Pháp Tu Tây Tạng Dành Cho Phật Tử Nhập Môn 1 SÁCH N T NG – KHÔNG BÁN In theo b n n t ng i n t 02/2007 T Sách Ph t Giáo Tây T ng www batnha org © 1993 His Holiness the Dalai Lama Vietnamese translation[.]
Thái ÿӝ và Hành ÿӝng
Ðһc ÿiӇm Phұt giáo Tây tҥng
Thông thường có hai lãi giảng Phật pháp Thứ nhất là dành cho tín đồ: trong trường hợp này, tín đồ bày tỏ lòng thiết tha với giáo pháp, lòng tôn kính với thầy, và có khi phải sám hối và cúng dường nội tâm và ngoại vật trước khi nhận pháp Thứ hai là bậc nói với bậc, giữa người giảng và người nghe không có quan hệ thầy trò, vì vậy không cần câu nệ hình thức.
Chúng ta sẽ bàn về cách giao tiếp giữa người với người, không dựa trên bất kỳ cuốn kinh nào Tôi muốn chia sẻ về tinh yếu của Phật pháp Nếu có điều gì thắc mắc, xin quý vị cứ tự nhiên hỏi.
Để hiểu rõ về Phật giáo Tây Tạng, cần có khái niệm chính xác về triết lý của nó Phật giáo Tây Tạng không chỉ đơn thuần là giáo pháp mà còn là một truyền thống sống động và sâu sắc Dù có nguồn gốc nhỏ bé, nhưng triết lý Tây Tạng mang lại nhiều giá trị và ý nghĩa to lớn Hiện nay, truyền thống Phật giáo Tây Tạng vẫn giữ vai trò quan trọng trong việc duy trì những giá trị chân thực và sâu sắc của nó.
Mặc dù nhấn mạnh rằng cuộc trò chuyện này không mang tính hình thức, nhưng vì tôi là một sa môn, trước khi bắt đầu, tôi xin xác nhận tán dương Đức Phật Cồ Đàm.
Là b̵c th̯y t͙i cao Ðã d̩y lý duyên khͧi
Không di t cNJng không sinh
Khôngÿo̩n cNJng không th˱ͥng
Phật giáo có hai tông phái chính là thiền tông và tiểu thừa Thiền tông tập trung vào việc phát triển tâm linh cho cá nhân, trong khi tiểu thừa chú trọng đến việc giảng dạy cho cộng đồng Thiền tông sử dụng nhiều phương pháp chuyển hóa tâm, bao gồm thiền định và các kỹ thuật vận động khí Phật giáo đã truyền bá sang Tây Tạng qua nhiều thế kỷ, mang theo ba lớp giáo pháp: tiểu thừa, thiền tông và mật tông, kết hợp thành một hệ thống tu tập thống nhất.
Lý do tôi theo đuổi con đường tâm linh là vì tôi tin vào giáo pháp và những nguyên tắc mà nó mang lại Hàng ngày, tôi cố gắng sống theo những giáo lý này, nhằm phát triển bản thân và trở thành một người tốt hơn.
Phұt giáo Tây tҥng, tӹ kheo thӑ 253 giӟi, phҧi nghiêm giӳ
253 giӟi này Thêm vào ÿó, mӛi ngày tôi ÿӅu ngӗi thiӅn chӍ
(shamatha, zhi gnas) và thiӅn quán (vipashyana, lhag mthong) theo pháp tu tiӇu thӯa.
Tuy vững vàng, công phu chính của tôi liên quan đến việc thực hành dựa trên nền tảng của từ bi (karuna, snying rje) và tình thương (maitri, byams pa) Qua đó, tôi phát triển tâm giác ngộ (bodhicitta, byangchub sems) và thực hành sáu hạnh toàn hảo, bao gồm Thí.
Giới thiệu về các yếu tố như Giới, Nhân, Tâm, Định và Tu, đây là những phần cốt lõi trong giáo lý Phật giáo Ngoài ra, tôi còn thực hành phương pháp quán tưởng Hệ Phật Du Già, một phương pháp hành trì thuộc giáo pháp của tông phái này.
Phật giáo Tây Tạng là sự kết hợp của ba hệ thống giáo pháp, thể hiện sự phong phú và sâu sắc trong phương pháp tu học Giáo pháp của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni bao gồm hai phương diện chính: hành trì và quan niệm, tạo nên một nền tảng vững chắc cho việc thực hành tâm linh.
Theo triết lý Phật giáo, cái gốc của "quan niệm" là tinh thần bất bạo động, tức là tâm bất hại (ahimsa) Tâm bất hại có nghĩa là không gây hại và luôn mang lại lợi ích cho người khác Hầu hết các tôn giáo lớn đều nhấn mạnh tinh thần bất bạo này, khuyến khích con người phải có trái tim nhân ái, nuôi dưỡng tâm tính tốt lành Mục tiêu của các tôn giáo lớn là giảng dạy về điều này, hướng tới bình an cho nhân loại.
Mỗi tôn giáo đều có một hệ thống triết lý riêng, và con người cần tự đánh giá khả năng khuynh hướng của bản thân để chọn lựa triết lý phù hợp Dù có nhiều hệ thống triết lý khác nhau, mục tiêu chính của tôn giáo vẫn là giúp con người phát triển tâm hồn và trái tim Mặc dù tồn tại nhiều quan điểm khác nhau, mục tiêu chung vẫn là nâng cao trí tuệ và tình nhân ái trong cuộc sống.
Hãy xem xét hai hệ thống triết lý hữu thần và vô thần Nhiều tôn giáo công nhận sự tồn tại của một đấng sáng tạo, trong khi một số khác cho rằng vũ trụ và con người chỉ là sản phẩm ngẫu nhiên Theo quan điểm của đấng sáng tạo, hạnh phúc và bình an là điều quan trọng nhất trong cuộc sống.
Cá nhân mỗi người không có gì đáng nói, nhưng ý tưởng sáng tạo mới thật quan trọng Mọi sự phát triển đều do ý tưởng sáng tạo mang lại, vì vậy cá nhân không nên đi ngược lại ý tưởng sáng tạo Nói như vậy, nhiều người thấy hợp lý, sống thuận theo đó, nhằm tìm kiếm sự cân bằng trong đời sống tinh thần và vật chất.
Lòng hoài nghi thường khiến con người cảm thấy mâu thuẫn giữa bản thân và cuộc sống Khi nhận ra rằng hạnh phúc không nằm trong tay người khác mà chính là do mình tạo ra, họ có thể tìm thấy sự cân bằng trong tâm hồn và cuộc sống.
Phật giáo nhấn mạnh tầm quan trọng của con người trong việc tạo dựng hạnh phúc và cuộc sống của chính mình Mặc dù có quan điểm cho rằng con người đi ngược lại với ý nghĩa của Phật giáo, nhưng thực tế lại không phải như vậy Phật giáo dạy rằng hạnh phúc không phải là điều ngẫu nhiên mà có được, mà nó xuất phát từ những hành động và nhân quả mà mỗi người tạo ra Do đó, con người hoàn toàn có khả năng kiểm soát vận mệnh của mình thông qua những lựa chọn và quyết định đúng đắn.
Thұt tánh cӫa Tâm
Kinh sách Phật giáo khẳng định rằng để xác định sự thật của một sự vật, cần xem xét xem sự vật đó có phải là đại diện cho nhận thức đúng đắn hay không Sự thật chỉ được công nhận khi nó phù hợp với nhận thức chính xác của con người; nếu không, nó sẽ không được coi là sự thật.
Hiện tượng có thể chia thành hai loại: thứ nhất là hiện tượng xảy ra có lúc có, lúc không; thứ hai là hiện tượng luôn luôn tồn tại trong không gian.
Hiện tượng duyên sinh là hiện tượng có sự kết hợp của các yếu tố, trong đó giai là hữu vi Ngược lại, hiện tượng không duyên sinh không phụ thuộc vào nhân duyên kết hợp, mà luôn hiện diện và giai là vô vi.
Hiện tượng hữu vi có rất nhiều loại, bao gồm cả hữu hình và vô hình Loại hữu hình có hình dạng và màu sắc, được gọi là sắc pháp trong Phật giáo Trong khi đó, loại vô hình không có hình dạng rõ ràng, như tâm thức hay kiến thức, mà chỉ tồn tại qua các yếu tố kết hợp Ngoài ra, còn có những khái niệm hoàn toàn trừu tượng như thời gian và cái tôi Do đó, hiện tượng hữu vi có thể là sắc, là thực, hoặc không phải sắc và không phải thực, mà chủ yếu là khái niệm trừu tượng.
Sҳc là tҩt cҧ nhӳng gì có thӇ nhұn thӭc bҵng giác quan, nhѭ hình sҳc do nhãn thӭc nhұn biӃt, âm thanh do nhƭ thӭc nhұn biӃt, v.v
Thức được chia thành hai loại: tâm vững và tâm s Tâm vững là loại thức trực tiếp liên quan đến giác quan, trong khi tâm s phản ánh các trạng thái tâm lý phụ thuộc vào tâm vững mà không cần đến giác quan Tâm vững lại được phân thành hai loại: một là tâm thức thuộc phạm vi ngũ căn, hai là tâm thức thuộc phạm vi của ý.
Tâm sinh có năm mươi mốt mặt thị Năm thị này có mặt khắp nơi, gắn liền với tâm sinh hành, bao gồm lãnh đạo, tương liên, lo lắng, tác ý, và xúc giao tiếp Gắn kết với nhau, năm tâm này luôn đi kèm với tâm vững Bên cạnh sáu tâm sinh còn lại, năm tâm sinh này thể hiện tình cảm, mỗi tâm sinh đều có vai trò riêng, bao gồm sáu căn bản phiền não, hai mươi phiền não, và bản tính tâm sinh.
Tâm vương là một khái niệm quan trọng trong triết lý, liên quan đến các yếu tố như căn, tiền, và thức, được gọi là ba duyên Sách vở đóng vai trò như là nguồn gốc của nhãn thức, tuy nhiên, không phải mọi cuốn sách đều được thảo luận một cách đầy đủ Theo tông phái Tì bà sa [Vaibhashika], tâm thức có thể phát sinh mà không cần đến căn Trong khi đó, Tì Đạt Ma Câu Xá 2 giải thích rằng nhãn căn chỉ nhận biết, không phải là nhãn thức Các tông phái khác như Kinh lượng [Sautrantika] cho rằng nhãn thức phụ thuộc vào nhãn căn Có nhiều quan điểm khác nhau về mối quan hệ giữa nhãn căn và tâm thức, và tôi xin trình bày rằng nhãn căn nằm ngoài tâm thức.
Nhӡ có cuӕn sách trѭӟc mһt nên ta mӟi thҩy cuӕn sách
Về cơ bản, nhãn thức là một trong những yếu tố quan trọng hình thành nên nhận thức của con người Yếu tố này còn được gọi là duyên 3 Ngoài ra, nhãn thức giúp con người nhận biết hình sắc, nhưng không thể nhận biết âm thanh Do đó, nhãn thức đóng vai trò thiết yếu trong quá trình nhận thức.
1 Ðӑc thêm vӅ tâm vѭѫng, tâm sӣ: HT Thích ThiӋn Hoa, Ph ̵ t H ͕ c Ph ͝
Thông, Khóa 9, t ұ p 1, bài 3-9 Ҩ n b ҧ n ÿ i Ӌ n t ӱ t ҥ i: http://www.thuvienhoa sen.org/phathocphothong-09.htm
2 Treasury of Manifest Knowledge, Ph ҥ n: abhidharmakosa D ӏ ch ngh ƭ a, Th ̷ ng pháp lu ̵ n.
Ba điều kiện để hình thành nhận thức bao gồm: tăng thượng duyên, duyên sinh và vô gián duyên Tăng thượng duyên là yếu tố chính tạo ra nhận thức, trong khi duyên sinh và tăng thượng duyên cũng góp phần quan trọng Khi có sự chú ý và tâm trạng phù hợp, nhận thức sẽ hình thành, nhưng nếu não không hoạt động bình thường, nhận thức vẫn không thể phát sinh Não là yếu tố quan trọng thứ hai trong quá trình này, và bên cạnh đó, ý thức cũng đóng vai trò không kém trong việc hình thành kinh nghiệm nhận thức Năm loại tâm thức liên quan đến giác quan không nằm trong khái niệm cụ thể, ví dụ như khi nhìn một cuốn sách, sự chú ý có thể tập trung vào một phần nhất định Ngoài ra, sự thu hút từ hình ảnh có thể làm giảm khả năng ghi nhận âm thanh, và khi tập trung vào âm nhạc, mắt có thể không nhận thấy điều gì khác Điều này cho thấy rằng ngoài tâm thức, còn có yếu tố tác động khác, đó chính là ý thức, được chia thành hai loại.
3 mental consciousness có khái ni m 1 và ý thͱc v˱ͫt khái ni m 2 Ý thӭc vѭӧt khái niӋm còn gӑi là trӵc chӭng.
Có nhiều ý kiến khác nhau giữa các tông phái về việc có hay không có loại kinh nghiệm trực chứng để tự cải thiện bản thân Tuy nhiên, hầu hết các tông phái đều đồng ý rằng kinh nghiệm trực chứng có ba loại: trực chứng nhờ giác quan, nhờ tâm thức và nhờ thiền định Loại thứ ba thường xảy ra trong quá trình tham thiền.
Sáu tâm vương - tâm nhãn thức cho ý thức - luôn luôn đi liền với năm loại tâm sinh có mặt cùng khắp Các loại tâm sinh khác không phải lúc nào cũng có mặt Do có nhiều chức năng khác nhau, tâm sinh được chia thành hai loại: một là nhân thức đúng, hai là nhân thức sai.
Muӕn ÿҥt thành tӵu trên ÿѭӡng tu, chúng ta cҫn dӵa vào loҥi nhұn thӭc ÿúng ÿҳn Nhұn thӭc ÿúng ÿҳn ÿѭa ÿӃn hai kӃt quҧ,k͇t qu̫ không gián ÿo̩nvà k͇t qu̫ có gián ÿo̩n 5
Còn nhұn thӭc sai lӋch có ba loҥi Mӝt là không bi͇t ÿ͙i c̫nh, hai là bi͇t sai ÿ͙i c̫nh, ba là nghi ho̿c ÿ͙i c̫nh.
Không biết về địa chính có nghĩa là tâm thức tuy giao tiếp với địa chính nhưng không biết, không ghi nhận Biết sai địa chính có nghĩa là tâm thức tuy biết địa chính, nhưng biết một cách sai lệch, méo mó Nghi học địa chính có ba loại.
Có năm loại kết quả: thứ nhất là kết quả sai do nghi hoạc sai, thứ hai là kết quả đúng nhưng lại dẫn đến sai lầm, thứ ba là kết quả nghi hoạc cả hai bên Nhận thức sai lệch có nhiều mức độ khác nhau Để chuyển đổi nhận thức sai lệch thành nhận thức đúng đắn, cần trải qua nhiều chứng ngại và quá trình chuyển hóa tâm thức.
Bước đầu tiên của con đường chuyển hóa tâm thức là phải dừng lại và chụp lấy khoảnh khắc Chúng ta thường bám chặt vào những nhận thức sai lầm Có nhiều phương pháp giúp chúng ta suy nghĩ và phân tích vấn đề sâu hơn, từ đó bắt đầu nghi hoặc về những điều mà mình thường làm tin tưởng Tâm nghi hoặc sẽ ngày càng gia tăng Nếu chúng ta tiếp tục duy trì phân tích và thực tiễn, dần dần nghi hoặc sẽ dẫn đến hiểu biết chính xác và phát triển Tâm thức sẽ dần quen với chân tướng của thực tại, và đến một lúc nào đó sẽ vượt thoát khỏi khái niệm, có được kinh nghiệm trực tiếp.
Trí tuӋ có thӇ ÿӃm thành ba loҥi, trí tu ÿ͇n tͳ s nghe
[văn tuӋ],trí tu ÿ͇n tͳ s hi͋u [tѭ tuӋ],trí tu ÿ͇n tͳ s tu
Tâm thức được phân thành nhiều loại khác nhau, và việc hiểu rõ về tâm thức là rất quan trọng Đầu tiên, cần nhận biết và xác định các loại tâm thức, sau đó tìm hiểu cách mà tâm thức nhận biết các trạng thái khác nhau Cuối cùng, cần nắm vững mối quan hệ giữa tâm thức và các trạng thái nhận thức.
Hӓi ÿáp
Có nhiều phương pháp khác nhau để giải quyết vấn đề Bạn có thể tham khảo một vài kinh nghiệm phổ biến hoặc tìm hiểu những gợi ý từ người khác để từ đó tìm ra phương pháp phù hợp nhất với mình.
Các tôn giáo đều có những điểm chung giúp cải thiện cuộc sống con người, tạo nên sự tốt đẹp hơn Tuy nhiên, bên cạnh những điểm tương đồng này, mỗi tôn giáo cũng mang đến triết lý và phương pháp hành trì riêng biệt Ví dụ, Thiên Chúa giáo tin rằng con người có thể lên thiên đàng, trong khi Phật giáo lại nhấn mạnh việc đạt được niết bàn để giải thoát khỏi khổ đau.
Trong Phật giáo, niết bàn mang nhiều ý nghĩa khác nhau Tì bà sa cho rằng niết bàn là trạng thái mà các giác quan ngừng hoạt động khi rời bỏ thế giới, không chỉ là sự tách rời khỏi những ô nhiễm của tâm trí mà còn là sự tách biệt khỏi tâm thức Tông phái này khẳng định rằng tâm không thường trụ Do đó, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni được coi là nhân vật lịch sử không còn hiện hữu nữa.
Ngài Long Thӑ ngѭӧc lҥi khҷngÿӏnh niӃt bàn giҧi thoát là trạng huӕng tách lìa phiӅn não ô nhiễm Như vậy, niӃt bàn giҧi thoát không chỉ đơn thuần là sự thoát khỏi tâm thức, mà còn cần có sự hiện diện của một người thành tâm niӃt bàn Đây là điều ngài muốn nhấn mạnh.
Trong triết lý công nhân, có nhiều kiến giải khác nhau, tương tự như trong Phật giáo với sự đa dạng giữa các tông phái Hiện nay, nếu người theo Thiên Chúa giáo thực hành mà không biết đến các phương pháp tu tập nào trong đạo, điều này có thể ảnh hưởng đến sự hiểu biết và thực hành của họ về niết bàn.
Phұt giáo hay không, câu trҧ lӡi khҷng ÿӏnh là không
Từ góc độ Phật giáo, không có pháp tu nào có thể dẫn đến thiên đàng của Thiên Chúa giáo Trong bối cảnh của Phật giáo, việc tu tập cần phải được thực hiện theo những phương pháp riêng biệt, phù hợp với giáo lý và thực hành của hệ thống này.
Phұt giáo Còn nӃu trong lòng không thҩy hӭng thú vӟi pháp tu Phұt giáo thì nên tìm cho mình mӝt tôn giáo khác thích hӧp hѫn.
Hӓi Trong Phật giáo, lý trí đóng vai trò quan trọng Tuy nhiên, có thể có những trường hợp mà chúng ta mang khuynh hướng xem thường những kinh nghiệm phi thường, và cho rằng đó là điều phi lý không đáng quan tâm Đáp lại, kinh nghiệm trực chứng khi nhấp ảnh là một chuyện có thật Những kinh nghiệm này không phải ai cũng có, nên cần phân tích và không nên chỉ dựa vào suy luận mà bỏ qua những điều này.
Có một số kinh nghiệm cần dựa vào từng tâm thức thô lậu, mà có thể nhận biết, nhưng cũng có một số kinh nghiệm cần vận dụng những tâm thức vi tế hơn để có thể nhận biết rõ ràng hơn Ví dụ, tâm thức trong trạng thái ngũ luôn vi tế hơn tâm thức khi tỉnh, do đó lúc ngũ có thể có những kinh nghiệm mà khi tỉnh không thể có được.
Tâm thức đóng vai trò quan trọng trong việc hiểu và cảm nhận các sự kiện trong cuộc sống Khi tâm trí được thanh tịnh, chúng ta có khả năng nhận biết sâu sắc và rõ ràng hơn về bản thân và thế giới xung quanh Lý luận cho thấy rằng việc suy nghĩ chín chắn giúp chúng ta có cái nhìn đa chiều và hiểu biết sâu sắc hơn về những trải nghiệm khác nhau, từ đó nhận diện được những phương pháp và kinh nghiệm quý giá trong cuộc sống.
Hӓi, nếu bạn muốn tìm hiểu về giấc mơ, điều quan trọng là không chỉ chú ý đến giấc mơ thông thường mà còn đến những giấc mơ đặc biệt, như giấc mơ lặp lại nhiều lần Giấc mơ có ý nghĩa sâu sắc thường xảy ra khi bạn đang ngủ sâu Nếu bạn thực sự quan tâm đến việc khám phá ý nghĩa của giấc mơ, bạn cần có những bước đi đúng hướng để điều chỉnh tâm lý, giúp bạn hiểu rõ hơn về giấc mơ của mình Điều này không chỉ đơn thuần là phân tích mà còn liên quan đến việc nhận thức và tìm hiểu sâu về bản thân.
Trung Quán, tông phái cao nhҩt trong Phұt giáo, thì mӑi kinh nghiӋm tâm thӭc khi thӭc giҩc ÿӅu là hѭ vӑng cҧ.
Ngay khi tӍnhÿã hѭ vӑng, huӕng gì khi mѫ.
Hӓi.Vұy mѫ có thể là hѭ vӑng, và để phân biệt giữa hѭ vӑng và chân thұt, cần hiểu rõ khái niệm Khi nói đến nhận thức theo Chân ÿӃ, chúng ta đang đề cập đến chân lý rõ ràng Ngược lại, khi nói theo TөcÿӃ, chúng ta nhận thức theo cách qui ước, có thể dẫn đến sự khác biệt trong cách hiểu và đánh giá.
Nhận thức có hai hình thức: học trực tiếp và học gián tiếp Trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta thường sử dụng hình thức nhận thức gián tiếp để so sánh bản thân với người khác Nếu việc so sánh này khiến bạn cảm thấy nghi ngờ về giá trị của mình, thì cũng không cần phải quá lo lắng.
Cӭ nhӟ nghƭ vӅ nghiӋp, vӅ cҧnh sӕng luân hӗi vӕn là khә não,ÿӇ giӳ bình tƭnh Rӗi tiӃp tөc phân tích tìm hiӇu.
Hӓi.Làm sao phân biệt được khi nào tâm đang hѭ vӑng và khi nào không? Để hiểu rõ, cần phải xem xét hai khía cạnh: thứ nhất là khía cạnh đúng đắn trong phạm vi thực tại, thứ hai là khía cạnh đúng đắn trong phạm vi xuất thế Việc nhận biết này giúp chúng ta có cái nhìn sâu sắc hơn về tình trạng tâm lý của mình và đưa ra những giải pháp phù hợp.
Cái nhìn đúng đắn về thực phẩm và sự vật là nhận chân tánh Không Sự vật chỉ là hiện tượng có tính chất, nhưng chúng ta thường nhầm lẫn rằng chúng có tánh Sự nhầm lẫn này khiến chúng ta tin chắc rằng sự vật có tánh chất riêng Để nhận ra sự nhầm lẫn này, trước hết phải hiểu rằng sự vật không phải như chúng ta thấy, mà hoàn toàn không phải là hiện tượng có tánh Khi nhận được chân tánh của sự vật, chúng ta sẽ thấy rõ nhận thức của mình và sự vật chỉ là nhận thức sai lầm.
Khi phiền não dấy lên trong tâm, như lúc cảm thấy ghét, chúng ta thường nhận thấy cảm xúc của lòng thương hay ghét đó là một trạng thái tạm thời, không thật Nếu hiểu rõ bản chất của phiền não thì sẽ nhận ra rằng lòng thương ghét sẽ dần giảm đi Trong giai đoạn này, chúng ta cần quán tánh Không.
Thӵc chҩt ÿѭӡng tu
Nhӏ ÿӃ
Giҧi thích vӅ thӃ giӟi hiӋn tѭӧng rӗi, bây giӡ tôi xin giҧi thích vӅ các giai ÿoҥn tu chӭng.
Mọi người đều khao khát hạnh phúc và tránh xa đau khổ Phật giáo khẳng định rằng mỗi cá nhân đều có quyền thực hiện hai mục tiêu này trong cuộc sống Hạnh phúc và đau khổ có nhiều dạng, nhưng có thể phân loại thành hai loại chính: thể xác và tinh thần Kinh nghiệm tinh thần thường được coi trọng hơn kinh nghiệm thể xác.
Phұt dҥy có nhiӅu cách diӋt bӓ khә ÿau tinh thҫn, thành tӵu an lҥc Phѭѫng pháp diӋt khә ÿѭӧc Phұt nói trong DiӋt ÿӃ, là chân lý thӭ ba cӫa Tӭ DiӋu ÐӃ.
DiӋt ÿӃ là chân lý vӅ sӵ tұn diӋt cӫa khә ÿau, còn ÿѭӧc gӑi là giҧi thoát, là niӃt bàn Ðây là trҥng thái tâm thӭc hoàn toàn tách lìa mӑi hѭ vӑng phiӅn não.
Tâm vӕn có khҧ năng tách lìa hѭ vӑng phiӅn não Muӕn hiӇu ÿѭӧc ÿiӅu này, cҫn hiӇu vӅ hai chân lý là Chân ÿ͇ và
Tͭcÿ͇, nói cách khác, là chân lý rӕt ráo và chân lý qui ѭӟc
(khác vӟi Tӭ DiӋu ÐӃ) Tôi sӁ giҧi thích dѭӟi ÿây vӅ Chân ÿӃ và TөcÿӃ dӵa theo quan ÿiӇm cӫa tông phái Trung quán
Phұt giáo có bӕn tông phái: hai tông phái tiӇu thӯa là Tì bà sa luұn bӝ và Kinh lѭӧng bӝ; hai tông phái ÿҥi thӯa là
Duy thức và Trung quán là hai tông phái Phật giáo có nguồn gốc từ giáo huấn của Đức Phật Mặc dù chúng có nhiều điểm khác biệt, nhưng cả hai tông phái đều dựa trên những nguyên lý cốt lõi của giáo lý Phật giáo Duy thức tập trung vào nhận thức và tâm thức, trong khi Trung quán nhấn mạnh vào tính không và sự trung dung trong mọi hiện tượng.
Làm sao có thӇ biӃt kiӃn giҧi nào ÿúng hѫn? Chính ÿӭc
Phұt có ÿӅ nghӏ mӝt phѭѫng pháp tiӃp cұn nhѭ sau:
Kính gửi các bậc hiền triết, xin hãy lắng nghe lời Thánh Tôn: hãy phân tích và suy ngẫm về giá trị của kim hoàn và vàng, từ đó nhận thức rõ ràng hơn về ý nghĩa mà Thánh Tôn muốn truyền đạt.
Trong Phật giáo, có những nguyên tắc quan trọng về việc thực hành giáo pháp Đầu tiên, cần dựa vào giáo pháp chứ không phải vào cá nhân người truyền đạt Thứ hai, phải hiểu ý nghĩa chứ không chỉ đơn thuần là ngôn từ Thứ ba, cần nắm bắt ý nghĩa sâu sắc chứ không chỉ dừng lại ở những giải thích đơn giản Cuối cùng, việc thực hành cần dựa trên kinh nghiệm thực tiễn chứ không chỉ là kiến thức lý thuyết Do đó, Phật khuyến khích người học phân tích và áp dụng giáo lý một cách khôn ngoan, sử dụng trí tuệ để đánh giá và chọn lọc những quan điểm chính xác.
Hai tông phái ÿҥi thӯa, bao gồm Duy thӭc và Trung quán, nhấn mạnh tánh Không của sự vật, tức pháp vô ngã Ngược lại, hai tông phái tiӇu thӯa, là Tì bà sa luұn bӝ và Kinh lѭӧng bӝ, lại công nhận tánh Không của con người, tức nhân vô ngã.
1 B ӕ n tông phái trong Ph ұ t giáo: Vaibhashika, Sautrantika, Chittamatra và Madhyamika
2 T ӭ Pháp Y: y pháp b ҩ t y nhân, y ngh ƭ a b ҩ t y ng ӳ , y li Ӊ u ngh ƭ a b ҩ t y bҩt liӉu nghƭa, y trí bҩt y thӭc. nhұn tánh Không cӫa sӵ vұt.
Tì bà sa và Kinh lương đều khẳng định rằng sự vật có tính chất riêng biệt Duy thức cho rằng sự vật sinh ra từ tương tác của tâm thức Trung quán chia thành hai phái: Trung quán Y nói rằng tất cả mọi hiện tượng đều là tên gọi và khái niệm; trong khi Trung quán C duyên cho rằng mọi hiện tượng tuy vô ngã nhưng vẫn thực sự hiện hữu trong lĩnh vực quy ước.
Theo lý thuyết, việc sử dụng tâm để phân tích sẽ giúp chúng ta tìm ra chân tướng của thực tại, từ đó nhận biết Chân Lý [chân lý rất rõ] Ngược lại, nếu dùng trực giác để khám phá thực tại, chúng ta sẽ nhận biết Tốc Lý [chân lý quy định].
Sách là một tác phẩm nghệ thuật, bao gồm nhiều thành phần khác nhau, từ hình dáng, màu sắc đến chức năng Mỗi cuốn sách không chỉ đơn thuần là tập hợp của các trang giấy mà còn chứa đựng ý nghĩa sâu sắc và thông điệp riêng Các thành phần của sách có thể được phân chia thành nhiều phần nhỏ hơn, như bìa, trang, và nội dung, tạo nên một tổng thể phong phú và đa dạng Vì vậy, sách không chỉ là một món đồ vật mà còn là một kho tàng tri thức và cảm xúc, phản ánh sự sáng tạo và tâm huyết của người viết.
1 Madhyamika Svatantrika nhiӅu thành phҫn,ÿѭӧc gӑi chung là “sách”, còn chính cuӕn sách thұt sӵ là gì, càng tìm càng không thӇ kiӃm ra.
Mӑi sӵ vұt khác ÿӅu tѭѫng tӵ nhѭ vұy, tuy có thұt, nhѭng chӍ có trên lãnh vӵc qui ѭӟc cӫa Tөc ÿӃ Xét theo
Chân ÿӃ, sӵ vұt chӍ có thӇ hiӋn hӳu nhӡ mӕi tѭѫng quan giӳa các yӃu tӕ bên ngoài.
Tự nhiên là một phần không thể thiếu trong môi trường sống, và việc tìm hiểu về nó là rất quan trọng Chúng ta cần xác định rõ ràng các khái niệm và tên gọi liên quan đến tự nhiên, chẳng hạn như "sách", để có thể hiểu sâu hơn về các thành phần của nó Hơn nữa, sự phân biệt giữa các khái niệm cũng phản ánh dòng chảy tư duy của con người, từ những hiểu biết cơ bản đến những kiến thức phức tạp hơn Không có một thực thể nào tồn tại độc lập mà không bị ảnh hưởng bởi các yếu tố khác trong môi trường xung quanh.
Thuyết về chiều dài và ngắn của ngón tay liên quan đến sự so sánh giữa ngón tay cái và ngón út, cũng như giữa ngón trỏ và ngón giữa Ngón tay cái thường dài hơn ngón út, trong khi ngón trỏ lại ngắn hơn ngón giữa Việc xác định ngón nào dài hay ngắn còn phụ thuộc vào sự tương quan giữa các ngón tay bên cạnh, cho thấy rằng chiều dài của ngón tay không chỉ có tính chất cố định mà còn phụ thuộc vào cách nhìn nhận tổng thể.
Suy nghĩ nghiêm ngặt trên sự thật mãi hiện tướng không có tính chất độc lập, mà chỉ là sự kết hợp giữa các yếu tố Áp dụng lý luận này vào bản thân, chúng ta nhận thấy hai loại vô ngã: vô ngã liên quan đến con người và vô ngã liên quan đến hiện tượng Hai loại vô ngã này được gọi là nhân vô ngã và pháp vô ngã.
Ngã
Cái tôi, hay ngã, được hiểu là một hiện tượng thường hằng, bao trùm và không thay đổi hay diệt vong, nằm ngoài thân tâm con người Tuy nhiên, theo quan điểm của Phật giáo, cái ngã không được công nhận, cho thấy sự khác biệt trong cách hiểu về bản chất của cái tôi trong các kinh sách không phải Phật giáo.
Theo kinh ÿiӇn Phұt giáo, ngã có liên hӋ mұt thiӃt vӟi thân tâm chӭ không biӋt lұp bên ngoài
Năm hӧp thӇ tҥo thành mӝt ngѭӡi được chia thành hai thành phần chính: vật lý và tâm lý, tương ứng với thân và tâm Theo bản năng, con người tự nhiên cảm nhận rằng thân thuộc về tôi, và cũng có cảm giác tự nhiên rằng tâm cũng thuộc về tôi Do đó, cái tôi và thân tâm không phải là một Mặc dù đây là cảm giác bản năng, nhưng khi sử dụng lý trí để phân tích, cái tôi thực sự không nằm ngoài thân tâm.
Cái tôi đóng vai trò quan trọng trong việc nhận thức bản thân và sự tồn tại của con người Nếu không có cái tôi, chúng ta không thể hiểu được chính mình Trung Quán nhấn mạnh rằng cái tôi không chỉ là danh tính hay cái tên, mà còn phản ánh sự hiện hữu của mỗi cá nhân Mặc dù chúng ta có thể thấy những yếu tố vật chất xung quanh, nhưng việc tìm kiếm và phân tích cái tôi lại không thể đạt được kết quả nếu không hiểu đúng về bản chất của nó.
Tại sao việc tìm hiểu thông qua phân tích lối sống của con người lại quan trọng? Bởi vì cách thức thông thường của chúng ta luôn bị ảnh hưởng bởi cảm xúc, từ đó dẫn đến nhiều suy nghĩ và hành vi không mong muốn Hiểu rõ bản thân và nhận thức về những yếu tố bên ngoài có thể giúp chúng ta kiểm soát và giảm thiểu những suy nghĩ tiêu cực.
Mӑi trҥng thái tiêu cӵc cӫa tâm thӭc ÿӅu bҳt rӉ tӯ tâm chҩp ngã Tâm này hѭ vӑng méo mó Nhӡ phӫ nhұn tӵ tánh cӫa sӵ vұt, gӕc rӉ cӫa phiӅn não sӁ bӏ chһtÿӭt.
Muӕn ÿoҥn diӋt phiӅn não, cҫn bѭӟc qua ba chһng ÿѭӡng Trѭӟc hӃt, ÿӯng ÿӇ phiӅn não có cѫ hӝi phát sinh
TiӃp theo, ráng diӋt bӓ phiӅn não Sau cùng, ráng diӋt bӓ cҧ tұp khí cӫa phiӅn não còn sót lҥi trong tâm thӭc.
Ba loại thành tựu trong giai đoạn này bao gồm: thứ nhất, thành tựu không phàm ác nghiệp thân và miệng, giúp tái sinh trong thiện đạo; thứ hai, diệt phiền não, dẫn đến thành tựu giải thoát niết bàn; thứ ba, diệt trừ được khí cụa phiền não, đạt được trí toàn giác của Phật Đây là con đường tu chứng, được giải thích qua ba môn vô lựu học Giải Định Tu.
Giải là cách ngăn chặn và loại bỏ sự phân tâm, không phải là một phương pháp ác nghiệp Như vậy, giải nên tránh những yếu tố gây xao lãng thô lỗ của tâm thức Định là sự định hình thu nhập tâm thức, thành tựu trạng thái tập trung tối ưu, giúp diệt bỏ toàn bộ những xao lãng vi tế của tâm thức.
Nhұp Ðӏnh quán tánh Không thì ÿѭӧc TuӋ.
Ba môn vô lựu hắc Giải Định Tụ có khả năng giải thoát người tu ra khỏi ba loại khổ Nhóm Giải mà thoát khỏi độc giải, lên sắc giải, diệt được loại khổ đầu xác tinh thần Nhóm Định mà thoát khỏi sắc giải, diệt được loại khổ đầu yên tĩnh thay đổi Nhóm Tụ mà thấy được chân tướng của sinh tử, diệt được tất cả các loại khổ đầu yên tĩnh cánh sáng trong luân hồi.
C Hӓiÿáp Hӓi Trung quán Cө duyên cho rҵng thӃ giӟi hiӋn tѭӧng chӍ có qua khái niӋm NӃu thұt là nhѭ vұy, có phҧi ngay cҧ hiӋn hӳu khách quan cӫa sӵ vұt cNJngÿã bӏ phӫ nhұn? Ðáp Trung quán Cө duyên nói sӵ vұt chӍ là giҧ danh, ÿiӅu này không phӫ nhұn thӵc tҥi khách quan, không phӫ nhұn nhӳng hiӋn tѭӧng không có tên, mà chӍ khҷng ÿӏnh rҵng nhұn thӭc cӫa chúng ta thѭӡng không phҧi là nhұn thӭcÿúngÿҳn.
Trung quán Cө duyên luôn rạng bần của sự vật là điều không thể tìm thấy Nói như vậy không phải là khẳng định sự vật không hiện hữu, mà chỉ đơn giản là khẳng định sự vật không có tính chất.
Ngài Long Thӑ trong bài kӋ mӣ ÿҫu Lu̵n Trung quán giải thích rằng dù mọi vật trên lãnh vực quy luật có sinh có diệt, nhưng nếu phân tích sâu, sẽ thấy rằng chúng hoàn toàn không có tự tánh Cái bàn, ví dụ, không có tự tánh vì nó chỉ tồn tại do nhân duyên Chính sự tồn tại của cái bàn này, do nhân duyên mà có, nên nó không thể có tự tánh.
Duy thực tông cho rằng không thể tìm ra chân lý khách quan mà không liên quan đến tâm thức, vì vậy hiện tượng khách quan luôn gắn liền với tâm thức Theo quan điểm này, thế giới khách quan bên ngoài không có thực thể độc lập, và không thể tách rời khỏi sự hiện hữu của thế giới tâm thức bên trong.
Hӓi Xin ngài giҧi thích sѫ qua vӅ cuӝc tranh luұn giӳa thánh tăng Ҩn ÿӝ Kamalashila và ÿҥi sѭ Trung hoa
Hashang. Ðáp Vào thӡi cӫa thánh Shantarakshita, có nhiӅu vӏ ÿҥi sѭ Trung hoa sӕng trên ÿҩt Tây tҥng, ÿѭӧc gӑi chung là
Hashang (hòa thượng) là một phần quan trọng trong đời sống tâm linh tại học viện Samye Tại đây, các nhà dịch giả và hành giả thực hành theo từng tông phái hoặc thiền phái riêng biệt, mỗi dãy nhà đều mang một ý nghĩa đặc trưng Các vị Hashang thường được gọi là "Cõi Đỉnh Định Bất Động 1", nơi dành riêng cho những người tu thiền.
Vào thời xưa, các vị Hashang đã tu tập thiền định một cách công phu Phương pháp tu của các vị không có gì sai, mà còn rất chuyên sâu về thiền định Kinh có nói rằng nếu không ly niệm, thì không thể giải thoát Vào thời của ngài
Kamalashila, nhiӅu vӏ Hashang hiӇu sai câu nói này, cho rҵng bҩt cӭ loҥi niӋm nào cNJng là khuyӃtÿiӇm cӫa tâm
Trong một tông Tӕi thѭӧng Du già, khi muӕn thâm nhұp ánh sáng chân nhѭ chӫ thӇ 2, người tu cần ly niӋm, vì còn niӋm thì khí vi tӃ sӁ không thӇ vӅ an trө trong ÿѭӡng khí.
Sự rõ ràng trong ánh sáng chủ quan là rất quan trọng Tuy nhiên, niềm vui không phải lúc nào cũng đồng nghĩa với sự hạnh phúc, mà còn phụ thuộc vào giai đoạn mà người tu hành phải thu nhận năng lượng và khí từ trung tâm Khi đó, những khái niệm chính cũng trở nên rõ ràng hơn, miễn là chúng nằm trong phạm vi của khái niệm phân biệt.