần khắc phục Do đó, phát triển thị trường mở về cả chiều rộng và chiều sâu, kết hợp với sự phát triển của thị trường tài chính và tăng trưởng kinh tế, sẽ là nhiệm vụ trọng tâm của Ngân hàng Nhà nước, Bộ Tài chính, Chính phủ và các cơ quan liên quan trong thời gian tới.
KHUYẾN NGHỊ
Chính phủ Việt Nam hiện đang thực hiện chính sách phát triển kinh tế với tốc độ tăng trưởng ổn định, trong đó Ngân hàng Trung ương sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ để điều chỉnh khối lượng tiền lưu thông và lãi suất thị trường Nghiệp vụ thị trường mở được coi là công cụ quan trọng nhất nhờ tính linh hoạt và chủ động của nó Để nâng cao hiệu quả của nghiệp vụ này và tạo điều kiện cho thị trường hoạt động ổn định, cần triển khai một số giải pháp nhằm biến nghiệp vụ thị trường mở thành công cụ chính trong chính sách tiền tệ, mang lại lợi ích cho các tổ chức tín dụng.
NHNN cần mở rộng danh mục hàng hóa giao dịch trên thị trường, bao gồm các loại trái phiếu và chứng khoán do ngân hàng phát hành, vì hiện tại chúng chưa được giao dịch Việc này sẽ giúp nghiệp vụ thị trường mở có tác động mạnh mẽ hơn đến nhu cầu vốn.
Việc tăng khối lượng hàng hóa giao dịch trên thị trường mở không chỉ thu hút nhiều tổ chức tín dụng tham gia mà còn kích cầu cho toàn hệ thống Mặc dù sự đa dạng hóa hàng hóa có thể đi kèm với rủi ro cho các tổ chức tín dụng khi gặp khó khăn, nhưng nó vẫn tạo ra sức hấp dẫn cho thị trường và góp phần vào sự phát triển kinh tế.
NHNN cần tiếp tục hiện đại hóa công nghệ ngân hàng và hệ thống thanh toán để phát triển thị trường thứ cấp về giấy tờ có giá Việc nâng cấp hệ thống công nghệ thông tin là cần thiết nhằm giúp NHNN nắm bắt kịp thời thông tin thị trường, bao gồm nhu cầu vốn và khả năng thanh khoản của các NHTM, từ đó đưa ra quyết định chính xác và sát thực hơn.
Để nâng cao độ an toàn và chính xác trong giao dịch tiền tệ, cần cải thiện hiệu quả hoạt động bằng cách rút ngắn thời gian giao dịch Đồng thời, các chương trình phần mềm ứng dụng về lưu ký giấy tờ có giá tại Sở giao dịch NHNN cũng cần được cải tiến nhằm theo dõi và thanh toán giấy tờ có giá của NHNN và các tổ chức tín dụng.
Để gia tăng số lượng tổ chức tín dụng tham gia vào thị trường mở, cần tìm kiếm các giải pháp thiết thực Trước đây, chỉ có ngân hàng thương mại nhà nước tham gia thị trường mở, trong khi các ngân hàng khác còn đứng ngoài Hiện nay, thị trường mở Việt Nam đã thu hút sự tham gia của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài, góp phần đa dạng hóa loại hình và số lượng tổ chức tín dụng tham gia.
Hiện nay, số lượng ngân hàng thương mại cổ phần tham gia vào thị trường mở còn hạn chế, với chỉ khoảng 10 – 15 tổ chức tín dụng tham gia mỗi phiên giao dịch Sự tham gia này được coi là khiêm tốn so với tổng số tổ chức tín dụng hoạt động tại Việt Nam Việc gia tăng số lượng thành viên sẽ nâng cao hiệu quả của nghiệp vụ thị trường mở, từ đó cải thiện khả năng điều hành tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước và tăng cường độ sâu cũng như độ rộng của lưu thông tiền tệ.