1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

(LUẬN văn THẠC sĩ) nghiên cứu ảnh hưởng của chế độ ngập nước đến sinh trưởng của cây tràm (melalleuca cajuputi) ở vườn quốc gia u minh thượng tỉnh kiên giang​

101 10 1

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Nghiên Cứu Ảnh Hưởng Của Chế Độ Ngập Nước Đến Sinh Trưởng Của Cây Tràm (Melalleuca Cajuputi) Ở Vườn Quốc Gia U Minh Thượng Tỉnh Kiên Giang
Tác giả Nguyễn Văn Tuyên
Người hướng dẫn TS. Trần Quang Bảo
Trường học Trường Đại Học Lâm Nghiệp
Chuyên ngành Quản Lý Bảo Vệ Tài Nguyên Rừng
Thể loại luận văn thạc sĩ
Năm xuất bản 2011
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 101
Dung lượng 2,88 MB

Cấu trúc

  • Chương 1: TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU (13)
    • 1.1. Lịch sử và nguồn gốc cây Tràm (13)
    • 1.2. Đặc điểm sinh thái, phân bố, sinh trưởng và giá trị sử dụng của loài tràm (13)
  • Chương 2: MỤC TIÊU, GIỚI HẠN, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU (23)
    • 2.1. Mục tiêu nghiên cứu (23)
    • 2.2. Giới hạn nghiên cứu (23)
    • 2.3. Nội dung nghiên cứu (23)
    • 2.4. Phương pháp nghiên cứu (24)
      • 2.4.1. Quan điểm và phương pháp luận (24)
      • 2.4.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể (25)
  • Chương 3: ĐIỀU KIỆN CƠ BẢN CỦA KHU VỰC NGHIÊN CỨU (35)
    • 3.1. Lịch sử hình thành Vườn Quốc Gia U Minh Thượng (35)
    • 3.2. Điều kiện tự nhiên của Vườn Quốc Gia U Minh Thượng (36)
      • 3.2.1. Vị trí địa lý của VQG U Minh Thượng (36)
      • 3.2.2. Điều kiện địa hình (36)
      • 3.2.3. Thủy văn (37)
      • 3.2.4. Tài nguyên sinh vật (37)
    • 3.3. Tình hình kinh tế - xã hội (39)
      • 3.3.1. Dân số, lao động (39)
      • 3.3.2. Tình hình kinh tế (39)
      • 3.3.3. Cơ sở hạ tầng (41)
      • 3.3.4. Y tế (41)
      • 3.3.5. Giáo dục (41)
  • Chương 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU (42)
    • 4.1. Đặc điểm điều kiện lập địa ở khu vực có mức ngập nước khác nhau tại Vườn Quốc gia U Minh Thượng (42)
      • 4.1.1. Điều kiện thổ nhưỡng Vườn Quốc gia U Minh Thượng (42)
      • 4.1.2. Đặc điểm khí hậu, thủy văn khu vực nghiên cứu (47)
    • 4.2. Đặc điểm phân bố và sinh trưởng rừng tràm ở những nơi cơ chế độ ngập nước khác nhau (56)
      • 4.2.1. Phân bố rừng Tràm và các hệ sinh thái xung quanh trong khu vực VQG UMT (56)
      • 4.2.2. Sinh trưởng của rừng tràm ở những nơi có chế độ ngập nước khác nhau (67)
      • 4.2.3. Độ cao mặt đất và hiện trạng điều tiết nước ở Vườn Quốc gia U Minh Thượng (77)
    • 4.3. Quan hệ giữa sinh trưởng với chế độ ngập nước thích hợp để duy trì sinh trưởng của cây tràm (80)
      • 4.3.1. Ảnh hưởng của chế độ giữ nước đến sinh trưởng đường kính (D) của rừng Tràm ở Vườn Quốc gia U Minh Thượng (81)
      • 4.3.2. Ảnh hưởng của chế độ giữ nước đến sinh trưởng chiều cao (H) của rừng Tràm ở Vườn Quốc gia U Minh Thượng (83)
      • 4.3.3. Ảnh hưởng của chế độ giữ nước đến sinh trưởng thể tích (V) của rừng Tràm ở Vườn Quốc gia U Minh Thượng (85)
    • 4.4. Những khuyến nghị cho chế độ quản lý nước thích hợp (87)
    • 1. Kết luận (92)
    • 2. Tồn tại (95)
    • 3. Khuyến nghị ..................................................................................................... 85 TÀI LIỆU THAM KHẢO (95)
  • PHỤ LỤC (0)

Nội dung

TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

Lịch sử và nguồn gốc cây Tràm

Vào giữa thế kỷ XVIII (1744 – 1755), cây Tràm lần đầu tiên được nhắc đến trong tác phẩm “HEBARIUM AMBOINENSE” của Georges Everhard Rumph Đến năm 1754, cây Tràm được gọi là Myrtus leucadendra L trong tác phẩm của Stickman.

1767, Linné đặt ra chi Melaleuca với một loài duy nhất là Melaleuca leucadendron

L Đến năm 1790 cây Tràm được tìm thấy ở Việt Nam bởi Jean Loureiro (Lâm Bỉnh Lợi và Nguyễn Văn Thôn, 1972)[14]

Trước năm 1993, cây Tràm tự nhiên ở Việt Nam thường được gọi là Melaleuca leucadendron trong các tài liệu khoa học Tuy nhiên, thực tế Melaleuca leucadendron chỉ là một nhóm các loài Tràm có hình thái tương tự và quan hệ di truyền gần gũi Từ năm 1993, cây Tràm của Việt Nam đã được xác định lại là Melaleuca cajuputi, thuộc nhóm này (Hoàng Chương, 2004).

Đặc điểm sinh thái, phân bố, sinh trưởng và giá trị sử dụng của loài tràm

Tràm là tên Việt Nam dùng để gọi chung các loài trong chi thực vật

Melaleuca, thuộc họ Sim (Myrtaceae), là một chi cây quan trọng trong hệ thực vật Úc Theo cuốn sách “Các loài cây rừng của Úc” được sửa chữa và tái bản năm 1984, chi Tràm bao gồm khoảng nhiều loài khác nhau, đóng góp vào sự đa dạng sinh học của khu vực này.

Chi Tràm hiện có hơn 250 loài khác nhau, với hơn 150 loài đã được xác định qua các nghiên cứu khảo sát và phương pháp giám định hiện đại (Hoàng Chương, 2004) Được coi là thực vật đặc hữu của Úc, hơn 90% các loài Tràm có vùng phân bố tự nhiên tại đây, trong khi chỉ khoảng 10 loài vươn ra ngoài lãnh thổ Các loài Tràm thường phát triển ở những khu vực ẩm ướt, đặc biệt là dọc theo bờ suối và trong các vùng đầm lầy, chủ yếu tập trung ở Bắc và Đông Bắc Úc.

Tràm là loài cây gỗ lớn với vỏ xốp nhiều lớp, cành nhỏ và lá có tinh dầu thơm, phiến thon không lông, có từ 3 – 7 gân phụ Hoa của cây Tràm hình gié, màu trắng, dài từ 3 – 7 cm, với chùm lá nhỏ ở đầu cành Lá hoa có hình giáo, dài 5– 20 mm, và hoa không cuống, thường tụ thành 2 – 3 hoa chụm Đài hoa hình trụ, có lông mềm và 5 thùy, dài khoảng 0.6 mm Cánh hoa tròn, lõm vào trong, dài từ 2 – 2.5 mm, với tiểu nhụy nhiều, màu trắng, dài 10 – 12 mm Quả nang gần tròn, đường kính khoảng 4 mm, mở thành 3 lỗ trên 3 buồng và chứa nhiều hạt tròn hoặc nhọn dài 1 mm Cây Tràm thường trổ hoa vào tháng 5 và kết trái sau đó.

11 Về kích thước, theo tài liệu “Danh lục các loài thực vật Việt Nam” của Viện Sinh Thái và tài nguyên sinh vật thuộc Trung tâm khoa học tự nhiên và công nghệ Quốc Gia, Nhà xuất bản Nông Nghiệp năm 2003 thì Tràm là loài cây gỗ nhỏ, cao khoảng 10m; nhưng theo Lâm Bỉnh Lợi & Nguyễn Văn Thôn (1972)[36],[14] cây Tràm cao đến 20 – 25m, đường kính đến 60cm và theo Hoàng Chương (2004) thì đại đa số các loài Tràm là các cây bụi hoặc cây nhỏ, cây trưởng thành chỉ cao từ 1 – 2m đến không quá 20m; chỉ riêng nhóm loài

Cây Melaleuca leucadendron, bao gồm các loài như Tràm (M cajuputi) và Tràm lá dài (M leucadendra), là những cây trưởng thành có kích thước lớn, có thể đạt chiều cao lên tới 30m hoặc hơn.

Theo phân loại học, các loài Tràm được chia thành nhiều nhóm dựa trên hình thái vỏ thân cây, trong đó nhóm có vỏ dày với nhiều lớp xốp xếp chồng lên nhau là quan trọng nhất Cây Tràm ở Việt Nam là đại diện tiêu biểu cho nhóm này Đặc điểm sinh thái nổi bật của nhóm này là chúng thường phát triển trên đất tốt, ẩm, trong rừng thưa hỗn hợp với các loài cây khác, đặc biệt là các loài Bạch đàn như Bạch đàn vỏ trắng (Eucalyptus alba) và Bạch đàn têrê (E tereticornis) Chỉ trong các khu vực đầm lầy ngập nước theo mùa, các loài Tràm này mới mọc thuần loại.

Căn cứ vào hình thái vỏ thân cây, các loài Tràm được phân chia thành nhiều nhóm, trong đó nhóm loài có vỏ dày với nhiều lớp xốp là quan trọng nhất, điển hình là cây Tràm ở Việt Nam Nhóm này có đặc điểm sinh thái nổi bật, thường phát triển trên đất tốt, ẩm ướt trong rừng thưa hỗn loại với các loài cây khác, chủ yếu là Bạch đàn như Bạch đàn vỏ trắng (Eucalyptus alba) và Bạch đàn têrê (E tereticornis) Chỉ ở những vùng đầm lầy nước ngập theo mùa, các loài Tràm này mới mọc thành rừng thuần loại.

Melaleuca cajuputi, theo Hoàng Chương (2004), là loài Tràm bản địa duy nhất của Việt Nam và có vùng phân bố tự nhiên rộng nhất trong chi Tràm Các nghiên cứu gần đây cho thấy loài Tràm có thể phát triển trên nhiều loại đất khác nhau ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới, bao gồm Việt Nam, Lào, Campuchia, Thái Lan, miền Nam Trung Quốc (đảo Hải Nam, Hồng Kông), Malaysia, Tây Nam Papua New Guinea, miền duyên hải Bắc Úc, Guinea, Nigeria ở châu Phi và Brasil ở Nam Mỹ Vùng phân bố tự nhiên của Tràm tập trung chủ yếu từ 18 độ vĩ Nam đến 12 độ vĩ Bắc.

Melaleuca cajuputi có 3 loài phụ là:

- Melaleuca cajuputi subsp cajuputi Powell, phân bố ở Indonesia, Australia;

- Melaleuca cajuputi subsp cumingiana Barlow, phân bố ở Myanma, Thái Lan, Malaysia, Indonesia và Việt Nam;

- Melaleuca cajuputi subsp Platyphylla Barlow, phân bố ở Papua New Ghiné, Australia và là giống Tràm bản địa chính mọc nhiều ở Indonesia

1.2.2 Đặc điểm phân bố và sinh thái của cây tràm Ở nước ta cây Tràm được xem là một trong số ít các loài cây rừng có sự đa cừ” do người ta trồng chủ yếu khai thác cừ, thực ra về mặt khoa học chưa thật thích hợp lắm bởi ngoài dạng Tràm có thân cao sản xuất cừ, ở nước ta còn có dạng Tràm thân thấp như cây bụi thường được cắt lá chưng cất tinh dầu và gọi là “Tràm gió”

Cả hai dạng cây đều thuộc loài Melaleuca cajuputi, tuy nhiên, liệu chúng có phải là hai biến chủng với cơ sở biến dị di truyền hay chỉ là các thường biến do phương pháp lấy giống và trồng trọt vẫn chưa được xác minh (Hoàng Chương, 2004).

Theo Thái Văn Trừng (1999), hệ sinh thái rừng tràm nên được gọi là “Hệ sinh thái rừng úng phèn” vì mặc dù cây tràm là loài chủ yếu và thường tạo thành quần hợp thuần loại, nhưng rừng tràm không phải là rừng “đỉnh cực” hay rừng nguyên sinh (Phùng Trung Ngân, 1986) Whitmore T.C (1975) cũng nhận định rằng rừng tràm là một quần hợp thứ sinh, hình thành do tác động của lửa rừng đã tiêu diệt các cây con thuộc nhiều loài khác nhau.

Cây Tràm, theo nghiên cứu của Lâm Bỉnh Lợi và Nguyễn Văn Thôn (1972), phát triển mạnh mẽ thành quần thể đơn thuần và có khả năng tái sinh tự nhiên nhanh chóng trên đất phèn với độ pH khoảng 4 Là loài cây ưa sáng và có tán tương đối thưa, cây Tràm tăng trưởng nhanh trong 10 năm đầu và bắt đầu ra hoa kết trái từ 5 đến 7 tuổi.

Về mặt thủy chế, theo Phùng Trung Ngân (1986) trong Thái Văn Trừng

Vào năm 1999, trong hệ sinh thái rừng úng phèn, cây Tràm được xác định là loài cây có khả năng thích nghi tốt nhất Từ giai đoạn hạt nảy mầm cho đến khi trở thành cây mạ, Tràm có thể sinh trưởng trong môi trường nước ngập phèn, tuy nhiên năng suất của nó không đạt cao.

Lịch sử địa chất của hệ sinh thái rừng úng phèn tại Đồng Tháp Mười, Tứ giác Long Xuyên và U Minh Cà Mau gắn liền với quá trình hình thành Đồng Bằng Sông Cửu Long Theo nghiên cứu của Hồ Chín và Võ Đình Ngô (1985) được trích dẫn trong Thái Văn Trừng (2000), địa chất trầm tích của khu vực này có những đặc điểm nổi bật, phản ánh sự phát triển và biến đổi của hệ sinh thái qua thời gian.

Cuối Tân Sinh, các chuyển động tân kiến tạo đã hình thành hai khối Đông Nam Trung Bộ và Đông Campuchia, bao bọc một khối sụt ở giữa, tạo ra các trũng rộng lớn Những trũng này sau đó được sông Cửu Long và các phụ lưu bồi đắp thành lớp trầm tích pliopleixtoxen khoảng 700.000 năm trước Các giai đoạn biển tiến và biển thoái, kết thúc cách đây 4.500 năm, đã tạo ra một vùng trũng thấp, sình lầy rộng lớn, hình thành lớp trầm tích đầm lầy biển Đây chính là nguồn gốc của các tầng sinh phèn rộng lớn ở Đồng bằng Sông Cửu Long, nơi phát sinh hệ sinh thái rừng úng phèn độc đáo.

MỤC TIÊU, GIỚI HẠN, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Mục tiêu nghiên cứu

Góp phần xây dựng cơ sở khoa học cho quản lý nước thích hợp để duy trì sinh trưởng của rừng tràm ở vườn quốc gia U Minh Thượng

Nghiên cứu mối liên hệ giữa mực nước ngập và sự sinh trưởng của cây tràm là cần thiết để đưa ra khuyến nghị về chế độ quản lý nước phù hợp, nhằm duy trì sự phát triển bền vững của rừng tràm tại vườn quốc gia U Minh Thượng.

Giới hạn nghiên cứu

Do hạn chế về thời gian, nhân lực và kinh phí, đề tài “Nghiên cứu ảnh hưởng của mức độ ngập nước đến sinh trưởng của cây tràm ở vườn quốc gia U Minh Thượng” sẽ được thực hiện trong những giới hạn nhất định.

- Về địa điểm: chỉ tiến hành nghiên cứu tại Vườn quốc gia U Minh Thượng

- Về đối tượng nghiên cứu: là loài Tràm phân bố trên những vị trí có mức độ ngập nước khác nhau

Nghiên cứu này tập trung vào việc phân tích đặc điểm điều kiện lập địa ở các khu vực có mức ngập nước khác nhau và sự sinh trưởng của cây tràm trong những điều kiện đó Mục tiêu là tìm hiểu mối quan hệ giữa mức ngập nước và sự phát triển của cây tràm, từ đó đề xuất mức ngập nước hợp lý nhằm duy trì sự sinh trưởng tối ưu của cây tràm.

Nội dung nghiên cứu

Nhằm đáp ứng mục tiêu và giới hạn nghiên cứu đề tài tiến hành nghiên cứu các nội dung sau:

- Nghiên cứu đặc điểm điều kiện lập địa ở khu vực có mức ngập nước khác nhau

- Nghiên cứu Đặc điểm sinh trưởng và phân bố rừng tràm ở những nơi có chế độ ngập nước khác nhau

- Nghiên cứu quan hệ sinh trưởng với chế độ ngập nước thích hợp ở khu vực

- Đề xuất những khuyến nghị cho chế độ quản lý nước thích hợp để duy trì sinh trưởng của cây tràm

Phương pháp nghiên cứu

2.4.1 Quan điểm và phương pháp luận Ảnh hưởng của chế độ ngập nước đến sinh trưởng cây tràm được thực hiện qua phân tích đặc điểm sinh trưởng của tràm với mức độ ngập nước ở những vị trí khác nhau Ở những độ cao địa hình khác nhau tiến hành thiết lập các ô tiêu chuẩn định vị điển hình cho các trạng thái rừng, tổng số ô tiêu chuẩn ở vườn quốc gia là

Nghiên cứu được thực hiện trên 20 ô tiêu chuẩn, được phân bố trên 5 trạng thái rừng khác nhau, nhằm phân tích mức độ sinh trưởng của cây thông qua việc đo bề rộng vòng năm và điều tra ô tiêu chuẩn Mức độ ngập nước tại mỗi ô tiêu chuẩn được xác định dựa trên thời gian và độ sâu ngập nước Mối quan hệ giữa tốc độ sinh trưởng (chiều cao hoặc bề rộng vòng năm) và mức độ ngập nước được phân tích bằng phương pháp thống kê đa biến.

Sinh trưởng của cây rừng là quá trình tăng trưởng về đường kính ngang ngực, chiều cao và thể tích thân cây, phản ánh sự phát triển của một thực thể sinh học Quá trình này chịu ảnh hưởng từ các yếu tố môi trường và các yếu tố nội tại của từng cá thể cũng như quần thể Do đó, nghiên cứu sinh trưởng không thể tách rời khỏi sự tác động tổng hợp của các yếu tố này.

Sinh trưởng của cá thể và quần thể (lâm phần) là hai khái niệm khác nhau nhưng có mối liên hệ chặt chẽ Sinh trưởng của lâm phần bao gồm tổng khối lượng vật chất tích lũy từ từng cá thể, đồng thời cũng tính đến vật chất bị mất từ những bộ phận hoặc cá thể bị đào thải như chết hoặc bị tỉa thưa Các chỉ tiêu sinh trưởng bình quân như đường kính ngang ngực, chiều cao vút ngọn và thể tích thân cây có vỏ là những yếu tố quan trọng trong việc đánh giá sự sinh trưởng của lâm phần.

Sự phát triển của lâm phần luôn phụ thuộc vào tuổi và tuân theo những quy luật nhất định Sự gia tăng các chỉ tiêu sinh trưởng là kết quả của hai quá trình tổng hợp Trong từng giai đoạn sinh trưởng, sự lớn lên của các đại lượng này đã tạo ra những biến đổi về chất của lâm phần, phản ánh nguyên lý “lượng đổi chất đổi”.

Nghiên cứu sinh trưởng rừng nhằm định lượng tác động của các đặc tính nội tại, yếu tố môi trường tự nhiên và biện pháp kỹ thuật đến năng suất sản phẩm.

2.4.2 Phương pháp nghiên cứu cụ thể

Sinh trưởng của cây rừng phụ thuộc vào nhiều nhân tố ngoại cảnh khác nhau

Để xác định ảnh hưởng riêng biệt của chế độ giữ nước đến sinh trưởng của rừng Tràm, cần đảm bảo các yếu tố khác đồng nhất Nghiên cứu đã lựa chọn những lâm phần Tràm với độ sâu ngập khác nhau nhưng đồng nhất về điều kiện khí hậu và tính chất đất Phân tích tập trung vào những thay đổi về đường kính, chiều cao và thể tích của cây tiêu chuẩn theo mức độ và thời gian ngập Đề tài kế thừa các nghiên cứu và báo cáo khoa học về sinh trưởng rừng, đặc biệt là rừng Tràm, cùng với tư liệu về biến đổi mực nước giữ lại để phòng chống cháy trong giai đoạn 2002 – 2009 Phương pháp thu thập số liệu ngoại nghiệp cũng được áp dụng trong nghiên cứu này.

+ Đặc điểm của điều kiện lập địa gồm đặc điểm của thổ nhưỡng, đặc điểm của thuỷ văn

Nghiên cứu đặc điểm thổ nhưỡng được thực hiện thông qua việc điều tra các ô tiêu chuẩn tại những vị trí có chế độ ngập nước khác nhau Đề tài tập trung thu thập các chỉ tiêu quan trọng như độ cao mặt đất, bề dày than bùn, dung trọng, tỷ trọng của than bùn, hàm lượng carbon trong than bùn, độ pH, và hàm lượng phèn.

Nghiên cứu chế độ thủy văn bao gồm các đặc điểm quan trọng như độ dài thời kỳ ngập nước, độ cao ngập nước, mực nước thấp nhất và ảnh hưởng của độ cao mực nước đến các chỉ tiêu thủy văn Những yếu tố này đóng vai trò quyết định trong việc hiểu rõ các biến đổi của môi trường nước và quản lý tài nguyên nước hiệu quả.

Để nghiên cứu ảnh hưởng của chế độ giữ nước đến sự sinh trưởng của rừng Tràm, một cuộc điều tra ô tiêu chuẩn đã được thực hiện tại Vườn quốc gia U Minh Thượng Trong nghiên cứu này, 20 ô tiêu chuẩn với kích thước 20m x 25m đã được bố trí trong khu vực rừng Tràm.

Các ô tiêu chuẩn được phân bố trên các cấp độ cao địa hình khác nhau, tương ứng với mức độ ngập nước khác nhau Khu vực rừng tràm trên than bùn dày và rừng tràm không bị cháy vào năm 2002 đại diện cho những vị trí có độ cao lớn nhất và mức độ ngập nước thấp nhất trong vườn quốc gia Trong khi đó, khu vực than bùn trung bình có độ cao thấp hơn, còn khu vực than bùn mỏng và đất sét là những nơi có độ cao thấp nhất trong vườn quốc gia.

Khu vực rừng tràm không bị cháy năm 2002 được bố trí 02 OTC, trong khi khu vực than bùn dày có 03 OTC Đối với khu vực than bùn trung bình, có 05 OTC được phân bổ, tương tự như khu vực than bùn mỏng và khu vực đất sét cũng được bố trí 05 OTC mỗi khu Vị trí cụ thể của các OTC được ghi trong phụ biểu 01.

(Sơ đồ bố trí các OTC trên 5 trạng thái rừng được bố trí như hình 2-1)

Để điều tra độ tàn che của tầng cây cao (TC%), chúng ta sử dụng phương pháp mạng lưới 80 điểm ngẫu nhiên trong ô tiêu chuẩn Tại mỗi điểm, độ tàn che được ghi nhận là 0 nếu không gặp tán cây khi nhìn thẳng lên và là 1 nếu có tán cây Độ tàn che chung của ô tiêu chuẩn được tính bằng tổng số điểm có độ tàn che bằng 1 chia cho tổng số điểm đã điều tra, và kết quả sẽ được ghi vào phụ biểu 02.

- Điều tra cấu trúc tầng cây cao

Trên mỗi ô tiêu chuẩn, tiến hành điều tra và đo đạc toàn bộ các cây cụ thể Đo chu vi thân cây tại vị trí 1,3m (C1.3) với độ chính xác đến cm, từ đó tính được đường kính 1,3m (D1.3) Chiều cao vút ngọn (Hvn) được đo với độ chính xác đến dm, trong khi chiều cao dưới cành (Hdc) cũng được đo với độ chính xác tương tự Đường kính tán (Dt) được đo theo hai chiều Đông - Tây và Nam - Bắc, với đơn vị làm tròn đến 0,1m Tất cả số liệu thu thập được ghi vào mẫu biểu 03.

Trên ô tiêu chuẩn đã chọn, tiến hành thiết lập 5 ô kích thước 5m x 5m tại 4 góc và trung tâm của ô tiêu chuẩn để thu thập dữ liệu về cây tái sinh, tầng cây bụi và tầng thảm tươi.

ĐIỀU KIỆN CƠ BẢN CỦA KHU VỰC NGHIÊN CỨU

Lịch sử hình thành Vườn Quốc Gia U Minh Thượng

Trước năm 1975, khu vực VQG U Minh Thượng là một phần quan trọng của rừng Tràm nằm trên vùng đầm lầy than bùn, bao gồm cả U Minh Thượng và U Minh Hạ (Cà Mau) Với địa hình thấp trũng, người dân địa phương gọi nơi đây là Hồ Rừng Khu vực U Minh được chia thành hai phần: U Minh Hạ thuộc tỉnh Cà Mau và U Minh Thượng thuộc tỉnh Kiên Giang, được ngăn cách bởi dòng sông Trẹm U Minh Thượng nổi bật với rừng Tràm nguyên sinh, chiếm ưu thế và thể hiện đặc trưng của kiểu rừng trên vùng đầm lầy than bùn úng phèn.

Theo số liệu lịch sử, diện tích rừng Tràm tại vùng U Minh đã giảm mạnh từ 400.000 ha vào năm 1950 xuống còn khoảng 200.000 ha vào năm 1970, và tiếp tục thu hẹp chỉ còn khoảng 100.000 ha vào năm 1990.

Trong thời kỳ chiến tranh, khu rừng Tràm ở U Minh Thượng đã chịu nhiều thiệt hại do bom đạn, để lại những dấu tích rõ rệt với các ao nhỏ rải rác trong khu vực lõi của Vườn Quốc Gia.

Sau khi chiến tranh kết thúc, khu vực này được chuyển đổi thành lâm trường Tràm, trở thành khu rừng Tràm tập trung trên vùng úng phèn Năm 1993, Chính phủ Việt Nam đã quyết định bảo vệ khu vực này, và kế hoạch đầu tư cho khu rừng được Cục Kiểm Lâm soạn thảo, thẩm định và phê duyệt vào năm 1994 Khu rừng Tràm U Minh Thượng chính thức trở thành Khu Bảo Tồn Thiên Nhiên U Minh Thượng, thể hiện cam kết của Chính phủ trong việc bảo vệ tài nguyên thiên nhiên quý giá này.

1995, toàn bộ khu vực vùng Tràm trên đất than bùn được bảo vệ là 8.053 ha

Vào năm 2002, Khu Bảo Tồn Thiên Nhiên được nâng cấp thành Vườn Quốc Gia U Minh Thượng với tổng diện tích 21.107 ha, trong đó vùng lõi chiếm 8.038 ha và vùng đệm 13.069 ha Vùng đệm có nhiều hộ dân sinh sống, tham gia canh tác nông nghiệp và trồng hoa màu, đồng thời nhận khoán trồng và bảo vệ rừng cho nhà nước Vườn Quốc Gia U Minh Thượng hiện thuộc sự quản lý của UBND tỉnh Kiên Giang.

Điều kiện tự nhiên của Vườn Quốc Gia U Minh Thượng

3.2.1 Vị trí địa lý của VQG U Minh Thượng

Vườn Quốc Gia U Minh Thượng tọa lạc tại huyện U Minh Thượng, tỉnh Kiên Giang, với tổng diện tích 21.800 ha, bao gồm cả vùng lõi và vùng đệm Khu vực này nằm trong tọa độ địa lý cụ thể, góp phần bảo tồn đa dạng sinh học và hệ sinh thái đặc trưng của vùng.

- Từ 9°31 đến 9°39' vĩ độ Bắc, và

- Từ 105°03' đến 105°07' kinh độ Đông

Khu vực U Minh Thượng nằm trong vùng đầm lầy than bùn, được hình thành từ lâu trong giai đoạn sau của quá trình hình thành châu thổ sông Mekong.

Than bùn hình thành từ quá trình phân hủy thực vật trong vùng đầm lầy, nơi chúng bị chôn vùi dưới trầm tích biển Rừng ngập mặn phát triển trên trầm tích này, và sau khi chết, chúng để lại một lượng lớn chất hữu cơ Chất hữu cơ này tích tụ dần đến khi không còn bị ảnh hưởng bởi thủy triều, tạo điều kiện cho rừng Tràm phát triển trên đầm lầy than bùn Các khu rừng tràm tiếp tục cung cấp chất hữu cơ cho đất, dẫn đến sự hình thành hai loại đất chính: đất than bùn và đất phèn.

Giống như than bùn U Minh Hạ, than bùn U Minh Thượng có hình dạng dĩa với lõi nhô cao và lớp than bùn dày ở giữa, trong khi lớp than bùn mỏng dần ra phía rìa Dưới lớp than bùn là trầm tích biển màu xám xanh, chủ yếu là vật liệu sét.

Tầng đất mặt thường được bao phủ bởi lớp than bùn dày từ 1-3 mét Tuy nhiên, ở những khu vực mới bị cháy, lớp than bùn sẽ bị mất đi, dẫn đến việc tầng đất mặt trở nên mỏng hơn và thường hình thành dạng đầm lầy Trong các vùng đã bị phát quang để lấy đất canh tác nông nghiệp, lớp than bùn đang trải qua quá trình oxy hóa, khiến độ dày của nó giảm đi đáng kể (Safford et al 1998).

Khu vực VQG U Minh Thượng chủ yếu có địa hình trung bình từ 0,5 đến 0,7 mét so với mực nước biển Tại trung tâm, nơi có lớp than bùn dày, địa hình cao hơn so với các vùng xung quanh.

VQG U Minh Thượng là khu vực ngập nước ngọt với rừng than bùn, trảng cỏ ngập nước theo mùa và đầm lầy Vùng lõi của VQG được bao quanh bởi hệ thống kênh rạch và đê, có nhiều cửa cống điều chỉnh mực nước, giúp tháo nước trong mùa mưa và giữ nước vào các thời điểm khác, từ đó giảm oxy hoá và nguy cơ cháy rừng Đất ở U Minh Thượng chủ yếu là đất phèn, khi tiếp xúc với không khí dễ bị oxy hoá và tạo thành a-xit sunfuric Mặc dù là vùng đất phèn, nước ở vùng lõi chủ yếu trung tính (pH 6-7) nhờ tỉ lệ che phủ rừng cao, nhưng vùng đệm lại bị ảnh hưởng bởi nông nghiệp, dẫn đến tình trạng nước kênh bị chua với pH từ 3-4.

Khu vực đất than bùn tại Vườn quốc gia U Minh Thượng là một trong những vùng đầm lầy than bùn quý giá còn lại ở Việt Nam, đồng thời được xếp hạng là một trong ba khu vực ưu tiên hàng đầu về bảo tồn đất ngập nước tại đồng bằng sông Cửu Long.

Trần Triết (2000) đã phân loại thảm thực vật tại vùng lõi của Vườn quốc gia thành bốn trạng thái chính: rừng Tràm Melaleuca cajuputi chiếm ưu thế trên đất than bùn và đất sét; trảng cỏ ngập nước theo mùa với sự phát triển mạnh mẽ của Sậy (Phragmites vallatoria) và Năng Ống (Eleocharis dulcis); các đầm lầy mở với ưu thế của thực vật domingensis; và hệ thực vật dọc theo các dòng chảy tự nhiên như sông, rạch và kênh đào.

Thảm thực vật ở vùng đệm bao gồm trảng cỏ ngập nước theo mùa, đầm lầy mở, rừng trồng tràm Melaleuca, cùng với các dạng đất nông nghiệp, ao cá và kênh đào Các vùng đất than bùn tại đây nuôi dưỡng hệ thực vật đa dạng, với nhiều loài hiếm và đặc hữu Theo nghiên cứu của Trần Triết (2000), đã ghi nhận 226 loài thực vật có mạch chưa được trồng trọt, trong đó có Lemna tenera, một loài hiếm ở Đông Nam Á nhưng lại khá phổ biến ở U Minh Thượng.

Rừng và đất ngập nước ở U Minh Thượng đang đối mặt với nguy cơ mất mát nhiều loài động vật hiếm, đặc biệt là sau đợt điều tra hệ động vật vào tháng 10 và tháng 11 năm 2000, trong đó tập trung vào việc đánh giá tình trạng của cá Sấu Xiêm và cá Sấu Hoa Cà, nhưng cả hai loài này đã không được phát hiện trong suốt 30 năm qua Vườn quốc gia U Minh Thượng có tầm quan trọng cao về bảo tồn nhờ sự đa dạng phong phú về chim, với 187 loài chim đã được ghi nhận, trong đó có 9 loài gần bị đe doạ hoặc đang bị đe doạ toàn cầu Các loài chim như Điêng điểng, Bồ nông chân xám và Cò lạo Ấn độ là những ví dụ điển hình U Minh Thượng cũng nổi bật với số lượng lớn các loài chim nước phổ biến, do đó đã được công nhận là Vùng Chim Quan trọng.

Rừng tràm tự nhiên chủ yếu nằm trong Vườn Quốc Gia U Minh Thượng, khu vực đã trải qua một trận cháy vào tháng 3 năm 2002 Sau vụ cháy, diện tích rừng tràm tự nhiên còn lại là 2.340,8 ha, bao gồm 666,45 ha trên đất than bùn và 1.674,3 ha trên đất sét.

Vào tháng 3 năm 2002, một trận cháy rừng nghiêm trọng đã xảy ra, thiêu rụi 3.212 ha rừng, tương đương 39,96% diện tích vùng lõi Trong đó, 2.300 ha rừng trên đất than bùn và 912 ha rừng và thực vật trên đất sét bị ảnh hưởng Đặc biệt, 194 ha trong số 2.300 ha đất than bùn đã mất hoàn toàn, trong khi chỉ còn 1.460 ha có lớp than bùn dày từ 30 cm trở lên Sau trận cháy, diện tích rừng tái sinh đạt 2.489,3 ha, tương đương 77,5% diện tích bị cháy.

Tình hình kinh tế - xã hội

Vùng đệm của VQG hiện có 18.852 người sinh sống, được tổ chức thành 3.675 hộ gia đình, trong đó có 3.396 hộ thuộc dân tộc Kinh, 278 hộ dân tộc Khmer và 1 hộ dân tộc Hoa Mỗi hộ trung bình có khoảng 5,6 nhân khẩu, với 52% dân cư trong khu vực là phụ nữ.

Các hộ dân trong vùng đệm được cấp 3,2 ha đất để sản xuất theo mô hình nông hộ, áp dụng phương thức Nông-Lâm-Ngư kết hợp.

3.3.2.1 Hiện trạng kinh tế Đa phần dân cư sinh sống trong vùng đệm VQG có trình độ dân trí thấp, phong tục tập quán còn lạc hậu Việc thâm canh tăng vụ cũng như áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất còn hạn chế, nên năng suất và sản lượng còn rất thấp Sản lượng lương thực bình quân đầu người mới đạt 173kg/đầu người/năm Số hộ nghèo chiếm 14,5% [35]

3.3.2.2 Tình hình sản xuất nông lâm nghiệp

Vùng đệm có tổng diện tích tự nhiên là 13.069 ha, trong đó đất lâm nghiệp chiếm 4.032 ha, với 3.245,7 ha có rừng, tương đương 80,5% diện tích đất lâm nghiệp Gần đây, do cây Tràm không mang lại hiệu quả kinh tế cao, nhiều hộ dân đã quyết định phá bỏ cây Tràm để chuyển sang sản xuất nông nghiệp.

Bảng 3-1 Hiện trạng đất đai vùng đệm

TT Loại đất Diện tích (ha) Tỷ lệ %

(Nguồn: Phòng Nông nghiệp và PTNT huyện U Minh Thượng, 2008)

- Tình hình sản xuất nông nghiệp:

Sản xuất nông nghiệp là nguồn thu nhập chính của các hộ gia đình tại xã, với cây trồng chủ yếu là lúa gạo và rau màu Tuy nhiên, sản xuất nông nghiệp trong vùng đệm phụ thuộc nhiều vào tự nhiên, với đất canh tác bị thoái hóa và chua phèn nặng do thiếu phân bón và cải tạo Mặc dù giống mới đã được du nhập, nhưng năng suất vẫn thấp do thiếu hướng dẫn kỹ thuật và đầu tư vào phân bón cũng như thuốc trừ sâu Kỹ thuật chăn nuôi cũng còn lạc hậu, dịch bệnh thường xuyên xảy ra mà không có hệ thống dịch vụ thú y hỗ trợ Việc đầu tư vào giống mới cho chăn nuôi cũng bị hạn chế do thiếu vốn, dẫn đến sản xuất nông nghiệp chủ yếu mang tính tự túc tự cấp, chưa phát triển thành sản xuất hàng hóa.

- Tình hình sản xuất lâm nghiệp:

Trồng rừng sản xuất là thế mạnh của vùng đệm, nhưng giá gỗ Tràm giảm liên tục đã khiến nhiều hộ dân chuyển sang cấy lúa, dẫn đến việc bảo vệ rừng không được chú trọng Hệ quả là các vụ cháy rừng trong vùng đệm xảy ra thường xuyên vào mùa khô.

Sản xuất lâm nghiệp tại địa phương chưa phát triển và chưa khai thác được tiềm năng của vùng, mặc dù người dân có kinh nghiệm trồng Tràm từ lâu Việc thiếu quy hoạch, vốn đầu tư và gặp khó khăn trong công tác bảo vệ rừng đã dẫn đến diện tích rừng chất lượng thấp Nếu được quy hoạch hợp lý, đầu tư đúng mức và hướng dẫn kỹ thuật phù hợp, tiềm năng sản xuất lâm nghiệp của người dân sẽ được khơi dậy, giúp tăng độ che phủ rừng và cải thiện đời sống kinh tế.

Cơ sở hạ tầng tại vùng đệm VQG U Minh Thượng đang gặp nhiều khó khăn, đặc biệt trong việc di chuyển, chủ yếu phụ thuộc vào phương tiện đường thủy Hiện tại, chỉ có 5 trong số 11 ấp trong khu vực này được cung cấp điện sinh hoạt.

Sức khỏe của các cộng đồng cư dân vùng đệm tại Việt Nam đang gặp nhiều khó khăn, tương tự như tình trạng của các cộng đồng nông thôn nghèo Thu nhập thấp và mức bảo đảm lương thực hạn chế dẫn đến tiêu chuẩn dinh dưỡng kém, gây ra các vấn đề sức khỏe như suy dinh dưỡng và lao Hệ thống y tế tại đây thiếu nhân sự và trang thiết bị, với khoảng cách đến trạm y tế xa nhất lên tới 17 km, yêu cầu người dân phải di chuyển bằng thuyền Cứ 10.000 dân chỉ có 9 cán bộ y tế và 1 giường bệnh cho mỗi 1.000 dân, cho thấy sự thiếu hụt nghiêm trọng trong dịch vụ y tế.

Có 43 điểm trường tiểu học nằm rải rác trong vùng đệm Trong đó chỉ có 6 điểm trường là có kiến trúc kiên cố, 37 điểm trường còn lại chỉ là những chòi sơ sài được dựng lên do nhu cầu gia tăng về phòng học trong khu vực [35]

Giáo viên đang thiếu hụt nghiêm trọng, nhiều người phải dạy đến hai ca mỗi ngày Học sinh lớp 1 và lớp 2 phải đi bộ hoặc đi thuyền tới 2 km để đến trường Để tiếp tục học cấp III, học sinh phải di chuyển xa đến các thị trấn lớn như Huyện An Minh, Huyện U Minh Thượng và TP Rạch Giá Nhiều gia đình không có khả năng tài chính để cho con em đi học Thiết bị giáo dục cũng đang thiếu hụt trầm trọng, nhiều trường không có điện, nước và phòng vệ sinh, trong khi một số trường thậm chí không đủ bàn ghế cho học sinh.

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

Đặc điểm điều kiện lập địa ở khu vực có mức ngập nước khác nhau tại Vườn Quốc gia U Minh Thượng

Vườn Quốc Gia U Minh Thượng là một trong những vùng đất ngập nước quan trọng nhất ở Đồng bằng sông Cửu Long, nổi bật với hệ sinh thái rừng tràm ngập phèn độc nhất vô nhị tại Việt Nam Với diện tích trên 3.000 ha, nơi đây sở hữu các ưu hợp của rừng hỗn giao và rừng tràm trên đất than bùn, tạo ra môi trường sống lý tưởng cho nhiều loài động vật hoang dã Ngoài giá trị đa dạng sinh học, VQG U Minh Thượng còn lưu giữ nhiều di tích lịch sử và văn hóa quan trọng, góp phần làm phong phú thêm giá trị của khu vực.

4.1.1 Điều kiện thổ nhưỡng Vườn Quốc gia U Minh Thượng

Vườn Quốc gia U Minh Thượng hiện nay có ba loại đất chính: thứ nhất là đất than bùn trên nền phèn tiềm tàng, thứ hai là đất than bùn trên nền phèn hoạt động, và thứ ba là đất phèn hoạt động.

Kết quả phỏng vấn cho thấy khu vực trước đây từng có lớp than bùn dày tới 3m, nhưng đã bị mất dần do cháy Mức độ cháy của than bùn phụ thuộc vào điều kiện khô hạn của từng vị trí Hầu hết các khu vực đất sét hiện nay là hệ quả của việc cháy triệt để lớp than bùn Tại đây, tầng phèn hoạt động xuất hiện nông, dưới 50cm Thực vật chủ yếu là sậy, một loài ưa sáng, phát tán mạnh và có khả năng sinh trưởng tốt trong điều kiện ngập nước, với lớp phủ dày đặc cao từ 2 đến 4m.

Trong các khu vực sậy phát triển mạnh, cây tràm tái sinh thường phân bố rải rác, chủ yếu xuất hiện ở những mô đất cao hoặc phần trên của gốc cây tràm đã cháy nhưng chưa mục Những vị trí này có thời gian không bị ngập nước, trong khi cây tái sinh tràm không thấy ở những nơi có nước ngập quanh năm.

Hình 4-2 Đất phèn hoạt động ở nơi không có lớp than bùn

Hình ảnh phẫu diện đất không có than bùn cho thấy cấu trúc tầng thứ tương tự như đất có than bùn, nhưng xuất hiện những vệt và đám loang lổ màu nâu Điều này là hệ quả của tình trạng khô hạn nghiêm trọng trong mùa khô, dẫn đến việc sắt hai bị oxy hóa một phần thành sắt ba, tạo nên lớp màu nâu rỉ sắt phủ trên bề mặt các khe nứt và kẽ hở mao quản.

Trên đất không có than bùn tràm vẫn có thể tái sinh và phát triển tốt nếu có một thời kỳ khô cho cây sinh trưởng được

Ngược lại ở nơi ngập nước quanh năm thì hầu như không phát hiện thấy tràm tái sinh chủ yếu là cây cỏ năng hoặc sậy

Trên mặt cắt phẫu diện đất, dưới lớp than bùn xuất hiện tầng sinh phèn với độ sâu khác nhau Tầng sinh phèn nông thường tạo ra phèn hoạt động, trong khi tầng sinh phèn sâu là đất than bùn phèn tiềm tàng Những khu vực có nhiều nhôm thường có màu sáng và nước trong, ngược lại, nơi có nhiều sắt thường có màu nâu hoặc nâu đen cùng với nước có màu tương tự.

Tầng than bùn được chia thành hai loại chính: than bùn đen có độ phân giải cao và bị nén chặt, nằm ở phần dưới; trong khi đó, than bùn nâu có cấu trúc bở rời, thường chứa cả thân gỗ mục, nằm ngay trên lớp than bùn đen.

Than bùn còn lại sau cháy chủ yếu là than bùn đen, chặt có bề dày thay đổi từ

Lớp than bùn từ 35 đến 63cm có tỷ trọng cao hơn và đất chặt, giúp cải thiện khả năng thẩm thấu nước Than bùn đen thường ẩm hơn so với lớp than bùn màu nâu xốp ở phía trên, dẫn đến việc chúng khó cháy hơn Cháy chỉ xảy ra trong điều kiện thời tiết rất khô và ở những khu vực xa kênh nước, khi độ ẩm giảm xuống mức thấp.

Khi xảy ra cháy rừng, lớp than bùn thường không bị cháy hoàn toàn, trong khi lớp trên xốp và khô hơn dễ dàng bị cháy nhanh chóng Ngược lại, lớp than phía dưới thường chặt và khó bị ảnh hưởng bởi lửa.

Tràm phát triển mạnh mẽ trên đất than bùn ẩm, với sự thay đổi tùy thuộc vào địa hình, tình trạng thời tiết và mức nước ngầm Điều này dẫn đến sự khác biệt về độ sâu của lớp than bùn có thể cháy Kết quả điều tra tại U Minh Thượng cho thấy ảnh hưởng rõ rệt sau vụ cháy rừng.

2002, trung bình lớp than bùn bị cháy khoảng 60cm

Ở một số khu vực, lớp than bùn mỏng đã bị rút nước trong thời gian dài, dẫn đến tình trạng khô kiệt và cháy hoàn toàn Bề mặt hiện tại được bao phủ bởi đất sét.

Sau khi cháy rừng, mặt đất để lại lớp tro dày từ 5-10 cm, với tính chất hóa học đáng chú ý Phân tích cho thấy tro có tính kiềm với pH đạt 8.40, độ mặn cao (EC: 4.5 mS/cm) và hàm lượng các chất như Fe +3 (17.2 mg/100g) và SO4 -2 hòa tan (0.45%) cũng như tổng số SO4 -2 (1.45%) đều ở mức cao.

Vườn quốc gia U Minh Thượng có hai loại than bùn: than bùn đen nằm sâu và than bùn nâu xốp nhẹ ở trên Phân tích cho thấy than bùn có tính axit với pH than bùn đen là 4.20 và pH than bùn nâu là 4.05 Độ mặn của than bùn được đo với EC là 1.16, trong khi hàm lượng lân dễ tiêu rất thấp, với P2O5 của than bùn đen là 3.2 mg/100g và than bùn nâu là 4.3 mg/100g.

Về địa mạo có thể phân chia Vườn quốc gia U Minh Thượng thành 2 vùng: (1)- vùng đầm lầy than bùn và (2)- vùng phẳng giữa gềnh và lạch triều cổ

Vùng đầm lầy than bùn chủ yếu nằm ở các khu vực có độ cao mặt đất dưới 0.5 m, nơi đất thấp và tầng sinh phèn nông Đất phèn thường phân bố rộng rãi ở các vùng đầm lầy hoặc lạch triều cổ Khi đầm lầy than bùn bị cháy, việc tái sinh tràm gặp nhiều khó khăn do đây là vùng trũng, trong mùa mưa nước ngập kéo dài khiến hạt tràm không thể nảy mầm.

Vùng phẳng giữa gềnh và lạch triều cổ thường có độ cao mặt đất trên 0.5m và tầng sinh phèn tương đối sâu Mặt đất ở đây thường cao, nhưng khi lớp than bùn bị mất đi hoặc cháy, độ cao của lớp than bùn giảm, dẫn đến việc tầng sinh phèn bị oxy hóa mạnh và trở nên hoạt động Điều này tạo điều kiện thuận lợi cho sự tái sinh tràm trong khu vực.

Đặc điểm phân bố và sinh trưởng rừng tràm ở những nơi cơ chế độ ngập nước khác nhau

4.2.1 Phân bố rừng Tràm và các hệ sinh thái xung quanh trong khu vực VQG UMT

Rừng Tràm là loại cây chủ yếu trong khu vực đầm lầy than bùn, nhưng hệ thực vật tại VQG U Minh Thượng rất phong phú Dựa vào mật độ che phủ và thời gian sinh trưởng của cây Tràm, cùng với sự tương tác giữa các loài thực vật và các quần xã thực vật khác, nhiều đơn vị lớp phủ đã được ghi nhận trong khu vực này.

Kết quả từ việc giải đoán ảnh viễn thám và khảo sát thu thập dữ liệu thực địa đã cho thấy có 5 đơn vị chính và 38 đơn vị phụ của lớp phủ được phân chia rõ ràng.

Bảng 4-5 Các đơn vị lớp phủ thực vật trong khu vực VQG U Minh

TT Đơn vị lớp phủ Diện tích Tọa độ

(meters) (ha) Kinh tuyến Vĩ tuyến

II Rừng Tràm - Thực vật khác 2.851,39

9 Tràm nhỏ, trung bình - Sậy 1.343,29 508170,0 1058642.55

12 Tràm trung bình, thưa – Bồn Bồn 13,05 506753.3 1058490.50

13 Tràm trung bình, thưa – Choại 88,6 509255.6 1067402.44

14 Tràm thưa – Sậy Bồn Bồn 91,35 507450.3 1058549.79

III Quần xã Bèo Cái 2.065,47

18 Bèo Cái – Choại, Tràm rải rác 298,49 513072.3 1058419.80

TT Đơn vị lớp phủ Diện tích Tọa độ

(meters) (ha) Kinh tuyến Vĩ tuyến

IV Quần xã Bồn Bồn 722,62

22 Bồn Bồn – Năng, Bèo Tai Chuột 72,94 509482.5 1062315.4

24 Bồn Bồn - Tràm, Bèo Tai Chuột 585,02 509256.2 1059188.67

V Mặt nước – Thực vật thủy sinh 606,6

26 Mặt nước: Sứng – Bồn Bồn, Tràm 17,71 510787.8 1055643.77

27 Mặt nước: Bồn Bồn - Tràm 91,2 509758.1 1057240.53

28 Mặt nước: Bồn Bồn - Súng 50,81 511734.4 1057241.20

30 Mặt nước: Rong Đuôi Chồn - Súng 375,81 509060.8 1061988.46

(Nguồn: Báo cáo thảm thực vật VQG U Minh Thượng, Lê Phát Quối 2009)

Tràm (Melaleuca cajuputi) hiện chiếm ưu thế tại VQG U Minh Thượng với độ che phủ từ 20 – 80%, tổng diện tích khoảng 4.446,43 ha, trong đó có 1.595,04 ha rừng Tràm với mật độ từ thưa đến dày Mặc dù phần lớn rừng Tràm đã bị chết sau trận cháy năm 2002, vẫn còn một diện tích lớn được xem là rừng Tràm bán tự nhiên trên đầm lầy than bùn.

Khu vực VQG có năm đơn vị lớp phủ rừng Tràm, bao gồm: 1) Tràm trưởng thành với mật độ dày, 2) Tràm trưởng thành với mật độ trung bình, 3) Tràm trưởng thành với mật độ thưa, 4) Tràm nhỏ với mật độ dày, và 5) Tràm vừa với mật độ trung bình.

1) Tràm trưởng thành mật độ dầy (Dense old-growth Melaleuca): Đây là dãy rừng Tràm còn sót lại sau trận cháy năm 2002, với diện tich khoảng 370,75 ha Hầu hết Tràm có mật độ trung bình và có độ che phủ khoảng trên 70%, và có độ tuổi trên 15 năm Thân Tràm cao trung bình khoảng từ 15 – 30 m Một dãy Tràm nằm cạnh kênh Ngang là chỗ cộng đồng Dơi (Pteropus sp.) dùng làm nơi trú ngụ

2) Tràm trưởng thành mật độ trung bình (Moderate old-growth Melaleuca): Đây cũng là dãy rừng Tràm còn sót lại sau trận cháy năm 2002, với diện tích khoảng 182,30 ha Tràm có độ tuổi trên 12 năm, có độ che phủ trung bình từ 40 –

Khoảng 60% diện tích rừng Tràm chủ yếu nằm cạnh các khu rừng Tràm trưởng thành với mật độ dày đặc Trong các cụm Tràm, có sự hiện diện của một số loài thực vật khác như Sậy (Phragmites vallatoria), Choại (Stenochlaena palustris), cùng với một số khu vực có Bèo cái và Bèo Tai Chuột.

(Salvina cucullata) nhưng mật độ không nhiều

3) Tràm trưởng thành, mật độ thưa (Sparse old-growth Melaleuca): Đây là là những dãy Tràm có chiều ngang khá nhỏ, phần lớn Tràm đều lớn tuổi phân bố không đồng đều dọc theo bên những con rạch nhỏ bên trong VQG Chiếm diện tích khoảng 358,05 ha Quan sát cho thấy những cụm Tràm có độ tuổi trên 12 năm, tạo thành từng cụm hoặc thành từng dãy thưa Xung quanh những dãy Tràm có nhiều thực vật khác như Sậy (Phragmites vallatoria), và những loài thực vật thủy sinh như Bèo Cái (Pistia stratiotes), Bèo Tai Chuột (Salvina cucullata), Rong Đuôi Chồn (Haloragaceae),…

4) Tràm nhỏ mật độ dầy (Dense young-growth Melaleuca): Đây là cánh rừng Tràm có độ tuổi khoảng 7 - 8 năm, có độ che phủ trên 70 %, ở khu trung tâm của VQG, có diện tích vào khoảng 243,89 ha Tràm phát triển trên khu vực àm tầng than bùn có đồ dầy lớn nhất ( > 1 m), nên có địa hình cao nhất trong khu vực VQG

Phần lớn khu vực này là rừng tái sinh sau trận cháy năm 2002, với mật độ Tràm dày đặc và độ che phủ cao hơn so với các khu vực khác Mặc dù có một số cây bụi như Sậy hoặc dây leo như Choại xuất hiện tại một vài điểm, nhưng mật độ của chúng rất thưa thớt Qua ảnh vệ tinh, có thể thấy mật độ Tràm của khu vực này có sự khác biệt đáng kể so với khu vực xung quanh.

5) Tràm tuổi trung bình, mật độ trung bình (Moderate medium-growth

Melaleuca): Bao bọc xung quanh cánh rừng Tràm có mật độ dầy và một số cụm

Cánh rừng Tràm tái sinh nằm rải rác bên các con rạch nhỏ trong khu vực VQG, với độ che phủ từ 40 – 60% và diện tích khoảng 200,33ha Mật độ Tràm trung bình tạo điều kiện cho sự phát triển của các cụm cây bụi như Sậy (Phragmites vallatoria) và Bèo Cái (Pistia stratiotes), tuy nhiên mật độ của chúng khá thấp trong lớp phủ Tràm.

6) Tràm thưa – Bèo (Sparse young-growth Melaleuca - Pristia): Những vạt rừng Tràm có độ che phủ thấp, chỉ khoảng 30 – 40 %, có diện tích khoảng 218,78 ha Phân bố chủ yếu ven rìa của vạt đất than bùn trong khu trung tâm và một phần nhỏ diện nằm rải rác trong khu vực của VQG Tràm phục hồi và tái sinh sau trận cháy năm 2002 nên có độ tuổi từ 7 – 8 năm Có địa hình hơi thấp và bị ngập nước khá nhiều nên mật độ và tạo lớp phủ không cao Xen lẫn giữa những cánh rừng Tràm là những cây bụi, thực vật thủy sinh, nhưng mật độ không cao, không ổn định Qua khảo sát cho thấy những cụm Sậy (Phragmites vallatoria) bị chết khá nhiều trong những cánh rừng Tràm thưa

7) Tràm khá thưa (Open Melaleuca – water): Những cụm Tràm với thân cây không đồng đều phân bố rải rác trong những vùng ngập nước gặp khá nhiều trong khu vực ngập nước của VQG; có diện tích khoảng 20,85 ha Một số loài thực vật thủy sinh có thể gặp trong khu vực này, nhưng mật độ không đáng kể như Súng Ma (Nymphaea nouchali), Bèo Cái (Pistia stratiotes), Bèo Tai Chuột (Salvina cucullata), và thỉnh thoảng gặp những cụm Năng Ống (Eleocharis dulcis)

Rừng Tràm còn còn nhỏ, mật độ khá dầy nằm ở khu vực cao nhất

Rừng Tràm trung bình nằm ven rừng Tràm dầy trong khu vực đất than bùn

Những cụm Tràm phân bố rải rác ở những vùng trũng bị ngập

Những khu vực thấp nhất hoàn toàn không có sự xuất hiện của cây Tràm

Hình 4-14 Những hệ sinh thái rừng tràm ở VQG U Minh Thượng

4.2.1.2 Rừng Tràm xen cây bụi, thực vật thủy sinh (Melaleuca mixded with shrubs, aquatic plants)

Khu vực VQG U Minh Thượng sở hữu diện tích rừng Tràm lên tới 2.851,39 ha, nơi phát triển đa dạng các loại cây bụi và thực vật thủy sinh Sự hiện diện của các loài thực vật khác ngoài Tràm góp phần làm phong phú thêm sự đa dạng sinh học tại khu vực đất than bùn U Minh Thượng.

Based on the density of Tràm and the composition of surrounding plant species, seven subunits have been identified: 1) Dense small Tràm interspersed with Sậy (Phragmites vallatoria), 2) Large Tràm mixed with Sậy (Phragmites vallatoria) and Bèo Cái (Pistia stratiotes), 3) Medium density small Tràm alongside Sậy (Phragmites vallatoria), 4) Sparse small Tràm mixed with Choại (Stenochlaena palustris), 5) Sparse medium Tràm associated with Bồn Bồn (Typha angustifolia L.), 6) Sparse Tràm intermingled with Sậy (Phragmites vallatoria) and Bồn Bồn (Typha angustifolia L.), and 7) Sparse small Tràm combined with Sậy (Phragmites vallatoria) and Năng Ống (Eleocharis dulcis).

1) Tràm nhỏ, mật độ dầy xen Sậy (Dense young-growth Melaleuca –

Quan hệ giữa sinh trưởng với chế độ ngập nước thích hợp để duy trì sinh trưởng của cây tràm

Các chỉ tiêu sinh trưởng được tính toán từ sau vụ cháy lớn năm 2002 nhằm nghiên cứu ảnh hưởng của chế độ giữ nước đến sự phát triển của rừng Tràm tại VQG UMT Những cây rừng cùng tuổi nhưng ở các vị trí khác nhau sẽ có tốc độ sinh trưởng và phát triển khác nhau do điều kiện lập địa và hoàn cảnh khác biệt Ở những khu vực có điều kiện tự nhiên thuận lợi, cây rừng sẽ phát triển tốt nhất, tạo ra lượng sinh khối cao nhất.

Trong nghiên cứu nhịp điệu sinh trưởng của cây Tràm, chúng tôi đã sử dụng chỉ tiêu bề rộng vòng năm, một tiêu chí dễ xác định và đặc trưng cho sức sinh trưởng của cây rừng Dưới đây là một số hình ảnh phân tích thớt gỗ Tràm.

Hình 4-22 Một số hình ảnh vòng năm thớt gỗ rừng Tràm VQG U Minh Thượng

4.3.1 Ảnh hưởng của chế độ giữ nước đến sinh trưởng đường kính (D) của rừng Tràm ở Vườn Quốc gia U Minh Thượng

Nghiên cứu sinh trưởng của cây rừng bắt đầu với việc phân tích sinh trưởng về đường kính Nhân tố D đóng vai trò quan trọng trong việc thể hiện rõ nét sự sinh trưởng của cây rừng thông qua quá trình tăng trưởng vòng năm.

Sinh trưởng về đường kính là sự thay đổi bề rộng vòng năm theo tuổi của cây Tăng trưởng được định nghĩa là sự biến đổi đường kính trong một khoảng thời gian nhất định Mức độ tăng trưởng cho thấy tốc độ sinh trưởng mạnh hay yếu của cây Tràm.

Kết quả tính toán chỉ tiêu sinh trưởng và suất tăng trưởng về đường kính của các cây tiêu chuẩn tại 5 trạng thái rừng ở VQG U Minh Thượng được trình bày trong bảng 4-14 và hình 4-23.

Bảng 4-14 Sinh trưởng, tăng trưởng, suất tăng trưởng trung bình về đường kính cây tràm ở VQG U Minh Thượng giai đoạn 2002 – 2009 Đơn vị tính: mm

Chỉ tiêu TTKC TTBD TTTB TTM TTS

Hình 4-23 Sinh trưởng và tăng trưởng về đường kính của 5 trạng thái rừng Tràm VQG UMT giai đoạn 2002 – 2009

Theo bảng số liệu 4-14 và biểu đồ hình 4-23, đường kính cây sinh trưởng liên tục tăng theo tuổi, trong khi đường kính bình quân giảm dần từ TTKC, TTBD, TTTB, TTS đến TTM Suất tăng trưởng cũng giảm theo tuổi, phù hợp với quy luật biến đổi chung của sinh trưởng và suất tăng trưởng.

Tăng trưởng hàng năm (ZD) và tăng trưởng bình quân chung (∆D) của cây tràm không theo quy luật nhất định, mà có xu hướng giảm dần theo tuổi Theo nghiên cứu trước đây, ZD và ∆D tăng lên theo tuổi cho đến khi đạt giá trị cực đại, sau đó bắt đầu giảm dần.

Tăng trưởng hàng năm của rừng rất nhạy cảm với các yếu tố nội tại và ngoại cảnh Cụ thể, đường kính tăng trưởng thường xuyên hàng năm của rừng TTBD đạt 10,97 mm, trong khi rừng TTTB là 10,92 mm Rừng TTKC có mức tăng trưởng thấp nhất với 5,86 mm, tiếp theo là rừng Tràm TTM với 9,26 mm và rừng TTS với 9,27 mm.

Rừng Tràm hiện tại có tuổi từ 19 đến 23 tuổi, đang ở giai đoạn sinh trưởng ổn định Trong giai đoạn này, sự biến động về tăng trưởng hàng năm là khá ít, nhờ vào trạng thái rừng không bị cháy.

Tăng trưởng bình quân chung của các trạng thái rừng giảm dần theo tuổi Tại khu vực giai đoạn, sự thay đổi này thể hiện rõ nét trong các loại rừng khác nhau.

2002 đến 2009 có giá trị trung bình lớn nhất là 2,70 mm ở trạng thái rừng Tràm TTBD và giá trị nhỏ nhất là 0,34 mm ở trạng thái rừng Tràm TTKC

Mức độ ngập nước khác nhau đã ảnh hưởng đáng kể đến sinh trưởng và tăng trưởng đường kính cây tràm trong khu vực Cụ thể, sinh trưởng và tăng trưởng đường kính cây tràm tỷ lệ nghịch với mức độ ngập nước; ở những nơi ngập sâu, cây tràm phát triển kém hơn so với những khu vực ngập nông Sự ngập nước kéo dài đã làm thay đổi quy luật sinh trưởng và tăng trưởng đường kính của rừng tràm trong khu vực này.

4.3.2 Ảnh hưởng của chế độ giữ nước đến sinh trưởng chiều cao (H) của rừng Tràm ở Vườn Quốc gia U Minh Thượng

Kết quả tính toán các chỉ tiêu sinh trưởng và tăng trưởng về chiều cao rừng tràm tại khu vực được ghi ở bảng 4-15 và hình 4-24

Bảng 4-15 Sinh trưởng, tăng trưởng, suất tăng trưởng trung bình về chiều cao cây tràm ở VQG U Minh Thượng giai đoạn 2002 – 2009 Đơn vị tính: m

Chỉ tiêu TTKC TTBD TTTB TTM TTS

Chiều cao tối đa của rừng Tràm TTKC đạt 11,37 m, trong khi chiều cao tối thiểu ở trạng thái TTM là 3,82 m Tăng trưởng hàng năm cao nhất là 1,01 m ở trạng thái TTM, và thấp nhất là 0,14 m ở trạng thái TTKC Tại trạng thái rừng TTKC, cả tăng trưởng chiều cao và đường kính đều tương đối ổn định Tăng trưởng bình quân chung cao nhất là 1,05 m ở trạng thái TTTB và thấp nhất là 0,72 m ở trạng thái TTKC Suất tăng trưởng chiều cao giảm dần từ 33,31% xuống 25,62%.

Tốc độ sinh trưởng về chiều cao của các trạng thái được phân loại như sau: TTM có tốc độ lớn nhất với 22,48%, trong khi TTKC ghi nhận tốc độ nhỏ nhất chỉ đạt 1,26% Điều này cho thấy sự khác biệt rõ rệt trong khả năng phát triển chiều cao giữa các trạng thái, với TTM thể hiện ưu thế vượt trội.

Trong giai đoạn 2002 - 2009, sự sinh trưởng và tăng trưởng chiều cao của 5 trạng thái rừng tràm tại VQG UMT cho thấy sự tương đối theo quy luật Tuy nhiên, chỉ số ZH và ∆H nhỏ cho thấy mức độ ngập nước đã ảnh hưởng đáng kể đến sự sinh trưởng và chiều cao của cây tràm trong khu vực này.

4.3.3 Ảnh hưởng của chế độ giữ nước đến sinh trưởng thể tích (V) của rừng Tràm ở Vườn Quốc gia U Minh Thượng

Thể tích cây rừng là yếu tố quan trọng phản ánh sự sinh trưởng của cây, được tính bằng sự kết hợp giữa đường kính và chiều cao Hai cây cùng tuổi, sinh trưởng trong cùng điều kiện và có đường kính hoặc chiều cao tương đương, vẫn có thể có thể tích khác nhau Điều này cho thấy sự đa dạng trong sinh trưởng của các loài cây.

H nghiên cứu sinh trưởng về thể tích cũng tính các chỉ tiêu thể tích trung bình qua các năm, Zv , ∆v, Pv%,

Những khuyến nghị cho chế độ quản lý nước thích hợp

Tràm là loài cây chịu ngập nhưng không ưa ngập, với khả năng phát triển rễ ngang trong nước Tuy nhiên, khi nước ngập sâu lâu ngày, điều kiện yếm khí làm giảm sự phát triển của rễ, khiến cây khó hấp thụ dinh dưỡng và dễ đổ gãy Kinh nghiệm cho thấy cây tràm có thể chịu ngập tự nhiên từ 6-7 tháng, do đó, quản lý thủy văn cần đảm bảo thời gian phơi cạn ít nhất 5 tháng Mực nước ngập tự nhiên lý tưởng cho tràm là 50-60 cm; vượt quá mức này sẽ gây ra tình trạng yếm khí, dẫn đến rễ không phát triển, cây dễ đổ gãy và chết yếu Trong điều kiện ngập lâu, rễ ngang phát triển trong nước, trong khi rễ dưới đất thường ngừng phát triển hoặc bị thối Rút nước đột ngột có thể khiến cây tràm chết do rễ trên thân không hoạt động, trong khi rễ dưới đất đã bị tổn thương do ngập nước kéo dài.

Nghiên cứu về phân bố rừng tràm tại vườn quốc gia U Minh Thượng cho thấy chế độ ngập nước mùa vụ khác nhau đã tạo ra những kiểu trạng thái rừng đặc trưng Rừng tràm thường phát triển tốt hơn ở địa hình cao, với mật độ cây dày và sinh trưởng mạnh về đường kính và chiều cao Ngược lại, ở những khu vực ngập nước quanh năm, cây tràm hầu như không xuất hiện, thay vào đó là các loài thực vật thủy sinh như bèo cái, bèo tai chuột và súng ma Điều này cho thấy mức độ ngập nước ảnh hưởng lớn đến sự phân bố rừng tràm, góp phần hình thành nhiều kiểu trạng thái rừng với đa dạng sinh học cao tại khu vực này.

Kết quả nghiên cứu ảnh của chế độ ngập nước đến sinh trưởng đường kính,

Chế độ ngập nước khác nhau, bao gồm thời gian và mức độ ngập, đã tác động rõ rệt đến cấu trúc rừng tràm tại Vườn quốc gia U Minh Thượng Cụ thể, đường kính trung bình, chiều cao trung bình, độ tàn che và tỷ lệ cây tốt đều có xu hướng tỷ lệ nghịch với chiều sâu ngập nước Điều này cho thấy rằng, ở những khu vực có mức ngập nước sâu hơn, sinh trưởng và chất lượng của cây rừng tràm bị giảm sút, trong khi ở những khu vực ngập nông hơn, cây phát triển tốt hơn.

Mức độ ngập nước khác nhau đã ảnh hưởng đáng kể đến sinh trưởng và tăng trưởng đường kính cây tràm trong khu vực Cụ thể, sinh trưởng và tăng trưởng đường kính cây tràm tỷ lệ nghịch với mức độ ngập nước; những nơi ngập sâu có sinh trưởng và tăng trưởng kém hơn so với những nơi ngập nông Sự ngập nước kéo dài đã dẫn đến biến đổi quy luật sinh trưởng và tăng trưởng đường kính của rừng tràm tại khu vực này.

Để Tràm phát triển tốt nhất, cần hạ thấp mực nước ngập hiện tại một cách khoa học Việc này sẽ giúp rễ Tràm có điều kiện phát triển trở lại vào trong đất một cách bình thường.

Nghiên cứu của TS Trần Quang Bảo về ảnh hưởng của chế độ giữ nước đến nguy cơ cháy rừng tại hai vườn quốc gia U Minh Thượng và U Minh Hạ cho thấy rằng độ ẩm của lớp thảm khô trong những ngày nắng nóng có liên quan chặt chẽ đến độ sâu của mực nước ngầm Cụ thể, khi mực nước ngầm cách mặt đất hoặc mặt than bùn dưới 100cm, độ ẩm của vật liệu cháy giảm xuống dưới 12%, dẫn đến nguy cơ cháy cao Ngược lại, nếu mực nước ngầm không vượt quá 50cm, độ ẩm vật liệu cháy sẽ vượt 20%, làm giảm nguy cơ bén lửa và cháy rừng Do đó, để bảo vệ rừng tràm tự nhiên khỏi nguy cơ cháy, cần duy trì mực nước ngầm ở mức nhỏ hơn 50cm so với mặt than bùn.

Dựa trên các kết quả nghiên cứu và kế thừa, đề tài đưa ra một số khuyến nghị quan trọng về chế độ quản lý nước để đảm bảo sinh trưởng rừng tràm tại khu vực, bao gồm việc thiết lập hệ thống giám sát nước, xây dựng kế hoạch quản lý nước hiệu quả và áp dụng các biện pháp bảo tồn nước.

Để đảm bảo sự phát triển của cây tràm trong mùa khô, cần hạ thấp mực nước hiện tại và duy trì mực nước không thấp hơn 50 cm so với mặt than bùn Chế độ giữ nước này giúp kết hợp hài hòa giữa mục tiêu phòng cháy và sự sinh trưởng của cây tràm.

Vườn quốc gia có sự phân bố độ cao mặt đất không đồng đều, với khu vực phía Nam có độ cao lớn hơn so với phía Bắc Sự khác biệt về độ cao chủ yếu được hình thành do than bùn Tuy nhiên, độ chênh lệch giữa các phân khu không rõ rệt.

Do sự chênh lệch độ cao, việc hạ thấp mực nước ngầm xuống dưới 50cm theo nghiên cứu là không khả thi cho toàn bộ vườn quốc gia Để thực hiện phương án này, cần phải phân chia vườn quốc gia thành các khu vực phù hợp.

U Minh Thượng thành các phân khu Mỗi phân khu có một chế độ quản lý nước riêng

Vườn quốc gia được chia thành hai khu vực chính dựa trên độ cao: khu vực phía Bắc và khu vực phía Nam, với kênh ngang trung tâm làm ranh giới Khu vực phía Bắc lại được phân thành hai phần do con đường lớn dẫn từ bên ngoài vào trung tâm.

Hình 4-26 Vườn quốc gia U Minh Thượng khi chia thành 3 phân khu theo địa hình

Trong bối cảnh quản lý hiện tại với ngân sách hạn chế, có thể chia vườn quốc gia thành ba phân khu và áp dụng quản lý thủy văn cho từng khu vực theo nguyên tắc cụ thể.

Quản lý thủy văn đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì sự phát triển bền vững của hệ sinh thái, bao gồm cả thực vật và động vật như chim và thú Để đạt được điều này, cần thiết phải duy trì diện tích đất không bị ngập trong ít nhất 5 tháng mỗi năm để hỗ trợ sự sinh trưởng của cây tràm, đồng thời bảo đảm có những khu vực hoàn toàn không bị ngập để tạo môi trường sống cho động vật hoang dã.

Quản lý thủy văn là yếu tố quan trọng để bảo vệ sự tồn tại của than bùn Cần tránh tạo ra dòng chảy ngang lớn và đảm bảo mực nước ngầm không sâu hơn 30cm dưới mặt than bùn trong thời gian quá 3 tháng Đồng thời, không nên tháo nước quá sâu dưới than bùn để duy trì sự ổn định của hệ sinh thái này.

+ Quản lý thủy văn đảm bảo không để mực nước xuống sâu hơn mặt than bùn quá 50cm gây nguy cơ cháy rừng

Chấp nhận một tỷ lệ diện tích rừng có nguy cơ cháy trong mùa khô, nhưng không vượt quá 20% tổng diện tích rừng, là cần thiết để bảo vệ hệ sinh thái Việc giữ nước để ngăn cháy rừng có thể dẫn đến tình trạng ngập úng ở nhiều khu vực, làm thay đổi môi trường sinh thái của vườn quốc gia Do đó, cần cân nhắc giữa việc đảm bảo an toàn cháy rừng và bảo tồn sự đa dạng sinh học.

Kết luận

VQG U Minh Thượng là một trong hai khu đầm lầy đất than bùn lớn nhất còn lại của Việt Nam, nổi bật với hệ thực vật và hệ sinh thái đặc trưng của vùng đầm lầy than bùn Khu vực này đóng vai trò quan trọng trong việc ngăn ngừa hiện tượng acid hóa tầng đất mặt và nước mặt, trữ nước ngọt, làm khu vực sinh sản và sinh sống của các loài cá, động vật giáp xác, và lọc nước bề mặt Với tầm quan trọng đó, rừng đầm lầy đất than bùn U Minh Thượng được công nhận là một trong ba vùng bảo tồn đất ngập nước được ưu tiên đặc biệt ở Đồng bằng sông Cửu Long, mang lại lợi ích về môi trường và sinh kế cho các cộng đồng sống ở khu vực xung quanh.

Đặc điểm đa dạng sinh học của các hệ sinh thái tại VQG U Minh Thượng nổi bật hơn so với các khu bảo tồn thiên nhiên khác ở vùng hạ lưu châu thổ sông Mekong.

Rừng Tràm (Melaleuca cajuputi) chiếm ưu thế với sự đa dạng về độ tuổi và phân bố, tạo ra nhiều kiểu rừng khác nhau Sự đan xen giữa các quần xã thực vật bên trong rừng tùy thuộc vào mức độ ngập nước, hình thành những đơn vị sinh thái đặc trưng.

Vùng đầm lầy ngập nước tại VQG U Minh Thượng là nơi sinh sống của nhiều quần thể thực vật thủy sinh đa dạng, bao gồm Rong Đuôi Chồn (Haloragaceae), Súng Ma (Nymphaea nouchali), Thủy Nữ Ấn (Nymphoides indicum), Bèo Tai Chuột (Salvinia cucullata) và Bồn Bồn (Typha angustifolia) Hệ sinh thái này không chỉ phong phú về loài mà còn thể hiện sự đa dạng sinh cảnh đặc trưng của khu vực.

Trảng cỏ ngập nước theo mùa, với các quần xã thực vật như Năng Ống (Eleocharis dulcis) và Sậy (Phragmites vallatoria), là một hệ sinh thái quan trọng Tuy nhiên, do tình trạng ngập nước kéo dài và mức độ ngập quá cao trong nhiều năm, hệ sinh thái này đã bị suy giảm đáng kể.

Trong khu vực VQG, các loài thực vật như Dương xỉ (Acrostichum s.) và Choại (Stenochlaena palustris) phát triển xen kẽ với các loài khác, tạo nên những sinh cảnh đặc trưng và đa dạng.

Kiểu phân bố của các quần xã và quần thể thực vật đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra tính đa dạng môi trường sống cho nhiều loài động vật Tại VQG U Minh Thượng, nhiều loài chim đã được ghi nhận sinh sống và cư trú trên các quần xã thực vật này, góp phần hình thành nên những sinh cảnh đa dạng cho hệ động thực vật trong khu vực.

Sau trận cháy rừng Tràm năm 2002, việc duy trì mực nước quá cao quanh năm đã gây suy giảm hệ sinh thái trong VQG Những cánh rừng Tràm đổ ngã và cánh đồng Sậy chết do ngập nước kéo dài đã tạo ra một hệ sinh thái nghèo nàn Đồng cỏ ngập nước theo mùa, nguồn thức ăn cho một số loài chim nước, giờ chỉ còn rải rác tại các khu vực trảng Môi trường ngập nước kéo dài không thuận lợi cho sự phát triển của nhiều loài thực vật quý, trong đó có Dây Nắp Bình (Nepenthes mirabilis), hiện đã giảm số lượng trong khu rừng Tràm.

Vùng lõi của VQG U Minh Thượng có một phần diện tích nằm trên đầm lầy than bùn, đóng vai trò quan trọng trong việc lưu giữ carbon và tạo sinh cảnh đặc thù cho đất ngập nước Cháy rừng có thể khiến Tràm phục hồi qua tái sinh hoặc trồng lại, nhưng đất than bùn sẽ bị hủy hoại Nếu than bùn quá khô và oxy xâm nhập, vật liệu đất sẽ bị oxid hóa và làm suy giảm chất lượng than bùn Tuy nhiên, việc giữ nước quanh năm cũng có thể dẫn đến sự suy giảm hệ sinh thái và đa dạng sinh học của vùng đầm lầy than bùn U Minh Thượng.

Một trong những vấn đề quan trọng trong việc phục hồi các hệ sinh thái tự nhiên tại VQG U Minh Thượng là nghiên cứu và thử nghiệm mô hình quản lý nước – lửa Mô hình này nhằm bảo tồn và phục hồi thảm thực vật, các hệ sinh thái cũng như tính đa dạng sinh học trong vùng đầm lầy than bùn, từ đó nâng cao hiệu quả công tác bảo tồn.

Chế độ ngập nước theo mùa ở khu vực đã tạo ra những kiểu trạng thái rừng đặc trưng khác nhau Rừng tràm thường phát triển tốt hơn ở những vùng cao trong vườn quốc gia, với mật độ cây dày hơn và sự sinh trưởng mạnh mẽ về đường kính và chiều cao Ngược lại, ở những khu vực ngập nước quanh năm, cây tràm gần như không xuất hiện, thay vào đó là các loài thực vật thủy sinh như bèo cái, bèo tai chuột và súng ma Như vậy, mức độ ngập nước khác nhau đã ảnh hưởng rõ rệt đến sự phân bố của rừng tràm tại Vườn quốc gia.

U Minh Thượng nổi bật với sự đa dạng sinh học phong phú, nhờ vào những đặc điểm tự nhiên độc đáo của vùng đất này, đã tạo ra nhiều kiểu trạng thái rừng khác nhau.

Trong VQG UMT, chế độ giữ nước được duy trì ổn định, với độ cao mặt nước trung bình trong giai đoạn 2002 - 2009 luôn cao hơn mặt than bùn cao nhất khoảng 20cm Năm 2007 ghi nhận độ cao mặt nước trung bình cao nhất là 24,17 cm, trong khi năm 2002 là năm có độ cao mặt nước thấp nhất, đạt -55,08 cm so với mặt than bùn cao nhất.

Chế độ ngập nước ảnh hưởng rõ rệt đến cấu trúc rừng tràm tại Vườn quốc gia U Minh Thượng, với đường kính trung bình, chiều cao trung bình, độ tàn che và tỷ lệ cây tốt có xu hướng giảm khi chiều sâu ngập nước tăng lên Điều này cho thấy rằng khu vực ngập nước sâu hơn thì sinh trưởng và chất lượng cây rừng sẽ kém hơn.

Do ảnh hưởng của tình trạng ngập nước sâu và kéo dài, rừng Tràm tại khu vực nghiên cứu có mức sinh trưởng D, H và V chậm Mặc dù tăng trưởng diễn ra hàng năm, nhưng sự biến đổi trung bình về đường kính không theo quy luật nhất định và có xu hướng giảm dần theo độ tuổi của cây.

Tồn tại

Nghiên cứu ban đầu về phân bố và sinh trưởng của rừng Tràm đã được thực hiện tại 5 trạng thái khác nhau Tuy nhiên, do hạn chế về thời gian, nghiên cứu chưa thể đi sâu vào sự phát triển của các trạng thái rừng Tràm với các bề dày tầng than bùn khác nhau Việc khảo sát sinh trưởng của rừng Tràm trong cùng một trạng thái nhưng với các độ dày tầng than bùn khác nhau sẽ cung cấp cái nhìn cụ thể và sâu sắc hơn về mối quan hệ giữa chế độ nước và sự sinh trưởng của rừng Tràm.

Thớt gỗ được lấy từ độ cao 1,5 m so với đỉnh sinh trưởng của cây Tràm, nhưng tại vị trí này vẫn còn nhiều vòng năm, điều này ảnh hưởng đến việc xác định chiều cao sinh trưởng của cây.

Khuyến nghị 85 TÀI LIỆU THAM KHẢO

Nghiên cứu sâu về sự sinh trưởng của các trạng thái rừng Tràm dựa trên độ dày của tầng than bùn sẽ giúp đưa ra các giải pháp quản lý rừng Tràm phù hợp cho từng trạng thái Điều này bao gồm cả những giải pháp cụ thể cho từng trạng thái với độ dày tầng than bùn khác nhau, nhằm tối ưu hóa hiệu quả quản lý và bảo tồn rừng.

Để thu hoạch thớt, cần cưa ở vị trí cách đỉnh sinh trưởng khoảng 1,5m, nơi vẫn còn nhiều vòng năm Việc cưa thớt ở vị trí gần đỉnh sinh trưởng sẽ mang lại hiệu quả cao hơn.

Để đảm bảo phòng cháy và duy trì sinh trưởng rừng tràm tại vườn quốc gia U Minh Thượng, cần chia khu vực thành 3 phân khu quản lý nước trong giai đoạn đầu do hạn chế tài chính Mỗi phân khu sẽ được điều tiết nước với mức khác nhau, đảm bảo mực nước ngầm không vượt quá 50cm trong mùa khô nhằm giảm thiểu nguy cơ cháy Đồng thời, cần tránh tình trạng ngập nước liên tục để không ảnh hưởng đến sự phát triển của rừng tràm.

TÀI LIỆU THAM KHẢO TIẾNG VIỆT

1 Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (2002), Hội thảo khoa học về những nội dung của Dự án khôi phục, xây dựng và bảo vệ Vườn quốc gia U Minh Thượng sau trận cháy rừng tháng 3-4/2002 " Kiên Giang.Hà Nội

2 Buckton, ST, Nguyễn Cừ, Hà Quý Quỳnh và Nguyễn Đức Tú (1999), Việc bảo tồn các vùng đất ngập nước quan trọng ở đồng bằng sông Cửu Long,

Chương trình BirdLife Quốc tế Việt Nam, Hà Nội

3 CARE (2002), Phục hồi và bảo tồn vườn quốc gia U Minh Thượng -Phát triển chiến lược quản lý nước lồng ghép Báo cáo tại hội thảo khoa học “ Khôi phục, xây dựng và bảo vệ vườn quốc gia U Minh Thượng sau cháy rừng tháng 3-4 /2002.TP HCM

4 Hoàng Chương (2004), Khôi phục rừng sau cháy tại Cà Mau, Sổ tay hướng dẫn kỹ thuật trồng Tràm, Dự án hợp tác kỹ thuật Việt Nam – Nhật Bản

5 Nguyễn Văn Đệ (2002), Khảo sát môi trường đất than bùn Vườn Quốc gia U Minh Thượng, báo cáo chuyên đề Trang 27 - 36

6 Nguyễn Văn Đệ (2002), Kết quả khảo sát và đánh giá bước đầu về hiê ̣n trạng môi trường đất ở vuờn quốc gia U Minh Thượng, Phân viê ̣n Đi ̣a lý-Trung tâm khoa học tự nhiên và công nghê ̣ quốc gia, Hà Nội

7 Nguyễn Phúc Bảo Hòa (2000) Báo cáo chim chương trình giám sát đa dạng sinh học khu bảo tồn thiên nhiên U Minh Thượng tỉnh Kiên Giang, Đại học quốc gia TP Hồ Chí Minh

8 Phạm Hoàng Hộ (1992), Cây cỏ Việt Nam Montréal, Canada

9 Hội khoa học đất Việt Nam (2000), Đất Việt Nam , NXBNN Hà Nội

10 Vũ Tiến Hinh (2003), Sản lượng rừng, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội

11 Nguyễn Văn Khiết (2002), Thiết lập bản đồ địa hình Vườn Quốc gia U Minh Thượng, NXB tổng hợp Tp Hồ Chí Minh

12 Nguyễn Văn Khoái, Brett Shields (2002), Kế hoạch phòng chống cháy rừng Vườn Quốc Gia U Minh Thượng, Việt Nam Tổ chức CARE Quốc tế taị Việt Nam và Ban quản Lý Khu Bảo Tồn Thiên Nhiên U Minh Thượng

13 Phùng Ngọc Lan (1986) Lâm sinh học, tập I, NXB Nông nghiệp, Hà Nội

14 Lâm Bỉnh Lợi & Nguyễn Văn Thôn (1972), Rừng Ngập Nước Việt Nam, Sở

Lâm Học, Viện Khảo cứu nông nghiệp, Bộ cải cách điền địa và Phát triển Nông – Ngư – Mục, NXB Tp Hồ Chí Minh

15 Phù ng Trung Ngân và Dương Tiến Dũng (1985), Nhân tố lửa rừng trong diễn thế thứ sinh của hê ̣ sinh thái rừng Tràm U Minh Báo cáo khoa ho ̣c Đa ̣i ho ̣c Tổng hợp TP.HCM

16 Phù ng Trung Ngân và cộng tác viên (1987), Rừ ng ngập nước ở Viê ̣t Nam NhàXuất Bản Giáo Du ̣c, Hà Nô ̣i

17 Lê Hồng Phúc (1995), Nghiên cứu sinh khối rừng thông ba lá (Pinus kesiya) ở Đà Lạt - Lâm Đồng Tạp chí lâm nghiệp, số 9, trang 17-20

18 Lê Hồng Phúc (1997), Nghiên cứu sinh trưởng, tăng trưởng, sinh khối rừng trồng thông ba lá khu vực Đà Lạt, Lâm Đồng, Luận văn Tiến sĩ Khoa học

Nông nghiệp Viện Khoa Học Lâm Nghiệp Việt Nam

19 Hồ Văn Phúc (1999) Ảnh hưởng của độ ngập nước đến sức sản xuất và khả năng xảy ra cháy rừng đối với rừng Tràm vùng U Minh Thượng tỉnh Kiên Giang Phân viện Điều tra Quy hoạch Rừng II, Tp Hồ Chí Minh

20 Phân viê ̣n Quy hoa ̣ch và Khảo sát Thủy Lợi Nam Bô ̣ (2002), Hiện trạng thủy văn, những quan điểm và nguyên tắc khôi phuc, xây dựng và bảo vê ̣ vuờn quốc gia U Minh Thượng sau trận cháy rừng, NXB Tp Hồ Chia Minh

21 Lê Phát Quối (2009), Báo cáo thảm thực vật VQG U Minh Thượng, Viện Môi trường và Tài Nguyên, Đại học Quốc gia TP.HCM

22 Safford, RJ, Trần nước Nguyễn Minh Triết, Maltby, E và Dương Văn

Ni(1998), Tình trạng đa dạng sinh học và quản lý vùng đất ngập nước U Minh

Thượng tỉnh Kiên Giang, Việt Nam NXB Tp Hồ Chí Minh

23 Stuart, BL, Hayes, B., Bùi Hữu Mạnh và Platt, (2002) Tình trạng cá sấu ở U

Minh Thường bảo tồn thiên nhiên, miền Nam Việt Nam NXB trẻ Tp Hồ Chí

24 Nguyễn Xuân Thành (2004), Nghiên cứu tái sinh tự nhiên của rừng Tràm sau khi rừng bị cháy ở U Minh Thượng, Kiên Giang Luận văn Thạc sĩ Lâm nghiệp; Thư viện Trường Đại Học Nông Lâm TP Hồ Chí Minh

25 Võ Nguơn Thảo (2003), Nghiên cứu sinh trưởng loài cây Tràm (Melaleuca cajuputi) trên 3 dạng lập địa chính và đề xuất qui trình trồng và kinh doanh rừng Tràm ở Cà Mau Trung tâm sinh thái và ứng dụng rừng ngập Minh Hải

Cà Mau, Phân Viện khoa học lâm nghiệp phía Nam

26 Thompson J.R Báo cáo phân tích thuỷ văn năm 1(2000), Tổ chức CARE Quốc tế tại Việt Nam và Ban quản lý khu bảo tồn thiên nhiên U Minh Thượng NXB Tp Hồ Chí Minh

27 Phạm Tro ̣ng Thi ̣nh (2003), Dự án đầu tư khôi phục, bảo vê ̣ và phát triển vườn quốc Gia U Minh Thượng Giai đoạn 2003-2010, Phân viện điều tra quy hoạch rừng II Tp Hồ Chí Minh

28 Trần Triết (2000), Tuyến quan trắc thực vật KBTTN U Minh Thượng Báo cáo tại hội thảo về đa dạng sinh học tại KBTTN U Minh Thượng, Tp Hồ Chí Minh

Ngày đăng: 09/04/2022, 21:06

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
2. Buckton, ST, Nguyễn Cừ, Hà Quý Quỳnh và Nguyễn Đức Tú (1999), Việc bảo tồn các vùng đất ngập nước quan trọng ở đồng bằng sông Cửu Long, Chương trình BirdLife Quốc tế Việt Nam, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Việc bảo tồn các vùng đất ngập nước quan trọng ở đồng bằng sông Cửu Long
Tác giả: Buckton, ST, Nguyễn Cừ, Hà Quý Quỳnh và Nguyễn Đức Tú
Năm: 1999
3. CARE (2002), Phục hồi và bảo tồn vườn quốc gia U Minh Thượng -Phát triển chiến lược quản lý nước lồng ghép. Báo cáo tại hội thảo khoa học “ Khôi phục, xây dựng và bảo vệ vườn quốc gia U Minh Thượng sau cháy rừng tháng 3-4 /2002.TP. HCM Sách, tạp chí
Tiêu đề: Phục hồi và bảo tồn vườn quốc gia U Minh Thượng -Phát triển chiến lược quản lý nước lồng ghép
Tác giả: CARE
Năm: 2002
4. Hoàng Chương (2004), Khôi phục rừng sau cháy tại Cà Mau, Sổ tay hướng dẫn kỹ thuật trồng Tràm, Dự án hợp tác kỹ thuật Việt Nam – Nhật Bản Sách, tạp chí
Tiêu đề: Khôi phục rừng sau cháy tại Cà Mau
Tác giả: Hoàng Chương
Năm: 2004
5. Nguyễn Văn Đệ (2002), Khảo sát môi trường đất than bùn Vườn Quốc gia U Minh Thượng, báo cáo chuyên đề. Trang 27 - 36 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Khảo sát môi trường đất than bùn Vườn Quốc gia U Minh Thượng
Tác giả: Nguyễn Văn Đệ
Năm: 2002
6. Nguyễn Văn Đê ̣ (2002), Kê ́t quả khảo sát và đánh giá bước đầu về hiê ̣n trạng môi trường đất ở vuờn quốc gia U Minh Thượng, Phân viê ̣n Đi ̣a lý-Trung tâm khoa ho ̣c tự nhiên và công nghê ̣ quốc gia, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Kết quả khảo sát và đánh giá bước đầu về hiê ̣n trạng môi trường đất ở vuờn quốc gia U Minh Thượng
Tác giả: Nguyễn Văn Đê ̣
Năm: 2002
7. Nguyễn Phúc Bảo Hòa (2000). Báo cáo chim chương trình giám sát đa dạng sinh học khu bảo tồn thiên nhiên U Minh Thượng tỉnh Kiên Giang, Đại học quốc gia TP Hồ Chí Minh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Báo cáo chim chương trình giám sát đa dạng sinh học khu bảo tồn thiên nhiên U Minh Thượng tỉnh Kiên Giang
Tác giả: Nguyễn Phúc Bảo Hòa
Năm: 2000
11. Nguyễn Văn Khiết (2002), Thiết lập bản đồ địa hình Vườn Quốc gia U Minh Thượng, NXB tổng hợp Tp Hồ Chí Minh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thiết lập bản đồ địa hình Vườn Quốc gia U Minh Thượng
Tác giả: Nguyễn Văn Khiết
Nhà XB: NXB tổng hợp Tp Hồ Chí Minh
Năm: 2002
12. Nguyễn Văn Khoái, Brett Shields (2002), Kế hoạch phòng chống cháy rừng Vườn Quốc Gia U Minh Thượng, Việt Nam. Tổ chức CARE Quốc tế taị Việt Nam và Ban quản Lý Khu Bảo Tồn Thiên Nhiên U Minh Thượng Sách, tạp chí
Tiêu đề: Kế hoạch phòng chống cháy rừng Vườn Quốc Gia U Minh Thượng, Việt Nam
Tác giả: Nguyễn Văn Khoái, Brett Shields
Năm: 2002
14. Lâm Bỉnh Lợi & Nguyễn Văn Thôn (1972), Rừng Ngập Nước Việt Nam, Sở Lâm Học, Viện Khảo cứu nông nghiệp, Bộ cải cách điền địa và Phát triển Nông – Ngư – Mục, NXB Tp Hồ Chí Minh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Rừng Ngập Nước Việt Nam
Tác giả: Lâm Bỉnh Lợi & Nguyễn Văn Thôn
Nhà XB: NXB Tp Hồ Chí Minh
Năm: 1972
15. Phu ̀ ng Trung Ngân và Dương Tiến Dũng (1985), Nhân tố lửa rừng trong diễn thê ́ thứ sinh của hê ̣ sinh thái rừng Tràm U Minh . Ba ́o cáo khoa ho ̣c Đa ̣i ho ̣c Tổng hơ ̣p TP.HCM Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nhân tố lửa rừng trong diễn thế thứ sinh của hê ̣ sinh thái rừng Tràm U Minh
Tác giả: Phu ̀ ng Trung Ngân và Dương Tiến Dũng
Năm: 1985
16. Phu ̀ ng Trung Ngân và cộng tác viên (1987), Rư ̀ ng ngập nước ở Viê ̣t Nam . Nha ̀Xuất Bản Giáo Du ̣c, Hà Nô ̣i Sách, tạp chí
Tiêu đề: Rừ ng ngập nước ở Viê ̣t Nam
Tác giả: Phu ̀ ng Trung Ngân và cộng tác viên
Năm: 1987
17. Lê Hồng Phúc (1995), Nghiên cứu sinh khối rừng thông ba lá (Pinus kesiya) ở Đà Lạt - Lâm Đồng. Tạp chí lâm nghiệp, số 9, trang 17-20 Sách, tạp chí
Tiêu đề: (Pinus kesiya) ở "Đà Lạt - Lâm Đồng. "Tạp chí lâm nghiệp
Tác giả: Lê Hồng Phúc
Năm: 1995
18. Lê Hồng Phúc (1997), Nghiên cứu sinh trưởng, tăng trưởng, sinh khối rừng trồng thông ba lá khu vực Đà Lạt, Lâm Đồng, Luận văn Tiến sĩ Khoa học Nông nghiệp. Viện Khoa Học Lâm Nghiệp Việt Nam Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghiên cứu sinh trưởng, tăng trưởng, sinh khối rừng trồng thông ba lá khu vực Đà Lạt, Lâm Đồng
Tác giả: Lê Hồng Phúc
Năm: 1997
19. Hồ Văn Phúc (1999). Ảnh hưởng của độ ngập nước đến sức sản xuất và khả năng xảy ra cháy rừng đối với rừng Tràm vùng U Minh Thượng tỉnh Kiên Giang. Phân viện Điều tra Quy hoạch Rừng II, Tp Hồ Chí Minh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Ảnh hưởng của độ ngập nước đến sức sản xuất và khả năng xảy ra cháy rừng đối với rừng Tràm vùng U Minh Thượng tỉnh Kiên Giang
Tác giả: Hồ Văn Phúc
Năm: 1999
20. Phân viê ̣n Quy hoa ̣ch và Khảo sát Thủy Lợi Nam Bô ̣ (2002), Hiê ̣n trạng thủy văn, những quan điểm và nguyên tắc khôi phuc, xây dựng và bảo vê ̣ vuờn quốc gia U Minh Thượng sau trận cháy rừng , NXB Tp Hồ Chia Minh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hiện trạng thủy văn, những quan điểm và nguyên tắc khôi phuc, xây dựng và bảo vê ̣ vuờn quốc gia U Minh Thượng sau trận cháy rừng
Tác giả: Phân viê ̣n Quy hoa ̣ch và Khảo sát Thủy Lợi Nam Bô ̣
Nhà XB: NXB Tp Hồ Chia Minh
Năm: 2002
21. Lê Phát Quối (2009), Báo cáo thảm thực vật VQG U Minh Thượng, Viện Môi trường và Tài Nguyên, Đại học Quốc gia TP.HCM Sách, tạp chí
Tiêu đề: Báo cáo thảm thực vật VQG U Minh Thượng
Tác giả: Lê Phát Quối
Năm: 2009
23. Stuart, BL, Hayes, B., Bùi Hữu Mạnh và Platt, (2002) Tình trạng cá sấu ở U Minh Thường bảo tồn thiên nhiên, miền Nam Việt Nam. NXB trẻ Tp Hồ Chí Minh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tình trạng cá sấu ở U Minh Thường bảo tồn thiên nhiên, miền Nam Việt Nam
Nhà XB: NXB trẻ Tp Hồ Chí Minh
24. Nguyễn Xuân Thành (2004), Nghiên cứu tái sinh tự nhiên của rừng Tràm sau khi rừng bị cháy ở U Minh Thượng, Kiên Giang. Luận văn Thạc sĩ Lâm nghiệp; Thư viện Trường Đại Học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghiên cứu tái sinh tự nhiên của rừng Tràm sau khi rừng bị cháy ở U Minh Thượng, Kiên Giang
Tác giả: Nguyễn Xuân Thành
Năm: 2004
25. Võ Nguơn Thảo (2003), Nghiên cứu sinh trưởng loài cây Tràm (Melaleuca cajuputi) trên 3 dạng lập địa chính và đề xuất qui trình trồng và kinh doanh rừng Tràm ở Cà Mau. Trung tâm sinh thái và ứng dụng rừng ngập Minh Hải Cà Mau, Phân Viện khoa học lâm nghiệp phía Nam Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghiên cứu sinh trưởng loài cây Tràm (Melaleuca cajuputi) trên 3 dạng lập địa chính và đề xuất qui trình trồng và kinh doanh rừng Tràm ở Cà Mau
Tác giả: Võ Nguơn Thảo
Năm: 2003
27. Pha ̣m Tro ̣ng Thi ̣nh (2003), Dư ̣ án đầu tư khôi phục, bảo vê ̣ và phát triển vườn quô ́c Gia U Minh Thượng Giai đoạn 2003-2010, Phân viện điều tra quy hoạch rừng II Tp Hồ Chí Minh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Dự án đầu tư khôi phục, bảo vê ̣ và phát triển vườn quốc Gia U Minh Thượng Giai đoạn 2003-2010
Tác giả: Pha ̣m Tro ̣ng Thi ̣nh
Năm: 2003

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w